TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC XƠ ĐĂNG | Hoàng Trần
TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC XƠ ĐĂNG
MỤC LỤC:
1.
Vài Nét Về Dân Tộc Xơ Đăng ............................................................................................... 2
2.
Kinh Tế Truyền Thống ......................................................................................................... 2
3.
2.1.
Trồng trọt.......................................................................................................................... 2
2.2.
Chăn nuôi ......................................................................................................................... 5
2.3.
Khai thác tự nhiên ............................................................................................................ 5
2.4.
Ngành nghề thủ công........................................................................................................ 5
2.5.
Trao đổi, mua bán............................................................................................................. 7
Văn Hóa truyền thống ........................................................................................................... 8
3.1.
Làng .................................................................................................................................. 8
3.2.
Nhà ở ................................................................................................................................ 9
3.3.
Y phục, trang sức ............................................................................................................. 9
3.4.
Ẩm thực .......................................................................................................................... 10
3.5.
Phương tiện vận chuyển ................................................................................................. 10
3.6.
Ngôn ngữ. ....................................................................................................................... 10
3.7.
Tín ngưỡng tôn giáo ....................................................................................................... 11
3.8.
Lễ Hội ............................................................................................................................. 12
3.9.
Văn nghệ dân gian .......................................................................................................... 13
3.10.
Gia đình, dòng họ ....................................................................................................... 14
3.11.
Tục lệ cưới xin ............................................................................................................ 14
3.12.
Tập quán tang ma ....................................................................................................... 15
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 1 | 15
TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC XƠ ĐĂNG | Hoàng Trần
1. Vài Nét Về Dân Tộc Xơ Đăng
Dân số: 169.501 người (2009).
Ngôn Ngữ: thuộc ngôn ngữ Môn - Khơ Me
(ngữ hệ Nam Á).
Tên gọi khác: Hđang, Kmrâng, Con lan, Brila.
Nhóm địa phương: Xơ Teng, Tơ Ðrá, Mơ
nâm, Ca Dong, Ha Lăng, Tà Trĩ, Châu.
Địa bàn cư trú:Kon Tum,Quảng Nam,
Quảng Ngãi, Đắk Lắc, Gia Lai.
Địa bàn cư trú:
Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, người Xơ Đăng ở Việt Nam có dân
số 169.501 người, có mặt tại 41 trên tổng số 63 tỉnh, thành phố. Người Xơ Đăng
cư trú tập trung tại tỉnh Kon Tum (104.759 người, chiếm 24,4% dân số toàn tỉnh
và 61,8% tổng số người Xơ Đăng tại Việt Nam), Quảng Nam (37.900 người,
chiếm 22,4% tổng số người Xơ Đăng tại Việt Nam), Quảng Ngãi (17.713 người),
Đắk Lắk (8.041 người), Gia Lai (705 người)
2. Kinh Tế Truyền Thống
2.1. Trồng trọt
Người Xơ Đăng cư trú ở vùng cao, cho nên đồng bào sinh sống chú yếu bằng
nghề trồng trọt trên nương rẫy. Tuy nhiên, trong dân tộc Xơ Đăng, một số nhóm
như: Xơ teng, Mơ nâm đã làm ruộng nước từ hàng trăm năm trước, theo lối canh
tác dùng trâu quần ruộng.
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 2 | 15
TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC XƠ ĐĂNG | Hoàng Trần
Ở người Xơ Đăng chỉ có một
loại rẫy gọi là diếc hay dếc. Rầy
được khai phá theo chu kỳ kín.
Khi mới khai phá, đồng bào
thường trồng lúa, sau đó, tuỳ
thuộc vào độ màu mỡ của đất,
rẫy có thể sử dụng tiêp hai, ba
vụ nữa và có thể trồng lúa hoặc
trồng sắn. Rồi bỏ hoá khoảng
10- 12 năm sau, cho đất phục
hồi độ màu mỡ, mới canh tác lại.
Ruộng bậc thang của người Xơ Đăng (Ảnh
Hàng năm, tiếng sấm là tiếng
sưu tầm)
“hiệu lệnh” mùa lao động sản
xuất mới. Theo kinh nghiệm của đồng bào, năm nào tiếng sấm đầu năm ra trước
khi con chim klatiịị pong - “bắt cô trói cột” kêu thì năm đó đói to. Nhưng
nếutiếng sấm ra sau khi con chim klcuiỊi pony kêu thì năm đó được mùa. Vào
mùa sản xuất, đồng bào “đánh linh hồn lúa” ngủ quên trong bịch, “gọi hồn” các
nông cụ trở dậy. Giống lúa thường là trong một giống lúa xưa nhất, giống lúa ấy
thường được (trồng riêng vào một mảnh đất thiêng trên rẫy - pđăm hay ptăm. Bà
chủ nóc nhà tự tay trồng, sau đó chăm sóc rồi đến khi dược thu hoạch cũng tự tay
tuốt lúa mang về, để sử dụng vào lễ cơm mới. Số còn lại được giữ trong kho. Hồn
lúa ở trong kho ngủ hoài trong những tháng ninh nơng - tháng ăn chơi sau vụ thu
hoạch. Đến mùa sấm năm sau, người chủ nhà lại “gọi hồn lúa” dậy. Bắt đầu mùa
vụ sản xuất mới theo chu kỳ. “Hồn lúa” cũng biết chiều lòng người, những bà chủ
nhà biết tuân theo phong tục: đưa hôn lúa từ kho lên rẫy vào những ngày đầu phát
đốt, chọc tỉa và đón hồn lúa từ rẫy về kho vào những ngày thu hoạch thì được hồn
lúa ưu đãi cho mùa màng tốt tươi, vụ mùa bội thu.
Để tranh thủ thời vụ cây trồng, trên rẫy, việc trồng xen canh gối vụ là phổ biến
trên rẫy trồng lúa, đồng bào thường trồng xen canh cây kê, ý dĩ, bâu, bí, rau, câ y
có củ đậu. Trông xen canh nhiều nhât là loại kê chân vịt. Trên nương lúa tuyệt
đối không trồng xen canh cây ngô. Công cụ làm rẫy chủ yếu là chiếc rìu, con dao
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 3 | 15
TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC XƠ ĐĂNG | Hoàng Trần
và chiếc cuốc. Sau khi gieo trồng, việc chăm sóc cây lúa như làm cỏ, bỏ phân ít
được chú ý, mà đồng bào lại rất quan tâm đên việc bảo vệ từ vòng ngoài, tránh sự
phá hoại của các loài muông thú.
Đồng bào thường rào kín rẫy, dùng bẫy, chông, nỏ, súng để săn bắt các con thú
đến phá hại mùa màng. Đồng bào còn làm hình người bù nhìn, tạo ra các loại đàn
gió, mõ gió, tạo ra âm thanh để xua đuổi con thú. Đặc biệt khi mùa màng sắp vào
vụ thu hoạch, chủ rẫy thường làm chòi canh, bắn hạ các con thú đến phá hại mùa
màng, cần nói rằng, các biện pháp bảo vệ mùa màng nêu trên của đồng bào rất
hiệu quả. Nếu không có biện pháp bảo vệ chắc ăn thì muông thú sẽ phá h oại hết.
Chính vì vậv, đồng bào nói, làm ít nương mà bảo vệ được tốt, thu hoạch được
nhiều hơn là làm nhiều nương mà không bảo vệ được, bị muông thú phá hại.
Công cụ thu hoạch là bàn tay - suốt lúa bằng tay. Không dùng đôi đũa hoặc nhíp.
Đồng bào quan niệm, dùng đũa hoặc nhíp để cắt cây lúa, sợ hồn lúa bị“đau”và
chạy” đi, năng suất mùa sau sẽ kém.
Ngoài việc trồng trọt trên rẫy, nhóm Mơ Nâm và cư dân sinh sống chung quanh
núi Ngọc Linh còn khai phá ruộng nước, cấy trồng trên ruộng nước từ khá lâu
đời. Đồng bào đắp đập - knung, ngăn nước suối chảy vào các con mương - để
đưa nước vào ruộng. Công cụ làm đất đơn giản, chỉ có chiếc cuốc. Vụ làm ruộng
được bắt đầu từ việc cuốc đất lật lên phơi cho đất ải. Công việc này được thực
hiện từ sau khi gặt vụ năm trước. Mùa xuân đên, đông bào tháo nước vào ruộng,
cho trâu quần. Người ta gieo mạ xuống ruộng mạ. Khi cây mạ mục được 4 lá thì
nhổ mạ lên rồi đem cấy xuống ruộng. Ít khi gieo sạ lúa. Lúa chỉ cấy một vụ trong
năm. Sau khi cây, đồng bào ít chăm sóc cây lúa. Cây thưa, không làm cỏ, bỏ
phân, không phải bảo vệ như lúa nương. Công cụ làm ruộng nước trước đây chỉ là
chiếc cuốc bằng gồ. về sau này có dùng cuốc lưỡi sắt.
Bên cạnh rẫy và ruộng, các nhóm cư dân Xơ Đăng đều làm thêm vườn. Trong
vườn chủ yếu trồng cây rau xanh, cung cấp thực phẩm khá đầy đủ cho đồng bào.
Người Xơ Đăng có nông lịch, về cơ bản nông lịch của người Xo Đăng gần trùng
khớp với âm lịch.
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 4 | 15
TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC XƠ ĐĂNG | Hoàng Trần
2.2. Chăn nuôi
Chăn nuôi gia súc, gia cầm mang tính phố biến trong các gia đình người Xơ
Đăng. Việc chăn nuôi được thực hiện chủ yếu theo phương thức chăn thả. Thả gia
súc ra ngoài rừng xung quanh nhà tự kiếm ăn, tôi lùa chúng về chuồng. Những
con vật nuôi thường nhằm vào hai mục đích: thứ nhât phục vụ cho hoạt động tín
ngưỡng; thứ hai sử đụng làm thực phẩm trong các lễ hội: cưới xin, ma chay, lễ bỏ
mả,... Con trâu Còi là biểu tượng của sự giàu sang, đồng thời cũng có giá trị rất
lớn khi cần trao đổi mua bán những vật quý giá trong gia đình. Trong thời gian
chiến tranh, vùng người Xơ Đăng bị nhiều bom đạn tàn phá, cho nên có mội thời
đàn gia súc bị suy giảm nhiều.
2.3. Khai thác tự nhiên
Sinh sống xunh quanh núi Ngọc Linh, đồng bào dân tộc Xơ Đăng đã hết sức tận
dụng nguồn lâm thổ sản trên rừng, cũng như các loài sinh vật sinh sống ở trên
rừng và dưới nước các dòng suối.
Đồng bào Xơ Đăng thu hái các loại rau rừng, măng rừng, củ, rau dại có thể ăn
được; thu hái nấm hương, mộc nhĩ, mật ong về sử dụng Mùa nào thức ấy, sản
phẩm thu hái từ rừng luôn tham gia vào bữa ăn hàng ngày của các gia đình. Tuy
nhiên, cần nói rằng do có làm vườn trồng rau xanh, cho nên phần hái lượm của
người Xơ Đăng, mang nghĩa bổ trợ tích cực cho đời sống của của đồng bào.
Một điều đáng chú ý ở người Xơ Đăng là vai trò của săn bắn đóng vai trò quan
trọng hơn hái lượm trong hoạt động khai thác tự nhiên. Phải chăng, nơi đông bào
cư trú - núi Ngọc Linh, có nhiêu thú rừng và voi, hoạt động săn bắn không chỉ là
bảo vệ mùa màng và có thịt ăn cải thiện bữa ăn hàng ngày, mà sản phẩm của săn
bắn như: da hổ, sừng tê giác, nhung hươu,... còn có giá trị làm hàng hoá trao đổi
hoặc bán lấy tiền mua hàng thiết yếu. Đồng bào Xơ Đăng cũng rất thành thạo việc
đánh bắt cá, tép, ốc, hến trên các dòng suối Một số nơi như vùng Sa Thầy và Đắc
Giây, các nhóm cư dân Ca Dong, Hà Lăng còn ra suối đãi cát lấy vàng với
phương pháp thủ công. Một số nơi khác lại khai thác quặng ỉộ thiên để làm nghề
rèn.
2.4. Ngành nghề thủ công
Sinh sống ở nơi lắm cây rừng, với kinh tế tự túc, tự cấp, người Xơ Đăng có nhu
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 5 | 15
TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC XƠ ĐĂNG | Hoàng Trần
cầu làm nhiều nghề thủ công khác
nhau. Một số nghề thủ công tương
đối phát triển như: dệt, đan lát, rèn,
gốm.
Nghề dệt: Các nhóm cư dân, trừ
nhóm Ca Dong, đều có nghề dệt.
Trước đây, đồng bào chủ yếu dệt
bằng các sợi đay, gai. Các loại sợi
này, thường là sợi cây dại mọc ở
trên ràng, nhưng cũng có một phần
được trông ở trong vườn. Về sau, các
nhóm Tơ Đrá và Hà Lăng chuyển
Nghề dệt của người Xơ Đăng (Ảnh sưu
sang trồng bông kéo sợi, dệt vải.
tầm)
Khổ vải dệt của người Xơ Đăng rộng từ 90 đến 120cm. Điều này khác với khổ vải
dệt thủ công thông thường (chỉ rộng khoảng 40cm).
Đan lát: Nghề đan lát do nam giới đảm nhiệm. Một số đồ đan đòi hỏi kỹ thuật
cao, đạt chuẩn sản phẩm mỹ nghệ. Trong mồi làng thường chỉ có vài người khéo
tay đan được những sản phẩm mỹ nghệ, chuyên làm đồ đan cao cấp này. Các gia
đình khác trong làng không làm được sản phẩm mỹ nghệ thường lao động đổi
công, hoặc đem vật khác đến trao đổi.
Nghề gốm: Nghề gốm của người Xơ Đăng chỉ thấỵ ở một vài làng. Họ làm gốm
không bàn xoay và nung không có lò. Nghề gốm lại là công việc của phụ nữ mùa
nông nhàn.
Nghề rèn được coi là nghề thủ công tương đối phát triển nhất ở người Xơ Đăng.
Người Xơ Đăng sử dụng ba loại lò rèn khác nhau là: lò bễ thụt, lò bễ hơi bằng da
và lò bễ quay tay. Đa số đồng bào các làng ở Bắc thị xã Kon Tum đến Đông
huyện Công Plông, dùng loại lò bễ hơi bằng da. Than dùng cho lò rèn là loại than
lõi gỗ cho nên cung cấp nhiệt rất cao, có khả năng làm cháy quặng thành thép.
Đồng bào lấy quặng lộ thiên, đập nát vụn ra, rồi đưa vào lò nấu chảy với một loại
cát đen, lấy từ các khe suối. Loại cát này do quặng phân huỷ mà thành. Việc rèn
từ quặng cục và quặng cát thành thép thỏi phải mất một tiếng đồng hồ. Người Tơ
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 6 | 15
TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC XƠ ĐĂNG | Hoàng Trần
Đrá thường làm rèn về đêm. Mỗi đêm làm thon g thả, một bê có thê rèn được bốn,
năm thỏi. Môi thỏi thép đủ rèn 12 chiêc rìu hay dao. Ngườ i Tơ Đrá rèn các công
cụ sản xuất và cả vũ khí: giáo, mác, gươm cho dân quân du kích địa phương đánh
giặc, Người thợ rèn vẫn làm nông nghiệp. Họ chỉ mở lò rèn khi chờ thu hoạch
mùa ruộng rẫy hoặc trước khi vào mùa ruộng rẫy.
2.5. Trao đổi, mua bán
Tuy là kinh tế tự túc, tự cấp, nhưng ở người Xơ Đăn g việc trao đổi hàng diễn ra
hầu như thường xuyên hơn các dân tộc khác trong vùng. Hàng của người Xơ
Đăng đem đi trao đổi không phải là lâm thổ sản như nhiêu dân tộc khác trong
vùng, mà họ có mặt hàng tương đôi độc đáo là sản phẩm rèn và vàng cám đãi
được ở các dòng suối trong vùng. Một thỏi sắt, có thể đổi được một con lợn
khoảng 60kg. Nếu đánh thành rìu hay dao nhỏ thì mỗi chiếc rìu hoặc dao đổi
được một con gà.
Người Xơ Đăng còn lấy các sản phẩm săn bắn được như da hổ, sừng tê giác,
nhung hươu, xương thú làm hàng trao đổi lấy cồng, chiêng, ché và nhiều nhu yếu
phẩm khác.
Hàng năm, sau mùa thu hoạch, các làng người Xơ Đăng thường t ổ chức từng đoàn
người mang sản phẩm dư thừa sang các làng khác để trao đối. Ngoài ra, đồng bào
cũng tổ chức những chuyến buôn hàng tháng, vượt biên giới sang Lào, sang Campu-chia hoặc đi xuống đồng bằng. Ngược lại, các làng cũng đón những lái buôn từ
nước bạn, từ các làng khác đến trao đổi hàng hoá. Để tiến hành trao đổi hàng và
mua bán, hầu như người Xơ Đăng đã thống nhất được đơn vị đo lường: cân đong
và các loại lương thực khác; định lượng gia súc, đo vải.
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 7 | 15
TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC XƠ ĐĂNG | Hoàng Trần
3. Văn Hóa truyền thống
3.1. Làng
Người
Xơ
Đăng
sống
thành từng làng. Làng là
đơn vị xã hội dân gian nhỏ
nhất và cũng là duy nhất
trong xã hội người Xơ
Đăng.
Làng
người
Xơ
Đăng có một ranh giới
nhất định, tách biệt với các
làng khác. Ranh giới làng
thường là khu rừng vô
chủ. Làng thường có đất
Một góc làng của người Xơ Đăng (Ảnh sưu tầm)
sản xuất, đất ở của từng hộ gia đình, đất làm kho chứa thóc của dân, máng nước,
đất nghĩa địa và đất rừng chung của làng để săn bắn, chăn nuôi, thu hái lâm thố
sản, những khúc sông, con suối chảy qua làng.
Mồi làng có tên gọi riêng. Tên gọi làng có thể là tên người đứng ra lập làng như
làng Ui - tên người tù trưởng có uy tín ở vùng Tơ Đrá; có thể đặt tên theo một đặc
điểm tự nhiên trong vùng như làng Con Cheng - cây cheng hoa tím, làng Con Đui
- cây đa, làng Te Tum - suối nước dỏ; làng Tơ Ma Rông - máng nước.
Ngày xưa, có thời kỳ làng phòng thù kiên cố, có hào sâu, đặt chông, bẫy, chi có
một số cửa nhất định. Cửa chính án ngữ đường đi được bả o vệ cẩn mật và là cửa
duy nhất khách có thể ra vào làng. Sau này hiện tượng rào làng đã bị quên lãng.
Mồi làng có một nhà rông, được dựng ở cạnh công chính ra vào làng. Đây là nơi
tiến hành các nghi lễ tôn giáo, nơi hội họp của cả làng, nơi trai làng tập trung ngủ
đêm, học nghề, nghe ke chuyện và vui chơi giải trí.
Làng người Xơ Đăng có nhiều nóc nhà. Tất cả những người chủ nóc họp thành
Hội đồng già làng. Đứng đầu Hội đồng già làng là chủ làng. Chủ làng điều hành
làng theo luật tục, chỉ thực hiện các quyết định khi được toàn thể dân làng nhất
trí. Quan hệ giữa các làng là bình đăng với nhau, có những làng kết nghĩa với
nhau.
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 8 | 15
TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC XƠ ĐĂNG | Hoàng Trần
Đến làng Xơ Đăng, nếu thấy có nhiều cây gạo to là làng đó đã có nhiều lần ăn
trâu và cũng có nghĩa là làng đó có lịch sử cư trú lâu đời.
3.2. Nhà ở
Vào đầu thế kỷ XX, người Xơ
Đăng thường cư trú dưới các
nóc nhà dài. Mỗi nóc nhà có
một chủ nóc. Chủ nóc là chủ hộ
gốc của nóc nhà dài. Dưới mỗi
nóc nhà dài có nhiều hộ, mỗi hộ
có một chủ hộ riêng. Cùng điều
khiển công việc của nóc nhà dài
còn có một bà già. Bà già nàv
cũng có thể không phải vợ của
chủ nóc nhà dài. Bà ta thường là mẹ lúa, ngủ ở gian bếp “ thiêng”, ít khi đi lấy
chồng. Chồng bà ta phải về ở rể suốt đời.
Các thành viên cùng cư trú dưới một nóc nhà thường lao động chung, thành quả
lao động đều cho vào kho chung và được phân phối sử dụng theo sự chỉ đạo của
bà chủ nóc nhà. Thóc được phân phối từ kho cho từng hộ tuỳ theo số nhân khẩu,
còn thực phẩm thì từng hộ tự lo. Mỗi hộ nấu ăn theo một bếp riêng. Khi có thịt
thú rừng hoặc thịt mổ gia súc, bà chủ nóc mới phân phối thịt đó cho từng hộ.
3.3. Y phục, trang sức
Như nhiều dân tộc khác ở Tây Nguyên,
người Xơ Đăng ăn mặc đơn giản. Nam
giới đóng khố, ở trần. Khi thời tiết lạnh
thì khoác tấm mền. Phụ nữ mặc váy, áo
chui đầu và khi lạnh cũng khoác tấm
mền. Vải làm khố, váy, áo, mền do đồng
bào tự sản xuất. Hoa văn trên trang phục
là hoa văn hình học - những đường màu
đỏ kẻ thẳng, do dệt mang lại.
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 9 | 15
TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC XƠ ĐĂNG | Hoàng Trần
3.4. Ẩm thực
Người Xơ Đăng thường ngày
ăn cơm rau xanh chấm muối.
Nguồn thức ăn động vật
thường được kết hợp với các
nghi lề tôn giáo, hoặc săn
băn được thú rừng. Như phân
trên đã nói, người Xơ Đăng
thường hay đi săn cốc loại
muông thú và họ rất thành
công trong việc săn băn. Cho
Người Xơ Đăng dung nhiều thịt trong bữa ăn
nên, có thể nói, đồng bào
(Ảnh sưu tầm)
thường xuyên có thịt thú rừng
sử dụng trong bữa ăn, ở một số nơi, người Xơ Đăng có tục ăn trầu cau. Nam nữ
đều hay hút thuốc lá.
3.5. Phương tiện vận chuyển
Cũng như các dân tộc khác, người Xơ
Đăng sử dụng gùi như công cụ vận
chuyển hàng hóa phổ biến.
Chiếc gùi (Ảnh minh họa)
3.6. Ngôn ngữ.
Tiếng nói: Tiếng nói của dân tộc Xơ Đăng thuộc hệ ngôn ngữ Nam A, nhóm ngôn
ngữ Môn - Khmer. Dân tộc Xơ Đăng có 5 nhóm. Sự phân biệt 5 nhóm này vừa là
nơi cư trú khác nhau, nhưng cũng vừa có sự khác biệt chút ít về ngôn ngữ. Tuy
nhiên họ vẫn giao tiếp với nhau rất bình thường. Là cư dân vùng cao Kon Tum,
nhưng do có quan hệ buôn bán với nhiều nơi trong nước và cả buôn bá n với Lào
và Căm-pu-chia, vì vậy đồng bào Xơ Đăng cũng hiểu được tiếng Lào và tiếng
Cam-pu-chia ở mức độ khác nhau.
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 10 | 15
TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC XƠ ĐĂNG | Hoàng Trần
Chữ viết: Dân tộc Xơ Đăng chưa có chữ viết riêng của dân tộc mình.
3.7. Tín ngưỡng tôn giáo
Dân tộc Xơ Đăng tin theo tôn giáo đa thần, quan niệm vạn vật hữu linh, mọi vật
đều có linh hồn: núi, sông, cây cổ thụ, cây lúa,... đều có hồn và hồn đó gắn với
cuộc sống của cây, cỏ, núi, sông.
Người Xơ Đăng quan niệm ngày lẻ là ngày tốt đối với cuộc sống bên dương cuộc sống đời thường; còn ngày chẵn là ngày tối đối với cuộc sống bên âm - cuộc
sông tâm linh. Chính vì vậy, khi đưa đón hồn lúa cũng như tổ chức các nghi lễ,
các hoạt động sản xuất và chiến đấu, người ta kiêng ngày chẵn, vì đó là ngày xấu,
ngày ma đi. Mọi hoạt động cho con người, cho cuộc sống đời thường đều tổ chức
vào ngày lẻ. Ngày lẻ là ngày tốt, ngày cho người đi. Trong khi ăn uống, chỉ được
dùng tay phải, không dùng tay trái. Đồng bào quan niệm, tay trái là tay của ma.
Đó cũng là quan niệm chung của hầu hết các dân tộc nói ngôn ngừ Môn Khmer ở
Tây Nguyên.
Đồng bào Xơ Đăng không trồng khoai sọ vào mảnh đất thiêng như rẫy, mà tuỳ
từng nơi, có thể trồng một số cây xanh mọc nhanh như cây hoa sứ - một loại cây
có cánh hoa đỏ, cây mào gà, cây có củ như hành tây, cây nghệ,... làm “người
tình” cho cây lúa. Các gậy chọc lỗ sử dụng khi trồng lúa trên nương xong, được
để lại đó để bảo vệ hồn lúa. Lúa giống bao giờ cũng được dùng vào việc tổ chức
một bữa ăn. Bữa ăn này là bữa ăn đầư mùa. Trong bữa ăn này, chủ nhà mời bạn
bè, mời hồn người sống, các vong hồn, các thần linh về tham dự và tiễn hồn lúa
lên rẫy đổ hồn lúa tác động đến cây trồng.
Người Xơ Dăng rất quan tâm đến việc chăm sóc hồn lúa từ khâu trỉa hạt cho đến
khi thu hoạch lúa, đưa lúa về nghỉ trong kho. Việc trỉa hạt trên mảnh rẫy thiêng
do bà chủ nóc nhà tự tay trồng, tự mình chăm sóc, tự tay thu hoạch. Việc đưa lúa
từ trên rẫy về kho cũng được coi trọng. Tục căng dây đưa hồn lúa về kho được tổ
chức chu đáo: những nơi qua suối đều phải bắc cầu tượng trưng cho hồn lúa đi. Ở
những ngã ba đều phải cắm hoa làm dấu chỉ đường cho hồn lúa đi. Khi đến kho
cũng phải bắc thang cho hồn lúa lên. Chỗ hồn lúa nghỉ ở trong kho được chuẩn bị
chu đáo.
Theo quan niệm của đồng bào, hồn lúa không ưa nước, do đó khi tiến hành các
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 11 | 15
TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC XƠ ĐĂNG | Hoàng Trần
nghi lễ liên quan đến hồn lúa, người ta không để cho lúa dính nước. Một trong
những mối quan tâm lo ngại đối với cư dân trồng trọt là hạn hán.
Người Xơ Đăng cho rằng, hạn hán là do thần sấm sét lãng quên. Do vậy, gặp năm
hạn hán, người Xơ Đăng phải cúng bái, cầu xin thần sét cho mưa xuống. Nếu cầu
xin không kết quả thì “chọc tức” để ông ta trút mưa xuống: có nơi đồng bào dúng
chim sẻ non xuống nước, nhét trâu vào tổ ong cho ong không bay ra được, kêu vo
ve làm điếc tai thần, hoặc bắt những con cóc, trói chân lại rồi khiêng đi cầu xin
thần sét, làm cho thần sét xót thương người “thân” mà cho mưa xuống.
Mùa thu hoạch xong, sau lễ cơm mới, người Xơ Đăng chuẩn bị cho những tháng
nghỉ ngơi. Việc bắt đầu của tháng nghỉ ngơi là tổ chức sửa máng nước và làm lễ
cúng máng nước. Máng nước tượng trưng cho sợi dây kết nố i cộng đông làng,
cúng máng nước là hình thức bày tỏ sự thông nhât kết nối cộng đồng. Nhân cúng
máng nước người Xơ Đãng tô chức ăn uống chung ở nhà rông, rồi về làm việc tại
từng nóc nhà. Tiêp sau đó, cả làng dành ba ngày đi kiếm cá, hái r au, đánh chuột,
chim, sóc, nhưng không được dùng nỏ, bẫy, mà diễn lại cuộc sống hái lượm và
săn bắt cổ xưa của tô tiên. Tôi hôm thứ ba - hêt thời hạn hái lượm và săn băt, cả
làng tập trung tại nhà rông, mang theo các thứ hái lượm, săn bắt được. Những
làng kết nghĩa anh em, những người đi lấy chồng hay ở rể xa đều về họp mặt. Mỗ i
nóc nhà có bao nhiêu người thì đốt bấy nhiêu ổng cơm lam và đem cả r ượu đến.
Chủ làng cúng thân làng và các siêu linh khúc, cầu xin cho mọi người được mạnh
khỏe, mùa màng năm tới bội thu, gia súc phát triển. Ông chủ làng còn cầu phúc
cho từng nóc nhà, cúng hồn cho các nông cụ, các vũ khí, các chuồng gia súc.
Cuộc vui kéo dài thâu đêm suốt sáng, trai gái trò chuyện, tìm hiểu nhau.
3.8. Lễ Hội
Lễ mừng cơm mới là lễ hội quan trọng nhất và lớn nhất trong năm của người Xơ
Đăng, lễ do cả buôn cùng đứng ra tổ chức.
Lễ hội Mừng lúa mới – nét văn hóa đặc sắc dân tộc Xơ Đăng.
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 12 | 15
TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC XƠ ĐĂNG | Hoàng Trần
Đồng bào dân tộc Xơ Đăng
nơi đây luôn có truyền
thống lưu giữ, bảo tồn các
bản sắc văn hóa của dân
tộc. Hàng năm các làng đều
tổ chức lễ đâm trâu, lúa
mới…. tại mỗi buổi lễ đều
tổ chức đánh cồng chiêng.
Những năm qua, các lễ hội
của người dân, trong đó có
lễ mừng lúa mới cũng đã
được tổ chức theo hướng
đơn giản, tiết kiệm nhưng
Lệ hội mừng lúa mới của dân tộc Xơ Đăng (Ảnh
vẫn giữ được nét văn hóa
sưu tầm)
của cộng đồng.
Trước kia tục tế Yàng mừng lúa mới của người Xơ Đăng diễn ra trong phạm vi
từng gia đình, ngày nay đã trở thành lễ hội chung của cả cộng đồng, là dịp để các
gia đình chuẩn bị những ché rượu cần ngon nhất, nướng cơm lam, nướng thịt góp
với cộng đồng buôn để tổ chức nghi lễ trong tình đoàn kết. Già làng là người
được trọng nể nhất đứng ra điều
hành mọi sinh hoạt chung trong
buôn, đại diện cho buôn tế lễ cảm
ơn Yàng, cảm ơn thần linh cho
mọi gia đình có một mùa lúa bội
thu.
3.9. Văn nghệ dân gian
Văn học dân gian của dân tộc Xơ
Đăng rất phong phú về thể loại và
đa dạng về nội dung. Do chưa có
“Chiêu” là điệu múa nghi lễ từ thời xa
chữ viết, cho nên văn học dân
xưa, biểu hiện sự thành kính của dân làng
gian chủ yếu tồn tại dưới dạng
đối với các vị thần linh
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 13 | 15
TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC XƠ ĐĂNG | Hoàng Trần
truyền miệng. Người Xơ Đăng có nhiều loại nhạc cụ như: đàn, nhị, sáo dọc, ống
vỗ kloong pút, trống, chiêng, cồng, tù vá. ống gõ, đàn nước. Có loại nhạc cụ dùng
trong giải trí sinh hoạt thông thường, có loại dùng trong lễ hội. Người Xơ Đăng
có nhiều làn điệu dân ca: hát đối đáp của trai gái, hát của người lớn tuổi, hát ru.
Trong một số các dịp lễ hội, đồng bào có biểu diễn múa dân gian. Có điệu múa
chung cho cả nam và nữ, nhưng cũng có điệu múa riêng cho nam và điệu mua
riêng cho nữ.
3.10.
Gia đình, dòng họ
Về nguyên tắc chung, gia đình người Xơ Đăng là gia đình phụ hệ, nhưng có một
số nhà nghiên cứu lại có xu hướng coi đó là gia đình đa hệ, nghĩa là không ai
trong gia đình có độc quyền xử lý việc nhà cùng như quan hệ ứng xử với cộng
đồng. Trong gia đình, con cái sinh ra đều bình đẳng, không phân biệt nam hay nữ,
con riêng hay con chung, con nuôi hay con đẻ, con ruột hay con của anh em ruột.
Trong dân tộc Xo Đăng, có phổ biến tục kết nghĩa anh em, nhất là những người
cùng tên cùng tuổi. Anh em kết nghĩa tự coi nhau như anh em ruột, con cái của
chú cũng không được kết hôn với nhau.
3.11.
Tục lệ cưới xin
Người Xơ Đăng theo chế độ
hôn nhân ngoại hôn dòng tộc.
Người cùng huyết thống trong
ba đời không kết hôn với nhau,
thậm chí con của những người
kết nghĩa anh em với nhau
cũng không được phép có quan
hệ hôn nhân với nhau. Vi phạm
điều này là loạn luận và bị
phạt nặng Tuy nhiên, nam nữ
của hai gia đình có quan hệ
Lễ cưới của người Xơ Đăng (Ảnh sưu tầm)
thông gia với nhau thường tiếp tục gả con cái cho nhau. Tục lấy đổi khá thịnh
hành, nhưng khi hai anh em trai ruột lấy hai chị em gái ruột, mà thô ng thường là
em gái của chồng lấy em trai của vợ. Hiện tượng hôn nhân anh em chồng và chị
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 14 | 15
TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC XƠ ĐĂNG | Hoàng Trần
em vợ trong dân tộc Xơ Dăng còn tương đối phổ biến.
Hôn nhân cùa người Xơ Đăng cũng là hôn nhân một vợ, một chồng bền vững,
không gặp hiện tượng ly hôn, ít khi ngoại tình. Cũng có trường họp, có người lấy
ba, bốn vợ, nhưng đây là hiện tượng hữu hạn và chưa rõ thực chất của việc đa thê
này là cái gì? Quan hệ nam nữ trước hôn hân bị cấm rất nghiêm ngặt. Đôi vợ
chồng sinh con trong năm đầu mới cưới, đều bị coi như ngoại tình, hủ hoá, bị dư
luận cộng đồng chê bai, coi thường về nhân cách.
Sau hôn nhân, người Xơ Đăng có tục lệ cư trú hai bên: bên vợ và bên chồng. Cư
trú luân phiên, bên vợ một thời gian, lại cư trú bên chồng một thời gian, cho đến
khi cha mẹ một bên qua đời hết, mới cư trú hẳn ở bên còn cha mẹ.
Trong đám cưới có tục lệ, cô dâu, chú rể đưa đùi gà cho nhau ăn, đưa rượu cho
nhau uống, cùng ăn một nắm cơm... Tục lệ này tượng trưng sự gắn kết hai người
bền chặt, thuỷ chung lâu dài.
Trước đây, nhằm hoà giải xích mích giữa hai làng sau những cuộc xung đột,
người Xơ Đăng còn cho phép trai, gái hai làng quan hệ hôn nhân một cách rộng
rãi với nhau.
3.12.
Tập quán tang ma
Xuất phát từ quan niệm vạn vật hữu linh, tin rằng con ngườ i có hồn, có xác, sau
khi chết xác bị huỷ hoại, còn hồn vẫn tiếp tục sống ở thế giới bên kia, cho nên,
khi mai táng người chết, người Xơ Đăng có tục chia của cải cho người chết.
Những của cải đó là: đồ mặc, tư trang, công cụ sản xuất, đồ gia dụng.
Trong làng có một người chết thì cả làng đến chia buồn với tang chủ và giúp việc
đám ma. Người Xơ Đăng làm quan tài bằng gồ độc mộc, khoét rỗng giữa đủ để
cho thi hài vào. Những người chết bình thường được chôn trong nghĩa địa của
làng. Người Xơ Đăng không có lễ bỏ mả như các dân tộc khác ở Tây Nguyên.
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 15 | 15