TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC THÁI | Hoàng Trần
TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC THÁI
MỤC LỤC:
1.
Vài Nét Về Dân Tộc Thái ...................................................................................................... 2
2.
Kinh Tế Truyền Thống ......................................................................................................... 3
3.
2.1.
Trồng trọt.......................................................................................................................... 3
2.2.
Chăn nuôi ......................................................................................................................... 4
2.3.
Khai thác tự nhiên ............................................................................................................ 5
2.4.
Ngành nghề thủ công........................................................................................................ 6
2.5.
Trao đổi, mua bán............................................................................................................. 7
Văn hoá truyền thống ............................................................................................................ 7
3.1.
Làng .................................................................................................................................. 7
3.2.
Nhà ở ................................................................................................................................ 9
3.3.
Y phục, trang sức ........................................................................................................... 10
3.4.
Ẩm thực .......................................................................................................................... 12
3.5.
Phương tiện vận chuyển ................................................................................................. 13
3.6.
Ngôn ngữ ........................................................................................................................ 13
3.7.
Tín ngưỡng tôn giáo ....................................................................................................... 14
3.8.
Lễ hội.............................................................................................................................. 16
3.9.
Văn nghệ dân gian .......................................................................................................... 18
3.10.
Gia đình, dòng họ ....................................................................................................... 19
3.11.
Tục lệ cưới xin ............................................................................................................ 19
3.12.
Tập quán tang ma ....................................................................................................... 21
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 1 | 22
TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC THÁI | Hoàng Trần
1. Vài Nét Về Dân Tộc Thái
Dân số :
Ngôn Ngữ:
Tên gọi khác: Tày Khao (Thái Trắng), Tày Đăm
(Thái Đen), Tày Mười, Tày Thanh (Man Thanh),
Hàng Tổng (Tày Mường), Pu Thay, Thổ Đà Bắc
Nhóm địa phương: Nhóm Thái Đen (Táy Đăm),
nhóm Thái Trắng (Táy Đón hay Táy Khao) và
nhóm Thái Đỏ
Địa bàn cư trú: Sơn La, Nghệ An, Thanh
Hóa,Điện Biên,Lai Châu, Yên Bái, Hòa Bình, Đắk
Lắk, Đắk Nông
Địa bàn cư trú:
Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, người Thái ở Việt Nam có dân số
1.550.423 người, là dân tộc có dân số đứng thứ 3 tại Việt Nam, có mặt trên tất cả
63 tỉnh, thành phố. Người Thái cư trú tập trung tại các tỉnh: Sơn La[Mương La]
(572.441 người, chiếm 53,2% dân số toàn tỉnh và 36,9% tổng số người Thái tại
Việt Nam), Nghệ An (295.132 người, chiếm 10,1% dân số toàn tỉnh và 19,0%
tổng số người Thái tại Việt Nam), Thanh Hóa (225.336 người, chiếm 6,6% dân số
toàn tỉnh và 14,5% tổng số người Thái tại Việt Nam), Điện Biên , Mương Thèng
(186.270 người, chiếm 38,0% dân số toàn tỉnh và 12,0% tổng số người Thái tại
Việt Nam), Lai Châu[ Mương Lay ] (119.805 người, chiếm 32,3% dân số toàn
tỉnh và 7,7% tổng số người Thái tại Việt Nam), Yên Bái [ Mương Lo ](53.104
người), Hòa Bình (31.386 người), Đắk Lắk (17.135 người), Đắk Nông (10.311
người)...
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 2 | 22
TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC THÁI | Hoàng Trần
2. Kinh Tế Truyền Thống
2.1. Trồng trọt
Dân tộc Thái, từ khi đến Việt
Nam đã thành thạo nghề cấy
trồng lúa nước.Những thuật ngữ
mang tính tổng kết kinh nghiệm
liên quan đến nghề trồng trọt lúa
nước: Mương, phai, lái, lịn đã
chứng minh rằng người Thái có
một truyền thống lâu đời với
nghề này.
Ở Việt Nam, đồng bào Thái đã
đầu tư nhiều công sức vào việc khai phá ruộng đồng và xây dựng một hệ thống
thuỷ nông thích hợp với việc trồng lúa nước ở những thung lũng chạy dọc theo
các con suối. Những đoạn trong các sử sách và truvện kể của người Thái đã ghi
chép lại việc khai khẩn đất đai, mở rộng diện tích canh tác ờ những vùng ven
sông từ Quỳnh Nhai qua Thuận Châu, Mường La đến Phù Yên, Mường. Mường
Thanh, Than Uyên, Mường Lò, Mường Cha (Nghĩa Lộ), Mường Hạ, Mường Pa
(Mai Châu, tỉnh Hoà Bình), Mường Khoòng (tỉnh Thanh Hoá), vùng ba huyện:
Quế Phong, Quỳ Châu, Quỳ Hợp (tỉnh Nghệ An). Qua nhiều thế hệ sinh sống ở
Việt Nam, người Thái có nhiều kinh nghiệm trong việc đào mương, đắp đê, bắc
ống dẫn nước về ruộng; trong việc làm cọn nước đưa nước suối lên cao hàng chục
mét, rồi dẫn nước theo mương, máng vào ruộng.
Người Thái thành thạo kỹ thuật cày làm đất trong sản xuất. Sử dụng cày là phổ
biến, sức kéo là con trâu hoặc bò. Tuy nhiên cách đây nửa thế kỷ, đâu đó người ta
vẫn nói đến lối canh tác “hỏa canh thủy nậu”.Đồng bào đốt rơm rạ, cỏ ở ruộng rồi
tháo nước vào, cho trâu quần sục bùn, rồi cấy lúa. Trong sản xuất, đồng bào dùng
phân bón, chủ yếu là phân chuồng: phân trâu, bò, ngựa, lợn.
Trước đây, người Thái chỉ làm ruộng một vụ là vụ hè - thu. Người Thái có hai
giống lúa chính là lúa nếp và lúa tẻ. Tuy nhiên giống lúa nếp của người Thái
không hoàn toàn giống như giống lúa nếp ở đồng bằng Bắc Bộ. Điểm khác nhau
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 3 | 22
TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC THÁI | Hoàng Trần
cơ bản là giống lúa nếp của người Thái nói riêng và của nhiều dân tộc ở Tây B ắc
nói chung là ăn không nóng cổ, đồ từ sáng sớm, nhưng đến chiều vẫn mềm, dẻo
và chất lượng hơn lúa tẻ. Chính vì vậy, người Thái và các dân tộc khác ở Tây Bắc
trước đây, cấy nhiều lúa nếp, chủ yếu ăn đồ nếp.
Trong trồng trọt, ngoài cây lúa nước, đồng bào Thái còn làm nương, trồng các
loại cây lương thực, hoa màu: cây lúa nương, cây ngô, khoai, sắn và một số cây
trồng khác như: lạc, vừng, các loại đậu đỗ, bầu bí, rau xanh, bông, chàm. Nương
của người Thái có hai loại: nương trồng lúa, ngô, khoai và nương trồng bông,
chàm. Loại nương trồng lúa, ngô, khoai, sắn thường sử dụng công cụ là gậy chọc
lỗ hay cuốc và gieo trồng hai, ba năm thì phải bỏ hoá; loại nương trồng bông,
chàm thường được cày, bón phân cho cây trồng, cho nên thường thâm canh sản
xuất lâu dài.
Người Thái thường trồng một số cây ăn quả như xoài, chuối, đu đủ. Những cây
trồng này được trồng lẻ tẻ ở cạnh nhà, ở trên nương. Sản phẩm của những cây ăn
quả chủ yếu phục vụ nhu cầu của gia đình.
2.2. Chăn nuôi
Người Thái chăn nuôi
nhiều loại gia súc: trâu,
bò, ngựa, dê, chó, mèo
và gia cầm: gà, vịt,
ngan, ngỗng. Việc chăn
nuôi được thực hiện
phổ biến trong từng gia
đình, tuy nhiên có gia
đình nuôi ít, có gia đình
nuôi nhiều. Phương
thức chăn nuôi chủ yếu
Dân tộc Thái có cả trang trại nuôi Heo (Ảnh sưu tầm)
theo cách nửa nuôi, nửa thả rông tự đi kiếm ăn. Với con trâu, con bò thì thường là
thả vào rừng tự đi kiếm cỏ ăn. Mùa sản xuất cần trâu, bò để cày, người Thái bắt
trâu, bò kéo cày vào buổi sáng, đến trưa thả chúng vào rừng tự đi kiế m ăn, nhưng
vẫn có người đi chăn, vì sợ chúng phá hại mùa màng. Chiều tối, người ta lùa trâu,
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 4 | 22
TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC THÁI | Hoàng Trần
bò về chuồng ở cạnh nhà.Vào mùa không cần trâu, bò cho sản xuất, thường từ
tháng 7 âm lịch cho đến tháng 10 âm lịch, người Thái thường thả trâu vào một
thung lũng, gọi là púng. Púng thường chỉ có một lối vào. Trâu cả bản thường
được lùa vào trong púng, rào kín cửa ra vào, trâu sống theo bầy đàn ở trong đó
vài ba tháng, tự bảo vệ nhau. Đến giữa tháng 10, khi gặt xong mùa màng, trời bắt
đầu se lạnh, dân bản lại cùng nhau vào púng lùa trâu về nhà. Con ngựa được nuôi
trong dân tộc Thái, nhưng không mang tính phổ biến trong từng gia đình như nuôi
trâu, bò. Người ta nuôi ngựa để cưỡi và để thồ hàng.
Với đàn lợn, gà, vịt đồng bào Thái nuôi ngày hai bữa: bữa sáng và bữa tối. Người
Thái cho lợn, gà, vịt ăn vào sáng sớm khi mới thả chúng ra khỏi chuồng và bữ a
tối, trước khi chúng về chuồng ngủ. Người Thái hay nuôi vịt ở ao, hồ và ở ruộng.
Cá ở ruộng thường được nuôi vào mùa cấy lúa. Dưới gốc cây lúa có nước, đồng
bào tận dụng nuôi cá, khi cá tìm thức ăn sục đất lên, làm hạn chế cỏ dại mọc dưới
gốc cây lúa, lại được cá ăn.
Đồng bào Thái còn nuôi tằm lấy tơ dệt lụa hoặc làm chỉ thêu.
2.3. Khai thác tự nhiên
Khai thác tự nhiên đóng vai trò quan trọng trong đời sống của dân tộc Thái. Môi
trường tự nhiên: rừng và sông suối là đối tượng được người Thái khai thác lâm
thổ sản và thuỷ sản.
Rừng cung cấp cho người Thái các loại rau, củ, quả, hạt dại, các loại nấm, nấm
hương, mộc nhĩ, măng, rêu đá, các loại côn trùng. Những sản vật thu hái được từ
rừng thường ngày tham gia vào hai bữa ăn chính của đồng bào. Mùa nào thức ấy,
rừng là nguồn thực phẩm tự nhiên khá dồi dào của đồng bào Thái. Rừng không
chỉ cung cấp thực phẩm, mà còn cung cấp cây gỗ làm nhà ở, củi đun, dược liệu và
nhiều gỗ quý khác.
Trong rừng, các loài chim, thú là đối tượng để đồng bào săn bắn. Đồng bào Thái
săn bắn để kiếm thêm thức ăn, nhưng đồng thời cũng là giải pháp kết hợp với bảo
vệ mùa màng, bảo vệ gia súc, gia cầm. Đồng bào Thái thường hay tổ chức săn bắn
vào lúc nông nhàn. Có nhiều hình thức săn bắn: săn rình của cá nhân, săn đuổi
của tập thể, đánh bẫy, vây ráp con thú vào chỗ khe, vực, vào lưới giăng sẵn...
Công cụ để dùng vào việc săn bắn là súng kíp, súng hoả mai, tên tẩm thuốc độc.
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 5 | 22
TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC THÁI | Hoàng Trần
Đánh bắt thủy sản. Tây Bắc không chỉ nhiều rừng, mà còn nhiều sông suối, do địa
hình chia cắt mạnh. Các dòng sông, suối Tây Bắc là nơi sinh sống cùa nhiều loài
cá - đối tượng đánh bắt của người Thái. Người Thái có câu nói cửa miệng: pay
kin pa, mả kin lâu - đi ăn cá, về uống rượu. Các con sông, suối chảy qua bản là
nguồn cung cấp cá thường xuyên cho đồng bào Thái. Công cụ đánh bắt cá phổ
biến trong từng gia đình là: chài, đơm, đó,... Để đánh bắt cá đạt hiệu quả cao, vào
mùa nước lũ, người Thái làm đắp “chặng” - ngăn thu nhỏ dòng chảy của suối, chỉ
cho dòng chảy chảy theo một khe rộng khoảng một mét. Dòng chảy này lại chảy
vào một chiếc sàn làm bằng vầu nguyên cây. Sàn này được làm theo cách đầu xa
cửa dòng chảy được nâng cao hẳn lên cho nước không chảy tới. Theo thiết kế
“chặng” như vậy, những con cá bơi xuôi theo dòng, khi xuống đến “chặng” thì bị
mắc lại, không bơi tiếp đi được nữa. Gia đình có “chặng”, sáng sớm, hoặc sau
mỗi buổi đi làm về qua “chặng”, chỉ việc nhặt cá nằm trên sàn vầu mang về.
Ngoài ra người Thái cũng dùng các
cách đánh bắt cá khác như dùng
lưới quây, chuốc bằng thuốc lá
độc,...
2.4. Ngành nghề thủ công
Người Thái có hai nghề thủ công
nổi tiếng là nghề dệt và nghề đan
lát mây, tre. Người Thái thành thạo
nghề dệt từ khâu trồng bông, cán
bông, kéo sợi, dệt vải, nhuộm
chàm, cắt quần, áo, khăn phiêu,
Nghề dệt của người Thái (Ảnh sưu tầm)
làm chăn, đệm, màn ngủ, màn gió, Phụ nữ Thái là những thợ dệt không chuyên,
nhưng họ thành thạo kỹ thuật dệt, cắt, may, thêu không kém gì những thợ chuyên
nghiệp lành nghề. Phụ nữ Thái lo dệt đủ quần, áo, chăn, màn, đệm ngủ cho cả gi a
đình, thậm chí còn đem trao đổi. Người phụ nữ Thái còn nổi tiếng với những tấm
thổ cẩm dệt rất tinh vi, với những mô típ hoa văn hình thú, chim, cây cối,...
Nghề đan lát mây, tre là công việc của đàn ông. Họ đan chủ yếu là những đồ dùng
hàng ngày.
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 6 | 22
TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC THÁI | Hoàng Trần
2.5. Trao đỏ i, mua bán
Dân tộc Thái có số lượng hàng triệu người, nhưng trước đây chợ búa ít phát triển.
Cho đến giữa nửa cuối của thế kỷ XX, trong nội địa Tây Bắc hầu như không họp
chợ, mà chỉ có một số nơi dọc biên giới có chợ. Việc trao đổi hàng hoá thường
hạn chế vào một số nhu yếu phẩm và chủ yếu dưới hình thức vật đổi vật giữa
người Thái với một số cư dân vùng rẻo giữa và rẻo cao. Thỉnh thoảng có một số
chuyến hàng ngược sông Đà từ miền xuôi lên, hoặc những thương lái mang hàng
từ Lào, Myanmar đem các nhu yếu phẩm đến bán và mua những đặc sản của địa
phương. Ở một vài nơi dọc biên giới có chợ họp theo định kỳ.
3. Văn hoá truyền thống
3.1. Làng
Người Thái sống định cư thành
từng bản.Mỗi bản địa vực cư trú
riêng. Ranh giới bản được xác
định bằng các mốc tự nhiên như:
đèo dốc con đường, con mương,
gốc cây cổ thụ, chỗ ngoặt. Đất đai
trong bản gồm có đất đã khai phá
thành ruộng, nương và đất chưa
khai phá. Đất đã khai phá là đất
có chủ sử dụng; còn đất chưa khai
phá là đất rừng chung của bản. Mọi
Bản làng dân tộc Thái (Ảnh sưu tầm)
người dân trong bản đều có quyền
thả trâu, bò vào đất rừng chung đó và có quyền vào rừng đó thu hái các loại lâm,
thổ sản. Trong một bản thường có nhiều dòng họ cùng cư trú, trong đó có một họ
lớn, đông về số lượng dân cư, mạnh về quan hệ xã hội.Vai trò trưởng bản thường
thuộc về ông trưởng dòng họ lớn này.Một số bản có hai hoặc ba dân tộc cư trú
xen kẽ lẫn nhau.
Bản người Thái sống mật tập, mỗi bản có vài chục đến hàng trăm nhà. Bản sống
mật tập của người Thái có đặc điềm là các nhà ở được dựng sát nhau, giữa các
nhà không có vườn rau như cư dân Tày, Nùng ở Việt Bắc, cho nên mái nhà này
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 7 | 22
TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC THÁI | Hoàng Trần
chấm mái nhà kia. Những bản không sống mật tập thì các gia đình sinh sống trong
bản cũng không có vườn trồng rau xanh, trồng cây ăn quả gần nhà ở.
Hạn khuống: Trong bản người Thái có một công trình, được dựng lên làm nơi
sinh hoạt văn hoá cộng đồng của bản. Đó là một sàn tre dựng ở ngoài trời, cao
khoảng l,5m, rộng khoảng 16 - 24m2, có hình chữ nhật hoặc hình vuông, xung
quanh sàn được rào bằng tre đan hình mặt cáo, chỉ để một cửa lên sàn. Bắc một
cầu thang 3 bậc lên sàn để người chơi lên xuống.Trên sàn có một bếp lửa, rộng
hẹp tuỳ thuộc vào độ rộng của sàn.Người ta dựng 4 cây nêu bằng bương ở 4 góc
hạn khuống và một cây cao, to, đẹp nhất dựng ở cạnh bếp. Các cây bương dùng
làm cây này, được róc hết cành, lá, chỉ để một chỏm lá trên ngọn. Trên t hân cây
bương, người ta cạo hết cật, từng đốt cây bôi phẩm màu xanh, đỏ, tím. vàng. Cách
khoảng 5-7 đốt lại buộc một vòng tròn tre vào thân cột hương. Trên các vòng
tròn, người ta treo lủng lẳng những hình con chim gồ, con ve, hoa quả r ừng và
những dây xúc xích đan bằng lạt xanh, đỏ.
Các cây nêu này tiếng Thái gọi là cây “lăc xáy”, nghĩa là cột trứng. Người làm
hạn khuống là nam nữ thanh niên trong bản. Bản nhỏ (khoảng 10 hộ) làm một hạn
khuống; bản lớn nhiều hộ làm nhiều hạn khuống.
Chủ nhân trên hạn khuống là các cô gái. Các cô gái ngồi quanh bếp lửa, mặc váy,
áo đẹp, đội khăn piêu thêu sặc sỡ. Các chàng trai chưa vợ trong bản, hoặc từ bản
khác kéo đến từng tốp, từng tốp. Mỗi tốp cử 1 - 2 người thổi pí tốt, hát hay, đàn
giỏi, xin các cô gái cho lên hạn khuống cùng vui. Trên sàn khuống, một cô gái
được chọn làm “tổn” khuống hát đối đáp đố nhau, bắt bên trai giải đố, rồi “tổn”
khuống mới mời các chàng trai lên hạn khuống. Lên được hạn khuống, con trai
lại hát xin ghế ngồi, bên gái hát đáp quanh co, trêu ghẹo nhau hồi lâu, rồi mới
mời ngồi.
Hạn khuống là sân chơi của phần lớn nam nữ thanh niên chưa lập gia đình. Họ
sinh hoạt vào buổi tối và đêm, không ồn ào nhạc, hát nhưng tình cảm chân thật.
Hạn khuống còn là nơi để các cụ già kể chuyện cổ tích, xe gai, bệ n dây trâu; các
bé gái đến hạn khuống học kéo sợi, bật bông, học thêu; các bé trai học đàn, học
thổi pí .
Tục lệ dựng bản mới: Bản của người Thái được quản lý bởi hai nhân vật chính là
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 8 | 22
TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC THÁI | Hoàng Trần
chảu đin - chủ đất và thầy mo. Mỗi khi có nhu cầu lập bản mới, chảu đi n quan sát
chọn vùng đất, gồm đất làm nhà ở và đất sản xuất, đất rừng thả trâu, bò; thầy mo
làm nghi lễ xin phép thần linh - trời, đất để cho dân dựng bản. Thầy mo giúp chảu
đin dựng cột lắc mường.Cột lắc mường được làm bằng gỗ quý, bền lâu. Liệu cột
lắc mường có liên hệ gì với cột thép ở Ấn Độ, được dựng lên ở New Delhi vào
đầu thế kỷ V sau công nguyên? Cột lắc mường dựng ở bản trung tâm của mường.
Ngoài ra thầy mo còn dựng 4 cột nhỏ ở 4 góc của mường để khẳng định ranh giới
thiêng liêng của mường .
Trong xã hội cổ truyền của người Thái, có bộ máy cai quản xã hội. Bộ máy này
được hình thành trên cơ sở chế độ Phía tạo và a nha. Phía Tạo cai quản bản và a
nha là quan mường. Bộ máy này là chủ sở hữu toàn bộ đất đai. Người Thái có
câu: đin a nha, ná pó bản - đất là của a nha, ruộng là của bố bản. Trên cơ sở
quyền cai quản đó, bọn chúng tổ chức các hình thức bóc lột người dân, thông qua
lao dịch, nộp tô, nộp thuế ruộng, thuế nương...
3.2. Nhà ở
Người Thái ở nhà sàn, dưới sàn có
nhiều cột để đỡ sàn nhà cho chắc; còn
trên sàn nhà thì lại ít cột.Nhà sàn được
làm bàng gỗ tốt, bền lâu. Thiết kế nhà
ở của người Thái có cột chính - sau hẹ
hay sau cốc. Chiếc cột này mang ý
nghĩa tượng trưng cho uy quyền của
ngôi nhà nhìn từ góc độ tôn giáo. Trên
cột này, đồng bào thường treo “tạy ho
" - túi tượng trưng cho linh hồn của
mỗi người trong gia đình. Trong tạy ho của nam giới thường có hạt thóc giống và
mảnh chài, còn trong tạy ho của phụ nữ cũng có hạt thóc giống và có thêm hạt
bông giống. Chỗ của chủ nhà là bên cạnh sau hẹ, bên cạnh bàn thờ gia đình để
khẳng định tính phụ quyền. Chủ nhà - ông bố được ma nhà đỡ đầu và phù hộ.
Nhà sàn Thái được thiết kế theo nhiều dạng khác nhau, tuỳ theo tập quán của từng
nhóm Thái. Nhà sàn người Thái Đen có mái đầu hồi hình khum kh um kiểu hình
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 9 | 22
TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC THÁI | Hoàng Trần
mai rùa, với khau cút ở hai đầu hồi và có Người Thái Trắng ở Lai Châu có mái
hình chữ nhật. Nhà sàn Thái ở Thanh Hoá, Nghệ An không làm sàn phơi. Nhà sàn
Thái ở Lào Cai, Yên Bái có một cầu thang lên xuống. Nhà sàn Thái ở nhiều nơi
khác có hai cầu thang lên xuống. Một cầu thang lên phía bên chán dành cho khách
nữ đi lại; còn cầu thany bên phía quản dành cho khách nam giới. Ở trong nhà,
khách nữ thường được tiếp bên bếp nấu ăn; còn khách nam giới thường được tiếp
ở bên bếp nấu nước uống và sưởi ấm. Tuy thiết kế có sự khác nhau, nhưng nhìn
chung nhà trông rất thoáng, rộng rãi, vì cột lẩn dưới sàn nhà, ít vách ngăn, đồ đạc
trong nhà đơn giản, thường chỉ có ghế mây để ngồi, chăn, màn, đệm. Tuy nhà sàn
Thái có nhiều cửa sổ, nhưng mái nhà thấp, cho nên trong nhà thường ít ánh sáng
mặt trời chiếu vào trong nhà. Việc bố trí chỗ ngủ của người Thái được quy định
theo một trật tự chặt chẽ và ở một bên, thành một dãy chỗ ngủ liên tục, trật tự đó
là: chỗ ngủ của bố mẹ, chỗ ngủ của vợ chồng chị cả, tiếp đó là chỗ ngủ của vợ
chồng các chị tiếp theo. Các cô gái chưa chồng cũng mỗi người một gian ngủ tiếp
theo. Trước đây chỗ ngủ không ngăn thành buồng, mà chỉ buông màn làm
“buồng” dựa theo hàng cột ở dưới gầm sàn.
3.3. Y phục, trang sức
Y phục của người Thái được
làm bằng vải bông. Chị em
người Thái tự sản xuất ra y
phục cho tất cả các thành viên
trong gia đình từ khâu đầu đến
khâu cuối. Hơn thế nữa, họ còn
cung cấp nhu cầu vải làm chăn,
đệm, màn,... cho cả gia đình.
Trong y phục của người Thái,
nỗi bậc nhất là bộ y phục của
phụ nữ. Phụ nữ Thái mặc áo và váy và khăn đội đầu. Phụ nữ Thái ở các tỉnh Tây
Bắc mặc váy ống, một màu đen, còn phụ nữ Thái ở các tỉnh Thanh Hoá, Nghệ An
lại mặc váy thêu hoa văn sặc sỡ. Tấm váy của chị em phụ nữ Thái - Tày Mường,
ở Nghệ An có ba phần: đầu váy - húa xỉn, thân váy - tô xìn và chân váy - tín xin.
Ba phần váy nêu trên được ghép từ ba khổ vải tự dệt, mỗi khổ rộng khoảng 50cm
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 10 | 22
TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC THÁI | Hoàng Trần
và dài khoảng 120cm. Đầu váy để trắng tự nhiên của bông, thân váy nhuộm màu
chàm, chân váy thêu hoa văn. Khó nhất, kỳ công nhất là dệt hoa văn chân váy.
Khi dệt chân váy, bố trí tấm vải thành ba mảng; hai mảng diềm ở hai bên mép vải
và mảng giữa để sau này thêu hoa văn. Mỗi mảng diềm chiếm khoảng 1/7 khổ
rộng của vải.Các mảng diềm đều dệt chỉ màu tạo thành các đường sọc xanh, đỏ,
trắng, vàng. Dệt xong, người ta cắt theo từng khổ vải dài khoảng 120cm, vừa đủ
cho chiều ngang của một váy. Người ta thêu vào mảng giữa những hình hoa văn:
chân nhái - tín khiệt, hình thoi, hình vuông, và các hoạ tiết kỷ hà khác. Phần thêu
này chiếm khoảng 1/7 chân váy. Tiếp theo, người ta thêu các hoa văn chính với
các mô típ: cây thẳng, lá thẳng; hoa hồng, hoa mặt trời, trăng, sao; con rồng hoặc
thuồng luồng - ngược nặm, rồng cạn - ngược lẹng, kỳ đà, thằn lằn, kỳ nhông. Khi
mặc, váy được quấn cho vừa bụng, dém mối bên sườn, rồi buộc dây lưng, thả hai
đầu xuống một bên, tuỳ theo thuận tay phải hay tay trái; đeo xà tích, quả tảo bạc
chạm trổ; mặc áo trắng bó thân, dài tay, xẻ ngực, có hàng cúc bướm duyên dáng,
sặc sỡ.
Phụ nữ Thái ở Tây Bắc có chiếc xửa cỏm trắng với hàng cúc bướm trắng rất đặc
trưng, khi mặc làm nổi rõ các đường nét trên thân hình người phụ nữ. Chúng ta
hiểu rằng, y phục không chỉ có chức năng che da thịt trên cơ th ể con người, mà
còn có chức năng trình bày quan điểm thẩm mỹ của con người. Qua kiểu dáng cắt
may xửa cỏm, ta thấy quan niệm của người Thái về cái đẹp chính là đường nét
trên cơ thể con người chị em, chứ không phải là đường nét, mô típ hoa văn với
màu săc sặc sỡ trên áo, như một số dân tộc khác cùng cư trú trong vùng.
Khăn đội đầu của phụ nữ Thái cũng có nhiều kiểu, nhưng nét đặc trưng phải là
chiếc khăn piêu. Trên nền chàm đen của chiếc khăn, người Thái thêu hoa văn
bằng chỉ thêu đỏ ở hai đầu khăn. Khi đội khăn, một đầu thêu được buông xuống
sau lưng, đầu kia đặt trên đầu, tạo sự tương phản về màu sắc làm cho đôi má của
các cô gái thêm ửng hồng, thêm duyên dáng, thêm chất nữ tính.
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 11 | 22
TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC THÁI | Hoàng Trần
3.4. Ẩm thực
Người Thái trước đây,
hầu như chỉ ăn đồ nếp.
Thông thường, sáng ra
chị em đồ xôi để ăn cả
ngày. Khi mọi người
đi làm, trong bản có
hiệu lệnh cấm lửa.
Các gia đình phải tắt
hết bếp. Sở dĩ có hiệu
lệnh tắt lửa, bởi vì nhà
ở mật tập, lại chủ yếu
là lợp cỏ gianh (vì đất
Tây Bắc không tiện
Nặm pịa – thức chấm chủ yếu của người Thái
cho việc làm gạch,
ngói). Mùa đi làm, người lớn đi làm trên ruộng, trên nương cả, chỉ có trẻ em là ở
nhà. Nếu trẻ em ở nhà đun bếp, không để ý làm cháy nhà thì có thể cháy cả bản
luôn. Người Thái đồ xôi trên một cái “ninh” bằng đồng và chỗ thông thường là
một ống bương to bằng gỗ.
Thức ăn của người Thái có những đặc điểm sau: dùng nước chấm nặm pịa, có gia
vị “mác khen”, hay ăn sống, ăn gỏi, ít ăn canh, ăn luộc . Nặm pịa là chất nuôi con
vật, nằm ở lòng non. Khi mổ trâu, bò... người Thái lấy nặm pịa con vật làm nước
chấm rất đặc trưng. Người “Tây” ăn sữa con bò, còn người Thái thì ăn chính chất
nuôi bản thân con vật đó. Người Thái cũng sử dụng nhiều loại gia vị như: hành,
tỏi, ớt. Nhưng gia vị độc đáo, mang tính núi rừng là “mác khến” - loại quả dại
nhỏ như hạt tiêu, có vị cay, thơm tương tự như hạt tiêu. Trong bữa ăn, người Thái
hay ăn thức ăn sống như: su hào sống, bắp cải sống... Cách ăn sống của đồng bào
là thái rau thành miếng khá to, dùng tay cầm miếng rau chấm và o hai muối, ớt,
mác khén đã trộn lẫn với nhau. Người Thái còn thích ăn cá nướng, ăn gỏi cá,
mắm cá, thịt lợn, ăn thịt trâu, thịt ếch, ăn một số côn trùng như ong non, trứng
kiến. Trước đây, người Thái ăn xôi, nên có tập quán dùng tay nắm xôi ăn, không
dùng bát đũa. Ngày nay nhiều dân tộc ăn xôi cũng dùng tay bốc ăn như vây.
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 12 | 22
TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC THÁI | Hoàng Trần
Một số tập tục tiếp khách trong ăn uống của người Thái trước đây là: đến nhà
người Thái không nên hỏi gia đình ăn cơm chưa, ngồi vào mâm ăn cơm, khách
nam ngồi xếp bằng- nang khoày họng, nữ ngồi đầu gối gập lại, chụm vào nhau và
chân đưa ra phía sau cùng một phía, khoảy phết. Vào mâm, khách thường uống
hết hai chén rượu (chén vợ, chén chồng) mới được gắp thức ăn. Trong mâm cơm,
gần chỗ chủ nhà ngồi, bao giờ cũng có đĩa đầu, tim, gan, mề, 2 con gà và chén
rượu lạu tạy. Khách đừng bao giờ gắp vào đĩa thức ăn đó. Dân tộc Thái quan
niệm ăn cay, ăn mặn người mới linh hoạt, khoẻ mạnh, leo được đèo núi, dốc cao
không mệt mỏi.
Khi tiếp khách, lễ tết, hội hè, cưới xin... đồng bào Thái hay uống rượu trắng - lảu
siêu hoặc rượu cần - lảu xá. Người Thái tiếp khách, chiêu đãi khách, mời ăn, mời
uống rượu rất nhiệt tình. Nam giới hút thuốc lào, phụ nữ ăn trầu.
3.5. Phương tiện vận chuyển
Tuy sống ở miền rừng núi, nhưng sống bên các dòng sông, con suối, người Thái
là những người đi thuyền rất giỏi. Trước đây, trước khi lấy vợ, người thanh niên
Thái buộc phải lên rừng kiếm gỗ tốt về đóng cho mình một chiếc thuyền độc mộc,
để làm phương tiện đánh bắt cá, chở hàng, đi lại trên các dòng sông. Thuyền to
dài đến 15 - 16m, chở được
đến hai tấn hàng.
3.6. Ngôn ngữ
Tiếng nói: dân tộc Thái thuộc
hệ ngôn ngữ Thái. Tiếng nói
của người Thái nước ta rất
gần với tiếng nói của người
Thái Lan, người Lào (nước
Lào). Người Thái dân thường,
có thể nghe và nói tiếng Lào
và tiếng Thái Lan, là hai thứ
tiếng phổ thông của hai quốc gia
Chữ của người Lào, Thái Lan – ngôn ngữ
này. Ở trong nước ta, tiếng Thái
người Thái vẫn dùng
không chỉ có dân tộc Thái sử
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 13 | 22
TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC THÁI | Hoàng Trần
dụng, mà từ lâu đời, nó đã trở thành tiếng nói phổ thông của các dân tộc ở Tâ y
Bắc. Các dân tộc sinh sống ở Tây Bắc, đều sử dụng tiếng Thái làm phương tiện
giao tiếp với nhau.
Chữ viết: Chữ viết của người Thái nước ta thuộc hệ thống chữ Ấn Độ cổ đại. Loại
chữ này cũng phổ biến ở nước Lào và nước Thái Lan. Như vậy, chữ viết của dân
tộc Thái nước ta có quan hệ nguồn gốc với chữ viết của các dân tộc Lào và Thái
Lan. Chữ viết của người Thái nước ta thuộc hệ chữ Sanscrit, khác với chữ Khmer
Nam Bộ là chữ thuộc hệ chữ Paly.Tuy nhiên hai loại chữ này đều là chữ gốc Ấn
Độ cổ đại và đều gắn liền với Phật giáo Tiểu thừa.
3.7. Tín ngưỡng tôn giáo
Người Thái tin vào vạn vật hữu linh, có lực lượng siêu nhiên tác động đến cuộc
sống con người. Theo các truyền thuyết, người Thái quan niệm vũ trụ có 5 tầng:
Tầng trên cùng là nơi hồn mang, là thế giới của những người “ăn sương, ăn gió”,
sống lang thang đây đó, đeo dao ở cổ; Tầng tiếp theo là thế giới của các vị thần
và tổ tiên các dòng họ Thái xây dựng trên vòm trời mà mắt người thường không
nhìn thấy được. Tầng này do Then Luông cai quản; Tầng thứ ba là thế giới trên
mây, ở đó có các vì trăng, sao. Đó là thế giới của những người khổng lồ, được
Then cử ra để xây dựng trần gian vào buổi sơ khai: những Chô côm, Ai Lậc
Cộc'...
Đó là nơi các nàng tiên vừa bay, vừa xoay các quả cầu, là nơi giam giữ con chó
Chuông Nhánh mỗi khi xổ lồng, nuốt nàng mặt trời tạo nên nhật thực; còn nguyệt
thực là do ếch ăn trăng; Tầng thứ tư là mặt đất, là thế giới của loài người, của
muôn vật (thế giới thực) và thế giới cùa ma quỷ (thế giới ảo). Đây còn là thế giới
của các loại thuồng luồng ở dưới nước, Tầng dưới cùng là thế giới dưới mặt đất,
ở đó có loài người tí hon chuyên chỉ ăn đất.
Đồng bào Thái tin rằng trên trời có Then Luông là đấng quản cả trời đất, loài
người và vạn vật trên trái đất này.Then Luông được các quân thần thần linh giúp
việc; Còn ở trần gian, bất cứ nơi nào cũng có các phi - ma cai quản.Muốn lập bản,
khai phá ruộng, phát nương, đánh cá, săn bắn thú rừng... đều phải xin phép các vị
thần linh và các ma nêu trên.
Người Thái tin có một dòng họ chúa đất, là con cháu của Then Luông, được Then
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 14 | 22
TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC THÁI | Hoàng Trần
cử xuống trần gian để cai quản chúng dân. Chúa đất là tượng trưng cho bản
mường,là vị đứng đầu mường, thay mặt Then cai quản các thần linh, ma, ma tổ
tiên và cả hồn người sống. Mỗi khi dựng bản mới, người Thái bắt đầu từ việc
dựng lắc mường. Lắc mường là biểu hiện bên ngoài của vận mệnh toàn dân bản
cũng như của chúa đất. Nếu lắc mường vững chắc là bản mường yên ổn, làm ăn
phát triển, mùa màng bội thu. Nếu vì một lý do nào đó như giặc dã uy hiếp, người
dân không phục tùng chúa đất,... thì lắc mường sẽ bị lung lay, chúa đất bị nghiêng
ngả, bản mường sẽ tan tác.
Trong dân tộc Thái có một
số thầy mo, bà một. Họ
hành nghề hói toán, dùng
phù phép chữa bệnh cho
dân. Tuy nhiên họ là những
người lao động, hành nghề
không chuyên nghiệp. Khi
nào có người mời thì họ đi
làm nghề; còn ngày thường,
họ vẫn là người lao động,
sống bằng kết quả lao động
sản xuất của chính mình.
Lễ cầu an của dân tộc Thái (Ảnh sưu tầm)
Người Thái cũng được mệnh danh là dân tộc có c on ma “phi phông’’ hại người.
Khi chủ nó cãi cọ với người nào đó và tỏ ra bức xúc, thì con “phi phông” sẽ đến
hại người đó. Biểu hiện của việc con “phi phông” làm hại là bị đau bụng khan dữ
dội. Nếu không cúng kịp thời có thể dẫn đến chết.
Xuất phát từ quan niệm tôn giáo như trên, người Thái có nhiều nghi lễ cúng như,
xên hườn - cúng tổ tiên, xên pang - giỗ tổ, xên bản, mường - cúng thổ công; trời
đất, hoặc xên bun, xên khoan - cúng hồn, cầu phúc. Việc thờ cúng tổ tiên là hiện
tượng phổ biến trong mọi gia đình.Họ thờ ông, bà đã khuất và các cụ, kỵ trước
nữa. Chỉ chủ nhà mới được thay mặt gia đình cúng ma nhà, chủ trì lễ xên hườn,
cầu xin tổ tiên phù hộ cho con cháu.
Vào mùa xuân, khi tiếng sấm đầu mùa báo hiệu cuộc sống của vạn vật trở lại sau
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 15 | 22
TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC THÁI | Hoàng Trần
những ngày mùa đông giá lạnh nằm im, là mùa công việc đồng áng bắt đầu, người
Thái hay tổ chức xên mương, xên bản, để tạ ơn các vị thần linh: thần trời đất,
thần đất, thần núi, thần sông và tạ ơn tổ tiên, cầu mong các vị thần linh phù hộ
cho mùa sản xuất tới người được khoẻ mạnh, mùa màng được bội thu, vật nuôi
đầy chuồng, đầy sân. Địa điểm tổ chức lễ xên bản là gần khu rừng cấm phía tây
của bản và gần vực nước - vang rtặm. Tại đây người Thái dựng một cái nhà sàn
ba gian hai chái, sàn cao khoảng một mét, bưng xung quanh sơ sài. Việc cúng tế
diễn ra trên sàn nhà này. Lễ vật cúng gồm áo “chạu xựa”, lợn, gà, dê. Không đ ược
mổ trâu, bò. Thủ lợn và gà được bày trên mâm cúng, còn tiết để được bôi lên cọc
ta leo để ngăn cấm ma xấu vào bản. Ngoài lễ xên bản, hàng năm, cứ mỗi mùa cày,
bừa xong, khi gieo mạ, khi lúa ra đòng, khi gặt... đồng bào đều làm lễ nhỏ cúng
ma ruộng, cúng hồn lúa.
3.8. Lễ hội
Nghi lễ cúng cơm mới: Đặc biệt đáng chú ý là nghi lễ cúng cơm mới của đồng
bào Thái. Khi mùa lúa bắt đầu chín, chủ nhà hái vài bó lúa đem về treo lên bàn
thờ ma hay cột nhà chính, với ý mời ma nhà chứng giám việc gia đình tổ chức lễ
cơm mới. Sau đó gia đình và họ hàng tổ chức ăn mừng. Nhân cúng lễ cơm mới,
nhiều nơi như: Sông Mã (tỉnh Sơn La), các tỉnh Thanh Hoá, Nghệ An, có tục cảm
ơn hồn lúa. Đồng bào mang mâm cỗ đặt lên gốc rạ, khấn cảm ơn “hồn lúa”. Tiếp
theo chủ nhà làm bù nhìn bằng rơm tượng trưng cho “hồn lúa”, rồi rước bù nhìn
đó về nhà đặt trên bịch thóc. Bằng động tác đó, người ta hiểu rằng, đã mời được
hồn lúa về “ngủ” trên bịch thóc
suốt mùa đông giá rét. Đợi đến
ngày xuất hiện tiếng sấm đầu
năm, mùa sản xuất mới bắt đầu,
chủ nhà mới “đánh thức” hồn lúa
dậy.
Lễ rượu măng- xên lảu nó: Lễ
này thường được tổ chức vào dịp
đầu năm mới tại các gia đình
“me một”. “Một” hay “khắp một”,
Rượu cần dùng trong lễ hội “Rượu măng”
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 16 | 22
TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC THÁI | Hoàng Trần
“một lao” đều là những hoạt động ma thuật chữa bệnh của người Thái. Theo tục
lệ người Thái, sau khi được me một chữa khỏi bệnh, để tỏ lòng kính trọng, mang
ơn, người bệnh (đã chữa khỏi) nhận làm con nuôi - lục liệng của me một. Vào dịp
đầu xuân năm mới các con nuôi này thường góp công, của, đến tạ ơn bà một.
Cũng dịp này, các bà một đều chuẩn bị đón tiếp các con nuôi của mình và tạ lễ tổ
sư “tạy” đã giúp bà một chữa khỏi bệnh cho các con. Khi làm lễ, người ta bày các
hũ rượu cần trước bàn thờ tổ sư bà một. Xung quanh những chiếc hũ rượu cần đó,
người ta xếp những chiếc măng vầu cho đẹp. Chính vì vậy mới gọi là xên lảu nỏ lò rượu măng. Hoạt động của lễ xên lảu nó tương tự như hội chơi “mợi" của
người Mường. Bà một cúng tổ sư xong, mọi người ăn uổng, vui chơi, nhảy múa
xung quanh các hũ rượu cần đó. Nhạc cầm nhịp cho các điệu nhảy đó chỉ là tiếng
quẻng loọng - gõ đuống hay tăng boọng - gõ ống nước, tăng thụ - gõ đũa vào lòng
chiêng vào khèn bè. Xên lảu nó là một hình thức vui chơi đầu năm mới. Hình
thức này mô phỏng sự sinh sôi phát triển, mong ước năm mới mọi sự vật, vật
nuôi, cây trồng nẩy nở như mùa măng mọc.
Hội chơi hang Thăm Lé: Hang Thăm Lé - Hang nhìn, năm ở địa phận huyện Văn
Chấn, tỉnh Yên Bái, cách thị xã Nghĩa Lộ khoảng chừng 20 km về phía Yên Bái.
Hội chơi Thắm Lé diễn ra từ ngày mồng bảy đến ngày rằm tháng Giêng âm lịch,
sau lễ khai hạ. Mọi người yêu thích có thể đến hội, không phân biệt già, trẻ, trai
gái đã có vợ có chồng. Đây là dịp mọi người tự do tìm hiểu nhau, quan hệ với
nhau. Trong hang không đèn đóm, chỉ sáng mờ mờ, nhiều khi không nhìn rõ mặt
nhau. Người dự hội đến với nhau bằng một tín hiệu nào đó hay mò mẫm, sờ soạng
xung quanh. Nếu gặp được nhau mà ưng ý, họ có thể tình tự với nhau. Nếu suốt
thời gian chơi hội mà không tìm được ai, thì về nhà phải mổ gà, mổ lợn để giải
vía rủi ro.
Lễ hội Hang Bua: Hang Bua ở huyện Quỳ Châu, tỉnh Nghệ An. Lễ hội Hang Bua
diễn ra vào ngày 22, 23 tháng Giêng hàng năm. Người dân thuộc các huyện Quỳ
Châu, Quế Phong, Nghĩa Đàn, Quỳ Hợp thường tụ tập về dự lễ hội. Lễ vật cúng lễ
hội gồm xôi, thịt trâu hay thịt dê, thịt lợn và thịt gà cùng rượu cần, hoa quả. Tất
cả lễ vật được bày thành 5 mâm cúng. Mâm cúng đầu tiên dành cho cúng người
khai phá mảnh đất, gọi là phũ sưa. Mâm thứ hai cúng những người đã có công
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 17 | 22
TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC THÁI | Hoàng Trần
dựng bản, dựng mường, khai phá cánh đồng Châu Tiến. Mâm thứ ba dành cho bò
nặm - mó nước. Đó là mạch nước ngầm chảy từ ngọn núi xuống các bản, rồi ra
ruộng, Mâm thứ tư dành cho cúng hồn hai ông Cẩm Lữ và Cầm Lan là những
người dắt dần một nhóm người Thái Tây Bỉu vào khai phá vùng Phủ Quỳ. Hai
ông này được suy tôn là “chấu mường". Mâm thứ năm dành cho cúng những vong
hồn đã chết vì cuộc chiến tranh ở vùng này.
3.9. Văn nghệ dân gian
Cư trú lâu đời ở Việt Nam, với trình độ phát triển kinh tế -xã hội khá cao, người
Thái đã sáng tạo ra một kho tàng văn học và nghệ thuật dân gian đặc sắc. Những
nét đặc trưng cho văn nghệ dân tộc Thái ở nước ta là kho tàng truyện cổ được ghi
chép thành văn bản với số lượng hàng vạn trang, thơ ca dân gian và các điệu xoè
Thái.
Truyện cổ của người Thái bao gồm nhiều thể loại từ ngụ ngôn, truyện cười đến
truyện kể. Các câu chuyện đều mang ý nghĩa giáo dục sâu sắc: bênh vực lẽ phải,
bênh vực người nghèo, giáo dục tình yêu thương con người, giáo dục lòng yêu
thương lao động, ca ngợi công đức của các bậc tiền bối đã sáng tạo ra bản,
mường, đồng ruộng, sáng tạo ra các giống cây trồng, vật nuôi.
Thơ ca dân gian chiếm vị trí quan trọng trong văn học Thái. Những câu ca dao,
tục ngữ, thành ngữ, những câu thơ tình, thơ hát trong các dịp hội hè, đám cưới,
mừng nhà mới... cho đến những trường ca, sử thi... là những sáng tác khuyết
danh, nhưng có giá trị nhân văn lớn, cho nên nó được lưu truyền từ đời này qua
đời khác. Những truyện thơ Sóng chụ xôn xao, Khun Lú Nàng ủa, là sáng tác của
dân tộc Thái, nhưng khi dịch ra tiếng Việt cũng được hoan nghênh trong cả nước.
Người Thái sáng tác thơ để hát, vì hát mà sáng tác thơ. Điệu khắp là làn điệu dân
ca được sử dụng phổ biến trong sinh hoạt của người Thái. Khắp báo sao- khắp
trai gái; khắp lồng tồng - khắp ngoài đồng ruộng; khắp cạ - khắp chèo thuyền;
khắp Chương - khắp người già kể chuyện Chương Han.
Đất Tây Bắc nổi tiếng về xoè Thái - múa của người Thái. Điệu xoè Thái có ở mọi
bản làng người Thái. Điệu múa uyển chuyển, nhịp nhàng. Có thể xoè ít người,
nhưng cũng có thể xoè nhiều người; có thể xoè vòng tròn, nhưng cũng có thể xoè
theo hàng. Những đêm trăng sáng mùa thu, ở các bản, trai gái thường tổ chức xoè.
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 18 | 22
TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC THÁI | Hoàng Trần
Những điệu xoè không chỉ dành cho trai gái mà tất cả người Thái từ già đến trẻ,
con trai, con gái đều xoè và họ xoè một cách hứng thú, say sưa.
3.10.
Gia đình, dòng họ
Mỗi ngôi nhà là nơi ở của một gia đình người Thái. Gia đình người Thái là tiểu
gia đình phụ hệ. Mỗi gia đình thường chỉ có hai thế hệ cùng sinh sống, đó là bố
mẹ và các con cái của họ. Con cái do bố mẹ sinh ra được lấy họ bố và tính là con
cháu của dòng họ bố - ải noọng, quan hệ với dòng họ bố chặt chẽ hơn là quan hệ
với dòng họ mẹ - lủng ta. Theo đó, con trai được kế thừa tài sản; con gái, sau khi
cưới chồng về ở rể một thời gian, tách ra ở riêng chỉ được hưởng của hồi môn.
Con trai có nhiệm vụ thờ cúng tổ tiên và có trách nhiệm chăm sóc mồ mả tổ tiên.
Con trai còn có trách nhiệm là đại diện bên lúng ta trong quan hệ với nhính xao
trong các nghi lễ theo phong tục dân tộc Thái.
Gia đình dân tộc Thái còn là gia đình phụ quyền. Chủ nhà là người điểu hành mọi
công việc của gia đình từ sản xuất cho đến các công việc như cưới xin, làm nhà
mới, ma chay. Vai trò quan trọng sau ông chủ nhà là người con trai lớn. Trong gia
đình, người phụ nữ ở địa vị thấp kém hơn nam giới, con gái hầu như là ngư ời
ngoài đang chờ ngày lấy chồng, chờ nơi nương thân.Ở người Thái Trắng (Lai
Châu) con gái thường ở gian dành cho khách. Sau khi lấy chồng, phải đổi họ theo
họ chồng.
Người Thái quan niệm có dòng họ quý tộc như: Cầm, Bạc, Xo, Đèo, Sầm,... Ở
Thanh Hoá, Nghệ An có những dòng họ gốc dân trở thành họ quý tộc. Những họ
này mang theo tên chức vụ được phong cạnh tên họ như: Lò, Lộc, Lự, Quàng, Vi,
Cà (hay Khà). Những dòng họ gốc thường có một hèm liên quan đến một sinh vật
hoặc một vật vô sinh. Thí dụ, họ Lò kiêng giết, ăn thịt con chim táng lo , không ăn
thứ măng lù; họ Quàng kiêng giết, ăn thịt hổ; họ Cà kiêng giết, ăn thịt con chim
cốt ca; họ Vi kiêng dùng quạt (vi) để quạt xôi... Người Thái có mối quan hệ dòng
họ chặt chẽ. Đó là: ải noọng - họ nội, họ bên cha; lúng ta - họ ngoại, họ bên mẹ
và nhính xao - họ nhà chồng các con gái. Mối quan hệ, ba dòng họ này rất khăng
khít với nhau và có trách nhiệm với nhau theo phong tục người Thái quy định.
3.11.
Tục lệ cưới xin
Người Thái đã từ lâu đời thực hiện chế độ hôn nhân ngoại hôn dòng tộc. Những
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 19 | 22
TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC THÁI | Hoàng Trần
người có quan hệ huyết thống với nhau không kết hôn với nhau. Một trong những
phong tục liên quan đến tập quán ngoại hôn dòng tộc là quan hệ ba dòng họ. Quan
hệ ba dòng họ nói lên quan hệ hôn nhân thuận chiều - quan hệ hôn nhân ba thị
tộc.
Hôn nhân của người Thái là hôn nhân một vợ một chồng bền vững. Những hiện
tượng đa thê một chồng hai vợ hầu như hoàn toàn vắng bóng trong các gia đình
người Thái. Tuy nhiên, đối với các vị quan chức trước đây vẫn có một số người
lấy vợ lẽ, nhưng những trường hợp đó đều dược coi như là ngoại lệ, tồn tại bên
ngoài cuộc sống của cộng đồng dân tộc Thái.
Hôn nhân của người Thái là hôn nhân cư trú bên nhà chồng, nhưng d o phong tục
người Thái cưới 2 lần: cưới lần thứ nhất, con trai đi ở rể. Sau một thời gian vài
năm, tổ chức cưới lần thứ hai, mớí đưa cả vợ con về nhà mình và từ đó vợ chồng
cùng con cái sinh sống ở bên nhà trai, bên họ nội.
Tục lệ hôn nhân của người Thái cho phép con trai, con gái được tự do tìm hiểu.
Cơ hội cho trai gái được gặp gỡ, tự do tìm hiểu là những dịp lễ hội xên bản, xên
mường, xên lảu nó, những dịp cưới xin, vào nhà mới. Tuy nhiên việc được phép
tự do tìm hiểu không đồng nghĩa với việc tự do kết hôn. Việc kết hôn của con cái
chủ yếu vẫn do bố mẹ quyết định. Khi trai gái ưng nhau, con trai về báo cáo cha
mẹ, cha mẹ sẽ tìm hiểu gia đình bên nhà gái, khi thấy hai gia đình “môn đăng hộ
đối” và phẩm chất người con gái có
thể chấp nhận được, gia đình nhà
trai sẽ tiến hành các thủ tục của một
đám cưới. Thủ tục cho một lễ cưới
thông thường có: Kin lảu khẩn khơi
- lễ cưới lên ở rể; Lễ ớ nả pạu - ra
mắt con dâu hay cưới chính thức; Lễ
tỏn pạu - lễ đón dâu; Lễ lại mặt bố
mẹ nhà gái.
Kin lảu khẩn khơi chính là lễ cưới
lần thứ nhất. Với lễ cưới này,
Lễ cưới của người Thái (Ảnh sưu tầm)
người con trai đến nhà người con
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 20 | 22
TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC THÁI | Hoàng Trần
gái ở rể. Thời gian ở rể, tuỳ thuộc vào sự thoả thuận của hai bên nhà gái và nhà
trai, thông thường là ba năm. Trong thời gian ở rể, chàng rể lao động như một
thành viên chủ chốt của gia đình.
Hết thời hạn ở rể, người Thái tổ chức lề ó nả pạu - ra mắt dâu, cưới lần thứ hai và
nhà trai đón con dâu - tỏ pạu cùng các cháu về nhà. Nhân dịp này, nhà gái chia
cho con gái của hồi môn để mang theo về nhà chồng.
Lễ cưới được kết thúc bằng việc đôi vợ chồng lại mặt bố mẹ đẻ của cô dâu.
Trong xã hội cổ truyền của người Thái, có những trường hợp trai gái yêu nhau,
mà cha mẹ ngăn cản, không cho kết hôn. Gặp trường hợp như vậy, đôi trai gái
thường cố gắng thuyết phục cha mẹ. Nếu không thuyết phục được, tục lệ người
Thái cũng “mở” lối thoát cho những đôi tra i gái thực sự yêu nhau, bằng những tục
lệ cổ truyền như: Rủ nhau trốn sang mường khác để sinh sống làm ăn. Nếu nhà
trai đồng ý, mà chỉ nhà gái ngăn cản, bên con trai có thể tổ chức “cướp” người
yêu. Một buổi chiều, anh ta đến nhà người yêu đón về nhà mình. Trước khi đi
theo người con trai, người con gái đặt miếng trầu, đồng tiền và ít gạo vào chiếc
ninh xôi, với ý xin phép tổ tiên. ( Theo người Thái, tổ tiên thường trú ngụ ở bếp.
Cái ninh là vật tượng trưng cho ma bếp).Cô gái đến nhà trai, trình ma nhà trai, ở
đó vài ngày, rồi dẫn nhau về nhà cô gái, xin bố mẹ cô gái cho ở rể. Nhà gái buộc
phải đồng ý. Hoặc người con trai cứ mang theo chăn màn đến nhà cô gái xin ở rể,
chịu sự ứng xử lạnh nhạt của bố mẹ cô gái lúc đầu. Sau đó bố mẹ cô gái cũng
đành phải đồng ý cho ở rể.
3.12.
Tập quán tang ma
Người Thái cũng như nhiều dân tộc khác, quan niệm con người có phần xác và
phần hồn. Người Thái quan niệm có xam xíp khuồn mang Hti hả xíp khuồn mang
lằng - nghĩa là 30 hồn ở phía trước, 50 hồn ở phía sau. Các hồn này nằm trên từng
bộ phận của cơ thể, trong đó hồn chủ ngụ ở chỏm tóc trên đỉnh đầu. Cho nên khi
có người chết, người Thái làm ma cho người chết để tiễn hồn về trời và đưa xác
đi mai táng. Trong truyền thống người Thái có hai hình thức mai táng là: thổ táng
và hoả táng. Việc mai táng, được thực hiện nhiều ở người Thái Đen và những nhà
giàu, nhà qúy tộc. Phải chăng tục hoả táng là do chịu ảnh hưởng của văn hoá Phật
giáo còn thổ táng vẫn là cách mai táng mang tính phổ biến hơn.
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 21 | 22
TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC THÁI | Hoàng Trần
Với thổ táng, người Thái có đặc điểm là khi hạ huyệt, người ta làm một lọ nhỏ,
trong lọ bỏ ít đường, lấy dây bằng tơ tằm dài, to bằng chiếc đũa, nhúng một đầu
vào đường trong lọ, đặt lọ đường lên trên linh cữu, ở vị trí ngực của người quá
cố, còn đầu dây kia, khi lấp kéo cho thẳng đứng lên, sao cho khi lấp xong mộ, đầu
dây này ở thang vị trí ngực người qúa cố. Dây này được gọi là cửa hồn, để hồn có
thể bay ra bay vào.
Xuất phát từ quan niệm, cuộc sống bên âm cũng như bên dươg, người Thái có tập
quán chia của cho người chết. Theo tập quán xưa, khi mai táng, người ta làm nhà
mồ ngay trên nấm mồ. Đó là chiếc nhà sàn nhỏ. Trên chiếc nhà sàn đó người ta
chia cho người chết chăn, màn, độm một số công cụ sản xuất như dao, cuốc, gùi.
Người ta còn chia cho người chết cả gà, lợn. Những con gà, con lợn còn sống
được thả lên nấm mộ. Gà bay đi, lợn chạy vào rừng, rồi người vây bắt lại nó
mang về nhà tiếp tục nuôi như những con gà, con lợn khác.
Người Thái không có tục làm chay như dân tộc Nùng, mà họ tổ chức 100 ngày
cho người quá cố với ý tưởng để cho linh hồn người chết siêu thoát về trời. Sau
ba năm, gia đình người quá cố làm lễ mãn tang.
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 22 | 22