TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC TÀY | Hoàng Trần
TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC TÀY
MỤC LỤC:
1.
Vài Nét Về Dân Tộc Tày ....................................................................................................... 2
2.
Kinh Tế Truyền Thống ......................................................................................................... 3
3.
2.1.
Trồng trọt.......................................................................................................................... 3
2.2.
Chăn nuôi ......................................................................................................................... 4
2.3.
Khai thác tự nhiên ............................................................................................................ 5
2.4.
Ngành nghề thủ công........................................................................................................ 6
2.5.
Trao đổi, mua bán............................................................................................................. 7
Văn hóa truyền thống ............................................................................................................ 8
3.1.
Làng - bản......................................................................................................................... 8
3.2.
Nhà ở ................................................................................................................................ 9
3.3.
Y phục, trang sức ........................................................................................................... 10
3.4.
Ẩm thực .......................................................................................................................... 11
3.5.
Phương tiện vận chuyển ................................................................................................. 12
3.6.
Ngôn ngữ ........................................................................................................................ 13
3.7.
Tín ngưỡng tôn giáo ....................................................................................................... 13
3.8.
Lễ hội.............................................................................................................................. 14
3.9.
Văn nghệ dân gian .......................................................................................................... 14
3.10.
Gia đình, dòng họ ....................................................................................................... 15
3.11.
Tục lệ cưới xin ............................................................................................................ 16
3.12.
Tập quán tang ma ....................................................................................................... 18
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 1 | 21
TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC TÀY | Hoàng Trần
1. Vài Nét Về Dân Tộc Tày
Dân số : 1.626.392 người (2009)
Ngôn Ngữ: Người Tày nói thổ ngữ thuộc hệ ngôn
ngữ Thái-Kadai (Tày-Thái)
Tên gọi khác: Pa dí, Thổ, Ngạn, Phén, Thu Lao
Nhóm địa phương:
Địa bàn cư trú: Lạng Sơn, Cao Bằng, Tuyên
Quang, Hà Giang,Bắc Kạn, Yên Bái, Thái
Nguyên, Lào Cai, Đắk Lắk
Địa bàn cư trú
Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, người Tày ở Việt Nam có dân số
1.626.392 người, là dân tộc có dân số đứng thứ 2 tại Việt Nam, có mặt trên tất cả
63 tỉnh, thành phố. Người Tày cư trú tập trung tại các tỉnh: Lạng Sơn (259.532
người, chiếm 35,4% dân số toàn tỉnh và 31,5% tổng số người Tày tại Việt Nam),
Cao Bằng (207.805 người, chiếm 41,0% dân số toàn tỉnh và 25,2% tổng số người
Tày tại Việt Nam), Tuyên Quang (185.464 người, chiếm 25 ,6% dân số toàn tỉnh
và 22,5% tổng số người Tày tại Việt Nam), Hà Giang (168.719 người, chiếm
23,3% dân số toàn tỉnh và 20,5% tổng số người Tày tại Việt Nam), Bắc Kạn
(155.510 người, chiếm 52,9% dân số toàn tỉnh và 18,9% tổng số người Tày tại
Việt Nam), Yên Bái (135.314 người, chiếm 18,3% dân số toàn tỉnh và 16,4% tổng
số người Tày tại Việt Nam), Thái Nguyên (123.197 người, chiếm 11,0% dân số
toàn tỉnh và 15,0% tổng số người Tày tại Việt Nam), Lào Cai (94.243 người),
Đắk Lắk (51.285 người)
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 2 | 21
TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC TÀY | Hoàng Trần
2. Kinh Tế Truyền Thống
2.1. Trồng trọt
Trồng trọt là nghề sinh sống
chính của người Tày. Đồng
bào có truyền thống lâu đời
về nghề này, tích luỹ được
nhiều kinh nghiệm trong việc
chọn đất canh tác, chọn thời
vụ cho từng giống cây trồng;
có kinh nghiệm trong khâu
làm đất, bón phân, trồng xen
canh, gối vụ.
Ruộng bậc thang của người Tày (Ảnh sưu tầm)
Cây lương thực chính là cây
lúa nước. Đồng bào trồng các giống lúa tẻ và nếp. Lúa tẻ được trồng nhiều hơn
lúa nếp. Người Tày trồng lúa trên các cánh đồng lòng chảo, thung lũng các dòng
sông, trong đó những cánh đồng nổi tiếng trong vùng Việt Bắc như cánh đồng
Hoà An (tỉnh Cao Bằng), cánh đồng Thất Khê, cánh đồng Lộc Bình (tỉnh Lạng
Sơn), cánh đồng Phủ Thông (tỉnh Bắc Kạn), cánh đồng Bắc Quang (tỉnh Hà
Giang). Người Tày có truyền thống lâu đời về trồng trọt, có nhiều kinh nghiệm
trong sản xuất từ khâu chọn đất, chọn thời vụ cho từng loại giống cây trông, cho
đến kỹ thuật làm đất, bón phân, trồng xen canh gối vụ. Đồng bào chọn đất màu
mỡ - ruộng ngay dưới nhà (làng) để cấy lúa nếp. còn ruộng giữa các cánh đồng
thường cấy lúa tẻ đại trà. Kỹ thuật làm đồng bằng cày, dùng trâu, bò làm sức kéo,
làm tơi đất bằng kỹ thuật bừa do trâu, bò kéo; sử dụng phân chuồng làm phân bón
cho ruộng và các cây trồng khác. Tuy làm ruộng trên các cánh đồng lòng chảo,
thung lũng, nhưng diện tích ruộng nước ít hơn ruộng chờ mưa. Vì vậy, để chủ
động được nước tưới cho cây lúa theo nhu cầu từng thời kỳ sinh trưởng, đồng bào
Tày, cũng như nhiều dân tộc khác sinh sống và làm ruộng nước vùng thung lũng,
đã làm cọn nước, để đưa nước từ dưới sông lên cao hàng chục mét, rồi chảy theo
mương vào các chân ruộng trên cao, đảm bảo nước cho sự sinh trưởng của cây
lúa, nhất là lúc cây lúa thời đầu .Trước kia, cây lúa nước chỉ được gieo cấy một
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 3 | 21
TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC TÀY | Hoàng Trần
vụ là vụ hè - thu.
Đồng bào Tày có tập quán, sau khi gặt chất lúa thành đống và giúp nhau đập lúa
tại ruộng. Lúa được đập trên hai đầu máng gỗ to, có phên che hai bên sườn cho
hạt lúa khỏi vung vãi ra ngoài. Rơm được thu gom đưa về nhà, chất đống trên sàn,
cao vừa tầm cho trâu bò ngẩng đẩu rút ăn dần trong mùa đông.
Bên cạnh ruộng nước, đồng bào Tày còn làm nương. Việc canh tác trên nương
cũng phổ biến như canh tác trên ruộng. Nương được khai khẩn ở trên đồi với độ
dốc không cao lắm. Trên nương đồng bào trồng những cây chịu hạn như cây ngô,
khoai, sắn, các loại đậu đỗ, cây bông, cây chàm,... Cây ngô, cây khoai lang, cây
sắn được sản xuất để phòng khi mùa màng thất bát, thì dùng làm lương thực; còn
những năm được mùa bình thường, chúng được sử dụng làm thức ăn chăn nuôi:
nuôi lợn nuôi gà, vịt hoặc đem bán ở chợ nông thôn.
Với đồng bào Tày, cây rau xanh được trồng phổ biến trong vườn cạnh nhà. Rau
xanh, trồng theo vụ: có rau vụ xuân - hè như các loại bầu, bí, mướp, rau dền,
mồng tơi, cà tím, dưa chuột, cà chua, ớt, các loại đậu đỗ như: đậu xanh, đậu đỏ,
đậu trắng, đậu quả, đậu hoà lan; có rau vụ thu - đông như: bắp cải, su hào, rau
cải, cải làn, rau diếp, hành, tỏi, các loại rau gia vị như: rau húng, rau mùi,...
Cây ăn quả được người Tày quan tâm trồng vườn nhà như cây cây đào, câ y vải,
cây nhãn, cây bưởi; hoặc trồng trên rừng như: cây quýt, cây hồng.
Đồng hào Tày trồng một số cây công nghiệp như trẩu, lai, sở, mía, đậu tương,
thuốc lá... Ở những vùng chất đất thích hợp như Lạng Sơn, đồng bào Tày còn
trồng cây hồi. Cây hồi được trồng thành rừng, thay thế cho rừng cây tự nhiên.
Nhìn tổng thể về nghề trồng trọt của người Tày từ các loại cây trồng trên ruộng,
trên nương, trên vườn gia đình; cho đến trình độ kỹ thuật canh tác: chọn đất cho
phù hợp với các loại cây trồng khác nhau, chọn thời vụ, kỹ thuật bón phân, xen
canh gối vụ; về hệ thống công cụ sản xuất và thuỷ lợi,... có thể đánh giá rằng
người Tày đã đạt đỉnh cao của kỹ thuật canh tác thời kỹ thuật tiền công nghiệp và
nghề trồng trọt của họ đạt hiệu quả cao.
2.2. Chăn nuôi
Nghề trông trọt có nhu cầu phát triển chăn nuôi để lấy sức kéo và lấy phân bón
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 4 | 21
TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC TÀY | Hoàng Trần
cho cây trồng. Do vậy, chăn nuôi gia súc, gia cầm được tiến hành ở trong từng hộ
gia đình. Gia súc được nuôi là trâu, bò, ngựa, dê, lợn, chó, mèo; gia cầm có gà,
vịt, ngỗng, ngan. Mỗi gia đình thường nuôi dăm, ba con trâu hoặc bò; một số gia
đình còn nuôi thêm ngựa, dê. Nuôi trâu, bò để kéo cày, kéo xe, kéo gỗ làm nhà.
Người Tày không dùng trâu, bò làm vật hiến sinh cho thần linh, nhưng trong đời
thường họ lại ăn thịt trâu, thịt bò. thịt chó. Những loại thịt của ba con súc vật này,
người Nùng không ăn, không cho mang vào nhà nấu nướng, thậm chí lúc đi
đường gặp mổ trâu, bò, họ còn tránh không muốn giáp mặt với thịt trâu, bò. Con
ngựa được nuôi để cưỡi, kéo xe. Thời trước, những người có chức sắc trong làng,
những gia đình giàu có đi có việc thường đi bằng ngựa. Con lợn, con dễ nuôi vừa
làm vật hiến sinh, vừa đê ăn thịt. Thịt lợn, được sử dụng nhiều nhất trong các loại
thịt gia súc, gia cầm. Do vậy gia đình nào cũng nuôi vài con lợn bột. Gà được
nuôi phổ biến nhất, mỗi gia đình thường nuôi vài chục con. Gà được nuôi vừa để
phục vụ cho việc cúng bái trong các ngày lễ tết, giỗ chạp, cưới xin, ma chay lại
vừa để ăn thịt, ăn trứng. Con vịt cũng được nuôi phổ biến, nhưng nuôi ít hơn v ề
số lượng trong từng gia đình.
Bên cạnh việc chăn nuôi gia súc, gia cầm, người Tày còn nuôi cá ở ao, nuôi vài
ba tổ ong ngay dưới mái hiên nhà ở.
Phương thức chăn nuôi gia súc, gia cầm chủ yếu là chăn thả, ban ngày thả trâu, bò
vào rừng tự kiếm cỏ ăn, ban đêm lùa chúng về chuồng ở cạnh nhà. Lợn, gà, vịt,
ngỗng,... cũng chủ yếu chăn nuôi theo phương thức nửa nuôi, nửa tự kiếm ăn.
Những con vật này, chủ cho ăn bữa sáng khi mới thả chúng ra khỏi chuồng để tự
do đi kiếm ăn. Sau đó, chiều tối, trước khi chúng lên chuồng ngủ, chủ nhà lại cho
ăn bữa nữa.
Mỗi loại gia súc, gia cầm đều có chuồng trại riêng. Chuồng trại cho mỗi loại gia
súc khác nhau có tên gọi khác nhau. Phải chăng điều này cũng nói lên sự phát
triển có tính chuyên nghiệp của nghề nghiệp chăn nuôi của dân tộc Tày.
2.3. Khai thác tự nhiên
Người Tày cũng như các dân tộc khác sinh sống ở miền núi, mặc dù kỹ thuật canh
tác đạt trình độ khá cao, nhưng việc hái lượm lâm thổ sản và săn bắn muông thú
trên rừng, dưới nước vẫn là một nguồn thu quan trọng, đóng góp có ý nghĩa đối
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 5 | 21
TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC TÀY | Hoàng Trần
với đời sống vật chất của đồng bào Thu hái lâm thổ sản được thực hiện quanh
năm và theo mùa, mùa nào thức ấy. Mùa xuân - hè, là mùa các loại cây cối đâm
chồi nảy lộc, đồng bào hay thu hái măng rừng, rau rừng: lá non rau ngót rừng, rau
ho khai về nấu canh ăn trong bữa ăn, lá non cây sau sau về ăn ghém sống, đọt non
ngải cứu về làm bánh giầy, lá ngải, lá bánh tẻ cây sau sau về làm xôi đen, đào củ
mài về ăn, củ nâu về nhuộm vải chàm; Khi mùa thu - đông đến, đồng bào hay thu
hái nấm hương, mộc nhĩ, mật ong, nhộng rừng, lấy gỗ, tre, cây que làm nhà, làm
các công trình chuồng trại chăn nuôi, rào vườn. Củi đun và nước ăn, nước sinh
hoạt hàng ngày cũng tăng giảm theo mùa: mùa đông dùng củi nhiều hơn mùa hè
vì ngoài nấu ăn còn đun sưởi ấm cả ngày; mùa hè lại dùng nhiều nước hơn mùa
đông vì phải tắm, giặt, rửa nhiều hơn. Ngoài thu hái lâm thổ sản phục vụ cho nhu
cầu đời sống bình thường, người Tày còn thu hái thảo dược: rễ dó, làm men rượu,
gỗ sa mộc để ngâm rượu thuốc.
Người Tày cũng tích cực săn bắn thú rừng nhằm mục đích trước tiên là bảo vệ
mùa màng, bảo vệ gia cầm và sau đó là lấy thịt ăn, cải thiện đời sống. Những con
thú thường săn bắn là cầy, cáo, các loại hươu, nai để lấy thịt ăn, lấy nhung;
những nơi có rừng già. đồng bào còn làm bẫy bắt hổ, báo để lấy xương nấu cao,
săn gấu để lấy mật chữa bệnh. với những nơi ít rừng, người Tày thường hay bắn
chim, bẫy chim phá hoại mùa màng.
Ngoài thú rừng, người Tày tìm đánh bắt thuỷ sản ở các sông, suối cá, lươn, tôm,
tép, cua, ốc, ếch,...
Việc thu hái lâm thổ sản và
săn bắt thú rừng, thủy sản
thường kết hợp với công
việc trên đồng ruộng, trên
nương.
2.4. Ngành nghề thủ công
Nền kinh tế tự túc, tự cấp
đòi hỏi nghề thủ công phát
triển để đáp ứng nhu cầu
Nghề dệt của người Tày (Ảnh sưu tầm)
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 6 | 21
TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC TÀY | Hoàng Trần
các vật dụng khác nhau trong gia đình. Những nghề thủ công thông thường như:
dệt, đan lát, mộc, ép dầu, chưng cất dầu. Nghề dệt lả nghề của phụ nữ, nhất là con
gái. Con gái được mẹ truyền cho nghề dệt từ khi lên 10 - 12 tuổi, vào tuổi 15-16
con gái đã rất thành thạo nghề dệt. Phụ nữ - con gái, trồng bông, dệt vải cung cấp
vải mặc, vải làm chăn, màn cho cả gia đình; làm túi đeo, túi to (để gánh), thay
cho đôi dậu trong các trường hợp cần thiết. Đàn ông thường hay đan lát mây tre
các đồ dùng gia đình như: cót để phơi thóc, bồ để đựng thóc ăn cả năm. dậu để
gánh, rổ, giá, vung chảo “trâu”; đan các công cụ đánh bắt cá như: nơm, đơm, đó,
giỏ. Với nghề mộc, người Tày tự làm nhà, làm bàn ghế, giường ngủ, tủ đựng quần
áo, hòm gỗ, bàn ghế trúc. Đồng bào cũng ép dầu trẩu, dầu lai, dầu sở... để thắp
sáng, chưng cất dầu hồi để bán.
Nghề thủ công là nghề phụ trong gia đình, không có thợ chuyên nghiệp, đồng bào
chỉ làm nghề thủ công trong mùa nông nhàn.
2.5. Trào đỏ i, mua bán
Việc trao đổi, mua bán diễn ra phổ biến ở đồng bào Tày. Khắp nơi đồng bào Tày
cư trú đều có chợ, trừ một vài vùng thuộc các tỉnh Hà Giang và Lào Cai. Chợ họp
theo phiên, cứ 5 ngày/phiên. Các chợ trong một vùng cách nhau khoảng trên dưới
chục km và họp vào các ngày khác nhau, cho nên, có thể nói ngày nào cũng có
thể đi chợ. Người đi chợ chủ yếu là người địa phương. Những chợ gần miền xuôi
có cả lái buôn người Kinh; còn chợ vùng biên giới còn có nhiều lái buôn Trung
Quốc, có khi có cả lái buôn người từ Ấn Độ sang bán vải. Đã xuất hi ện người Tày
làm nghề buôn bán, nhưng không nhiều và cuộc sống của họ c hưa tách khỏi nghề
nông, cuộc sống nông thôn.
Những mặt hàng được trao đổi, mua bán ở chợ là hàng nông sản do đồng bào Tày
sản xuất và các hàng hoá sản xuất bằng công nghiệp từ Trung Quốc đưa vào bán.
Mặc dù chợ họp theo phiên, nhưng thực sự có tác động đến đời sống kinh tế, văn
hoá của người Tày. Chính vì vậy, hoạt cộng của chợ khá nhộn nhịp và có xu
hướng ngảy càng phát triển.
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 7 | 21
TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC TÀY | Hoàng Trần
3. Văn hóa truyền thống
3.1. Làng - bà̉ n
Dân tộc Tày sinh sống thành
từng bản. Bản là một đơn vị cư
trú, một đơn vị xã hội của cộng
đồng. Bản của người Tày trung
bình có từ 20 - 25 đến 60 - 70
nóc nhà. Những gia đình trong
bản thường thuộc về nhiều dòng
họ khác nhau; có bản còn cư trú
hai, ba dân tộc khác nhau. Người
Tày, người Nùng sống xen kẽ
trong một bản là hiện tượng
tương đối phổ biến. Người dân
Một gốc làng của người Tày (ảnh sưu tầm)
trong bản không chỉ có quan hệ với nhau về lãnh thổ, mà còn có quan hệ về mặt
văn hoá. Quan hệ văn hoá của dân bản được thể hiện ở chỗ tất cả dân bản, không
phân biệt giàu nghèo, không phân biệt dân tộc, đều cùng thờ một thổ công và thực
hiện các nghi lễ thờ cúng thổ công đó tại miếu của bản. Mỗi bản đều có phe - hội
hiếu của bản. Mỗi gia đình trong bản đều là một thành viên của phe. Khi trong
bản có người chết, phe làm nhiệm vụ phục vụ cho tang chủ về tất cả các việc liên
quan đến tang lễ và mai táng, không một thành viên nào được vắng mặt. Trong
bản người Tày, thông thường còn có tổ chức lễ hội “lùng tùng” - lễ hội cầu mùa
vào tháng Giêng hàng năm. Một số bản của người Tày có đình làng thờ thần
nông, có bản còn có chùa thờ Phật.
Đồng bào Tày chọn nơi dựng bản là chân núi, trước bản thường có cánh đồng, sau
bản là đất làm nương; cũng có nơi, người Tày chọn nơi dựng bản là nơi gần sông,
suối, tiện nước cho gieo trồng lúa nước và thuận cho giao thông đi lại.
Bản có tên gọi. Tên gọi của bản thường được gọi theo tên núi, tên sông, tên lũng,
tên gốc cây cổ thụ, tên cánh đồng, hoặc tên theo một địa điểm địa lý nào đó.
Không thấy tên bản đặt theo sự kiện lịch sử, nhân vật lịch sử hoặc hiện tượng xã
hội.
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 8 | 21
TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC TÀY | Hoàng Trần
Những bản to được chia thành còn - xóm, như dân tộc Kinh. Còn là một nhóm
nhà nằm trong một khu vực nhất định so với vị trí trung tâm của bản. Thí dụ: còn
tẩu nghĩa là xóm dưới, còn nưa nghĩa là xóm trên, còn đâu nghĩa là xóm trong,
còn noọc nghĩa là xóm ngoài, còn chang nghĩa là xóm giữa,... Ở vùng biên giới,
nhiều bản trồng lũy tre bao quanh, có bản xây tường đá quanh bản, trên tường đã
có lỗ châu mai, có cổng trước và cổng sau, làm thành bản - pháo đài để phòng
chống kẻ cướp.
3.2. Nhà ở
Người Tày chủ yếu ở nhà
sàn, một số nơi ở nhà đất.
do không có cây, gỗ để
làm nhà sàn. Nhà sàn là
loại nhà phổ biến ở các
dân tộc sinh sống ở vùng
Đông Nam Á, bởi nơi đây
có khí hậu nhiệt đới, mưa
nhiều, các loài côn trùng
phát triển mạnh. Nhà sàn
là giải pháp thích hợp, tạo
được
môi
trường
trong
ngôi nhà thoáng mát và hạn chế được nhiều loài côn trùng: sâu, bọ, rắn, rết làm
hại người bò vào nhà, nhất là khi đêm ngủ. Nhà sàn thông thường có hai loại: loại
nhà sàn gỗ và loại nhà sàn trình tường đất. Nhìn từ mái nhà, thì nhà ở của người
Tày có kiểu nhà hai mái và kiểu nhà bốn mái. Kiểu nhà hai mái còn gọi là nhà
“đực” và kiểu nhà bốn mái gọi là nhà “cái”. Kỹ thuật làm nhà ở của người Tày là
kỹ thuật thủ công, nhưng đạt đĩnh cao của loại kỹ thuật này. Các giải pháp kỹ
thuật thường thấy là: cưa, xẻ, đục, bào, lắp ghép mộng. Mái nhà lợp bằng ngói
máng, hoặc lá cọ, lá gồi. Trong ngôi nhà, bàn thờ được đặt ở nơi trang trọng nhất
trong nhà, bếp đặt lùi về phía sau của ngôi nhà; một gian bên được làm buồng ngủ
cho phụ nữ, gian bên còn lại là chỗ đặt giường n gủ cho nam giới. Nhà có hai cửa
ra vào: cửa phía trước và cửa phía sau. Cửa phía trước được mở ngay chính gian
giữa nhà, cửa phía sau thường mở ở một góc nhà. Hằng ngày đi làm về thường lên
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 9 | 21
TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC TÀY | Hoàng Trần
xuống vào nhà ở cửa phía sau, vì ở bên ngoài cửa này có slích - sàn nước rửa
chân. Khi đi làm chân bẩn, trước khi vào nhà cần rửa chân cho sạch. Cửa phía
trước thường dành cho chính khách nam giới. Khách đi giày, lên sàn. bỏ giày, đi
vào nhà (không rửa chân). Gầm sàn nhà ở, có nơi làm chuồng nhốt gia súc: trâu,
bò, ngựa, lợn; nhốt gia cầm như gà, vịt, ngỗng,... nhưng cũng có nơi chỉ là nơi để
công cụ sản xuất.
Khuôn viên ngôi nhà ở của người Tày lúc nào cũng có vườn trồng rau xanh và
trồng cây ăn quả.
3.3. Y phục, trang sức
Người Tày mặc y phục màu chàm, vải tự dệt, tự cắt may. Bộ y phục nam và nữ có
sự khác nhau rõ rệt. Bộ y phục nam có nhiều nét tương đồng với bộ y phục của
nam giới các dân tộc trong vùng. Nét đặc trưng trong trang phục dân tộc Tày
được thể hiện ở kiểu dáng cắt may của y phục phụ nữ.
Bộ nữ phục thông thường có:
áo, quần, khăn đội đầu, thắt
lưng. Áo nữ dân tộc Tày là áo
dài tới bắp chân, xẻ dưới cổ,
chéo sang nách phải, cài 5 cúc
vải. Nét đặc trưng của áo nữ
Tày là chiều dài thì dài nhưng
chiều rộng lại hẹp, thân áo, tay
áo bó lấy người, về hình thức,
áo nữ Tày có nhiều nét tương
đồng với chiếc áo dài Việt
Nam hiện nay. Tuy nhiên, áo
dài Việt Nam có nhiều hoa văn
trang trí, còn áo nữ Tày thì chỉ có một màu chàm, hoàn toàn không hoa văn trang
trí. Quần phụ nữ được cắt theo kiểu chân què, cạp lá toạ, về sau này mặc quần
khâu cạp luồn dây. Để giữ áo cho gọn khi lao động, người phụ nữ Tày dùng thắt
lưng vải. Thắt lưng vải, dài hai sải tay. rộng bằng chiều rộng của khổ vải dệt tròn
khung (khoảng 40cm), cũng nhuộm màu chàm như áo. Chiếc thắt lưng vải làm
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 10 | 21
TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC TÀY | Hoàng Trần
tăng vẻ duyên dáng của người phụ nữ Tày. Phụ nữ Tày dùng khăn đội đầu. Họ đội
một lúc hai khăn: khăn ngang và khăn vuông. Khăn ngang có chức năng bó gọn
lấy tóc thành một bó, rồi quấn tròn quanh đầu; khăn vuông gấp chéo, đội qua
ngoài tương tự như kiểu chít khăn quạ của người phụ nữ Kinh. Khăn cũng được
nhuộm chàm, không trang trí hoa văn.
Phụ nữ Tày sử dụng đồ trang sức trong những ngày lễ tết, hội hè, ngày cưới xin.
Bộ trang sức của nữ Tày gồm: khuyên tai, hoa tai, vòng cổ, bộ xà tích. Chất liệu
của những đồ trang sức này thường là bằng bục. Trong lao động thường ngày, chị
em chỉ đeo khuyên tai, vào những ngày lễ hội mới đeo nhiều loại trang sức khác
nhau.
3.4. Ẩ m thực
Người Tày ăn cơm gạo tẻ, rau xanh, thịt, cá, trứng. Những sản phẩm này do đồng
bào Tày tự làm ra trên đồng ruộng của mình. Cơm 10 được sử dụng hàng ngày.
Trong những dịp lễ tết, người Tày sử dụng gạo nếp để chế biến thành xôi, bánh
chưng, bánh giầy, “áp cháo”,bánh trũi bánh khảo, “khảu sli”, “pẻng hút”... Loại
nếp còn được sử dụng để nấu rượu; nếp cái dùng vào việc làm rượu nếp.
Trong bữa ăn thường
ngày,
ngoài
cơm,
đồng bào Tày dùng
thực phẩm chính là
rau
trồng
ở
trong
vườn nhà và thêm rau
rừng theo từng mùa.
Cách chế biến rau
chủ yếu là xào với
mỡ lợn. Đồng bào ưa
ăn rau xào hơn ăn rau
luộc. Ăn rau xào có
thêm tí mỡ góp phần
chống rét. Rau ăn có
nhiều
loại theo
Xôi ngũ sắc - Nét ẩm thực độc đáo của người Tày
mùa.
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 11 | 21
TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC TÀY | Hoàng Trần
Mùa hè có các loại bầu, bí, mướp, rau muống, rau mồng tơi, rau dền,... Mùa đông
thường có su hào, bắp cải, cải làn, hành, tỏi, các loại rau thơm, rau gia vị,...
Thực phẩm nguồn gốc động vật của đồng bào Tày rất phong phú . Người Tày ăn
hầu hết các loại thịt gia súc gia cầm nuôi trong nhà như thịt trâu, thịt bò, thịt chó
(thịt của ba loại gia súc này, người Nùng không ăn, chê bẩn).
Người Tày có kinh nghiệm bảo quản thực phẩm để dành ăn lâu ngày, ăn trong các
dịp lễ tết, dịp đông người như cưới xin, giỗ chạp, lễ nhà mới,... Với thực phẩm
nguồn gốc thực vật thường có hai cách bảo quản là phơi khô (mă ng, mộc nhĩ, nấm
hương, trám đen...) hoặc ngâm trong nước muối (măng, trám đen). Với thực phẩm
có nguồn gốc động vật, đồng bào có ba cách bảo quản: ướp muối, gia vị, sau đó
phơi khô (thịt lợn, thịt trâu, thịt bò); ướp muối, rồi gói trong cỏ gianh (mỡ lá lợn);
chao cho ra một ít mỡ, để nguội, nén vào vại, làm sao cho thịt ngập trong mỡ
nước, đậy kín vại lại. Cũng với mục đích bảo quản lâu ngày, đồng thời cũng là
một cách chế biến thực phẩm, đồng bào Tày và Nùng thường làm lạp xưởng.
Trong bữa ăn của người Tày, con dâu, em dâu có thể ngồi cùng mâm cơm với bố
chồng, anh chồng. Trong khi đó, phong tục người Nùng không cho phép ngồi
chung mâm cơm như vậy. Đây là một trong những nét khác nhau giữa dân tộc
Nùng và dân tộc Tày.
3.5. Phương tiện vận chuyển
Cũng như các dân tộc khác, người Tày sử
dụng gùi như công cụ vận chuyển hàng
Chiếc gùi (Ảnh minh họa)
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 12 | 21
TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC TÀY | Hoàng Trần
3.6. Ngôn ngữ
Tiếng nói: Các nhà ngôn ngữ học xếp tiếng nói của
người Tày thuộc hệ ngôn ngữ Thái. Riêng ở nước
ta, các dân tộc có tiếng nói thuộc hệ ngôn ngữ này
có tới 12 dân tộc và có thể chia thành ba nhóm:
nhóm Tày - Nùng, nhóm Thái và nhóm Kadai. Trong
ba nhóm này, nhóm Tày - Nùng có dân số đông hơn
cả, ngót ba triệu người. Tiếng Tày cùng tiếng Nùng
không chỉ là tiếng nói của riêng dân tộc Tày và
Nùng, mà từ lâu tiếng nói của hai dân tộc này đã
được coi là tiếng nói của vùng Đông Bắc Việt Nam.
Chữ viết: Trước đây người Tày sử dụng chữ Hán.
Chữ Nôm được người Tày
Sau đó, họ có và sử dụng chữ Nôm. Một điều
sử dụng (Ảnh minh họa)
đáng chú ý là chữ Nôm này cũng được người Tày
và người Nùng sử dụng chung.
3.7. Tín ngưỡng tôn giáo
Cũng như nhiều dân tộc khác ở nước ta, người Tày tin vào tôn giáo đa thần, tin
vào vạn vật hữu linh, coi mọi vật đều có linh hồn. con người cũng có linh hồn
như mọi vật khác.
Thờ cúng tổ tiên: Xuất phát từ quan niệm con người có linh hồn, cho nên người
Tày thờ cúng tổ tiên. Tổ tiên được tính theo dòng bô, đây là sự khẳng định tính
phụ hệ, phụ quyền của quan hệ xã hội tồn tại trong người Tày. Tổ tiên được thờ
cúng ngay trong nhà trên một bàn thờ, đặt ở nơi trang trọng nhất trong nhà. Người
Tày thờ tổ tiên 4 đời là ba mẹ, ông bà, cụ, kỵ. Người ta cúng tổ tiên vào các dịp lễ
tết, các dịp cưới xin, ma chay, vào nhà mới. Ngoài ra, hàng tháng, chủ nhà phải
thắp hương, dâng chè, rượu, vàng mã, hoa lên bàn thờ tổ tiên, để thể hiện sự kính
trọng đối với tổ tiên.
Tín ngưỡng đa thần giáo ở người Tày còn được thể hiện ở việc thờ thổ công của
bản. Thổ công thường được thờ ở miếu. Miếu là một ngôi nhà nhỏ. được dựng ở
đầu bản, dưới một gốc cây cổ thụ, nơi dễ đi lại. Thổ công là vị thần bảo lãnh làng
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 13 | 21
TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC TÀY | Hoàng Trần
bản, mùa màng. Hàng năm miếu đưực cúng hai lần: vào dịp tết năm mới và tết
trung nguyên. Ngoài ra vài nơi có chung một đình làng. Ở đình làng, người Tày
thờ nhiều vị thần khác nhau: thần nông, thần rừng, thần núi... Người ta tổ chức
cúng ở đình lúc kết thúc mùa cày cấy và sa u khi thu hoạch mùa màng. Dân bản
đóng góp để tổ chức lễ cúng này. Sau khi cúng xong, người ta tổ chức ăn uống.
Ngoài tín ngưỡng đa thần giáo, người Tày còn tin theo tam giáo: Khổng giáo, Đạo
giáo và Phật giáo. Tin theo Khổng giáo, người Tày tin vào số mệnh - thiên mệnh,
thể hiện ở tục so lá số trong tục lệ cưới xin. Phải tương hợp về số mệnh mới đư ợc
lấy nhau. Đạo giáo trong người Tày được thể hiện qua các tục bói toán, các phép
phù chú và thuật phong thủy. Tin theo Phật giáo, người Tày kh uyên con cháu làm
điều thiện, ở hiền gặp lành. Trong dân tộc Tày có một số người làm nghề thầy
cúng. Họ được người Tày gọi là “cần tha lùng” - người mắt sáng, có khả năng
nhìn thấy thần thánh, ma quỷ. Thầy cúng có một đội âm binh và có phép trị được
tà ma, quỷ quái.
3.8. Lễ hội
Trên cơ sở tin vào đa thần
giáo, người Tày có một số
lễ hội khá nổi tiếng trong
vùng. Tuy nhiên, lễ hội ấn
tượng nhất đối với người
dân là lễ hội ‘lồng tồng” lễ hội cầu mùa, có nhiều
trò vui, trò diễn hấp dẫn
nhất, được dân làng tham
gia đông vui nhất.
3.9. Văn nghệ dân gian
Người Tày có một kho
tàng văn nghệ dân gian phong
Lễ hội lồng tồng của người Tày (Ảnh sưu tầm)
phú về thể loại, đa dạng về
hình thức thể hiện. Đó là kho tàng truyện thần thoại, cổ tích, các làn điệu dân ca.
Tuy nhiên, trong kho tàng văn nghệ dân gian đó, nổi tiếng và tiêu biểu cho vốn
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 14 | 21
TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC TÀY | Hoàng Trần
văn nghệ Tày là: lượn và then. Lượn là làn điệu dân mang nét đặc trưng của
người Tày. Trong không gian hội, người Tày sống rất gần gũi với người Nùng,
mỗi dân tộc có một làn điệu dân ca riêng. Dân ca Nùng là sli, còn dân ca Tày là
lượn. Làn điệu lượn được sử dụng nhiều trong hát giao duyên giữa nam n ữ thanh
niên trong các dịp gặp nhau ở chợ phiên, trong đám cưới, trong những ngày hội
xuân... Lượn cũng được sử dụng để bày tỏ tình cảm mến khách khi có khách đến
nhà, uống rượu vui vẻ. Lượn được sáng tác tức thì tại chỗ trong các cuộc vui
uống rượu. Lúc đó không chỉ thanh niên cất lời hát lượn, mà cả người trung niên
cũng say sưa hát. Then là một loại hình văn nghệ dân gian được cả hai dân tộc
Tày và Nùng đều ưa thích. Có thể nói then là làn điệu dân ca của cả hai dân tộc
Tày và Nùng. Nếu lượn chỉ có lời hát cùng làn điệu, thì then, không chỉ có lời với
làn điệu riêng, mà còn có âm nhạc, với nhạc cụ là cây tính và bộ nhạc sóc ; có hoá
trang thể hiện ở y phục người hành nghề then; có diễn xuất, thể hiện ở điệu múa
chầu.
3.10.
Già đình, dòng họ
Mỗi ngôi nhà là nơi cư trú của một gia đình. Gia đình người Tày là gia đình phụ
hệ nhỏ. Trong gia đình, con cái sinh ra được tính theo dòng họ của bố. Con trai
nối dõi tông đường, được thừa kế bất động sản do cha mẹ để lại, con gái đi lấy
chồng chỉ được của hồi môn. Con trai có trách nhiệm thờ cúng tổ tiên, làm giỗ
chạp và chăm sóc mồ mả tổ tiên.
Gia đình người Tày là gia đình phụ quyền. Trong gia đình , người bố có quyền
hành lớn giải quyết mọi công việc liên quan đến sản xuất, cưới xin; trong xử lý
quan hệ cộng đồng, quan hệ xóm giềng. Sau ông bố, người con trai cả cũng có
quyền hành tương tự. Giữa các thành viên trong gia đình, quan hệ cơ bản là bình
đẳng, cùng lao động, cùng hưởng thụ thành quả lao độn g làm ra. Con gái lớn,
trước tuổi lấy chồng, thường được bố mẹ cho gây một số vốn riêng từ việc trồng
bông, dệt vải,... Quan hệ tiếp xúc bố chồng, anh chồng và con dâu, em dâu không
cách biệt như người Nùng. Việc phân chia tài sản được thực hiện theo nguyên tắc
chia cho tất cả con trai và bố mẹ, trong đó phần chia cho con trai cả và cho bố mẹ
thường nhiều hơn các phần kia một chút. Ngoài việc các con trai nhận phần tài
sản (chủ yếu nói về mộng đất) của mình, ai nuôi bố mẹ khi còn sống và làm các
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 15 | 21
TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC TÀY | Hoàng Trần
thủ tục cho bố mẹ khi bố mẹ ra đi thì được hưởng phần ruộng của bố mẹ. Thông
thường con trai nhận phần ruộng của bố mẹ.
Người Tày có nhiều dòng họ: Hoàng, Hà, Lê, Trần, Nguyễn, , Đỗ, Phan,... Sự đa
dạng tên họ của người Tày, có sự giao lưu, hôn nhân, cư trú xen kẽ của người Tày
với các dân tộc Nùng, Kinh, Hoa. Một số gia đình , hoặc một số cá thể người các
dân tộc Nùng, Kinh, Hoa sinh sống lâu ngày cùng người Tày, bị Tày hóa về tiếng
nói, phong tục, tập quán thành người Tày hiện nay, nhưng vẫn giữ tên họ. Điển
hình họ của người Kinh còn được giữ lại là họ Nguyễn, họ Ma trong hệ thống tên
họ của người Tày. Trong quan hệ họ hàng người Tày, có nét tương tự như người
Kinh, cụ thể con chi trên, con bác dù ít tuổi, nhưng vẫn là anh là chị, còn con chi
dưới, con chú dù nhiều tuổi vẫn là em. Điểm này cũng hoàn toàn khác người
Nùng. Đối với người Nùng, dù là con chú hay con bác, nhưng “ai thấy trời trước,
người ấy là anh (chị)”.
3.11.
Tục lệ cưới xin
Người Tày cũng như nhiều dân
tộc khác ở nước ta, thực hiện chế
độ hôn nhân ngoại hôn dòng tộc.
Những người thuộc một dòng tộc
cùng huyết thống, theo phong tục
bị nghiêm cấm quan hệ hôn nhân
với nhau. Vi phạm phong tục này
là phạm tội loạn luân, bị dư luận
cộng đồng lên án mạnh mẽ, coi
thường về nhân cách.
Người Tày theo chế độ hôn nhân
một vợ, một chồng bền vững, tập
quán dân tộc chỉ cho phép người
đàn ông lấy một vợ. Tuy nhiên
trong thực tiễn xã hội, đâu đó cũng
có thể bắt gặp những trường hợp
Lễ cưới của người Tày (Ảnh sưu tầm)
hai vợ, nhưng đó không phải chuyện bình thường mà là những trường hợp có lí do
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 16 | 21
TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC TÀY | Hoàng Trần
khác nhau như vợ cả không có con, hoặc không có con trai để nối dõi tông đường.
Những trường hợp như vậy, khi lấy vợ lẻ cũng hoàn toàn công khai sòng phẳng
trước gia đình, họ hàng và thường là người vợ cả đứng ra đi hỏi, lo liệu việc cưới
vợ lẽ cho chồng.
Theo tập quán dân tộc Tày, cha mẹ không chỉ nuôi con lớn, dạy con ngoan, mà
còn có trách nhiệm dựng vợ, gả chồng cho con cái. Chính vì vậy, khi con trai, con
gái ở tuổi mới dậy thì cha mẹ đã ngắm dựng vợ, gả chồng cho con cái, sao cho
xứng đôi về hình thức, hợp nhau về tính tình và môn đăng hộ đối về quan hệ gia
đình. Đến độ tuổi 16 - 17 thường tiến hành lập gia đình cho con.
Con trai, con gái vào tuổi dậy thì đã có ý thức để ý, tìm hiểu người bạn đời cho
mình. Trong lao động sản xuất, trong các dịp hội hè, tết nhất, đình đám, các ngày
chợ là những cơ hội để trai, gái gặp nhau, trò chuyện, hát lượn tỏ tình, thổ lộ tâm
tư, tình cảm với nhau. Tuy nhiên để đi đến hôn nhân, không chỉ có sự yêu nhau
của đôi trai gái, mà còn cần hai điều kiện rất quan trọng n ữa là sự đồng ý của bố
mẹ và sự tương hợp của số mệnh.
Hôn nhân bao giờ cũng có các thủ tục theo phong tục dân tộc. Một điểm mấu chốt
của thủ tục dẫn tới hôn nhân là làm lễ “khả cáy”, tương tự như lễ đính hôn của
người Kinh. Từ lễ “khả cáy” đến lễ cưới, thông thường là một năm sau. Trong
thời gian này, hai gia đình coi như thông gia của nhau, đi lại với nhau, sẻ chia
niềm vui, nỗi buồn với nhau. Trong đám cưới, nhà trai chịu chi phí cơ bản của
tiệc cưới như: thịt lợn, gạo liếp, gạo tẻ, rượu. Ngoài ra trong thách cưới, nhà gái
còn yêu cầu nhà trai chi cho một khoản tiền để nhà gái mua sắm quần áo, chăn,
màn, chiếu, tư trang cho con gái đem theo khi đi làm dâu và một số đồ dùng khác
như hòm đựng quần áo, nồi, chậu, kiềng, cuốc,... Nét đặc trưng của đám cưới là
tách ma nhà cô dâu ra khỏi người cô dâu và nhập phần tâm linh của cô dâu vào tố
tiên nhà chồng, để tổ tiên của nhà chồng quản lý. Công việc này đối với người
Tày được thực hiện vào thời điểm khi cô dâu bước qua ngưỡng cửa vào nhà
chồng. Người ta đặt một số công cụ sản xuất như: chiếc cày, chiếc cuốc. Những
công cụ này được đặt ở thế chênh vênh ngay cạnh cửa vào gầm sàn hoặc chân cầu
thang lên nhà. Cô dâu đến trước cửa, dừng chân giây lát bên cạnh công cụ sản
xuất, rồi chân khẽ chạm vào công cụ sản xuất đặt sẵn đó. Công cụ sản xuất đổ, cô
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 17 | 21
TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC TÀY | Hoàng Trần
dâu nhanh chân bước qua ngưỡng cửa đi vào nhà chồng. Theo quan niệm dân
gian, khi cô dâu dừng chân cạnh công cụ sản xuất, con ma nhà cô dâu ngắm nhìn
công cụ đó, việc cô dâu khẽ chạm chân vào công cụ sản xuất làm chúng đổ làm
cho con ma nhà cô dâu đi theo cô dâu đang ngắm nhìn công cụ đó cũng bị “ngã”,
do vậy khi cô dâu nhanh chân bước qua ngưỡng cửa làm con ma nhà cô dâu
không theo kịp cô dâu, một bức "tường thép” đã ngăn cản không cho ma nhà cô
dâu vào nhà chồng cô dâu nữa. Bằng động tác này, người Tày đã tách được ma
nhà cô dâu ra khỏi cô dâu. Sau đó cô dâu trình lạy gia tiên và từ đó linh hồn cô
dâu do ma nhà chồng quản lý. Từ giây phút đó, cô dâu thuộc về nhà chồng không
chỉ phần con người, mà cả phần linh hồn.
3.12.
Tập quán tang ma
Người Tày tin người còn sống có phần xác và có vía. Khi người chết, phần xác sẽ
bị huỷ hoại, còn vía sẽ biến thành hồn - linh hồn. Do vậy, cũng như nhiều dân tộc
khác, người Tày tiến hành làm ma cho người chết. Mục đích của lễ tang là đưa
xác đi chôn và tiễn linh hồn về với tổ tiên. Nghi lễ này được tiến hành một cách
nghiêm túc, chu đáo, đưa người quá cố về nơi an nghỉ cuối cùng.
Người Tày có tập quán, khi trong nhà có người già, tuy vẫn khoẻ mạnh nhưng con
cháu luôn có ý thức chuẩn bị hậu sự cho người già.
Khi có người qua đời. người Tày thường làm một số việc cơ bản như sau: tắm rửa
nước thơm cho người chết, đón thầy tào về chủ trì đám tang, liệm, nhập quan, hội
phe làm nhà bao, đào huyệt, thầy cúng làm lễ dọn đường cho vong đi, tế “ngựa”,
tế cây “tiền”,... Trong số những việc liên quan đến tang lễ, có một số việc thể
hiện nét riêng của người Tày như: đi đón thầy tào về chủ trì đám tang, những việc
mà hội phe làm trong một đám tang, tế giao của cải cho linh hồn người chết và
việc làm sau chôn cất người chết.
Đón thầy tào về chủ trì đám tang. Khi gia đình có người vừa tắt thở, người nhà cử
người đi mời và đón thầy tào về chủ trì tang lễ. Người nhà có người chết cầm nén
hương đến nhà thầy tào, trình bày lý do đón mời thầy đến gia đình chủ trì tang lễ.
Nếu thầy tào nhận lời thì thắp hương lên bàn thờ. Thông thường các thầy tào
được mời đi chủ trì tang lễ thì phải đi, vì nếu không đi thì ma to sư phạt nặng, trừ
trường hợp bận việc cúng bái ở nơi khác. Khi đi chủ trì tang lễ, thầy tào thường
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 18 | 21
TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC TÀY | Hoàng Trần
gọi thêm 4 học trò - lục slay cùng đi. Các lục slay có nhiệm vụ giúp việc cho thầy
đồng thời cũng là cơ hội để thầy tào truyền nghề cho lục slay. Việc đón thây tào
về chủ trì tang lễ cũng có cách khác nhau. Có nơi, đích thân con trai trưởng phải
đi mời đón thầy. Khi đi mang theo một con gà trống nhỏ, một ống gạo. Nếu thầy
nhận lời thì mổ gà cầu khấn. Nếu thầy không nhận lời thì tiếp tục đi tìm thầy
khác, không được quay về nhà khi chưa tìm được thầy về chủ trì đám tang. Ở nơi
khác lại có tục, khi đi mời thầy cúng, người con trai trưởng đội lên đầu một chiếc
rế nồi hay một vòng dây rừng. Đến nhà thầy, thầy nhìn thấy, hiểu ngay là đón đi
chủ trì đám tang. Thầy nhận lời thì thầy lấy dây chuối khô bện thành dây, buộc
ngang thắt lưng người con trai đến đón.
Những việc mà hội phe quy định phải làm cho gia đình tang chủ là toàn bộ việc
liên quan đến cuộc sống thường ngày như: kiếm củi đóm, xay giã gạo, gánh nước
cho cả gia đình và khách đi lại dùng. Hàng ngày phân công người nấu cơm cho
gia chủ ăn, nấu cơm phục vụ cho các thầy cúng. Nếu gia đình có máng nước dẫn
về tận nhà thì lo theo dõi máng nước; nếu máng nước hỏng phải sửa chữa kịp
thời; Phe còn lo chống đỡ nhà, vì nhà sàn bình thường chứa được vài ba chục
người, khi có tang, hàng trăm người lên nhà sàn, nhà sàn lúc đó không chịu nổi,
phải được chống từ dưới gầm sàn lên để đảm bảo an loàn khi làm tang lễ. Hội phe
còn phải làm lam - khung khiêng quan tài, làm lườn bao - nhà chụp xuống quan
tài khi quan tài được khiêng trên đường đi ra huyệt; đảo huyệt, lấp huyệt. Nhìn
chung, khi gia đình có tang thì mọi việc nhà từ việc đời thường hàng ngày cho
đến việc liên quan đến tang ma đều do hội phe đảm nhiệm. Tuy làm nhiều việc
như vậy, nhưng hội phe hàng ngày đều về nhà ăn cơm. Ngoài ra, hội phe còn
đóng góp cho tang chủ một chai rượu và một cân gạo. Hội phe có kỷ cương rất
chặt chẽ. Hễ có việc tang, mỗi gia đình thành viên hội phe phải cử một người
tham gia công việc và chịu sự phân công của trưởng phe. Không chấp nhận một lý
do từ chối hay trì hoãn nào. Ai không tuân thủ kỷ cương thì bị đuổi khỏi hội.
Tế giao của cải cho người chết: Người chết, nhưng linh hồn vẫn sống ở thế giới
bên kia, cho nên theo phong tục, người Tày có tục tế giao của cải cho người chết.
Lễ tế này được thực hiện vào buổi tối cuối cùng trước khi đưa tang. Buổi tế lễ
được mở đầu bằng việc tế con ngựa của bên ngoại giao cho người chết để làm
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 19 | 21
TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC TÀY | Hoàng Trần
phương tiện đi lại và chở hàng, mà con cháu sẽ giao cho. Sau khi tế con ngựa bên
ngoại là đến lượt tế cây tiền của các con gái, cháu gái. Việc làm cây tiền là do
chủ nhà phân công sau khi nhập quan tài cho người chết. Con gái. cháu gái làm
cây tiền đến tế thường có lễ vật là con lợn khoảng 30kg móc hàm và mang theo
thầy cúng. Nghi lễ tế cây tiền thường có hát lượn đối đáp giữa thầy cúng cây tiền
và thầy cúng chủ tang. Cuộc hát này có nội dung con gái thương tiếc thân sinh ra
mình, kể công lao thân sinh đã vất vả nuôi dưỡng, dạy bảo mình nên người. Cuộc
hát này có thể kéo dài trung bình là tiếng rưỡi, nhưng nếu không có thì giờ thì có
thể rút ngắn lại trong vòng nửa tiếng cho một cây tiền.
Sau mai táng, còn cần làm một số việc: Tại nhà ở, người ta lập bàn thờ riêng cho
người chết, bàn thờ này thường đặt gần nơi người chết vẫn ngủ. Hàng ngày cơm
cúng cho người chết hai bữa cho đến khi hết tang (100 ngày). Trong thời gian để
tang, con cái phải thường xuyên đeo khăn tang trắng trên đầu, phải kiêng một số
việc như: trong ngày tết năm mới không được đến nhà khác chơi, thăm hỏi, không
dự cưới xin, không làm nhà mới, không giao du bản mường, không săn bắn, kiêng
chuyện phòng the, kiêng làm bún, ăn bún, kiêng ăn quả nhãn,...
Sau ba ngày chôn cất, người Tày làm lễ mở cửa mộ để báo cho sơn thần biết và
thu nạp linh hồn người chết, đồng thời còn chuyện tu sửa lại mộ phần: lợp mái
mộ, rào xung quanh mộ. Lễ này gia đình tự làm, có thầy cúng hoặc đệ tử của thầy
tào đến cúng.
Cúng 40 ngày: Lễ cúng này có ý nghĩa bớt tang cho những người thuộc diện để
tang ngắn, cúng cho linh hồn được siêu thoát. Lần cúng này linh hồn người chết
nhập vào thầy cúng, nói với con cháu những điều dặn dò rất cảm động. Lúc này,
linh hồn người chết đã vượt qua đến ngục thứ 7 trong thập điện Diêm vương.
Cúng 100 ngày: Sau 100 ngày mất, gia đình tổ chức cúng 100 ngày cho linh hồn
người chết, cầu mong mọi người trong gia đình được an toàn, khoẻ mạnh. Lúc
này, linh hồn đang ở cửa ngục số 8.
Cúng oóc khuổp - cúng giỗ một năm - gio đầu: Đúng một năm sau ngày mất, gia
đình chuấn bị xôi, gà, rượu cúng linh hồn người chết.
Cúng oóc tang - cúng mãn tang - cúng gio ba năm: Sau giỗ ba năm, linh hồn
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 20 | 21
TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC TÀY | Hoàng Trần
người chết được chuyển lên bàn thờ tổ tiên. Người Tày quan niệm, lúc này đã qua
thử thách ở dưới địa ngục, đã qua hết địa thứ 10 của Thập điện Diêm vương, nay
đã chính thức được lên trời để đầu thai trở lại kiếp người. Sau đó, cứ đúng ngày
mất, người ta lại tổ chức làm giỗ để tưởng nhớ người chết.
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 21 | 21