TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC RAGLAI | Hoàng Trần
TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC RAGLAI
MỤC LỤC:
1.
Vài Nét Về Dân Tộc Raglai ................................................................................................... 2
2.
Kinh tế truyền thống ............................................................................................................. 2
3.
2.1.
Trồng trọt.......................................................................................................................... 2
2.2.
Chăn nuôi ......................................................................................................................... 4
2.3.
Khai thác tự nhiên ............................................................................................................ 4
2.4.
Ngành nghề thủ công........................................................................................................ 5
2.5.
Trao đổi, mua bán............................................................................................................. 5
Văn hoá truyền thống ............................................................................................................ 6
3.1.
Làng .................................................................................................................................. 6
3.2.
Nhà ở ................................................................................................................................ 7
3.3.
Y phục, trang sức ............................................................................................................. 7
3.4.
Ẩm thực ............................................................................................................................ 8
3.5.
Phương tiện vận chuyển ................................................................................................. 11
3.6.
Ngôn ngữ ........................................................................................................................ 11
3.7.
Tín ngưỡng tôn giáo ....................................................................................................... 11
3.8.
Lễ hội.............................................................................................................................. 12
3.9.
Gia đình, dòng họ ........................................................................................................... 12
3.10.
Tục lệ cưới xin ............................................................................................................ 13
3.11.
Tập quán tang ma ....................................................................................................... 14
3.12.
Văn nghệ dân gian ...................................................................................................... 15
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 1 | 16
TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC RAGLAI | Hoàng Trần
1.
Vài Nét Về Dân Tộc Raglai
Dân số : 122.245 người (2009)
Ngôn Ngữ:thuộc ngữ hệ Nam Đảo (Mã Lai-Polynesia).
Tên gọi khác: Radlai, Ranglai, Roglai
Nhóm địa phương: Rai, Hoang, La Oang
Địa bàn cư trú:Ninh Thuận, Khánh Hòa, Bình Thuận,
Lâm Đồng
Địa Bàn Cư Trú
Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, người Ra Glai ở Việt Nam có dân
số 122.245 người, có mặt tại 18 trên tổng số 63 tỉnh, thành phố. Người Ra Glai cư
trú tập trung tại các tỉnh: Ninh Thuận (58.911 người, chiếm 48,2% tổng số người
Ra Glai tại Việt Nam), Khánh Hòa (45.915 người, chiếm 37,6% tổng số người Ra
Glai tại Việt Nam), Bình Thuận (15.440 người) và Lâm Đồng (1.517 người)
2. Kinh tế truyền thống
2.1. Trồng trọt
Đồng bào Raglai trồng trọt trên
nương rẫy là chính. Một số nơi có
làm ruộng nước, nhưng ít vì có
những kiêng kỵ. Rẫy của đồng bào
được khai phá ở trên núi, trên bờ
sông, bờ suối và chia thành hai loại:
Krạ và Apo. Cách phân loại rẫy này
hoàn toàn phụ thuộc vào địa hình,
thế đất.
Krạ là rẫy được khai khẩn ở trên đất
dọc bờ sông, suối. Loại đất này có
đặc điểm là không có cây to, chỉ có những bụi rậm và cỏ dại các loại, cho nên việc canh
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 2 | 16
TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC RAGLAI | Hoàng Trần
tác tương đối dễ dàng: rẫy cỏ, đốt cỏ, chọc lồ, tra hạt, nhưng lại thường bị ngập nước vào
mùa mưa lũ tháng 9, tháng 10 hàng năm. Để thu hoạch vụ gieo trông trước mùa mưa lũ,
nước sông, nước suôi dâng cao ngập rẩy, người ta chỉ trồng ngô, xen canh với một số cây
rau xanh như: đậu, bâu, bí. Việc canh tác cây lúa không được thực hiện trên loại rẫy krạ
này.
Apo là loại rẫy được khai khẩn trên đất các sườn núi, sườn đồi, chân núi, nơi không bị lũ
lụt đe doạ. Đây là rẫy chính của đồng bào. Ở apô đồng bào canh tác được tất các các loại
cây trồng như lúa, ngô, các loại cây rau xanh: bầu, bí, đậu, các loại cây ăn trái.
Ngoài nương, đồng bào Raglai còn làm vườn ở quanh nhà. Trên vườn người Raglai
thường trồng thuốc lá, trầu, dứa, và một vài loại rau xanh.
Công việc trồng trọt trên nương rẫy được bắt đầu bằng việc chọn đất làm rẫy. Đất chọn
làm rẫy thường là đất có rừng già, rừng rậm, cây cối xanh tốt đồng thời không xa nhà ở
lắm để tiện đi lại lúc ngày mưa tiện bảo vệ khỏi sự phá hại của thú rừng. Một nét mang
tính đặc trưng trong việc chọn rẫy của người Raglai là từng gia đình phải chú ý đến vị trí
của gia đình mình trong thôn, từ đó xác định hướng chọn đất làm rẫy cho phù hợp, nghĩa
là mỗi xóm ở trong làng sẽ chọn đất làm rẫy về một phía của làng, để gặp nhau khi trên
đường đi làm, cũng như khi thu hoạch mùa màng về, đi chéo đường nhau. Sau khi chọn
được đất làm rẫy người Raglai dùng rựa phát quang một khoảng nhỏ, rồi cắm một cành
cây xác định quyền sở hữu. Tiếp theo là những đêm hồi hộp theo dõi nếu mơ điềm lành
hay mơ điềm gở. Nếu mơ thấy điềm gở như: mơ thấy vắt cắt cỏ gianh, người mang lúa,
chuối, thấy đi tiêu... thì họ không dùng nương ở đấy nữa. Nếu nằm mơ thấy điềm tốt như
đi đào khoai,... thì họ sẽ tiến hành các khâu phát tiếp, khai phá thành rẫy. Khi phát rẫy,
đồng bào kiêng không phát cây trầm và cây đa, vì đó là nơi cư ngụ của jàng Gahou và
jàng Visnu. Làm rẫy thì phải đốt cây nhỏ, cây bụi Nhưng chọn thời điểm cũng rất quan
trọng. Đốt rẫy phải cháy hết mới là tốt. Đốt rẫy mà không cháy hết cũng được coi là điềm
gở.
Cây trồng chính của người Raglai là cây lúa, cây ngô. Người ta thường trồng xen ngô với
lúa hoặc ngô với đậu. Không xen canh lúa với đậu. Rẫy trồng ngô với đậu, có thể gieo
cùng một lui vào một hố, còn rẫy trồng ngô với lúa thì gieo ngô trước, khi ngô mọt được
vài lá non thì mới chọc lỗ gieo lúa. Khi gieo trồng, người đàn ông đi trước chọc lỗ, người
đàn bà đi theo gieo hạt; còn thu hoạch thì được coi là phần việc của đàn bà.
Một rẫy thường canh tác được khoảng 3-4 năm thì bạc màu, khi đó người ta không trồng
lúa, ngô nữa, mà chuyển sang trồng sắn và thu hoạch các loại cây ăn quả đã trồng từ
những năm trước. Khi đất rẫy đã quá cằn cỗi, người ta thường bỏ hoá để cho rừng tái
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 3 | 16
TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC RAGLAI | Hoàng Trần
sinh, gọi là panô. Panô vẫn thuộc quyền sở hữu cùa người khai thác trước đó. Sau này,
rừng tái sinh phát triển, đất trở lại màu mỡ, người chủ cũ có quyền khai thác bình thường.
Nếu khi chủ cũ không có nhu cầu khai thác, người trong thôn có thể khai thác, nhưng
phải thoả thuận với chù cũ và được chủ cũ đồng ý.
Sau này, ở một số địa phương, đồng bào Raglai còn canh tác lúa nước, nhưng năng suất
thấp. Canh tác lúa nước trong đồng bào Raglai có một số tập quán kiêng kỵ, làm ảnh
hưởng đến sự phát triển ruộng nước. Đồng bào kiêng, không được giã hai loại lúa: lúa
ruộng và lúa nương trong một cối, không được nấu gạo lúa nước và gạo lúa nương trong
một nồi. Theo quan niệm của đồng bào sử dụng lẫn lộn là làm đảo lộn trật tự vốn có của
tạo hóa cho nên dẫn đến mầm mống của các tai họa: ốm đau, điên loạn, cọp bắt. Từ quan
niệm như vậy, cho nên đồng bào Raglai chưa chú ý đến việc làm thuỷ lợi cho lúa nước
lắm, mặc dù họ rất sáng tạo trong việc dùng sức nước để làm giàn đá kêu giữ rẫy
2.2. Chăn nuôi
Chăn nuôi ở người Raglai tương đối phát triển. Đồng bào nuôi trâu, lợn, gà, vịt,... trong
từng gia đình. Gia súc trong gia đình được coi như là một tài sản có giá trị kinh tế, có thể
đem ra trao đối hoặc mua bán đế lấy các sản phẩm khác như cồng, chiêng, ché.
2.3. Khai thác tự nhiên
Săn bắn và hái lượm giữ vai trò quan trọng trong đời sống của các cư dân sinh sống trong
kinh tế tự túc, tự cấp. Săn bắn có hai hình thức: săn cá nhân và săn tập thể. Săn cá nhân
chủ yếu là săn rình, đánh bẫy; còn săn tập thể chủ yếu là săn đuổi, bố trí xạ thủ đón
đường con thú đi qua, hạ thủ chủng bằng súng, bằng tên tẩm thuốc độc. Theo quan niệm
cùa nhiều dân tộc sinh sống ở miền núi, trong đó có dân tộc Raglai, thú rừng là quà tặng
cùa thiên nhiên, cho nên khi săn được con thú, người ta không chỉ chia cho người đi săn,
mà còn chia cho cả dân làng đó. Tuy nhiên phần người đi săn lúc nào cũng được nhiều
hơn, do họ có công đi săn.
Sinh sống trong rừng, người Raglai tận dụng khai thác lâm thổ sản đổ sử dụng làm lương
thực, thực phẩm. Những lâm sản thường được thu hái là nấm hương, mộc nhĩ,măng tre,
hoa quả, rau rừng các loại, củi đun hàng ngày, gỗ làm nhà ở, làm chuồng trại gia súc,
nước uống,v.v. Các loại lâm thổ sản này, ai thu hái được người ấy dùng.
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 4 | 16
TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC RAGLAI | Hoàng Trần
2.4. Ngành nghề thủ công
Nghề thủ công trong các làng người Raglai
tương đối ít phát triển, chỉ có nghề rèn và
nghề đan lát mây tre. Rèn và đan lát là
nghề thủ công đơn giản, không cần chuyên
môn cao, do đó hầu như người đàn ông nào
cũng biết rèn và đan lát những sản phẩm
thông thường cho gia đình Nguyên liệu để
rèn thường được mua hoặc trao đổi với
người Kinh, người Chăm. Còn nguyên liệu
để đan lát là các loại mây, tre sẵn có ở trên
rừng, mất công sức đi lên rừng lấy, không
Nghề đan lát của người Raglai
phải mất tiền mua. Đồng bào làm nghề thủ
công trong lúc nông nhàn và những sản phẩm của nghề rèn được được sử dụng trong gia
đình, còn sản phẩm của nghề đan lát thủ công, ngoài việc sử dụng theo nhu cầu gia đình
còn được đem bán, trao đổi.
2.5. Trao đổi, mua bán
Người Raglai, tuy sống bằng kinh tế tự túc, tự cấp, nhưng họ vẫn phải tham gia vào các
hoạt động trao đổi, mua bán. Những mặt hàng mà đồng bào thường mua là sắt cho nghề
rèn, vải vóc để làm quàn áo mộc, muối ăn, cá khô. Những sản phẩm quý giá như cồng
chiêng, ché, họ phải đổi bằng trâu hoặc bán trâu lấy tiền mua. Người Raglai cũng có một
mặt hàng nông sản, thủ công bán ra thị trường. Hàng nông sản chủ yếu là mật ong, nấm
hương, mộc nhĩ, măng rừng,...
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 5 | 16
TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC RAGLAI | Hoàng Trần
3. Văn hoá truyền thống
3.1. Làng
Làng - pley là đơn vị cư trú của
người Raglai. Trước khi dựng
làng, việc chọn đất là việc quan
trọng. Để chọn đất dựng làng,
người ta thành lập một “Hội đồng
bô lão”. Hội đồng bao gồm những
người có kinli nghiệm, hiểu biết
phong tục, tập quán và các kiêng
kỵ của dân tộc. Hội đồng tiến hành
chọn đất dựng làng bằng cách đến
nơi định dựng làng chôn bảy hạt thóc xuống dưới mặt đất một cách ngay ngắn. Bảy ngày
sau, nhẹ nhàng bới xem bảy hạt thóc đó có bị xáo trộn vị trí hay không. Nếu có hạt thóc
bị thay đổi vị trí, hoặc mất hẳn thì đó là đất xấu, không dựng làng được, buộc phải đi
chọn đất ở nơi khác.
Mỗi làng chiếm một vùng đất riêng, trong đó có đất làm nhà ở, lùm rẫy và đất chung cho
cả bản. Đất chung đó là đất rừng, khúc suối sử dụng chung cho cả hản để khai khẩn rẫy
mới, đổ thu hái lâm thổ sản, đánh bắt cá. Cư trú trong rừng, nhưng làng của người Raglai
cũng có ranh giới rõ ràng. Ranh giới đó không có văn bản quy định, nhưng được mọi
người dân làng biết rõ và nghiêm chỉnh tuân thủ. Ranh giới đó có thể là một con đường,
một dòng sông, một gốc cây cổ thụ. Vi phạm ranh giới đó: người làng này đến vùng đất
làng khác thu hái lâm sản, đánh băt cá, thả trâu, hái củi,... thì bị dân làng lên án, dư luận
phản đối, coi thường người có hành vi vi phạm.
Làng có tên gọi. Tên làng thường được gọi theo tên dòng sông, con suối hoặc ngọn núi,
nơi dựng làng.
Đứng đầu làng là một vị chủ làng- Pô pley. Pô pley không phải là vị già làng hay người
có thế lực ở trong làng, mà là người đến khai phá dựng làng đầu tiên. Hội đồng được
thành lập không phải do dân suy tôn hầu ra, nhưng được dân làng tín nhiệm. Họ không có
đặc quyền, đặc lợi gì, mà chỉ có quyền duy nhất và quan trọng nhất là thay mặt dân làng
thực hiện nghi lễ tế sinh trời đất khi bị hạn hán, bệnh dịch do thần linh - jang trừng phạt,
hoặc khi trong làng có loạn luân.
Bên cạnh chủ làng - pô pley, trong làng người Raglai còn có người hành nghề thầy cúng.
Thầy cúng có thể là nam hoặc nữ, tự nhận có khả năng giao tiếp với thần linh. Họ chữa
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 6 | 16
TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC RAGLAI | Hoàng Trần
bệnh cho dân làng bằng ma thuật và kết hợp với một số bài thuốc dân gian. Thầy thuốc
được hưởng một số lễ vật cúng khi hành nghề cúng bái chữa bệnh. Thầy cúng không do
cha truyền con nối và cũng không thuộc dòng họ nào, tuy nhiên họ được người dân vị nể.
Mồi làng có nhiều dòng họ cùng sinh sống và thường có quan hệ hôn nhân với nhau.
3.2. Nhà ở
Nhà ở của người Raglai chủ yếu là nhà
sàn. Có một số ít nhà đất. Nhà sàn của
người Raglai được làm bằng vật liệu là
gỗ, tre, mây lây ở rừng tại chồ. Nhà cao
hơn mặt đất khoảng 1m. Phần lớn nhà sàn
đều là nhà nhỏ. Thông thường những
ngôi nhà của người Raglai là nhà hình
vuông, có diện tích khoảng 12 - 16m2.
Kỹ thuật làm nhà thô sơ, tận dụng những
cây tự nhiên hoặc dùng dây mây để buộc,
chưa có hình thức tạo ngoãm cho cây hay dùng kỳ thuật đục, ghép mộng. Mãi về sau này
có một số trường hợp sử dụng kỹ thuật cưa, đục, ghép mộng để làm nhà.
Mái nhà thường được lợp bằng cỏ gianh hoặc lá mây. Vách thường làm bằng tre đan, có
nơi làm vách đất. Bố trí trong nhà khá đơn giàn, bên phải cửa ra vào chính - pak là bếp patau li ká; bên trái là chỗ ngủ dọc theo vách nhà là chỗ để ché, gùi,...
Người Raglai làm nhà kho để chứa lúa, ngô.
Nhà kho cũng là nhu sàn nhưng sàn nhà kho
cao hơn sàn nhà ở. Nhà kho có bình diện hình
vuông, các cột đều được làm để chống chuột
leo lên ăn thóc, ngô.
Một loại nhà khác được làm trên rẫy để coi
rẫy, xua đuổi thú rìrng đến phá hại mùa màng.
Đó là chòi. Chòi được dựng rất cao đế có Ilió
quan sát rộng khắp rẫy. Chòi thường làm nhỏ,
chỉ đủ một, hai người ngAi coi rẫy.
3.3. Y phục, trang sức
Hiện nay rất ít thông tin về y phục cổ truyền,
vì vậy các nghiên cứu dân tộc học, văn
Trang phục lên nương của người Raglai
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 7 | 16
TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC RAGLAI | Hoàng Trần
hoá học không viết nhiều về trang phục dân tộc Raglai. Thông tin hiện nay về trang phục
Raglai viết đại đc thông thường đàn ông mặc đồ âu phục, đàn bà mặc váy, áo bà ba như
người Chăm.
3.4. Ẩm thực
Bà con Raglai chủ yếu trồng lúa rẫy nhưng năng suất không cao. Hạt gạo từ lúa
rẫy thường to và cứng hơn so với gạo từ lúa nước nên khi nấu cơm, họ phải đổ nhiều
nước hơn. Do thường xuyên thiếu gạo, bà con Raglai nấu cơm độn với các loại hạt, củ
khác như bắp, đậu, khoai mì (hu buơi kayau), khoai chạp (hu buơi balang), khoai sáp (hu
buơi ra lin), khoai từ, khoai mài (củ mài). Khoai, sắn được gọt vỏ, cắt thành khúc, đem
luộc hoặc giã nhuyễn làm bánh, nấu cháo hoặc cắt thành từng lát mỏng, phơi khô để ăn
lâu dài, cũng có thể để cả lát khô luộc ăn hoặc giã thành bột làm bánh. Đáng lưu ý là
người Raglai thường dùng dao để thái, cắt, gọt ngược tay giống như người châu Âu.
Người Raglai cũng thường dùng
một số loại khoai rừng có độc tố:
Củ nằn (akăk da ning), củ do, củ
lakai, đào lên, gọt vỏ, thái thành
lát mỏng, ngâm nước 2,3 ngày, xả
nước nhiều lần để khử bớt chất
độc, rửa sạch, đem luộc ăn hoặc
phơi khô cất ăn dần. Nếu bị ngộ
độc, cho uống nước dây máu
(chamalek) để giải độc.Hạt cây
luăk, cây kăt, cây kuh, cây săng
Bữa ăn cỗ của người Raglai (Ảnh sưu tầm)
đem giã bỏ lớp vỏ, luộc bỏ một nước,
luộc lần 2 mới ăn. Có thể ăn ngay hoặc phơi khô nấu với bắp.
Vỏ cây la pá (lapah), cạo sạch lớp vỏ ngoài, cắt thành miếng, luộc xả nước rồi luộc lần 2,
có thể thái mỏng ăn hoặc băm nhỏ nấu với bắp.Quả sung: có thể ăn sống hoặc băm nhỏ
nấu với bắp.
Ngoài ra, người Raglai còn ăn các loại hoa quả rừng: quả thị (boh makia), trái da đá (boh
djau), quả xay (boh djuai), mằn tăn (boh tăh), trái nâu (boh jamau)...
Mía lau (tabau krang), loại mía người Raglai trồng ở những vạt đất cạnh các bờ suối, để
ăn cả cây hoặc làm đường theo phương thức cổ truyền: róc vỏ, dát mỏng nấu cho ra chất
đường rồi cô lại vào chén, dùng để nấu chè như người Chăm.
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 8 | 16
TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC RAGLAI | Hoàng Trần
Canh là món thường thấy trong bữa ăn của người Raglai. Canh được chế biến từ các loại
rau, bầu, bí, đu đủ, mít hoặc ngọn bầu, ngọn bí, sung và các loại lá cây rừng như lá bép,
lá klăn, lá ô chao, lá paranhau, các loại măng, nấm.
Thông thường có 3 loại canh:
Canh lỏng (ia bai): Nấu bằng các loại rau, quả, và để có vị ngọt, bỏ thêm lá hoặc bột lá
paranhau. Lá paranhau vừa ngọt vừa thơm, phơi khô giã nhỏ và được coi như một loại
bột ngọt.
Canh đặc (ia bai pai): Nấu như canh lỏng nhưng bỏ thêm bột bắp hoặc gạo, nấu đặc sền
sệt, có thể ăn thay cơm, cháo.
Canh chua (ra bai ma sap): Ngâm gạo một đêm, đem giã với lá bép rồi vo thành viên,
dùng lá chuối ủ 3 ngày đêm cho lên men. Loại này có thể xâu thành từng xâu treo trên
giàn bếp, khi dùng giã thành bột cho vào nồi canh tăng thêm chất chua.
Ngoài ra, còn có các loại canh như lá khoai mì non, lá đu đủ, luộc lên, giã nhuyễn với
muối rồi nấu thành canh.
Ngoài ra còn có các món ăn từ cá, thịt :
Vùng đồng bào Raglai sinh sống chỉ có cá nước ngọt bắt từ suối. Cá được chế biến bằng
cách kho, nướng, nấu canh, làm mắm. Cách làm cá là mổ bỏ ruột, rửa sạch kho với muối
ớt hoặc nướng cả con trên bếp than. Nếu để dự trữ, họ phơi khô, treo lên giàn bếp để
nướng hoặc nấu canh ăn dần.
Người Raglai thường săn bắt nhộng kiến đỏ (boh hadămtathao) để nấu cháo hoặc nấu
canh. Các loại trăn, rắn, tắc kè, kỳ đà hoặc các loài bò sát khác thường chế biến bằng
cách bỏ đầu, lột da, chặt thành khúc nướng hoặc băm kho muối ớt hay nấu canh rau. Các
loại thú rừng khác cũng được chế biến như trên.
Các loại mối cánh (kalaup), thường xuất hiện vào mùa mưa ở các gò mối, được rang lên
cho rụng cánh rồi kho hoặc nấu canh.
Các loại ếch, ễnh ương, nhái khi bắt về được mổ bỏ ruột, trụng nước sôi cho sạch nhớt,
có thể luộc, kho, nấu canh hoặc nướng nguyên con. Nếu bắt được nhiều, họ xỏ xâu treo
trên giàn bếp.
Sống ở rừng núi, xưa kia người Raglai thường săn bắt thú rừng rất giỏi. Những món ăn
từ thịt thú rừng rất ngon.
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 9 | 16
TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC RAGLAI | Hoàng Trần
Con cúi lúi (anu) hình dáng như con chuột cống ở hang, ăn măng, rễ cây, rất béo, người
Raglai xem như con heo đất, thịt rất ngon, ăn thịt, ăn cả bộ lòng lẫn phân.
Đây là món ăn độc đáo của người Raglai, họ thui con vật rồi cạo sạch lông, ngoài thịt
được cắt thành từng miếng lớn hoặc băm nhỏ để kho hay nấu canh, họ nướng nguyên cả
bộ lòng chấm muối ớt ăn rất thơm. Ngoài thịt, phân con lúi cúi (anu), theo người Raglai
còn là một loại thuốc chữa nhiều chứng bệnh, làm giảm đau nhức mình mẩy, sây sẩm mặt
mày... Có dòng tộc còn dùng con cúi lúi làm vật hiến sinh trong lễ tế thần lúa (bbak padai
bu rau). Trong lễ hiến sinh, họ luộc nguyên cả con, sau đó xắt miếng chấm muối ớt. Ở
vùng đồng bào Raglai sinh sống có loại ớt núi rất thơm, trái ớt khi còn xanh thơm hơn khi
ớt đã chín.
Con mẻn (djuah) làm thịt, lột da, phần da họ dùng làm mặt trống (sagar), bộ lòng làm
sạch, chấm muối, nước luộc thịt dùng nấu canh rau. Phần thịt cắt miếng kho muối ớt hoặc
xiên nướng. Nếu có nhiều thịt mẻn, họ xẻ phơi khô để dành ăn lâu dài. Thịt khô chỉ dùng
nấu canh. Cách nấu canh thịt khô của họ khác tộc người Chăm là không thái nhỏ mà chỉ
để nguyên miếng to vào nồi canh, khi chín họ vớt ra, xé nhỏ giã với muối ớt. Phần
xương, đầu họ hầm với bầu, bí hay đu đủ, còn xương cũng phơi khô để dành ăn dần.Nai
rừng (ru sa) làm thịt, xẻ da ra từng miếng thui cho sạch lông, đem phơi khô. Khi ăn luộc
nhừ rồi cắt thành miếng nấu canh với cá khô hoặc muối ớt. Có một cách chế biến khác là
xẻ thịt thành những miếng nhỏ, kho với muối ớt, cũng có thể luộc hoặc nướng. Nước luộc
thịt nấu canh, thịt xắt miếng chấm muối ớt. Nếu nhiều họ phơi khô cả thịt lẫn xương để
dành nấu canh rau hay hầm đu đủ, măng, mít.
Heo rừng (pa buai glai) còn gọi là ul keh, họ thui nguyên con, cạo sạch lông, làm sạch bộ
lòng rồi luộc, nước luộc để nấu canh (lỏng, đặc, chua) tùy thích, phần thịt họ xẻ cả da lẫn
thịt cắt nhỏ kho muối ớt, phần xương có thể hầm với đu đủ, mít, bí, bầu. Nếu có nhiều
thịt thì đem phơi khô ăn dần. Thịt heo rừng khô họ thường nấu canh, ăn rất ngon.
Ngày nay, thú rừng ngày càng trở nên hiếm hoi và việc săn bắt thú rừng đã bị cấm, người
Raglai hiện nay chủ yếu ăn các món thịt từ chăn nuôi như heo, bò, gà, vịt, ngan... cách
chế biến ảnh hưởng nhiều của người Chăm và người Kinh, chủ yếu là nướng nguyên con
hoặc làm thịt rồi xiên nướng, luộc chấm muối ớt hoặc nấu với các loại rau hoặc lá cây
như lá đu đủ, lá bép, sả...
Thịt trâu, bò (ku bu ơi, kruk) chế biến chủ yếu là xiên nướng, luộc, nấu canh hoặc phơi
khô ăn dần. Thịt trâu, bò khô nấu canh rau, món ăn đơn giản nhưng rất ngon, nhất là thịt
và da vừa nhai nghe trèo trẹo mặc dù bụng đói như cào thế mà không dám nuốt, vì sợ
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 10 | 16
TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC RAGLAI | Hoàng Trần
trôi mất cái ngon. Ngoài việc dùng thịt khô ăn với các món cơm, canh, cháo trong các
bữa ăn hàng ngày, họ còn dùng thịt chế biến với các loại bánh để ăn xen kẽ.
3.5. Phương tiện vận chuyển
Cũng như các dân tộc khác, người Raglai sử dụng gùi như công cụ vận chuyển hàng hóa
thông dụng.
3.6. Ngôn ngữ
Tiếng nói: của dân tộc Raglai thuộc hệ ngôn ngữ Nam Đảo, nhóm ngôn ngữ Malayo Polinesia. Trong nhóm ngôn ngữ này có tiếng nói của các dân tộc Chăm, Ê Đê, Chu Ru,
cư trú cùng một địa vực với người Raglm
Chữ viết: Người Raglai chưa có chừ viết riêng của dân tộc mình Tuy nhiên họ cũng đã sử
dụng chừ viết từ thế kỷ XX. Chừ viết mà đồng bào Raglai sử dụng là bộ chữ cái Latinh.
Từ cuối thế kỷ XX, ở vùng người Raglai đã có trường học, trẻ em được đến trường để
học chữ, luyện tiếng phổ thông và học văn hoá.
3.7. Tín ngưỡng tôn giáo
Người Raglai tin vào đa thần, coi vạn vật hữu linh, mọi vật đều có phần xác và phần hồn
- linh hồn. Núi, sông, trời, đất đều có linh hồn, nhưng người trần mắt thịt không nhìn thấy
được. Tất cả các linh hồn sinh vật và của vật vô tri, vô giác được gọi bằng một thuật ngữ
chung là jàng tồn tại xung quanh chúng ta, nhưng vượt ra ngoài khả năng hiểu biết của
chúng ta. Các jàng đều vô hình, nhưng được người Raglai đặt cho nó những cái tên khác
nhau: thần núi - jàng chớ, thần rừng - jàng giai, thần lúa - jang pơ ưay, không gian sinh
sống của con ngưởi cùng là không gian tồn tại của thần linh. Do đó mọi hành động của
con người đều tác động đến thần linh. Những hành vi vi phạm đến thần linh đều bị thần
linh trừng phạt.
Sống giữa rừng núi, tiếp xúc với nhiều loài thú dữ, người Raglai còn tin có sự linh hoá
một số loài như sư tử, cọp, rắn,... , và tránh gọi tên các vật linh đó, mà gọi chúng bằng
một cái tên kính nể.
Một lực lượng siêu nhiên gây nhiều sợ hãi nhất đối với người Raglai là vong linh, gọi là
nhang vàng. Vong linh người chết phảng phất khắp nơi, từ trong nhà, ngoài rẫy, đến bìa
rừng, bờ suối. Nhang vàng luôn tìm cách quấy phá cuộc sống yên lành của người dân, mà
không hề có một cấm kỵ rõ ràng để người dân biết cách ứng xử với chúng.
Từ những năm 40, 50 của thế kỷ XX, đạo Thiên Chúa và Tin Lành đã xâm nhập vào
vùng dân tộc Raglai. Người phương Tây đã có nhiều cố gắng phát huy ảnh hưởng của tôn
giáo thế giới này trong dân tộc Raglai, nhưng không đạt kết quả như mong muốn.
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 11 | 16
TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC RAGLAI | Hoàng Trần
3.8. Lễ hội
Người Raglai cũng như nhiều dân tộc
ở Tây Nguyên khác, coi lễ bỏ mả
người là một dịp vui của anh em họ
hàng và thậm chí cả làng dân tộc
Raglai. Bởi họ quan niệm rằng, làm lễ
bỏ mả là để linh hồn siêu thoát lên
trời, từ đó tiếp tục kiếp luân hồi, đầu
thai trở lại kiếp người. Trong lễ bỏ
mả, người Raglai thường tập trung họ
hàng, người làng tại mộ để làm nhà
mồ, làm tượng nhà mồ. Suốt thời gian
làm nhà mồ mọi người ăn uống tại mồ.
Lễ ăn lúa mới của dân tộc Raglai
Người Raglai còn tố chức lễ cúng thu
hoạch, cúng thần lúa sau mỗi vụ thu hoạch. Những nghi lễ này mang tính cộng đồng cao,
thể hiện truyền thống tương thân tương ái của những người anh em họ hàng và những
người trong làng.
3.9. Gia đình, dòng họ
Gia đình người Raglai tổ chức theo kiểu gia đình mẫu hệ. Con cái sinh ra được tính theo
dòng mẹ, là dòng dõi của họ mẹ. Trong gia đình có hai hoặc ba thế hệ cùng chung sống
dưới một mái nhà. Nếu là gia đình ba thế hệ thì gồm cha mẹ, những cặp vợ chồng và
những con cái của họ. Người mẹ điều hành công việc và quản lý tài sản, cả gia đình cùng
làm chung một hoặc hai mảnh rẫy, thu hoạch chung, cùng cất giữ sản phẩm thu hoạch
được vào một kho lương thực, cùng ăn chung. Phải chăng, đây là tàn dư khá rõ nét về
một hình ảnh của một đại gia đình mẫu hê, đã từng tồn tại trong xã hội mẫu hệ của người
Raglai. Loại hình gia đình này vừa dựa trên quan hệ huyết thống - máu mủ, vừa dựa trên
quan hệ kinh tế. Tuy nhiên, từ giữa thế kỷ XX trở lại đây, loại gia đình ba thế hệ như trên
cũng không mang tính phổ biến.
Một loại gia đình khác là gia đình hai thế hệ, bao gồm cha mẹ và con cái, có kinh tế phụ
riêng đóng góp vào kho chung của gia đình lớn. Gia đình có một bếp chung bên cạnh
những bếp riêng. Trong nhà ở, ngoài khu vực tiếp khách, đồng thời là nơi ngủ của bố mẹ
và những người con chưa lập gia đình, phần còn lại đã được ngăn ra thành từng buồng
riêng cho từng cập vợ chồng với những bếp phụ riêng. Những cặp vợ chồng này dần dần
tách ra thành những gia đình nhỏ. Trong thời gian chuẩn bị khai thác một mảnh rẫy
riêng, các gia đình này có thế lấy lương thực từ kho chung mà họ đã đóng góp vào.
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 12 | 16
TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC RAGLAI | Hoàng Trần
Loại gia đình nhỏ với nền kinh tế riêng, được tổ chức như sau: Khi một người con gái lấy
chồng vẫn ở chung cùng bố mẹ, cho đến khi cô em lập gia đình khi đó cô gái đầu sẽ làm
nhà ra ở riêng ngay cạnh nhà cha mọ hay tại một nơi nào đó trong làng thuận tiện cho sản
xuất. Việc chuân bị cho kinh tế của gia đình riêng này, được thực hiện một phần từ thời
còn ở chung. Khi đang ở chung, ngoài phần đóng góp vào kho chung, họ tự tích trữ riêng
một phần để đổi lấy những thứ cần thiết như: nồi, ché, vái vóc, gia súc.
Về quyền thừa kế tài sản gia đình, theo phong tục, người con gái út được quyền thừa
hưởng phần lớn tài sản do cha mẹ để lại; phần còn lại được chia cho các chị gái. Phong
tục cũng quy định việc phân chia tài sản các trường hợp “đứt gánh giữa đường”. Trường
hợp chồng chết, tài sản được chia làm ba phàn: phần thứ nhất là phần lớn dành cho vợ
con; phần thứ hai chia cho người chết làm đồ tùy táng, trong đó trích ra một phần làm lễ
bỏ mả. Đồ tuỳ táng là những vật quý báu như: ché, chiêng, nồi đồng,... thì đập vỡ rồi để
trên mộ; phần thứ ba là phần nhỏ chia cho họ hàng người quá cố và người em gái út hoặc
cháu gái út được thừa hưởng. Người được nhận phần thừa kế này phải mang đến cúng
cho người chết một con lợn ba gang tay (tính theo vòng cổ con vật) hoặc hơn.
Trường hợp vợ chết, ngoài phần tài sản làm đồ tuỳ táng, tất cả phần còn lại đều được chia
cho các con và chồng. Nếu chồng của người phụ nữ đã quá cố tái hôn với một người đàn
bà khác, mà không có quan hệ máu mủ với người vợ quá cố, thì tài sản hoàn toàn thuộc
về các con. Người cha ra đi chỉ được mang theo tư trang như: nỏ, quần áo. Nếu con còn
nhỏ thì em hoặc chị gái cúa vợ quá cố quản lý, nuôi chúng cho đến lớn
Trường hợp ông bà ngoại đã mất. Trường hợp chỉ có con trai thì con trai út được hường
tài sản và khi lập gia đình, ông mai - người cậu hoặc anh trai sẽ thuyết phục cô gái để cô
dâu về ở bên nhà chồng.
Người Raglai có nhiều họ - Pité khác nhau như: Chama Lẻ, Pinăng, Catơ, Pa Tau Axá, Pu
Pôrơ. Mỗi họ lại chia làm nhiều chi, như họ Pinăng chia làm 4 chi là: Pinăng Aco Chờ
Rài, Pinăng Atư, Pirtăng; họ Catơ có 3 chi là: Catơ Poa, Catơ Thê, Catơ À li .Mỗi họ
hoặc mỗi chi đều có truyền thuyết liên quan. Phần lớn các họ người Raglai đều mang tên
thực vật, như: họ Chamalé là tên một loại “dây máu”, có nhựa đỏ như máu, dùng để
buộc;
3.10.
Tục lệ cưới xin
Người Raglai thực hiện hôn nhân ngoại hôn dòng tộc. Người Raglai nghiêm cấm quan hệ
hôn nhân giữa con dì với con già, vì theo chế độ mẫu hệ, họ là những người có quan hệ
huyết thống máu mủ với nhau ngăn cấm những người cùng chi họ (theo mẫu hệ) với
nhau. Đồng thời cũng ngăn cấm việc kết hôn giữa con riêng của vợ với con riêng cuả
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 13 | 16
TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC RAGLAI | Hoàng Trần
chồng. Trường hợp hôn nhân với người khác họ, nhưng có cơ sở để tính thế hệ, thì cũng
nghiêm cấm kết hôn giữa những người không cùng thế hệ trong mọi trường hợp.
Những cuộc hôn nhân giữa người trong cùng một dòng họ bị phạt tội loạn luân - ari agáp.
Ari agáp là một tội nặng vì làm đảo lộn trật tự và sẽ bị thần linh trừng phạt cả làng bằng
hạn hán, dịch bệnh, đói kóm. Do đó phải làm lễ tế ari. Lễ tế sinh ari do pô paley hay pô
laga, pô chrì làm chủ lễ. Ông ta xoá điềm xấu bằng cách cắt tiết con vật hiển sinh thu máu
chảy trên mương nước. Trong lễ này, người ta còn làm một chuồng heo cho đôi trai, gái
phạm tội chui vào và ăn trong máng như heo. Bị phạt ăn trong máng heo, có hai trường
hợp xảy ra: trường hợp phạt xong sau đó đôi trai gái được ăn ở với nhau và trường hợp
phạt rồi, sau đó đôi trai gái không được ăn ở với nhau. Trường hợp phạt rồi, mà sau đó
đôi trai, gái không được ăn ở với nhau thì chuồng heo làm hai cửa, trong chuồng làm hai
máng. Đôi trai, gái bị phạt phải ăn riêng mỗi người người một máng và chui ra khỏi
chuồng heo mỗi người một cửa. Trường hợp sau khi phạt, đôi trai, gái vẫn được ăn ở với
nhau thì chuồng heo làm một cửa ra vào và một máng ăn, nhưng phải cúng thần linh một
con trâu, một con heo và một cặp gà.
Hôn nhân của người Raglai là hôn nhân một vợ một chồng bền vừng. Sau hôn nhân
người chồng sang cư trú bên nhà vợ. Tập quán này là hệ quả của tổ chức xã hội theo chế
độ mẫu hệ. Trường hợp gia đình không có con gái, có thể thỏa thuận cưới vợ cho con trai,
thuyết phục nhà gái cho vợ chồng mới về cư trú bên nhà chồng, nhưng vợ về cư trú bên
nhà chồng ít khi xảy ra.
3.11.
Tập quán tang ma
Khi gia đỉnh có người hấp hối, người ta báo cho mọi người thân thuộc biết. Nếu là người
chồng thì việc báo tin cho họ hàng bên nhà chồng biết còn hệ trọng hơn, vì người chồng
khi sống thì ở nhà vợ, nhưng khi chết lại phải đưa về bên mẹ chôn. Người chết được bó
trong vải hoặc quần áo tuỳ theo mức độ giàu, nghèo của gia đình. Nếu nhà người chết
được bó trong vải, còn người nhà nghèo chết thường bó băng quần áo. Người Raglai làm
quan tài bằng gồ độc mộc. Cây gồ được khoét lồng bên trong cho phù hợp với thi thể. Gỗ
làm quan tài cũng được chọn theo khả năng kinh tế từng gia đình. Nhà giàu thường chọn
gỗ tốt, cứng, bền lâu như căm xe, giáng hương làm quan tài cho người chết; còn người
nghèo thì làm quan tài bằng vỏ cây gáo, vỏ cây ké - pơley. Người chế thường được chôn
trên rẫy hoặc trong rùng. Sau một thời gian khoảng từ một đến ba năm người ta làm lễ bỏ
mả, mới thôi chăm sóc mộ.
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 14 | 16
TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC RAGLAI | Hoàng Trần
Lễ bỏ mả được tiến hành như nhiều
dân tộc khác ở Tây Nguyên, tức là
người ta cũng làm các tượng gỗ để
phục vụ cho linh hồn người chết sau
khi người thân thôi chăm sóc mả. Lễ
bỏ mả thường thực hiện vào nông
nhàn, sau khi đã thu hoạch vụ mùa.
Trường hợp chết tai nạn, chết đường,
chết chợ, thì người ta tổ chức lễ
“nhang vàng”, tức cúng vong hồn của
người đã khuất.
Lễ bỏ mả của người Raglai (Ảnh sưu tầm)
3.12.
Văn nghệ dân gian
Dân tộc Raglai có một vốn văn nghệ
dân gian phong phú, đặc săc. Sinh hoạt
văn nghệ diễn ra một cách vui nhộn
trong các dịp lễ hội, các lễ mang tính
cộng đồng. Mọi người dân đều có thể
tham dự vào các điệu múa, điệu hát vần.
Trong điều kiện chưa có chữ viết, người
Raglai có nhiều truyện kể bằng văn vần
được lưu truyền lại dưới dạng truyền
miệng. Những truyện thần thoại, truyện
cổ tích của người Raglai thường liên
quan đến sức mạnh của người thần kỳ, đến
Một điệu múa của người Raglai
sức sáng tạo của người dân, lien quan lịch
sử dân tộc. Truyện cổ không chi có gía trị nghệ thuật, mà còn có ý nghĩa giáo dục đạo
đức, nhân văn sâu sắc. Các làn điệu dân ca có làn điệu alảu - nói lý, hát đối đáp, xú ri hát than, sa ngơi - một làn điệu hát tiếp thu từ người Chơ Ro. Ngoài ra còn nhiều câu ca
dao, tục ngừ, thành ngữ phản ánh luân lý, đạo đức, tâm lý, lối sống của người Raglai.
Nhạc cụ là nét văn nghệ nổi bật nhất của người Raglai. Hầu như mọi hoạt động văn nghệ
đều gắn với chiêng. Bất cứ buổi lễ nào, chiêng đều được sử dụng để phụ hoạ cho tiếng
hát, lời kể, điệu múa. Có nhiều nơi, chiêng được sử dụng cùng với một chiếc trống da nai.
Bộ chiêng của người Raglai có 12 chiếc, nhưng khi sử dụng trong đời thường chỉ dùng,
bốn, sáu hoặc chín chiếc. Trong đám tang có một nghi thức múa cho người quá cố theo
nhịp của bộ chiêng 7 chiếc. Ngoài ra, người Raglai còn có nhiều nhạc cụ khác như: kèn
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 15 | 16
TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC RAGLAI | Hoàng Trần
bầu - saraken, kèn môi - có hai lọai ralik và ahoắt, đàn ống tre - chá phi. Các loại nhạc cụ
này cũng được sử dụng rộng rãi trong các nghi lễ và sinh hoạt cộng đồng khác.
Đặc biệt, có khá nhiều tài liệu viết về đàn đá, trong đó có đàn đá tìm được ở huyện Khánh
Sơn, tỉnh Khánh Hoà là liên quan đến dân tộc Raglai.
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 16 | 16