Tải bản đầy đủ (.pdf) (17 trang)

Tổng quan dân tộc Pu Péo (PDF,Word)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.18 MB, 17 trang )

TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC PU PÉO | Hoàng Trần

TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC PU PÉO

MỤC LỤC:
1.

Vài Nét Về Dân Tộc Pu Péo .................................................................................................. 2

2.

Kinh tế truyền thống ............................................................................................................. 2

3.

2.1.

Trồng trọt.......................................................................................................................... 2

2.2.

Chăn nuôi ......................................................................................................................... 3

2.3.

Khai thác tự nhiên ............................................................................................................ 4

2.4.

Ngành nghề thủ công........................................................................................................ 4


2.5.

Trao đổi, mua bán............................................................................................................. 4

Văn hoá truyền thống ............................................................................................................ 5
3.1.

Làng .................................................................................................................................. 5

3.2.

Nhà ở ................................................................................................................................ 5

3.3.

Y phục, trang sức ............................................................................................................. 6

3.4.

Ẩm thực ............................................................................................................................ 8

3.5.

Phương tiện vận chuyển ................................................................................................... 9

3.6.

Ngôn ngữ .......................................................................................................................... 9

3.7.


Tín ngưỡng tôn giáo ......................................................................................................... 9

3.8.

Lễ hội.............................................................................................................................. 10

3.9.

Gia đình, dòng họ ........................................................................................................... 11

3.10.

Tục lệ cưới xin ............................................................................................................ 12

3.11.

Tập quán tang ma ....................................................................................................... 15

3.12.

Văn nghệ dân gian ...................................................................................................... 15

N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 1 | 17


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC PU PÉO | Hoàng Trần

1. Vài Nét Về Dân Tộc Pu Péo


Dân số : 687 người (2009)
Ngôn Ngữ: thuộc nhóm ngôn ngữ Ka Đai. Người
Pu Péo nói giỏi tiếng Hmông, Quan Hỏa
Tên gọi khác: La Quả, Pen ti Lô Lô
Nhóm địa phương:
Địa bàn cư trú:Hà Giang, Tuyên Quang, Tp.Hồ
Chí Minh, Đồng Nai

Địa Bàn Cư Trú
Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, người Pu Péo ở Việt Nam có dân số
687 người, có mặt tại 20 trên tổng số 63 tỉnh, thành phố. Người Pu Péo cư trú tập
trung tại các tỉnh: Hà Giang (580 người, chiếm 84,4% tổng số người Pu Péo tại
Việt Nam), Tuyên Quang (48 người), thành phố Hồ Chí Minh (15 người), Đồng
Nai (11 người)

2. Kinh tế truyền thống
2.1. Trồng trọt
Nguồn sống chính của đồng bào Pu Péo là nương và ruộng bậc thang. Giữa vùng núi đá cao nguyên đá Đồng Văn, nhiều dân tộc sinh sống ở nơi này đã chọn hình thức canh tác
là nương rẫy, còn người Pu Péo lại gồng mình khai khẩn đất đai làm ruộng bậc thang, có
thể điều này nói lên truyền thống làm ruộng của dân tộc Pu Péo trong lịch sử.

N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 2 | 17


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC PU PÉO | Hoàng Trần

Cây trồng chính là cây lúa,
cây ngô, mạch ba góc, đậu
răng ngựa Cây lúa được trồng
ở dưới ruộng, có giống lúa

nếp (piê ná), giống lúa lề (piê
là). Sau vụ lúa, ở ruộng
thường được trồng thêm vụ
mạch ba gỏi Ngô và lúa
nương được trồng ở trên
nương. Giống ngô cũng có hai
loại ngô nếp - toòng hủ ná và
ngô tẻ - hủ là.
Ngoài ra, họ còn trồng dong riềng, rau cải, dưa chuột, hành, tỏi. ớt...; các cây ăn quả: đào,
lê, mận. Từ những thập kỉ trước, đồng bào trồng thêm các cây mới như su hào, bắp cải,
và các loại câv dược liệu như xuyên khung, huyền sâm, tam thất.
Kỹ thuật trồng trọt của người Pu Péo khá phát triển. Đồng bào dùng sức kéo con trâu, bò
để làm đất; chọn thời vụ sản xuất dựa vào sự đâm chồi, nảy lộc của cây hoang dại rụng lá
vào mùa đông; dùng phân bón và phân chuồng cho cây trồng: cây lương thực, cây thực
phẩm; thực hiện thâm canh, xen canh, gối vụ cho các cây trồng trên các loại nương khác
nhau một cách hợp lý, đạt hiệu quả.
2.2. Chăn nuôi
Người Pu Péo coi trọng chăn nuôi
gia súc, gia cầm. Trong tất cả các
gia đình đều chăn nuôi trâu (pạ
cài), bò (pạ nu), ngựa (pạ riê), lựu
(mnhn), gà (pạ cáy), vịt (pạ cạt),
ngan (pạ cạt cưa), ngỗng (pạ han),
mèo (pạ meo), dê (soọc)... Đồng
bào nuôi gia súc gia cầm phục vụ
sản xuất: kéo cày, đồng thời kết
hợp với việc cúng bái trong các dịp
cúng bái, tế lễ. Sau tế lễ là ăn
thịtnhững con vật hiến sinh đó. Gia
súc, gia cầm cũng dùng để bán ở các

chợ phiên trong vùng.

Chăn nuôi trâu bò (Ảnh minh họa)

N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 3 | 17


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC PU PÉO | Hoàng Trần

Người Pu Péo chăn nuôi theo cách chăn thả, tuy nhiên từng gia đình đều làm chuồng gia
súc gia cầm chắc chắn để nhốt chúng vào lum liêm. Ngoài việc chăn thả, nhiều khi đồng
bào còn phải chăn dắt trâu, bò; cắt thêm cỏ cho trâu hò ăn.
2.3. Khai thác tự nhiên
Dân tộc Pu Péo sống ở trên cao nguyên đá Đồng Văn, đã thu hái các loại lâm sản trên cao
nguyên như sa nhân, thảo quả, sam pết, ú tảu. Do nhu cầu cần đất sản xuất, cây rừng bị
chặt trụi, cho nên lâm sản, một loại cây sản vật sống “tầm gửi” trong rừng núi đá cũng ít
dần, tuy nhiên những sản vật thu hái trên núi đá lại có nét độc đáo là có ít trên núi đất,
cho nên nó vẫn có giá trị nhất định đối với cuộc sống của đồng bào.
2.4. Ngành nghề thủ công
Người Pu Péo có một số ngành thủ
công. Đàn ông biết nghề mộc, tự
làm nhà ở và những đồ gỗ gia dụng.
Từ nửa sau của thế kỷ trước, một số
gia đình làm thêm nghề gạch, ngói
máng. Sản phẩm gạch ngói của họ
đã đáp ứng một phần nhu cầu ngói
lợp nhà ở thị trấn Phó Bảng và một
số xã lân cận.
Thông rõ nghề mộc nên có thể tự làm nhà
2.5. Trao đỏ i, mua bán

Kinh tế truyền thống của người Pu Péo cũng như bao dân tộc khác là kinh tế tự túc, tự
cấp. Tuy nhiên đồng bào cũng tham gia họp chợ cùng các dân tộc Mông, Dao, Nùng, Tày
trong vùng. Họ thường họp chợ Phó Hàng, Phó Cáo, Lũng Phin, Đồng Văn, Sà Phin,
Mèo Vạc, Yên Minh. Người Pu Péo thường đem ra chợ bán: ngô hạt, mạch ba góc, đậu
tương; gia súc, gia cầm như: trâu, bò, lợn, gà, chó; các loại rau xanh: rau cải, đậu Hà Lan,
cà chua, bí đỏ; các loại quả: lê, mận, đào; các loại lâm sản: mộc nhĩ, nấm hương... Đồng
bào Pu Péo thường mua ở chợ những mặt hàng thiết yếu cho gia đình: muối, dầu thắp,
kim khâu, chỉ thêu, vải mộc làm quần áo, đồ làm đẹp cho chị em.

N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 4 | 17


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC PU PÉO | Hoàng Trần

3. Văn hoá truyền thống
3.1. Làng
Người Pu Péo, do dân số ít, cho
nên cư trú thành làng riêng, nhỏ,
hoặc cư trú thành từng xóm nhỏ
xen kẽ trong các làng cùng dân
tộc Mông ở huyện Đồng Văn tỉnh
Hà Giang. Tên làng của người Pu
Péo được đặt theo ba ngôn ngữ
khác nhau: theo tiếng Quan hỏa,
theo tiếng Kinh và theo tiếng Pu
Péo... Tên làng theo tiếng Quan
Hỏa như: Củng Chả, Chồ Chà
Ván (xã Phó Là, huyện Đồng Văn); tên làng theo tiếng Kinh như: Dông Nhìn (xã Dông
Minh, huyện Yên Minh), Hiến Xuân (xã Yên Cường, huyện Bắc Mê); tên làng đặt theo
tiếng Pu Péo như: Mơ Diên (Cúng Chá), Mơ Nè (Trống Chải), Mơ Nê (xã Phó Là), Mơ

Pươn (huyện Đồng Văn). Mỗi làng người Pu Péo có khoảng 4 - 5 nóc nhà và những tập
quán riêng của dân tộc chỉ thể hiện chủ yếu trong sinh hoạt cộng đồng.
Người Pu Péo chọn đất dựng bản thường là những chân núi, lộ khoảng không gian rộng
trước làng để làm ruộng bậc thang hoặc nương Họ quan niệm nơi dựng bản phải là nơi có
các ngọn núi hướng về khu đất nơi sẽ dựng bản. Mỗi bản có địa giới riêng. Mốc phân
chia ranh giới bản thường là ngọn núi, cây cổ thụ hoặc lối mòn... Cư dân trong bản
thường là những người có quan hệ huyết thống nhưng cũng có cả các mối quan hệ thông
gia và quan hệ láng giềng.
3.2. Nhà ở
Người Pu Péo xưa kia ở nhà sàn.
Theo các cụ già kể lại, nhiều cụ già
còn nhớ, thời cách đây vài chục
năm, khi còn trẻ có cụ còn sinh sống
trên nhà sàn. Nhà sàn được làm
bằng gỗ lấy từ trên núi đá cho nên
rất chăc chắn, tồn tại hàng trăm năm
mà vẫn chưa hỏng, về sau này do
người đông dân lên, cần khai phá
rừng để làm nương trồng cây lương
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 5 | 17


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC PU PÉO | Hoàng Trần

thực, cho nên rừng ngày càng ít đi, không còn những cây gỗ quý để làm nhà, đồng bào
dần dần chuyển sang làm nhà đất, ở nhà đất ngày càng phổ biến rộng rãi. Hiện nay, người
Pu Péo ở nhà đất như người Mông, người Hoa cùng cư trú trong vùng. Nguyên vật liệu
làm nhà chủ yếu là gỗ làm cột, tre làm mái. Nhà chình tường đất, với độ dày khoảng 40 50cm bằng tre chẻ nhỏ. Tường dầy có tác dụng chống rét. Nhà hai mái lợp ngói máng
hoặc cỏ gianh. Nhà ở của người Pu Péo có ba gian hoặc bốn gian, không chái, một cửa ra
vào, ít cửa sổ. Cách bố trí trong nhà được quy định chặt chẽ. Bàn thờ, chỗ ngủ của các

thành viên nam, nữ và bếp được đặt ở những chỗ nhất định. Một điều cần chú ý đối với
việc bố trí bên trong ngôi nhà người Pu Péo là có hai bàn thờ: bàn thờ thiên địa - bàn thờ
bếp lò và bàn thờ tổ tiên. Bàn thờ thiên địa đặt chính giữa nhà, còn bàn thờ tổ tiên đặt ở
một góc kín trong nhà. Ngôi nhà rất đặc biệt của người Pu Péo là ngôi nhà của ông Củng
Tờ Ding Ngôi nhà được xây bằng đá từ nhiều thập niên trước, ở ngay chân núi sau chợ
Phó Bảng. Ngôi nhà được xây theo hình vuông, bên trong ngôi nhà ngăn thành các buồng
dựa vào tường cho các gia đình nhỏ, ở giữa sân rộng sử dụng chung.
3.3. Y phục, trang sức
Trang phục cũa người Pu Péo được làm bằng vải bông. Đồng bào tự sản xuất ra vải từ
khâu trồng bông, kéo sợi. dệt vải, nhuộm, cắt may thành quần áo. Y phục của nam giới
Pu Péo có kiểu dáng tương tự như y phục của nam giới các dân tộc khác ở miền núi trong
vùng; còn y phục của phụ nữ thì có sự
khác biệt, thể hiện ở bộ y phục của họ.
Bộ y phục gồm khăn đội đầu, áo, váy,
tạp dề, xà cạp.
Chiếc khăn đội đầu - pưoi tô của chị em
là khăn hình vuông, có chiều dài mỗi
cạnh khoảng 70cm, khi đội khăn thì gấp
khăn theo đường chéo, đặt mép gấp đó
lên chân tóc trên trán, toàn phần khăn
còn lại trùm xuống phía sau, thắt khăn ở
sau gáy. Trước đây có nền vải đen, trên
đó ghép nhiều mảnh vải nhỏ màu đỏ,
xanh, trắng được cắt với nhiều kích cỡ
và hình thù khác nhau: hình vuông, hình chữ nhật, hình tam giác. Diện tích trang trí trên
khăn băng và tổng thể diện tích của khăn, tạo nên tổng thể hoa văn hài hoà sặc sỡ. Sau
này chị em có chiều hướng dùng khăn nhiều màu vải dệt bằng kỹ thuật công nghiệp.

N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 6 | 17



TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC PU PÉO | Hoàng Trần

Chị em phụ nữ hay mặc áo ngắn, màu đen hay chàm, chiều dài của áo chỉ đủ trùm qua
vùng thắt lưng. Áo xẻ dưới cổ, mở chéo sang nách phải. Song song với mép xẻ từ dưới cổ
sang nách phải của chiếc áo là những đường viền sặc sỡ màu đỏ, vàng. Trên cánh tay áo
cũng trang trí những dải hoa văn tương tự, tạo thành ba hay bốn khoanh tròn quanh ống
tay áo. Ống tay áo cũng đắp hai miếng vải có màu xanh, đỏ để trang trí. Hiện nay loại áo
này được cắt may bằng vải công nghiệp mua ở chợ.
Trước đây, chị em hay mặc chiếc áo dài bên ngoài chiếc áo ngắn. Áo dài xỏ ngực, nhưng
không làm cúc cài. Gấu và cổ áo được đáp bằng miếng vải nhỏ khác màu. Những miếng
vải nhỏ này được ghép, xếp thành hình tam giác, hình vuông, hình quả trám, cổ tay áo
cũng viền những khoanh vai khác màu.
Váy của chị em phụ nữ Pu Péo có nhiều nét đặc sắc: chiều dài váy khoảng 75 - 80cm, đến
mắt cá chân và cạp váy rộng, khoảng 115 - 120cm. Gấu váy xoè rộng từ 369 - 380cm.
Hoa văn trang trí trên váy chỉ được thực hiện ở gấu váy với kỹ thuật cắt ghép vải màu
xanh, đỏ, vàng, tạo thành đường viền sặc sỡ, sáng sủa trên nền váy màu đen. Trong việc
làm một chiếc váy, trang trí chân váy là khâu tổn công và phức tạp nhất với nhiều miếng
vải màu: xanh, đỏ, trắng, vàng; với các hình tam giác - hựt, hình chữ nhật, hình thoi lổm, có kích cỡ khác nhau, ghép lại với nhau tạo thành hoa văn chân váy sặc sỡ, mang
nét đặc trưng cho dân tộc Pu Péo. Chân váy rộng khoảng 6 - 8cm.
Chị em phụ nữ Pu Péo dùng tạp dề, đeo ở phía trước và sau. Tạp dề được đeo ngoài váy,
vừa che cho váy khỏi bị bẩn, bị cào rách, nhưng đồng thời cũng có giá trị trang trí làm
duyên, làm đẹp cho bộ trang phục. Màu của tạp dề thường là màu xanh lá chân trời,
không trang trí hoa văn. Chiều dài của tạp dề ngắn hơn váy, khi mặc tạp dề vẫn để lộ rõ
toàn bộ chân váy.
Xà cạp của người Pu Péo là miếng vải mộc có màu trắng hay đen xanh, có hình tam giác,
giống như tạp dề của các dân tộc Mông, Cờ Lao, Giáy cùng cư trú trong vùng.
Y phục thầy cúng - coong pèi mở: Khi thực hiện nghi lễ ở trong nhà, thầy cúng mặc như
thường ngày, rồi trùm lên trên đầu một chiếc khăn dài màu trắng, hai đầu khăn được
buông dài xuống đất và đeo thêmI một thanh kiếm - tỉp. Khi hành lễ ở ngoài trời, thầy

cúng đội nón, trên nón gài một ngôi sao 5 cánh làm bằng những mảnh tre đan cài vào
nhau Mỗi mảnh tre có kích thước khoảng 6 - 7cm. Theo quan niệm của người Pu Péo,
ngôi sao 5 cánh là biểu tượng của ngũ hành, thể hiện sự may mắn. Như chúng ta biết,
thầy cúng dân tộc La Chí cũng đội nón khi thực hiện nghi lễ cúng bái ở ngoài trời. Sự
trùng lặp về việc thầy cúng người Pu Péo và thầy cúng người La Chí đều cùng đội nón
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 7 | 17


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC PU PÉO | Hoàng Trần

khi hành nghề ngoài trời và sự gần gũi về ngôn ngữ phải chăng nói lên mối quan hệ của
haí dân tộc trong lịch sử.
Trang sức của người Pu Péo thường ngày, chủ yếu là vòng cổ t'khổ, vòng tay - khiĩởi và
chiếc nhẫn. Chất liệu của những đồ trang trí này đều bằng bạc. Trong ngày cưới, cô dâu
Pu Péo đeo hai chiếc vòng cổ, hai chiếc vòng tay, một chiếc khánh bạc - pá pai có gắn
những chiếc chuông nhỏ - k’mìn, chân đi đôi giầy vải đỏ - khơ liếu, do cô dâu tự khâu
trước khi đi lấy chồng và đi tất - cơ mắt tự dệt hoặc mua.
3.4. Ẩ m thực
Người Pu Péo ăn cơm nấu từ gạo tẻ piê và mèn mén làm từ nếp, Từ gạo tẻ
và ngô, người Pu Péo còn chế biến
thành nhiều loại bánh khác nhau. Nấu
cơm bữa nào ăn bữa ấy, còn mèn mén
thì đồ một lần vào buổi sáng, rồi để
dành ăn cả ngày. Người Pu Péo chủ
yếu ăn cơm nấu từ gạo tẻ. Tuy nhiên,
những ngày đói kém, lúc giáp hạt
nhiều gia đình thường ăn ngô nấu độn
với khoai, sắn. Người Pu Péo có tục
gói hai loại bánh Rhirng: bánh chưng
đen với bánh chưng trắng trong dịp tết.

Mèn mén –
món
ăn
ưa
thích
của người Pu péo
Thông thường trong bữa cơm có cơm
rau xanh nấu canh và bát muối giã với ớt, tỏi. Hụt được ăn kết hợp với cúng bái, lễ tết
hoặc những khi có khách thông gia hoặc khách quý đến nhà. Thường ngày, người Pu Péo
ăn cơm ở ngay cạnh bếp lò, khi có khách, mâm cơm khách được đặt ở gian bếp thờ. Chỗ
ngồi trong mâm cơm cũng được sắp xếp theo một trật tự nhất định, nơi phía bàn thờ được
coi là phía trên của mâm cơm là chỗ ngồi của chủ nhà và nam giới; phía đối diện ở bên
dưới là chỗ ngồi của phụ nữ trong gia đình. Trong bữa ăn, đồng bào thường rất quan tâm
dành phần ngon cho người già và kiêng không cho trẻ con ăn chân gà và đầu gà. Ăn chân
gà sẽ viết chữ xấu, ăn đầu gà ma sẽ bám theo. Đầu gà thường dành cho chủ gia đình ăn.

N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 8 | 17


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC PU PÉO | Hoàng Trần

3.5. Phương tiện vận chuyển
Cũng như các dân tộc vùng cao khác, người Pu Péo chủ
yếu dùng gùi làm phương tiện vận chuyển ngô lúa từ trên
nương về nhà. Ngoài ra họ cũng dùng ngựa thồ khi cần vận
chuyển nhiều.
Chiếc gùi trong đời sống
của người Pu Péo
3.6. Ngôn ngữ
Tiếng nói: Tiếng nói của người Pu Péo thuộc hệ ngôn ngữ

Tày - Thái, gần tiếng Tày, Nùng hơn tiếng Thái, vì họ cư
trú lâu đời gần các dân tộc Tày, Nùng hơn. Theo một số nhà nghiên cứu ngôn ngừ, trong
tiếng Pu Péo có nhiều yếu tố của ngôn ngữ Malayo - Polinesia và ngôn ngừ Môn Khmer. Trong bài viết “Thái - Kadai - Indonesia” công bố năm 1942, p. Benedict đã có
nhận xét rằng, ngôn ngữ La Quả (Pu Péo) vá các ngôn ngữ Cờ Lao, La Chí ở gần biên
giới Việt - Trung và ngôn ngữ Lê (Dai) ở đảo Hải Nam (Trung Quốc) có cơ tầng
Indonesia ở lục địa châu Á và tập hợp thành một nhóm ngôn ngữ gọi là Kadai. Hiện nay
người Pu Péo sinh sống trong môi trường xã hội là dân tộc Mông và người Hoa, cho nên
ngoài tiếng mẹ đẻ, người Pu Péo thông thạo cả tiếng Mòng và tiếng Hoa.
Chữ viết: Người Pu Péo chưa có chữ viết riêng của dân tộc mình. Họ dùng chữ Hán
(Nho) để ghi chép gia phả, giá thú, các văn tự liên quan đến đất đai, ruộng, nương. Đặc
biệt họ sử dụng tiếng Hán để ghi chép sách cúng truyền từ đời này qua đời khác.
3.7. Tín ngưỡng tôn giáo
Người Pu Péo tin vào tôn giáo đa
thần, coi vạn vật hữu linh, mọi vật đều
có thể xác và có linh hồn tồn tại cùng
thể xác. Vật vô tri, vô giác cũng như
sinh vật đều có linh hồn. Núi, sông,
đất, cỏ cây đều có linh hồn, mà người
trần, mắt thịt không thể nhìn thấy
được. Những linh hồn đó luôn có tác
động đến đời sống con người, thậm
chí quấy phá cuộc sống bình an của
con người. Người Pu Péo quan niệm

Lễ cúng thần rừng của người Pu Péo

con người, nam cũng như nữ đều có 8
hồn - mrư vân ngóa và 9 vía - m xỉa vân au. Khi người còn sống vía cùng tồn tại với
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 9 | 17



TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC PU PÉO | Hoàng Trần

người, khi người chết đi, vía biến thành hồn. Do đó, người Pu Péo lập bàn thờ cúng linh
hồn tổ tiên trong nhà.
Đồng bào Pu Péo thờ cúng tổ tiên, nhưng chỉ ba đời: pệ mái tế ngân, giá ngân - ông, bà;
tế ngạo, giá ngạo - cụ ông, cụ bà. Thông thường trên bàn thờ tổ tiên, họ đặt ba hũ sành,
mỗi hũ tượng trưng cho một đời (bố mẹ, ông bà, các cụ). Nhưng khi có người ốm đau, đi
bói toán với thầy cúng, thầy cúng nói đời nào của tổ tiên đòi hỏi phải cúng riêng thì để
thêm một hũ nữa lên bàn thờ. Do vậy, mặc dù theo tập quán chỉ cúng hu đời, nhưng mà tổ
tiên đòi, cho nên có gia đình, trải qua nhiều thề hệ, tổ tiên đòi cúng riêng, vì vậy mà trên
bàn thờ có tới chục hũ sành.
Những tổ tiên từ đời kỵ - tế pầu trở lên được coi là tế sau, tế không có hũ thờ riêng,
nhưng mỗi lần cúng tổ tiên đều được nhắc đến. Những người chết không bình thường:
chết đuối, chết ngã cây, bị hổ vồ... không được đưa lên bàn thờ tổ tiên, mà chỉ coi là ma
ngoài klnộc plầng hay ma dưới - kluộc ptè. Vì vậy, mỗi khi cúng tổ tiên, người Pu Péo
lúc nào cũng bày hai mâm: một mâm cho tổ tiên và một mâm cho ma ngoài. Dụng cụ để
cúng tổ tiên là một quả bầu khô hay đuôi lông buộc vào một que gỗ - bi xuy-ê. Người Pu
Péo tin rằng, chỉ có những dụng cụ cúng đó, tổ tiên mới nhận ra con cháu cùa mình.
Xuất phát từ quan niệm tín ngưỡng vạn vật hữu linh và chịu ảnh hưởng giao lưu văn hoá
qua lại giữa các dân tộc, người Pu Péo có nhiều lỗ, tết như các dân tộc trong vùng tết
Nguyên đán, tết ngày 5 tháng 5. tết ngày 15 tháng 1...
3.8. Lễ hội
Tết Nguyên đán - cần chửa: Tết Nguyên đán là tết lớn nhật trong năm. Người Pu Péo
quan niệm, người có xác và hồn. Con người sống có cả hai phần này (xác và hồn). Quanh
năm suốt tháng, người đi làm lụng vất vả, đi lại nhiều nơi xa, gần, cho nên không chỉ có
xác mệt mỏi, mà hồn cũng vất vả không kém. Cho nên, vào dịp tết năm mới, người Pu
Péo có ba nghi lễ quan trọng là: Lễ chiêu hồn cho cả người ở nhà người không ở nhà, tổ
chức vào chiều ngày 29 tháng chạp; lễ đón giao thừa tổ chức vảo đêm cuối Chạp và lễ
đón năm mới được chức vào sáng ngày mồng một năm mới. 1 điều đặc biệt trong lễ tết

năm mới của người Pu Péo là đồng bào làm hai loại bánh chưng: bánh chưng đen và bánh
chưng trắng. Bánh chưng đen bày cúng vào lúc giao thừa với ý tưởng xua đuồi mọi xui
xẻo, rủi ro năm cũ; còn bánh chưng trắng bày cúng vào ngày mồng Một năm mới với ý
tưởng đón năm mới mọi điều tốt lành, may mắn, người mạnh khoẻ, mùa màng tươi tốt.

N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 10 | 17


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC PU PÉO | Hoàng Trần

Tết ngày 5 tháng 5 - cần biêng: Người Pu Péo
cúng tố tiên trời đất và hái thuốc. Theo quan
niệm của người Pu Péo, ngày 5 tháng 5 là
ngày trời đất giao hoà, là ngày nóng nhất
trong năm và giờ nóng nhất là giờ ngọ, cây cối
hấp thụ được nhiều khí lực. Người Pu Péo tin
rằng đi hái thuốc (thảo dược) vào dịp này, cây
thuốc sẽ hiệu nghiệm hơn.
Tết ngày 15 tháng 7 - cần bươn: Tết ngày 15
tháng 7 là tết lớn thứ hai trong năm. Tết này
người ta gọi hồn cho trâu, bò và cúng tổ tiên
cùng các cô hồn. vẫn theo quan niệm về hồn
Đi lễ tết (Ảnh sưu tầm)
và xác, con trâu giúp con người cày, bừa làm
ruộng, nương suốt cả một năm, không chỉ mệt xác, mà còn lầm tổn hại đến hồn. Tết ngày
15 tháng 7, người Pu Péo gọi hồn trâu, bò về với xác của nó để trâu, bò được béo tốt,
chống lại được bệnh tật và năm sau lại giúp người cày bừa vụ mùa mới. Việc cúng các cô
hồn - chọc chéc cũng được thực hiện trong ngày này. Những cô hôn. thường là của những
người chết bất đắc kỳ tử, những vong hồn không ai chăm sóc, thờ lúng, cho nên quanh
năm đói khổ thường đi quậy phá các nơi tìm ăn. Người Pu Péo thờ cúng cô hồn là để

chúng không quấy rối người sống, làm hại mùa màng.
3.9. Gia đình, dòng họ
Gia đình người Pu Péo là tiểu gia đình phụ hệ. Trong gia đình thường có các thành viên
là bố mẹ và con cái của họ. Các con sinh ra được tính theo dòng dõi, họ hàng của bố, con
trai được quyền kế thừa tài sản do bố mẹ để lại đồng thời có trách nhiệm thờ cúng tổ tiên
và trông coi mồ mả của tổ tiên ông bà. Con gái sau khi đi lấy chồng được coi là ma, là
người nhà chồng, không có quyền đòi hỏi về quyền lợi đối với bố mẹ đẻ.
Trước năm 1969, có một đại gia đình duy nhất ở bản Củng Chá, thuộc xã Phó Là (ngay
sau thị trấn Phó Bảng, huyện Đồng Văn, tỉnh Hà Giang) là gia đình họ Củng của ông
Củng Tờ Dùng, sinh sống theo hình thái đại gia đình phụ hệ. Cả gia đình gồm nhiều cặp
vợ chồng cùng con cái của họ, cùng sinh sống trong một ngôi nhà lớn. Trong gia đình lớn
đó, mọi tài sản như: đất đai, gia súc thuộc quyền sở hữu chung của gia đình, mọi người
đều tham gia lao động và cùng hưởng thành quả lao động chung đó. Sau khi hình thái gia
đình này tan rã, mọi tài sản được chia về từng gia đình nhỏ, thuộc quyền sở hữu của gia
đình nhỏ.
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 11 | 17


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC PU PÉO | Hoàng Trần

Gia đình người Pu Péo còn là gia đình phụ quyền, người ông, bố có quyền quyết định
cuối cùng trong mọi việc quan trọng của gia đình như làm nhà mới, dựng vợ gả chồng
cho con cái, mua bán tài sản lớn như: trâu, bò...
Trong quan hệ giữa các thành viên của gia đình chịu nhiều ảnh hưởng của tư tưởng Nho
giáo: con dâu, em dâu không được ngồi cùng mâm cơm với bố chồng, khi gia đình có
khách nam giới, phụ nữ không được ngồi cùng mâm cơm với khách, mà phải ngồi mâm
riêng ở gian bếp và ăn sau.
Theo các cụ già kể lại, người Pu Péo có 16 họ. Mỗi họ thường được hình thành từ hai họ
gốc mang tính cặp đôi với nhau. Các họ đó là:I ráng, đọc theo tiếng Hán -Việt là Trương
và hai họ gốc cặp đôi của nó là Hảm và Ka Hăng; họ Củng, đọc theo tên Hán - Việt vẫn

là Củng và hai họ gốc gấp đôi của nó là Ka Cung và Ka Căm...Một số nhà nghiên cứu
cho rằng, hai họ gốc cặp đôi với nhau có thể là hai thị tộc lưỡng hợp từ thời cổ xưa có
quan hệ hôn nhân với nhau.
3.10.
Tục lệ cưới xin
Người Pu Péo thực hiện hôn nhân ngoại hôn dòng tộc. Nghiêm cấm kết hôn giữa những
người có quan hệ huyết thống, cùng dòng tộc với nhau không kể thời gian cách nhau bao
nhiêu đời. Tuy nhiên hôn nhân con cô con cậu được chấp nhận bình thường, tức là con
trai của chị của gái có thể lấy con gái của anh em trai ruột, nhưng lại nghiêm cấm con trai
của anh trai lấy con gái của chị em gái. Đây là hình thức hôn nhân liên minh ba thị tộc,
hôn nhân một chiều. Hôn nhân của người Pu Péo là hôn nhân một vợ, một chồng bền
vững. Cộng đồng hoàn toàn ủng hộ hôn nhân một vợ một chồng và lên án những cuộc
hôn nhân đa thê. Trong thực tế cuộc sống cũng không có hiện tượng đa thê, những cuộc
ngoại tình vụng trộm. Hôn nhân của người Pu Péo cũng là hôn nhân cư trú trong nhà
chồng, tức là sau hôn nhân, cô dâu về cư trú bên nhà chú rể.
Quan niệm về hôn nhân của người Pu Péo cũng như mọi dân tộc khác là có người nối dõi
tông đường, chăm sóc tuổi già yếu. Từ quan niệm đó chi phối việc chọn dâu, chọn rể.
Những cô gái, những chàng trai được ngắm chọn làm con dâu cũng như con rể phải là
người phát triển bình thường về thể xác, khoẻ mạnh, không bệnh tật, nhưng đồng nghĩa
cũng là những người có nghị lực, chăm chỉ, chịu khó làm ăn, hiệu quả tốt và điều quan
trọng nữa là có đạo đức ứng xứ tốt với mọi người trong làng xóm, trong cộng đông. Tuổi
dựng vợ gả chồng tlnường là từ 15 đến 16 tuổi. Con trai, con gái khi đến tuổi trưởng
thành được tự do rủ bạn bè đi hát giao duyên tìm hiểu nhau, nhưng quyền quyết định
trong hôn nhân thuộc về quyền của cha mẹ. Câu nói “cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy”
không chỉ đúng với dân tộc Kinh, mà cũng rất đúng với dân tộc Pu Péo.
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 12 | 17


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC PU PÉO | Hoàng Trần


Trong tục lệ hôn nhân của người Pu Péo nhất thiết phải có ông mối như nhiều dân tộc
khác. Tuy nhiên ở người Pu Péo cách chọn ông mối có đặc trưng riêng. Gia đình nhà trai
chọn người làm mối cho cuộc hôn nhân. Có thể chọn ông làm mối trong hai trường hợp
sau: ông mối là một nam thanh niên chưa vợ, hoặc ông mối là người đã có vợ con. Nếu
chọn ông mối là người đã có vợ con thì phải là người đã có con và có cả con trai và con
gái, vợ ông mối là bà mối. Trường hợp này cũng cần đạo đức tốt, có uy tín trong cộng
đồng, làm ăn kinh tế khá giả. Sau khi được chọn làm mối, ông mối có nhiệm vụ đưa tin,
tạo dư luận trong cộng đồng, làng xóm, gán ghép thử đôi trai gái với nhau. Sau một thời
gian gán ghép, nghe ngóng dư luận, cảm thấy cộng đồng ủng hộ, người Pu Péo mới thực
hiện các tục lệ của một cuộc hôn nhân.
Những thủ tục cần thiết cho một cuộc hôn nhân cũng khá phức tạp, bao gồm các lễ: Dạm
hỏi - tham pư, ăn hỏi - khăm chủng, báo ngày cưới chủng, lễ cưới, đón dâu - dừa pư, lại
mặt - teo chung.
Dạm hỏi: Ông mối và một cậu con trai nhỏ là người trực tiếp đến nhà gái dạm hỏi. Lễ vật
mang theo gồm: 2 chai rượu có dán giấy đỏ, 1 gói xôi to, khoảng 3-4 cân được gói vuông
vắn bằng lá chuối hay lá dong, buộc bằng ba loại chỉ màu khác nhau: màu vàng tượng
trưng cho con gái, màu xanh tượng trưng cho con trai, màu đỏ tượng trưng cho sự may
mắn. Đến nhà gái, hai người đặt lễ vật ở giữa nhà và thưa chuyện với chủ nhà: “Hôm nay
tôi đến nhà bác gây phiền hà, mong bác thông cảm. Tôi đại diện cho nhà trai, đến dạm
hỏi con gái hai bác. Gia đình bác (lên họ nhà trai) có con trai là... , cháu ngoan hay làm.
Gia đình bác (bên nhà trai) rất ưng ý con gái hai bác, mong hai bác thông cảm và đồng ý
cho cháu làm con dâu nhà bác... (bên trai) ” . Nếu bố cô gái đồng ý thì lễ vật được chuyển
vào gian thờ, thắp hương trình báo tổ tiên và đưa lá số cho nhà trai để nhà trai về so mệnh
của cô gái với mệnh của con trai. Hai bên trò chuyện và bên nhà gái mời ông mối và cậu
con trai ở lại ăn bữa cơm. Cơm xong tiễn hai người ra về. Nếu không đồng ý thì khéo nói
là cháu còn nhỏ, còn vụng hoặc là cháu đã có người khác rồi.
Lễ ăn hỏi: Sau khi so mệnh của đôi trai gái với nhau, nếu thấy phù hợp, thì bên nhà trai
tiến hành lễ ăn hỏi. Nhà trai nhờ thầy chọn ngày lành tháng tốt, cho ông mối và cậu con
trai đi ăn hỏi. Lễ vật gồm: một đôi gà (1 trống, 1 mái), hai chuỗi hạt cườm, một đôi vòng
bạc, 4 chiếc hát con (để đựng hạt cườm và vòng bạc), một gánh xôi khoảng 15 cân, một

miếng thịt sườn lợn, hai chai rượu. Lễ vật được nhà trai mang đến đê 1» giữa nhà, chủ
nhà mang lễ vật vào gian thờ để cúng gia tiên. Hai bên gia đình ngồi nói chuyện. Ông
mối thay mặt nhà trai đặt vấn đề xin cưới và xin nhà gái cho biết về những lễ vật thách
cưới. Thông thường lề vật thách cưới là số chẵn, tượng trưng cho tính bền vững, tính cặp
đôi vợ chồng. Những vật thách cưới thường có chuỗi hạt cườm, vòng tay, bát sứ, quần áo,
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 13 | 17


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC PU PÉO | Hoàng Trần

dây chuyền và bạc miếng, dây bạc, gạo, thịt lợn, rượu, bạc trắng, gà, xôi...Từ sau khi ăn
hỏi đến lễ cưới, vào các dịp lễ, tết: Tết Năm mới, tết ngày 5 - 5, tết Cơm mới, chàng trai
phải đến nhà vợ sêu tết.
Lễ báo ngày cưới: Trong lễ này, ông mối một mình đến nhà gái mang theo lễ vật: xôi, thịt
lợn, gà và tiền cho nhà gái. Ông mối báo tin cho nhà gái biết, thời gian nhà trai dự định tổ
chức cưới, nếu nhà gái đồng ý thì hai bên thống nhất chuẩn bị cho ngày cưới. Thông báo
ngày cưới, thống nhất ngày cưới là sự khẳng định chắc chắn trước cộng đồng, họ hàng
việc kết duyên vợ chồng. Lễ báo ngày cưới có thể coi tương tự như thời hiện đại đi đăng
ký kết hôn.
Lễ cưới: Lễ cưới của người Pu Péo thường được tổ chức trong ba ngày: ngày thứ nhất ở
nhà gái, ngày thứ hai ở nhà trai và ngày thứ ba cảm ơn người giúp việc cho đám cưới.
Ngày thứ nhất, tổ chức tại nhà gái từ chiều ngày hôm trước, đến trưa ngày hôm sau. Nhà
trai mang lễ vật thách cưới đến, nhà gái tổ chức mời họ hàng đến ăn tiệc, chia vui cùng
gia đình và cô gái. Mọi người tiễn cô gái đi làm dâu. Khi ra cửa đi làm dâu, cô gái không
được ngoảnh lại nhìn bố mẹ đẻ, không để váy chạm vào bậu cửa.
Ngày thứ hai, là ngày nhà trai đón dâu về nhà. Trên đường đón dâu trở về nhà, đoàn đón
dâu đi theo một trật tự nhất định: ông mối đi trước tiếp sau là người mang đồ cưới rồi mới
đến chú rể, phù rể. Cuối đoàn đón dâu là cô dâu, phù dâu và cô bạn (người ở cùng cô dâu
3 đêm tặi nhà chú rể sau ngày cưới). Trên đường đi về nhà chồng, dù đường xa hay gần,
theo tục lệ, đoàn đón dâu phải dừng lại dọc đường một lần để ăn dạ. Đến trước cổng nhà

trai, phải làm lễ cởi. Người ta dựng một cổng hình vuông bằng gỗ đặc tại ngõ ra vào. Bên
cạnh cổng kê một cái lún trên đó đặt một miếng thịt, một miếng đậu phụ hình vuông.
Thầy cúng hoặc bà cô chú rể, cầm chân con gà trống quay ba vòng trên đầu cô dâu, rồi
ném con gà ra xa theo hướng ngược với cửa chính. Việc làm này có ý xua đuổi những tà
ma bám theo cô dâu và ngăn cản ma nhà cô dâu đi theo, không cho chúng bám theo cô
dâu vào nhà. Sau động tác đó, cô dâu bước qua cổng vào sân nhà chồng. Đến trước cửa
nhà, cô dâu phải làm lí - đập bát. Nhà trai để một chiếc bát con trước cửa ra vào nhà, với
ngụ ý là chứa nhiều xấu xa, xúi xẻo. Trước khi bước vào nhà, cô dâu phải đập vỡ chiếc
bát đỏ. Nếu đập không vỡ coi như là điềm xấu, cô dâu mang cái xấu vào nhà, cuộc sống
hai vợ chồng sẽ bất hạnh. Đập vỡ bát, cô dâu bước vào nhà và phù dâu cùng cô bạn dắt
vào buồng. Gia đình thắp hương cho chú rể và cô dâu làm lễ với gia tiên. Tiếp đó nhà trai
tổ chức bữa tiệc. Trong bữa tiệc này, chủ nhà dọn một nong lớn cơm cùng thức ăn thịt
được bày lên trên cơm. Chủ nhà mời tất cả mọi người đến dự lễ cưới ăn tiệc. Trong bữa
tiệc này, chủ cũng như khách đều ăn bốc một miếng cơm và một miếng thịt với ngụ ý
chia sẻ, vui chung và cầu phúc cho đôi vợ chồng trẻ.
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 14 | 17


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC PU PÉO | Hoàng Trần

Lễ lại mặt: Sau cưới ba ngày, đôi vợ chồng trẻ làm lễ lại mặt tại gia đình bố mẹ vợ, có lễ
vật mang theo và ở lại hai tối. Tiếp đó đôi vợ chồng trẻ còn phải trở lại gia đình bố mẹ đẻ
hai lần nữa: sau 7 ngày và sau 13 ngày, nhưng không phải mang theo lễ vật.
3.11.
Tập quán tang ma
Người Pu Péo tin vào vạn vật hữu linh, mọi vật đều có phần xác và phần hồn - linh hồn.
Con người cũng có hồn. Khi hồn tạm thời lìa khỏi xác thì người mệt mỏi, ốm đau, phải
làm lễ gọi hồn về. Khi hồn lìa khỏi xác vĩnh viễn thì người chết. Chết - khèng - theo quan
niệm của người Pu Péo là kết thúc sự sống của con người ở trên thế gian và bắt đầu cuộc
sống mới ở thế giới bên kia. Người Pu Péo phân biệt hai cái chết khác nhau: chết bình

thường và chết không bình thường. Chết bình thường là chết ở trong nhà, chết do tuổi
già, chết do bệnh tật... Chết bình thường, hồn người chết được đưa về Trung Quốc và lễ
tang phải tổ chức 5 ngày đêm; còn chết không hình thường là chết ở ngoài nhà, do bị cây
đè, hổ vồ, chết đuối... Chết không bình thường thì hồn người chết được đưa về Niệm Sơn
(Mèo Vạc, Hà Giang). Tập quán người Pu Péo cũng quy định trẻ chết dưới 13 tuổi thì
không được làm ma theo tập quán dân tộc. Khi có người hấp hối, con trai thường nâng
người ốm ngồi dậy và cứ ôm người ốm cho đến khi người ốm mất. Người Pu Péo giải
thích, ôm người ốm như vậy là để lấy phúc, cho người chết ra đi thanh thản trong tình
thương yêu của con cháu. Chủ nhà hoặc con trai trưởng thắp hương lên bàn thờ tổ tiên,
rồi dùng tay đụng mạnh hoặc đặt nghiêng những hũ trên bàn thờ tổ tiên. Theo nhiều nhà
nghiên cứu, động tác này là sự trách cứ tổ tiên đã để người chết ra đi.
Người già cử người đi mời thầy cúng, cử người đi đến nhà trưởng họ mượn trống đồng.
Trống đồng gồm hai chiếc: một trống đực và một trống cái. Tiếp sau đó chủ nhà bắn ba
phát súng báo tin cho dân làng biết.
Một trong những đặc điểm cảa đám ma người Pu Péo là ngay trước đêm làm ma đầu tiên,
người thầy cúng phải làm lễ bói đường người chết để biết người chết muốn về với tổ tiên
theo đường nào: đường Trung Quốc hay đường Niệm Sơn. Đường đi Trung Quốc phải
qua 48 địa điểm còn đường đi Niệm Sơn thì qua 10 địa danh . Trong thời gian làm tang
ma, người Pu Péo có tục nhảy múa theo nhịp trống đồng, nhưng nay các cụ già không còn
ai nhớ các điệu nhảy đó.
3.12.
Văn nghệ dân gian
Trong kho tàng văn nghệ dân gian của người Pu Péo, hiện nay các nhà nghiên cứu, chủ
yếu khai thác là văn học dân gian, với các thể loại: truyện cổ, dân ca.
Truyện cổ: Truyện cổ người Pu Péo khá đa dạng và phong phú, bao gồm các truyện giải
thích về vũ trụ quan, nhân sinh quan. Đối với người Pu Péo, trời - Pe mân là cha, đất N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 15 | 17


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC PU PÉO | Hoàng Trần


Mái mân là mẹ. Ông trời sinh ra
bầu trời, mẹ đất sinh ra mặt đất.
Thuở mới khai sáng, bầu trời
hình tròn, mặt đất hình vuông, bề
mặt phẳng phiu, nhưng bầu trời
nhỏ hơn mặt đất. Sau đó, mặt đất
thu nhỏ lại để bằng bầu trời, vì
thế mặt đất mới trở nên gồ ghề,
lồi lõm, chỗ cao thành núi đồi,
chỗ thấp thành đồng bằng, thung
lũng, chỗ hằn sâu xuống thành
sông, suối, ao, hồ, chồ trũng thành
Nam nữ Pu Péo tập trung ca hát
biển cả, đại dương. Trời ở xa trái
(Ảnh sưu tầm)
đất, cho nên con người không thể
nhìn thấy được trên trời có những gì. Nhưng trời lại nhìn thấy được trái đất qua dải Ngân
Hà. Dải Ngân Hà như một tấm gương khổng lồ. mọi sự vật, hiện tượng xảy ra trên trái đất
đều in lên dải Ngân Hà, do đó ông trời biết lủi cả những gì mà con người làm ở dưới mặt
đất. Mặt trời, mặt trăng và các vì sao được coi là tai mắt của trời, báo cho trần thế biết
những biến động của tự nhiên và xã hội: sao nhặt báo mưa, sao thưa báo nắng, sao Chổi
báo loạn lạc sắp xảy ra. Trên mặt trăng có hình người tay cầm kèn ngồi bên gốc cây xo
lồ. Đó chính là chàng Thỏi lười biếng, tham ăn, gian trá, lừa dân làng, bị dân làng kiện rồi
bị sảng sần - sơn thần phán phạt, bắt lên trời ở cô đơn lạnh lẽo. Trong truyện dân gian Pu
Péo có truyện Thun rừng. Truyện kể rằng trên rừng núi cao có ông thần kì lạ cai quản.
Muốn chặt cây phát rẫy làm nương phải cúng vị thần này xin phép thần rừng mới được
làm. Thần giao cho ong, kiến coi giữ rừng, nếu ai xâm phạm đến rừng thì ong đốt, kiến
cắn xua đuổi. Người Pu Péo cũng có truyện nạn hồng thuỷ, hai anh em (anh trai, em gái)
sống sót trong chiếc trống, thần phán hai anh em phải lấy nhau để duy trì nòi giống
người.

Dân ca: Dân ca là tiếng nói có vần điệu của một dân tộc. Người Pu Péo tự hào về vốn
dân ca của dân tộc mình. Thông thường dân ca có chia thành hai loại: hát nghi lễ - phong
tục và hát giao duyên. Hát nghi lễ- phong tục là những bài hát liên quan đến tập quán dân
tộc, đến các nghi lễ trong đời sống như: hát trong nghi lễ tiễn năm cũ,
đón năm mới. hát trong cưới xin, ma chay, hát mừng mùa màng bội thu, hát mừng năm
mới... Đây là những bài hát với những lời ca đầy tính nhân văn, nhân cách của con người;
đầy những ước mơ về một cuộc sống no đủ, khỏe mạnh, hoà thuận, hạnh phúc.
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 16 | 17


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC PU PÉO | Hoàng Trần

Hát giao duyên - xing lớn: Lời hát của thể loại này thường được hát bằng tiếng Quan Hoả
(Trung Quốc), dựa theo thể thơ 4 câu 7 chữ của bài thơ thời Đường. Là dân ca giao duyên
cho nên hình thức hát lúc nào cũng là hát đối đáp giữa hai bên trai và gái: bên nam hát
một bài, bên gái hát đáp lại một bài. Có nhiều bài được sáng tác từ trước, nhưng trong
quá trình đối đáp cũng có nhiều lúc hát đối khẩu sáng tác tại chỗ, phù hợp với tình huống
cụ thể, mang nét đặc sắc, có tính sinh động cao. Hát giao duyên thường được thực hiện
vào các dịp lễ, hội, các dịp đi chợ. Trong những dịp đó trai, gái làng hay rủ nhau đi chợ,
đi hội, từng tốp trai gái gặp nhau tình cờ hoặc hẹn hò nhau hát giao duyên suốt cả buổi lễ.

N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 17 | 17



×