TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC NÙNG | Hoàng Trần
TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC NÙNG
MỤC LỤC:
1.
Vài Nét Về Dân Tộc Nùng ..................................................................................................... 2
2.
Kinh Tế Truyền Thống ......................................................................................................... 3
3.
2.1.
Trồng trọt.......................................................................................................................... 3
2.2.
Chăn nuôi ......................................................................................................................... 4
2.3.
Khai thác tự nhiên ............................................................................................................ 5
2.4.
Ngành nghề thủ công........................................................................................................ 6
2.5.
Trao đổi, mua bán............................................................................................................. 7
Văn hoá truyền thống ............................................................................................................ 8
3.1.
Làng .................................................................................................................................. 8
3.2.
Nhà ở ................................................................................................................................ 9
3.3.
Y phục, trang sức ........................................................................................................... 10
3.4.
Ẩm thực .......................................................................................................................... 12
3.5.
Phương tiện vận chuyển ................................................................................................. 14
3.6.
Ngôn ngữ ........................................................................................................................ 14
3.7.
Tín ngưỡng tôn giáo ....................................................................................................... 15
3.8.
Lễ Hội ............................................................................................................................. 16
3.9.
Gia đình, dòng họ ........................................................................................................... 20
3.10.
Tục lệ cưới xin ............................................................................................................ 20
3.11.
Tập quán sinh đẻ và nuôi con nhỏ .............................................................................. 23
3.12.
Tập quán tang ma ....................................................................................................... 25
3.13.
Văn nghệ dân gian ...................................................................................................... 26
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 1 | 28
TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC NÙNG | Hoàng Trần
1. Vài Nét Về Dân Tộc Nùng
Dân số : 968.800 người (2009)
Ngôn Ngữ: thuộc nhóm ngôn ngữ Tày - Thái (ngữ hệ
Thái - Ka Ðai)
Tên gọi khác: Nùng Giang, Nùng Phàn Sình, Nùng An…
Nhóm địa phương: Nùng Giang, Nùng Xuồng, Nùng An,
Nùng Inh, Nùng Lòi, Nùng Cháo, Nùng Phàn Slình,
Nùng Quy Rịn, Nùng Dín...
Địa
bàn
cư trú: Lạng Sơn,Cao Bằng,Nùng, Bắc
Giang,Đắk Lắk, Hà Giang, Thái Nguyên, Bắc Kạn, Đắk
Nông, Lào Cai, Lâm Đồng, Bình Phước
Địa bàn cư trú:
Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, người Nùng ở Việt Nam có dân số
968.800 người, là dân tộc có dân số đứng thứ 7 tại Việt Nam, có mặt trên tất cả
63 tỉnh, thành phố. Người Nùng cư trú tập trung tại các tỉnh: Lạng Sơn (314.295
người, chiếm 42,9% dân số toàn tỉnh và 32,4% tổng số người Nùng tại Việt Nam),
Cao Bằng (157.607 người, chiếm 31,1% dân số toàn tỉnh và 16,3% tổng số người
Nùng tại Việt Nam), Bắc Giang (76.354 người), Đắk Lắk (71.461 người), Hà
Giang (71.338 người), Thái Nguyên (63.816 người), Bắc Kạn (27.505 người),
Đắk Nông (27.333 người), Lào Cai (25.591 người), Lâm Đồng (24.526 người),
Bình Phước (23.198 người)
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 2 | 28
TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC NÙNG | Hoàng Trần
2. Kinh Tế Truyền Thống
2.1. Trồng trọt
Nghề nghiệp chính của người Nùng là gieo trồng cây lúa nước, làm nương và một
số thị dân chuyên buôn bán nhỏ ở các thị trấn.
Người Nùng sinh sống ở thượng lưu các dòng sông: sông Kỳ Cùng, sông Thương,
sông Lục Nam, sông Bằng Giang, sông Cầu, sông Chảy, ở các thung lũng lòng
chảo miền núi phía Bắc, thì chủ yếu sinh sống bằng nghề cấy lúa nước và làm
nương. Trên đồng ruộng, đồng bào Nùng cấy lúa tẻ là chính, cấy một ít lúa nếp;
trên nương đồng bào trồng ngô, khoai, sắn và nhiều loại cây thuộc văn hoá khô
cạn khác.Kỹ thuật trồng trọt của người Nùng đạt trình độ cao của kỹ thuật sản
xuất tiền công nghiệp.Để chuẩn bị cho vụ lúa mới, từ tháng Chạp (thán g trước tết
Năm mới), đồng bào hay đốt rạ trên đồng ruộng. Động tác này có ý nghĩa lớn đ ối
với việc bảo vệ môi trường, phòng trừ sâu bệnh hại lúa sau này, bởi vì khi đốt rạ
trên đồng, rạ cháy làm chết con sâu ngủ đông, làm cháy những ổ trứng sâu chờ
ngày xuân ấm áp đến sẽ nở. Việc làm đất được đồng bào thực hiện các khâu: cày
ải lật đất lên trong tháng Giêng, tháng Hai, khi mùa mưa đến đồng bào bừa, sau
đó tiếp tục cày lần hai và bừa rồi mới cấy. Đồng bào Nùng làm ruộng nước,
nhưng nhiều ruộng không có dòng nước chảy tự nhiên vào, do đó để đảm bảo đủ
nước cho cây lúa phát triển, đồng bào làm lóc nặm - cọn nước như nhiều dân tộc
khác làm ruộng nước trong các thung lũng ở miền núi phía Bắc. C ọn nước được
đồng bào làm bằng cây que, gỗ, lạt, dây rừng, có thể đưa nước lên cao hàng chục
mét. Cọn nước là chiếc “máy bơm” không dùng năng lượng điện như máy bơm
hiện đại, mà dùng ngay năng lượng dòng chảy của nước sông làm quay guồng đưa
nước lên cao, đổ vào máng, theo mương dần vào ruộng. Đồng bào Nùng cũng như
nhiều dân tộc ở miên núi phía Bắc có tập quán giữ rừng đầu nguồn để giữ nước
cho bốn mùa lấy về bản cho người ăn, cho sản xuất. Rừng đầu nguồn có thể ví
như li bể nước tự nhiên, khi mưa cây rừng giữ nước lại, khi hết mưa rừng lại tự
động điều chỉnh “mở van” xả nước chảy ra đều đều quanh năm. Trong trồng trọt,
hàng năm, khi mùa xuân về, đồng bào nhìn vào sự đâm chồi nảy lộc của một s ố
loài cây mọc hoang dại trong tự nhiên để xác định thời vụ gieo trồng. Đây là cách
chọn thời vụ cho cây trồng rất cụ thể, nhưng cũng rất khoa học, phù hợp với khí
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 3 | 28
TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC NÙNG | Hoàng Trần
hậu nơi cư trú của đồng bào. Đồng bào Nùng thành thạo các kỹ thuật bón phân đ ể
tăng chất màu cho
đất, trồng xen canh
gối vụ để tranh thủ
thời tiết ấm áp.
Các loại cây trồng
chính có cây lương
thực (lúa, ngô); cây
hoa màu (khoai, sắn,
đậu đỗ); các loại cây
rau xanh (bầu, bí,
mướp, rau cải, su
hào, bắp cải); các
loại rau gia vị (hành, tỏi,
ớt, rau thơm)...
Phụ nữ Nùng trên rẫy (Ảnh sưu tầm)
Ngoài cây lương thực, thực phẩm, người Nùng còn trồng cây ăn quả, cây công
nghiệp. Cây ăn quả chủ yếu là cây hồng không hạt, câỵ quýt, vải, mít, dứa, bưởi,
lê... ; cây công nghiệp như: cây hồi, cây trâu, cây bông, cây dâu nuôi tằm, cây
mía đường. Cây công nghiệp truyền thống đáng chú ý nhất là cây hồi - mác
chác.Mác chác được đồng bào Núng trồng từ lâu đời. Họ trồng thành rừng cây hồi
thay thế hẳn rừng tự nhiên, bởi cây hồi là cây lâu năm, trồng một lần cho thu
hoạch khoảng tám chục năm liền. Cây hồi cho sản phẩm là quả hồi. Quả hồi có
thể bán tươi, bán khô hoặc chưng cất thành tinh dầu rồi bán. Sản phẩm hồi có giá
trị y tế tốt.Hồi hàng hoá được khách hàng mua tại gốc hồi hoặc đem ra chợ bán ,
khách buôn bán hồi chủ yếu là người nước ngoài.
2.2. Chăn nuôi
Chăn nuôi là một bộ phận cấu thành nền kinh tế nông nghiệp tới tự túc, tự
cấp.Đồng bào Nùng nuôi trâu, bò, ngựa, dê, lợn, gà, vịt, ngan, n gỗng, chó, mèo.
Nuôi trâu, bò để kéo cày, kéo gỗ, kéo xe, lấy phân bón ruộng, làm của hồi môn
cho con gái khi đi lấy chồng, hoặc bán. Đồng bào Nùng tuyệt đối không ăn thịt
trâu, bò và càng không dùng thịt trâu, bò để cúng. Nuôi ngựa để cưỡi, để thồ
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 4 | 28
TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC NÙNG | Hoàng Trần
hàng, để kéo xe. Con dê được đồng bào Nùng nuôi làm vật hiến sinh cho một số
lễ nghi theo phong tục và còn để diệt vắt trên rừng già ẩm thấp. Con vắt cắn hút
máu dê căng bụng không tiêu được, tự chết. Con lợn, gà, vịt, ngan, ngỗng được
nuôi để làm vật hiến sinh kết hợp với ăn thịt, bán, biếu tặng... Vật hiến sinh được
đánh giá cao là con gà. Con gà được sử dụng làm vật hiến sinh trong tất cả các
dịp lễ tết, hội hè, bởi tiếng gáy của con gà trống hoa linh th iêng, có ma lực lớn,
có thế điều khiển được mặt trời: tiếng con gáy khiến mặt trời phải mọc và phải
lặn. Trong các con vật nuôi có hai con vật liên quan đến tâm linh. Đó là con ngựa
và con ngỗng. Nhà nhiều người làm nghề thầy cúng nhất thiết phải nuôi ngỗn g
hoặc ngựa.
Trong chăn nuôi đồng bào Nùng còn nuôi tằm, nuôi cá ở ao.
2.3. Khai thác tự nhiên
Môi trường tự nhiên, nơi đồng bào Nùng cư trú là miền núi, n úi rừng.Môi trường
tự nhiên rừng núi có nhiều lâm, thổ sản có thể khai thác được để phục vụ cuộc
sống.Đồng bào Nùng đã tận dụng khai thác nguồn lợi tự nhiên đó. Người Nùng
vào rừng hái nấm hương, mộc nhĩ. thu hái hoa quả dại như: mác tém, mác nhàu,
lấy mật ong, đào củ mài, lá cây ngót rừng nấu canh để ăn lấy các cây dược liệu
như rễ dó chữa cảm. tầm gửi, cây gỗ nghiến ngâm rượu bồi bổ sức khoẻ, rễ, lá
một số cây dùng làm men rượu, cây gỗ tốt, chắc, không mối, không mọt để làm
nhà, làm công cụ sản xuất và thông thường nhất là hái lấy củi về đun nấu hàn g
ngày. Ở rừng, người Nùng còn tài giỏi săn bắn, đánh bắt thú rừng. Đối tượng săn
bắt là tất cả các loại thú rừng có thể ăn thịt hoặc lấy xương làm cao làm thuốc bổ.
Những con thú ăn thịt như: hươu, nai, hoẵng, cầy hương, cáo, khỉ, vượn, chồn,
nhím, các loại chim rừng (gà gô, chim trĩ, gà rừng, chim gáy, chim ngói). Cách
lấy thú lấy xương nấu cao như hổ, thú lấy mật như gấu. Công cụ để săn bắn thú
rừng có súng kíp, các loại bẫy bẫy chuồng sập; bẫy thòng lọng treo. Có trường
hợp, người ta làm bẫy chuồng sập bắt được hàng chục con khỉ vào nương ăn ngô,
bí đỏ. Thông thường đồng bào hay dùng cách đánh bẫy, vì làm bẫy dễ dàng và
đánh bẫy hiệu quả cao, lại không mất công rình mò, không nguy hiểm cho bản
thân người đi săn.
Ngoài hái lượm và săn bắn các thú trên rừng, người Nùng còn đánh bắt cá, tôm,
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 5 | 28
TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC NÙNG | Hoàng Trần
cua ở dưới nước.Cách đánh bắt cá thông thường và hiệu quả là làm lái - đắp đập
ngăn con suối cho nước suối chỉ chảy qua một cửa nhỏ - cửa đập.Người ta làm
một sàn bằng cây vầu ở dưới cửa đó.Vào xuân hè, cá theo dòng nước suối bơi ra
sông lớn, qua cửa dập bị mắc lại. Hàng ngày, sáng sớm chủ làm đập ngăn suối chỉ
việc ra nhặt lấy, đồng bào cũng hay đặt đơm ở các dòng chảy của con suối nhỏ để
bắt 4 Mùa xuân hè, đặt đơm quay miệng đơm ngược dòng nước chảy, đón những
con cá bơi xuôi dòng ra sông, ra biển kiếm ăn. Mùa thu, lại đặt bẫy quay miệng
xuôi dòng nước chảy, đón những con cá bơi ngược về với nước ấm ở nguồn.
2.4. Ngành nghề thủ công
Người Nùng không chỉ tự túc cái ăn, mà còn phải tự túc cả cái mặc và những đồ
gia dụng khác.Tuy nhiên, trong các ngành nghề thủ công ở người Nùng có hai
nghề nổi lên, đó là nghề gốm sứ, nghề rèn đúc.
Nghề gốm sứ ở thị xã (nay là thành phố) Lạng Sơn chuyên sản xuất các mặt hàng
chum, vại, bát, đĩa đã nổi tiếng trên thị trường toàn miền thời kì trước năm 1945.
Nhờ kinh doanh đồ gốm sứ mà chủ lò gốm là người giàu có, mua công trái thời
kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp với trị giá hàng chục nghìn tấn thóc.
Nghề rèn đúc ở tỉnh Cao Bằng (xã Phúc Sen, huyện Quảng Uyên) với các sản
phẩm như: cuốc, búa, liềm, lưỡi cày; xoong, nồi gang, chảo các kích thước đã
cung cấp cho thị trường nhiều tỉnh và
bán ra cả nước ngoài.
Ngoài hai nghề trên, trong tất cả các
làng bản, nghề dệt vải mặc, nghề đan
lát tre, đan các đồ gia dụng, nghề mộc
làm nhà sàn với, bào, đục, ghép
mộng... nơi nào cũng có, đủ khả năng
tự túc nhu cầu gia đình và bản làng.
Đồ đan bằng nan tre dành riêng cho
cưới xin thường được đan nghệ thuật,
Nghề dệt vải của người Nùng (Ảnh sưu
cài đan hoa văn, quét sơn màu đỏ hoa
tầm)
văn đó, tạo màu sắc sặc sỡ.
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 6 | 28
TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC NÙNG | Hoàng Trần
2.5. Trao đổi, mua bán
Từ thời Pháp thuộc, học giả Pháp đã viết về người Nùng là “biết buôn bán”.Người
Nùng có câu: Mân sèn slam chường đắc, pò hâu lắc- nghĩa là: Đồng tiền ở sâu ba
chượng (dưới đất), ai chăm chỉ thì lấy được. Câu nói này cho ta cơ sở để nghĩ
rằng trong dân tộc Nùng, xuất hiện quan hệ liên quan đến đồng tiền, đến buôn
bán. Quả thật, tại tỉnh có dân tộc Nùng cư trú đông nhất từ trước đến nay là tỉnh
Lạng Sơn,
Từ xa xưa đã có câu: Đồng Đăng có phố Kỳ Lừa, có nàng Tô Thị có chùa Tam
Thanh. Phố Kỳ Lừa với các tên phố bằng tiếng Nùng, nàng trông con chờ chồng
đi buôn bán thuốc bắc chưa về... là minh chứng về sự phát triển nghề buôn bán
của người Nùng trong quá khứ. Một thực lí nữa là việc trao đ ổi hàng, buôn bán ở
vùng Việt Bắc khá phát triển, có một hệ thống chợ họp theo phiên, năm ngày một
phiên. Chợ phát triển không chỉ ở thị trấn - huyện lỵ, mà còn ở nhiều thị tứ khác
nhau trong mỗi huyện.Cư dân sinh sống bằng nghề buôn bán ở các thị tứ, thị trấn
thị xã, đều có người Nùng, người Kinh, người Tày.Ở nhiều thị trấn, người dân tộc
Nùng chiếm đến 80% dân cư sống bằng nghề buôn bán.Để buôn bán phát triển ở
vùng nào đó, thì cần có mặt hàng uy tính đặc sản quê hương, mà nơi khác không
có. Đặc sản đó ở vùng người Nùng chính là sản phẩm hồi: quả hồi tươi, quả hồi
phơi khô, quả hồi (tươi, khô) chưng cất thành tinh dầu hồi. Tinh dầu hồi Lạng
Sơn được người Pháp đánh giá cao về chất lượng. Theo tiêu chuẩn quốc tế, ở
nhiệt độ 12°c, tinh dầu hồi phải đông đặc, nhưng tinh dầu hồi Lạng Sơn đặc ở
nhiệt độ 18°c. Sản phẩm cây hồi có giá trị y tế và kinh tế cho khách hàng, mua
sản phẩm hồi chủ yếu là khách Trung Quốc và Pháp.
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 7 | 28
TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC NÙNG | Hoàng Trần
3. Văn hoá truyền thống
3.1. Làng
Người Nùng chọn đất dựng làng là
chân núi, phía trước làng với
không gian thoáng đãng, thường
được đồng bào khai phá, cải tạo
thành ruộng bậc thang; sau làng
thường là đồi núi, được khai phá
thành nương. Do làng phải dựa
vào thế núi đồi, cho nên không thể
chọn hướng (Đông, Tây, Nam,
Bắc) cho làng. Do vậy có làng hướng Đông, có làng hướng Tây, thậm chí có làng
hướng Bắc - hướng gió mùa Đông Bắc có thế thổi mang theo gió lạnh đến.
Làng của người Nùng có địa phận rõ ràng. Địa phận làng được xác định bằng quy
ước miệng, không có văn bản pháp quy, nhưng được dân làng hiểu rõ, hiểu đúng,
không có hiện tượng tranh chấp địa phận làng này với làng khác. Địa giới làng có
thể là đèo, dốc, chỗ ngoặt trên đường đi, cũng có thể là con đường, bờ ruộng, con
suối, gốc cây cổ thụ... Đất của mỗi làng thường có hai loại: đất riêng cùa từng gia
đình và đất, rừng chung của cả làng. Đất riêng của từng gia đình là đất do gia
đình khai phá thành ruộng, nương, rừng cây, ao; đất làm nh à, làm các công trình
chuồng trại gia súc... ; còn đất, rừng chung là đất chưa được khai phá, là rừng
chung của làng. Đất và rừng chung này là nơi để dân làng hái củi, là nơi chăn thả
bò, , thu hái lâm thổ sản,... Dân làng này không được qua rừng làng khác hái cùi,
thu hái lâm thổ sản, thả trâu, bò...
Người Nùng là dân định cư lâu đời, cho nên làng của người Nùng là ổn định, mỗi
làng có từ vài chục đến hàng trăm gia đình sinh sốn g. Trong mỗi làng thường có
nhiều dòng họ, nhưng mỗi làng thường một họ đông người hơn, do đó, có uy tín
và ảnh hưởng lớn hơn các họ khác. Trong làng thường có hai dân tộc là Nùng và
Tày cùng cư trú.cùng xuất trên những thửa ruộng, mảnh nương xen kẽ nhau. Là
dân cùng họ giao tiếp thường ngày với nhau, kết bạn với nhau. Trong làng người
Nùng có những mối quan hệ văn hoá chung của cả làng. Đó là miếu thờ thổ công
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 8 | 28
TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC NÙNG | Hoàng Trần
chung và lễ hội lùng tùng chung, tập quán làng chung: quy định về tổ chức và
hoạt động của phe - hội hiếu, quy định ngày mùa thả rông trâu, bò, tập quán giúp
nhau trong sản xuất.
Làng là một đơn vị xã hội dân gian, cho nên cần có thiết chế quản làng.Bộ máy
quản lý làng của người Nùng cũng tương tự như một số dân tộc khác, tức là tự
hình thành, tự suy tôn theo nguyên tắc nhất định. Nguyên tắc đó là cần quản lý
việc đời thường và quản lý cả việc tâm linh. Tức là cần có trưởng bản và có thầy
cúng phối hợp với nhau đê quản lý hoạt động của làng. Trưởng bản thường là
người trưởng họ của dòng họ lớn có ảnh hưởng chi phối hoạt động của bản và
thầy cúng, là hai nhân vật này là chỗ dựa đời thường và đời sống tâm linh của dân
làng , thực sự có ảnh hưởng đến đời sống của dân bản .
3.2. Nhà ở
Đại đa số người Nùng ở nhà sàn, chỉ một số ít ở nhà đất. Theo giải thích của
đồng bào, sở dĩ ở một số nơi đồng bào ở nhà đất là do không còn gỗ để làm nhà
sàn. Nguyên vật liệu để làm nhà là gỗ, tre, đất đá. Nhà sàn thường dùng gỗ nghiến
là cột, kèo, xà, quá giang, “qua tùng”
làm ở trên mái và ở sàn. Khi gỗ
nghiến không còn nữa thì buộc người
Nùng phải làm nhà đất để ở. Còn đất
thường dùng đồ chình tường, làm
bằng mộc, làm ngói; đá cũng được sử
dụng để xây nhà, thậm chí xây xung
quanh bản
Địa điểm chọn làm nhà, được đồng
bào quan tâm trong mối tương quan
giữa nơi ở, nơi sản xuất va nước cho sinh hoạt. Thế đất lý tưởng người Nùng chọn
làm nhà là chân núi, trước nhà là đất có thề khai phá thành ruộng, sau nhà là đất
làm nương, đất trồng rừng và bắc được nước máng chảy về nhà.Với thế đất đó,
một mặt, đi làm ruộng, làm nương hay chăm sóc rừng đều gần và không lo đi
gánh nước ăn, nước sinh hoạt hàng ngày. Mặt khác, khi trời mưa xuống, đất màu
mỡ từ trên nương lúc trôi đi thì cũng trôi xuống ruộng nhà mình; hàng ngày con
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 9 | 28
TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC NÙNG | Hoàng Trần
gà, con lợn thả rông thải ra chất bẩn, khi mưa nước mưa góp phần rửa sạch sân,
đường đi và chất bẩn đó cũng dồn xuống ruộng của gia đình.
Nhà ở của người Nùng có ít nhất ba gian trở lên, có thế có hai ba hoặc bốn mái,
lợp ngói máng. Nhà hai mái được làm nhiều hơn nhà bốn mái vì nó dễ làm hơn,
nhất là phần mái và được đồng bào gọi là nhà còn nhà bốn mái gọi là nhà cái.
Ngôi nhà sàn hai mái của người Nùng có mái sau dài hơn mái trước, tạo dáng cho
ngôi nhà “ngẩng cao đầu” lên. Ngôi nhà sàn ở ba mặt bằng sử dụng: mặt gầm sàn
- mặt đất, mặt sàn và gác. Gầm sàn thường là nơi để công cụ sản xuất, bếp lò nấu
cám lợn là chuồng gia cầm.Có nhiều nơi, gầm sàn còn có cả chuồng gia súc. Mặt
sàn nhà được bố trí: bếp, bàn thờ, chỗ ngủ, chỗ sinh hoạt chung. Bếp của người
Nùng được đặt ngay trên sàn nhà ở, khu vực bếp chiếm 1/3 chiều sâu, ở nửa sau
của ngôi nhà. Trên người ta làm lá - gác bếp để những cần hong khô: bao diêm,
đóm... Cũng ở phần này, người ta làm cầu thang đi xuống gầm sàn.Ngăn cách
phần bếp với phần còn lại của ngôi nhà bằng một bức phên đan bằng tre.Hai phần
ba còn lại của ngôi nhà, một bên ngăn làm buồng ngủ của phụ nữ; gian giữa là
chỗ đặt bàn thờ.Nơi sinh hoạt chung, một gian bên còn lại đặt các giường ngủ.
Gác là nơi chứa lương thực dự trữ để ăn quanh năm và các loại giống cây trồng:
thóc giống, lạc giống, đồ giống... Nhà có hai cửa ra vào. Ngoài nhà ở, phía trước
có sàn phơi. Sàn phơi làm ở ngoài nhà ở. Có hai cầu thang bắc lên nhà ở: Một cầu
thang bắc lên sàn phơi, từ đi qua cầu to (rộng khoảng 2m) vào nhà, cầu thang kia
bắc lên cửa nơi có nước rửa
chân.
3.3. Y phục, trang sức
Y phục của người Nùng
được làm từ vải bông.
Đồng bào tự làm bộ y phục
từ khâu đầu: trồng bông dệt
vải, nhuộm chàm đến khâu
cắt may thành quần, áo
mặc, khăn, mũ đội đầu... Y
phục là sản phẩm của con
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 10 | 28
TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC NÙNG | Hoàng Trần
người mang ý tưởng nhân văn lớn: vừa che kín cơ thể, nhưng lại vừa phơi bày
khiếu thẩm mỹ của con người - chủ nhân y phục. Có y phục nam giới, phụ nữ,
tang phục và y phục thầy cúng.
Y phục nam giới người Nùng gồm áo ngắn, quần dài, mũ đội, giầy vải. Nam giới
mặc áo ngắn, chiều dài của áo đủ trùm qua vùng thắt lưng xuống mông, áo xẻ
trước ngực, cài 7 cúc - chất khấu, cúc áo tết bằng dây vải, có 2 - 4 túi ở hai vạt
trước của áo. Nếu áo có hai túi thì cả hai túi đều làm ở phần dưới của vạt áo. Áo
nam dân tộc Nùng khác áo nam dân tộc Rày ở chỗ: áo Nùng có chân cổ áo, thân
áo hẹp bó lấy người, ống tay áo rộng. Nam giới mặc quần cắt kiểu chân què, cạp
lá tọa, sau này mặc quần luồn dây dải rút, đầu đội mũ, chân đi giầy vải (dịp làm
khách, lễ tết). Nam giới Nùng không dùng đồ trang sức.Tuy nhiên, khi còn nhỏ
tuổi (dưới 12 tuổi) trong các trường hợp hay ốm đau, có thể dùng vòng cổ “bảo
mệnh”. Loại vòng này thường có ba dây kim loại: bạc, đồng, s ắt.
Y phục phụ nữ Nùng gồm áo dài 5 thân, quần dài, khăn đội đầu, thắt lưng vải,
giầy. Áo dài 5 thân của phụ nữ Nùng gồm 4 thân dài và 1thân ngắn để che đường
xẻ từ dưới cổ sang nách bên phải. Chiều dài của áo đủ che kín hết mông.Áo
không có chân cổ như áo nam giới. Áo phụ nữ Nùng khác áo phụ nữ Tày ở chỗ:
áo phụ nữ Nùng có chiều dài ngắn hơn, thân áo và ống tay áo rộng hơn và đắp
một miếng vải láng công nghiệp màu đen vào cửa tay áo và dọc theo mép đường
xẻ chéo từ dưới cổ sang nách bên phải. Chiều rộng của miếng vải láng này
khoảng 6 - 7cm. Quần của phụ nữ có cách cắt, may cơ bản như quần nam giới,
kiểu chân què, cạp lá toạ, sau này luồn d ải rút. Trước đây, phụ nữ Nùng thường
dùng thắt lưng vải để thắt giữ áo cho gọn, thuận tiện cho lao động. Phụ nữ Nùng
đội khăn trên đầu. Có ba cách đội khăn khác nhau của ba nhóm Nùng: nhóm Nùng
Inh, Nùng Cháo, Nùng Phàn Slình đội khăn ngang giữ tóc ở bên trong, rồi dùng
khăn vuông gấp chéo trùm qua bên ngoài, buộc thắt nút ở sau lưng; nhóm Nùng
Phàn Slình thua lài, dùng khăn dài có đốm trắng - lài trùm qua bên ngoài và thả
đuôi khăn xuống bả vai; nhóm Nùng Giang (hay còn gọi là Nùng Cúm Cọt), chỉ
dùng một dải vải dệt có kẻ sọc xanh, đỏ, gấp lại to khoảng 7cm, rồi buộc ngang
qua trán, thắt nút ở sau gáy. Phụ nữ Nùng đi giày vải khi có công có việc. Phụ nữ
Nùng thích dùng đồ trang sức: khuyên tai, vòng cổ, vòng tay, vòng chân, xà tích.
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 11 | 28
TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC NÙNG | Hoàng Trần
Những đồ trang sức này thường được làm bằng hạc.Trẻ em gái, nếu gặp cảnh hay
ốm đau, cũng hay dùng vòng “bảo mệnh” như trẻ em trai.Người Nùn g không có
kiểu y phục riêng cho trẻ em và y phục cưới. Cô dâu mặc y phục như kiểu cắt
may bình thường, nhưng là đồ mới hoàn toàn.
Y phục cùa người Nùng có màu chàm, được nhuộm bằng chàm, có độ đậm nhạt
khác nhau. Màu chàm hoà đồng với tự nhiên, với rừng xanh. Ngoài ra theo quan
niệm của đồng bào, màu chàm tượng trưng cho lòng chung thuỷ vợ chồng.
Tang phục của người Nùng có màu trắng tự nhiên của vải bông . Vải dùng làm
tang phục thường là vải dệt xô, áo dài, quần dài, khăn.
Người hành nghề thầy cúng có hai loại áo.Không có quần riêng cho người hành
nghề thầy cúng.Áo thầy cúng chỉ sử dụng khi hành nghề. Thây tào, thây mo dùng
áo thụng, dài, không có tay, trên thân, phía sau được thêu hoa văn sặc sỡ. Tổng
thể hoa văn thể hiện vũ trụ của người Nùng là vũ trụ có 9 tầng, trên đó Ngọc
Hoàng có vị trí cao nhất - là chúa tể của muôn loài (kể cả thần thánh và ma quỷ).
Áo của các thầy then, pụt cũng là áo thụng, dài, chỉ một màu đỏ, không hoa
văn.Mo thây tào, mo là một miếng vải, chiều dài đủ quấn một vòng quanh đầu;
chiêu rộng khoảng lOcm. Trên tâm vải đó cũng thêu hoa văn, chủ yếu là hoa văn
hình học. Mũ thầy then, pụt là mũ hình chữ A (chữ A in), trôn mũ có trang trí hoa
văn tôn giáo. Thầy then khi hành nghề còn đeo các dải vải màu đỏ có hoa văn từ
vùng thắt lưng và trên mũ then, phía sau, cũng treo các dải vải, buông xuống sau
lưng.
3.4. Ẩ m thực
Người Nùng làm ruộng cho nên họ
ăn gạo tẻ và nếp. Cơm ăn thường
ngày nấu bằng gạo tẻ, cách nấu như
thông thường. Đồng bào Nùng có
thói quen nấu cháo loãng để húp và
uống thay nước vào mùa hè, sau
buổi lao động mệt nhọc ở ngoài
đồng trở về nhà. Khi húp, người
Bánh Khảo của người Nùng (Ảnh sưu tầm)
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 12 | 28
TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC NÙNG | Hoàng Trần
Nùng cho thêm muối, tuỳ khẩu vị mặn nhạt khác nhau.Gạo nếp được sử dụng
trong các dịp lễ tết, cúng bái.Từ gạo nếp đồng bào chế biến thành nhiều loại bánh
khác nhau. Một số bánh thường được đồng bào làm để ăn trong dịp tết và theo
mùa nhất là: bánh chưng (gói kiểu bánh dài), bánh giầy lá ngải cứu, bánh gai
chuối, bánh gai lá mơ lông, bánh dẻo gừng, khảu sli (một dạng bánh bỏng), bánh
khảo; xôi trám đen, xôi trứng kiến, xôi cai màu: đỏ, đen, vàng, tím, xanh (lá
gừng). Thực phẩm của người Nùng cũng là những thứ mà đồng bào tự sản xuất
hoặc thu hái, đánh bắt được từ tự nhiên. Tuy nhiên cách chế biến món ăn của
người Nùng cũng tạo nên những nét đặc trưng tạo thành những món ăn đặc sản.
Đó là: thịt lợn quay nhồi lá mác mật vào bụng, thịt vịt quay nhồi lá mác mật, vịt
rán nhồi lá mác mật, vịt luộc, nhưng trước kh i luộc đã rán qua làm chín phần 4%
bên ngoài của con vịt, thịt lợn nạc nấu canh gừng, nghộ, phúng xoòng (lạp
xưởng), khau nhục; các loại canh rau: canh rau ngót rừng, quả trám đen, chân giò
lợn ninh khoai môn. Người Nùng cũng dùng nhiều gia vị trong chế biến thực
phẩm như: gừng, nghệ, dùng rau thơm các loại. Đặc biệt người Nùng có cách
dùng gia vị khá đặc trưng. Đó là quả ớt cay: ớt chỉ thiên - mác chiêu nghiều, mác
chiêu vài. Với đồng bào Nùng quả ớt cay vừa là để khai vị, nhưng cũng vừa là
chât kỵ độc. Trong bữa ăn, các ông bà già khi cảm thấy không muốn ăn nữa, mặc
dù mới ăn một ít cơm, thì dùng một miếng ớt. Ớt cay khích thích dịch vị, do đó có
thể ăn thêm cơm.Ở góc nhìn khác, quả ớt cay được coi là vị thuốc kỵ độc thực
phẩm.Như chúng ta biết, vua chúa dùng bát bạc, dũa bạc, chén bạc với mục đích
là tránh độc thực phẩm. Nếu trong thực phẩm có chất độc khi tiế p xúc với bát,
đũa bạc, thì bát, đũa sẽ đổi sang màu đen. Còn người bình dân Nùng thì thử chất
độc bằng giải pháp dùng quả ớt cay. Khi đi xa, để tránh độc nước, các cụ người
Nùng mang theo quả ớt, khi uống nước, cắn miếng ớt ăn, nếu thấy ớt không cay
tức bị độc nước ở mức độ nhẹ, vì vậy tiếp tục ăn tiếp vài miếng ớt nữa. Nế u trong
thức ăn có thuốc độc nặng, cắn ăn miếng ớt có thể bị chết n gay ở bàn ăn. Người
Nùng thường chế biến rau xanh bằng cách xào với mỡ lợn, hầu như không ăn
luộc, vì vùng người Nùng cư trú thường rét.
Về cách tổ chức bữa ăn của người Nùng có nét đáng chú ý là con dâu, em dâu
không được phép ngồi chung mâm cơm với bố chồng, anh chồng.
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 13 | 28
TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC NÙNG | Hoàng Trần
Đồng bào Nùng nói riêng và các dân tộc Tày, Nùng, Hoa... ở Lạ ng Sơn có tục
mời uống rượu nhiều. Khách đến chơi nhà mời uống rượu trước, uống nước sau.
Mời uống rượu trong khi còn chờ đun nước pha chè. Khi uống rượu, đồng bào có
tục uống chép chén, nghĩa là chủ nhà rót rượu, đưa chén rượu mời khách, thì
khách lấy chính chén rượu đó đưa lên miệng chủ, mời chủ uống trước, sau đó chủ
lại lấy chén rượu của mình đưa lên miệng khách và dốc rượu vào miệng khách.
Rượu do đồng bào tự nấu bằng gạo nếp và men lá tự làm. Những bữa cơm khách,
cơm trong dịp lễ tết, hội hè, luôn có rượu .Mỗi năm đồng bào Nùng có một dịp
cúng cần có rượu nếp.
3.5. Phương tiện vận chuyển
Để vận chuyển các vật nhẹ, người Nùng
có thể gánh hoặc vác, dùng sức trâu, bò
để kéo các vật nặng (cột, xà nhà), kéo xe
(xe trâu, xe bò), con ngựa dùng để cưỡi,
kéo xe.
3.6. Ngôn ngữ
Tiếng nói: Tiếng nói dân tộc Nùng thuộc
ngữ
hệ
Dùng bò để làm sức kéo
Thái,
nhóm ngôn ngữ Tày - Nùng. Tiếng Nùng rất gần với tiếng
Tày. Một số nơi hiện nay không có sự khác nhau giữa
tiếng Nùng và tiếng Tày như ở huyện Trài Định (Lạng
Sơn), huyện Thạch An (Cao Bằng), huyện Na Rì (Bắc
Kụn). Ba huyện này cũng là ba huyện giáp nhau. Những
người Nùng tiếp xúc rộng có thể dễ dàng học tiếng Thái
Lan, tiếng Lào. Bởi sự khác biệt của chúng không lớn,
nhất là các từ vựng cơ bản.
Người Nùng dung chữ
Hán để ghi chép
(Ảnh minh họa)
Chữ viết: Người Nùng không sáng tạo ra chữ viết.
Trước đây người Nùng dùng chữ Nho (Hán) để ghi
chép các văn tự liên quan đến ruộng đất, rừng hồi,
khai sinh, giấy giá thú và nhiều nhất là sách cúng. Do
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 14 | 28
TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC NÙNG | Hoàng Trần
không có chữ viết riêng, cho nên người đi học chữ ít, người biết chữ ít có thể đọc
được, viết được càng ít hơn. Theo các tài liệu, trước kia người Mạc lên trấn giữ
vùng biên cương Cao Bằng (1592 - 1677), có hai thanh niên nổi tiếng hay chữ đã
cải biên chữ Hán, sáng tạo ra chữ Nôm người Nùng. Chữ Nôm Tày - Nùng về cấu
trúc, hình thái cơ bản giống chữ Nho, chữ Nôm Kinh.Điều này nói lên ảnh hưởng
của văn hoá Hán với Việt Nam trong thời kỳ Bắc thuộc.
3.7. Tín ngưỡng tôn giáo
Người Nùng vừa tin vào đa thần vừa có độc thần. Biểu hiện tin đa thần giáo là tin
vào vạn vật hữu linh, mọi việc đều có linh hồn, gọi chung là thần linh.
Theo đa thần giáo, người Nùng thờ cúng ở trong nhà và thờ cúng ngoài nhà ở.
Thờ cúng trong nhà, người Nùng thờ tổ tiên.Quan hệ tổ tiên của người Nùng được
xác định gồm chín đời - cảu chỏ. Trong nhà ở của người Nùng có nơi dành riêng
cho thờ cúng tổ tiên - choòng cai (bím kiêng). Choòng cai là nơi linh thiêng, yên
tĩnh, không cho trẻ em nô đùa trong choòng cai, không đặt trong đó những thứ đồ
dùng gia dụng. Việc chọn nơi đặt bàn thờ tổ tiên tuỳ thuộc vào điều kiện không
gian từng gia đình.Nhà rộng có thể đặt bàn thờ tổ tiên ở gian giữa, chính giữa
nhà; còn nhà hẹp thì thường đặt bàn thờ tổ tiên trong buồng ở gian cạnh, nằm ở
vách trước của ngôi nhà.Sau buồng thờ là buồng ngủ của phụ nữ trong gia
đình.Theo quan niệm của người Nùng, liên quan đến khái niệm tổ tiên có 9 đời cảu chỏ. Nếu lấy bản thân mình là một đời làm trung tâm thì tính 4 đời trước đó
là: cha mẹ, ông bà, cụ, kỵ và 4 đời sau là con, ch áu, chắt, chút. Trong choòng cai,
bàn thờ của người Nùng có hai tầng thờ: tầng dưới thờ tổ tiên và tầng trên thờ
Phật bà Quan Âm và Đức Lão Tử.
Ngoài bàn thờ tổ tiên, trong nhà người Nùng còn có bàn thờ va. Va thờ Bà mụ Thánh mẫu, chuyên chăm sóc trẻ em. Cạnh bếp nấu ăn của mỗi gia đình còn dành
chỗ thờ Dà Cháo - Táo quân.
Thờ cúng ngoài nhà gồm thờ ở miếu, ở đình.Mỗi bản có một miếu thờ thổ công;
vài ba bản có một đình thờ Thành hoàng.
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 15 | 28
TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC NÙNG | Hoàng Trần
Dân tộc Nùng có một số
người chuyên làm thầy cúng
- lạo slay.
Lạo slay là người có khả
năng làm môi giới giữa
người bên dương với người
sống ở bên âm. Với khả năng
đó thầy cúng còn được gọi là
cần tha lùng - người mắt
sáng. Thầy cúng thường làm
ba việc theo ba giáo phái của
Lễ cúng khao tổ của người Nùng
(Ảnh sưu tầm)
đạo giáo là: bói toán đoán số mệnh của con người từ quá khứ đến : tương lai; phù
phép chữa bệnh đuổi ma trừ tà và xem phong thuỷ.
Nhìn từ góc độ độc thần giáo thế giới, ở dân tộc Nùng chịu ảnh hưởng của Phật
giáo và tôn giáo khu vực Đông và Nam Á là Khổng giáo và Đạo giáo. Phật giáo
được thờ trong gia đình là chính, không có chùa, không có tín đồ và cũng không
sư sãi; đồng thời tư tưởng Phật giáo “Ở hiền gặp lành” được người Nùng tin theo.
Ảnh hưởng của Khổng giáo thể hiện ở việc đồng bào tin vào số phận do trời định
(thiên định)... Theo khổng giáo, số phận con người định đoạt bởi trời.Trời phân
chia người thành hai loại “quân tử” và “tiểu nhân”. Tư tưởng này cũng tương
đồng cvới chủ nghĩa phát xít chia loài người thành “thượng đẳng” và “hạ đẳng”.
Thượng đẳng cao sang chính là bọn vua quan, còn hạ đẳng hèn hạ chính là dân
thường. Khổng giáo còn thần thánh hoá vua quan, coi vua quan là con trời - thiên
tử. Đạo Lão được biến tướng thành đội ngũ những người hành nghề tôn giáo dưới
cái tên là là thầy.
3.8. Lễ Hội
Từ quan niệm đa thần, đồng bào Nùng có nhiều lễ hội liên quan đến nghề nghiệp
làm ăn chính của họ - nghề nông.
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 16 | 28
TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC NÙNG | Hoàng Trần
Mỗi làng đều có lễ hội của làng mình.Lễ hội phổ biến là lễ hội lùng tùng.Đây là
thực chất lễ hội cầu mùa.Lễ hội lùng tùng được tổ chức trong tháng Giêng hàng
năm. Các làng gần nhau tổ chức lễ hội lùng tùng vào các ngày khác nhau để dân
làng này có thể đi dự lễ hội của làng khác, để trai, gái làng này có thể đến dự lễ
hội của làng kia và hát giao duyên đối đáp thâu đêm suốt sáng. Một trong những
nét đặc trưng của lễ hội lùng tùng là cótrò vui múa sư tử.Hội múa sư tử thực chất
là hội võ thuật. Người dạy múa sư tử thực chất là thầy dạy võ - lạo slay cao tay
kiêm thầy thuốc, khi luyện tập múa sư tử, chẳng may bị thương tích, có sẵn rượu
thuốc để xoa bóp. Thuốc toàn là thảo dược ngâm rượu.Ngoài thầy dạy múa sư tử,
trong đội múa sư tử còn có một người ngoại giao viên - tông cha.Ngoại giao viên
có nhiệm vụ quan hệ với bên ngoài để tố chức biểu diễn.Trong
diễn toàn là
những người biết võ khá giỏi.Độ 2 - 3 người thay nhau làm đầu sư tử để múa và
có một số người (khoảng 5-6 người) đóng vai khỉ và một người đóng vai đười
ươi.Khỉ và đười ươi có nhiệm vụ múa biểu diễn võ thuật và làm hề đùa nghịch với
sư tử. Khỉ và đười ươi tìm đủ mọi cách để chọc tức sư tử. Con thú dữ này nhiều
lúc phát khùng định nhe răng ngoạm đầu đười ươi và khỉ, nhưng lũ này dùng đủ
miếng võ để né tránh một cách tài tình. Múa sư tử trong hội lùng tùng không
những vì nó khỏe mạnh, khoẻ khoắn, diễn nhiều trò hề hấp dẫn, mà còn vì đồng
bào cho rằng, sự xuất hiện sư tử là điềm lành, cảnh tượng thái bình. Theo tín
ngưỡng dân gian, múa sư tử diệt trừ được ma tà, quỷ quái, nhất là diệt trừ được
ma ôn dịch, tránh được nạn tới
gia súc. Đồng bào Nùng có
câu tào mộc nư chu sầy hon hỉ,
Kỷ lằn sáy chỉ hùng kha cai
(cây cỏ khăp nơi đều vui vẻ,
phố phường rực ánh bóng kỳ
lân) .
Lễ hội lùng tùng đã để lại ấn
tượng sâu sắc đối với du
khách.
Chuẩn bị mâm cổ trong lễ Tết (Ảnh sưu tầm)
Lễ tết: Đồng bào Nùng đều có
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 17 | 28
TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC NÙNG | Hoàng Trần
ngày lễ tết trong cả 12 tháng. Một số lễ tết được đồng bào quan tâm nhiều là: Tết
Năm mới, Tết 3/3 (Thanh minh), Tết 5/5, Tết 14/7, Tết ngày 15/8, Tết Dà Cháo
(23/Chạp).
Tết Năm mới: Năm mới, đối với tất cả cư dân nông nghiệp là năm sản xuất mới
cho nên được coi là tết quan trọng nhất liên quan đến việc làm ăn trong năm. Tết
năm mới được tính theo âm lịch. Từ sau Rằm tháng Chạp, nhất là sau ngày tiễn
Dà Cháo về trời, việc chuẩn bị tết được tiến hành khẩn trương, tính toán từng
ngày: ngày tu sửa lặt vặt nhà ngày lấy củi, ngày lấy lá, rửa lá gói bánh chưng,
ngày chưng cất rượu, ngày mổ lợn. Một số việc quan trọng trong chuẩn bị tết
Năm mới là tết, gói bánh chưng, chuẩn bị gà trống thiến, chuẩn bị cây nêu...
Đồng bào Nùng thường mổ lợn từ ngày 25 hoặc 26 tháng Chạp, vì theo tập quán
đồng bào cần lấy thịt lợn làm nhân bánh chưng tết. Bánh chưng được nấu trước
tất niên, để có bánh bày cúng tất niên. Gói bánh chưng tết có điều đáng chú ý là:
gói hai bánh to, có nhân thịt gọi là bánh bố và bánh mẹ để cúng ở bàn thờ t ổ tiên
và gói vài bánh chay không nhân thịt để cúng ở bàn thờ Phật. Những bánh còn lại
đều có nhân thịt lợn. Lượng bánh chưng gói trong dịp tết năm mới của mỗi gia
đình thường đủ ăn cho đến ngày Rằm tháng Giêng. Gà trống thiến là nét đặc
trưng cho tết năm mới các dân tộc Tày và Nùng. Gà trống thiến bé o, to là một
tiêu chí đánh giá ăn tết to hay không to. Gà trống thiến được tính toán thiến từ
tháng 8 âm lịch. Khoảng giữa tháng 10 âm lịch, các gia đình bắt đầu nhốt gà
trống thiến vỗ béo để đến tết mới có gà trống thiến to béo. Chiều ngày tất niên,
người Nùng cắm cây nêu ở trước nhà.Cây nêu, theo quan niệm của đồng bào,
không chỉ là một dấu hiệu ngày tết cho người đời thường, mà nó còn có ý nghĩa
như là một dấu hiệu cấm cửa đối với ma quỷ. Người Nùng ăn tết hết Rằm tháng
Giêng. Trong thời gian nửa tháng đó, lịch thời gian thường được bố trí như sau:
Sau bữa cơm tất niên cho đến hết ngày mồng Một, không đi đến nhà người khác.
Tuy nhiên sau giao thừa có tục pay lò nặm, lò bóc - đi lấy nước về pha trà và đi
hái lộc về cúng tổ tiên và cúng thổ công của từng gia đình. Ngày mồng hai đi
chúc tết bên ngoại và họ hàng bên nội; ngày tết có câu chúc đặc trưng: củng hỷ
phát sòi - chúc vui vẻ, phát tài. Nếu cần nói dài hơn, thì câu chúc cũng đã có sẵn:
cúng hỷ phát sỏi, birơn chiêng pi mâư, hât lăng ni mì, chí lăng t ủ đảy, hất nọi đẩy
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 18 | 28
TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC NÙNG | Hoàng Trần
lai, hất lai đảy tài. Nghĩa là chúc vui vẻ, phát tài, tháng Giêng năm mới, làm gì
cũng được, ước gì cũng thấy, ít thu nhiều, làm nhiều thu lớn; ngày mồng Ba tiếp
tục chúc tết và đi hội lùng tùng. Trong hội lùng tùng có nhiều trò chơi: trai, gái
hát giao duyên, trẻ em chơi ném còn, đánh diến, đánh quay, kéo co... Trong ba
ngày liền, từ đêm giao thừa cho đến hết ngày mồng Ba, hương trên bàn thờ không
được để tắt. Từ ngày mồng Bốn đến hết ngày Mười bốn, vẫn là không khí tết,
người ta đi chúc tết và đi lễ hội lùng tùng theo sở thích cá nhân. Ngày 15 tết, các
gia đình hạ cây nêu - sỉíp hả khả vả neo.Kết thúc tết năm mới.Tuy nhiên, ngày
cuối cùng của tháng Giêng còn tổ chức đắp nọi.Đắp nọi cũng được tổ chức trong
từng gia đình nhưng không có nhiều nghi thức nhộn nhịp như ngày tết Năm
mới.Từng gia đình, từ ngày hôm trước đã ra suối cố vớt lấy nhiều tép mang về
xào qua bày mâm cúng ở cửa chuồng gia súc, gia cầm.Chủ nhà tự khấn cầu thần
gia súc, gia cầm phù hộ cho đàn gia súc, gia cầm phát triển đầy chuồng, đầy sân.
Tết 3/3 là tết thanh minh, dân làng đi tảo mộ: sửa sang đắp phầ n mộ cho đẹp,
mâm cúng có vật cúng đặc thù là xôi nhuộm lá sau sau thành xôi đen. Ngoài ra
cũng có các thứ thịt lợn, gà canh măng... Tập quán này hiện nay vẫn còn khá
thịnh hành.Cả ngày 3/3, người đi đường hầu như tất cả đều là đi tảo mộ tổ tiên.
Tết 5/5: Tháng 5 thời tiết chuyển sang mùa hạ, nóng, ẩm, oi, cây cối phát triển,
côn trùng phát triển, người Nùng làm bánh tro ăn để diệt “sâu bọ” trong bụng, đi
hái lá cây làm thuốc, làm men rượu.
Tết 14/7 tết “Xá tội vong nhân”.Các thầy cúng người Nùng, gọi là tết cho người
âm.Theo quan niệm người Nùng có hai loại linh hồn sau khi chết không được
người sống nuôi dưỡng, bị đói triền miên.Đó là người chết mà khi sống làm nhiều
điều tội lỗi. Khi chết bị bắt đi giam trong ngục của Diêm Vương và người chết
mất tang, mất xác, con cháu không biết để thờ cúng. Linh hồn của người chết có
nhiều tội lỗi bị Diêm Vương bắt giam, đến ngày 14/7, được thả tự do đi kiếm ăn.
Ngày 14/7, người Nùng tổ chức tết, cúng bái và cho hai loại linh hồn này ăn
uống, Chính vì vậy mà gọi là tết cho người âm. Lễ vật cúng, cũng là món đặc
trưng tết 14/7 là thịt vịt, bún vịt và bánh gai các loại.
Tết tháng 8 ngày 15 ăn cơm mới, làm xôi trám đen. Nếu có lúa sớm được gặt thì
nấu cơm bằng gạo mới, Nếu chưa có gạo mới thì dùng khoảng chục bông lúa hấp
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 19 | 28
TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC NÙNG | Hoàng Trần
vào nồi cơm mới. Đây cũng là tết vui chơi, trẻ em ăn bánh nướng - pỉnh. Tối hôm
rằm, các cụ hay ngắm trăng đoán định thời tiết năm sau. Ngắm nhìn trăng, người
Nùng có câu: Quăng lếch phụ rtoòng, quang toòng phạ lẹng, nghĩa là “Vòng sắt
trời mưa, Vòng đồng đại hạn”. Câu này tương đương với câu: “Trăng quầng đại
hạn, trăng tán trời mưa”. Tết Dà Cháo tổ chức vào ngày 23 tháng Chạp. Người
Nùng làm cơm cúng tiễn Dà Cháo lên trời để báo cáo công việc của gia đình
trong năm cũ. Tối ngày 1 tháng Giêng làm mâm cỗ đón Dà Cháo về cai quản gia
đình cả năm mới. Mâm cỗ đón Dà Cháo được bày ngay cạnh bếp nấu ăn.
3.9. Gia đình, dòng họ
Gia đình của người Nùng là tiểu gia đình phụ hệ. Trong gia đình dòng dõi được
tính theo dòng cha. Các con cái cùng một cha mẹ sinh ra, ai nhìn thấy trời trưởc
là anh. hoặc chị - ai nhiều tuổi thì là anh, hoặc chị; chú con bác cũng tính theo
tuổi tác của bản thân từng người để xác định vị trí anh hoặc chị, em, chứ không
tính theo vai vế của bố như người Kinh, người Tày. Gia đình người Nùng là gia
đình phụ quyền.Người cha, con trai trưởng có quyền hành lớn trong việc giải
quyết mọi việc gia đình và quan hệ cộng đồng và quan hệ xã hội.Khi phân chia tài
sản, chỉ những người con trai được thừa kế tài sản cố định.Theo phong tục khi lúa
ruộng, thì có một suất ruộng chưọmg lạo - ruộng dưỡng lão, nuôi cha mẹ già.
Phần ruộng này thường giao cho con trai trưởng để sau này khi cha mẹ về với tổ
tiên thì có trách nhiệm làm tang ma chu đáo. Tất cả con trai đều có trách nhiệm
thờ tổ tiên, lập bàn thờ tổ tiên riêng trong từng gia đình để thờ.
Người Nùng có quan hệ ba dòng họ, đó là họ nội, họ ngoại và thông gia.Mối quan
hệ ba dòng họ này, ở các dân tộc đều có, nhưng gọi lại từng dòng họ có thể khác
nhau. Người Thái gọi mối quan hệ ba dòng họ này là: “Ải noọng, lúng ta và nhính
sao”. Trong quan hệ ba dòng họ này, quan hệ trong họ nội là mối quan hệ có tính
tổng thể, toàn diện hơn trong đời thường và trong đời sống tâm linh; còn họ ngoại
và thông gia thì nặng về nghi lễ liên quan đến đời sống tâm linh trong gia đình
cũng như trong họ hàng.
3.10.
Tục lệ cưới xin
Người Nùng rất coi trọng các tục lệ liên quan đến cưới xin, vì đó là việc trăm
năm và mỗi người chỉ nên có một lần trong đời.Mỗi động tác, mỗi thủ tục trong
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 20 | 28
TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC NÙNG | Hoàng Trần
cưới xin đều được tính toán
không chỉ từ phía đời thường,
mà quan trọng không kém là
từ phía tâm linh. Những nghi
lễ chính cho một đám cưới
gồm: Lễ dạm hỏi (kham lùa),
Lảu nựa, khả cáy, lảu.
Dạm hỏi - khẳm lùa: Trước
khi đi dạm hỏi, nhà trai đã có
một thời gian đưa tin trong họ
hàng, làng xóm, gán ghép
chàng trai với cô gái. Nếu cô
gái có chút quan hệ họ hàng xa
Cô dâu chú rễ trong lễ cưới (Ảnh sưu tầm)
với chàng trai, thì hai người phải "lang chỏ” khác ông tổ (khác cụ) tức là phải
cách nhau 5 thế hệ trở lên, mới được lấy nhau. Sau một thời gian độ 2 - 3 tháng
nghe ngóng dư luận, người tán vào, kẻ bàn ra, bàn luận, so sánh cái được cái
không, sự cân tài sắc và các điều thuận lợi, khó khăn khác, nhà trai quyết đ ịnh đi
dạm hỏi. Dạm hỏi là nghi lễ chính thức đầu tiên của tục lệ cưới xin. Bố nhà trai
sang nhà gái đặt vấn đề chính thức muốn lấy cô gái của chủ nhà làm vợ cho con
trai mình. Lễ vật mang theo thường là một miếng thịt lợn khoảng một kilôgam và
một chai rượu, có thể thêm một vài gói bánh, kẹo cho trẻ nhỏ. Nhà gái tổ chức
bữa cơm tiếp đón. Sau bữa cơm đó nhà gái thông báo chính thức cho họ hàng và
cô gái để thăm dò phản ứng xem có đồng tình hay không.
Lễ Ẩu mình - lấy lá số: Lần này bên nhà trai đến nhà gái với lễ vật tương tự như
dạm hỏi. Mục tiêu cuộc này là lấy lá số của con gái chủ nhà về so với lá số của
con trai mình, xem có hợp nhau không. Cơ sở lý thuyết xem lá số là Triết học cổ
điển Trung Quốc: “Âm dương ngũ hành, tương sinh tương khắc”.
Lễ Mình hom - lá số hợp nhau: Sau khi so lá số của chàng trai và cô gái hợp
nhau, bên nhà trai đến nhà gái để thông báo chính thức kết quả xem lá số là tốt
lành (nếu hai lá số không hợp nhau thì không có nghi lễ này và chấm dứt thủ tục
cưới hỏi). Trong nghi lễ này, hai bên cùng nhau bàn bạc về nghi lễ khả cáy, với
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 21 | 28
TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC NÙNG | Hoàng Trần
các nội dung chủ yếu là ngày tháng tổ chức và lễ vật cho lễ khả cáy.
Lễ Khả cáy - lễ đính hôn: Nhà trai mang lễ vật đến nhà gái, chủ yếu là một con
lợn có trọng lượng móc hàm khoảng 50 kilôgam để tổ chức bữa tiệc thông báo
chính thức việc đính hôn giữa chàng trai và cô gái. Sau lễ khả cáy, việc đi đến
hôn nhân đã được khẳng định, chỉ còn chờ ngày tổ chức lễ cưới. Người ta cũng
thoả thuận về số tiền nhà trai cần đưa cho nhà gái để nhà gái sắm sửa một số thứ
cần thiết cho một gia đình mới xây dựng theo phong tục như: chăn bông, màn,
chiếu, xoong nồi. chậu rửa mặt, cuốc, kiềng...
Kin lảu - Lễ cưới: Lễ cưới được tổ chức vào ngày lành tháng tốt và tổ chức ở hai
bên gia đình: bên nhà gái trước, bên nhà trai sau. Thường trước đây, tổ chức hai
ngày, ngày hôm trước tổ chức cưới ở bên nhà gái, ngày hôm sau tổ chức cưới ở
bên nhà trai. Mọi chi phí (một con lợn khoảng một tạ) cho tiệc cưới ở bên nhà gái
do nhà trai chịu.
Việc đón dâu được thực hiện một cách nghiêm túc theo phong tục . Đoàn đón dâu
có ông mối, chú rể, phù rể, cô đón; lễ vật mang theo để đón dâu là một con lợn
quay khoảng 30 kilôgam móc hàm. Trên đường đến nhà cô dâu, dọc đường, gặp ai
cũng phải mời thuốc lá (nam), trầu (nữ); gặp đoàn đón dâu khác phải tr ao đổi
thuốc và trầu, qua cầu phải bỏ tiền xuống dưới cầu. Đến cổng nhà gái, thường bọn
trẻ hay chăng dây ngang đường không cho đi qua. Muốn được qua phải cho kẹo
bọn trẻ. Có cả trường hợp người lớn chăng dây ngang cổng không cho vào nhà.
Lúc đó người làm mối phải cất tiếng hát quan lang (quan nghĩa kì lứa, lang là cái
dây). Cuộc hát đối đáp khá lâu, thông thường cũng phải mấy tiếng đồng hồ. Nội
dung cuộc hát này là phía người chăng dây hỏi, đoàn (đón dâu) ở đâu đến, có việc
gì mà vào đây. Đến đón dâu, chú rể ra mắt tổ tiên, mời rượu các bậc cha chú, bậc
anh chị của cô dâu mỗi người một chén rượu và người được mời rượu có quà cho
chú rể. Đến giờ tốt, cô dâu đi từ sàn nhà theo thang trong nhà đi xuống gầm sàn,
rồi đi ra sân để về nhà chồng. Lúc này cô dâu khóc to, vì phải đi lấy chồng, phải
xa cha mẹ và người thân trong gia đình. Trên đường đi đến nhà chồng, đoàn đón
dâu cũng phải lặp lại những việc làm như trên đường đi đón dâu: gặp người đi
đường phải mời thuốc, trầu, qua cầu phải bỏ tiền xuống gầm cầu, đến nhà chú rể
cũng phải hát quan làng. Vào nhà chú rể, cô dâu không đi lên sàn từ phía trước
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 22 | 28
TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC NÙNG | Hoàng Trần
nhà, mà phải đi vào gầm sàn, rồi từ gầm sàn đi theo cầu thang lên nhà. Tại cạnh
cửa gầm, người ta làm một mâm cỗ giả (oản bằng tro bếp), cô dâu đến đó, dừn g
lại một chút, chân khẽ chạm vào mâm cỗ, làm mâm cỗ bị đổ và cô dâu nhanh
chân bước vào sàn. Việc làm này được giải thích là khi cô dâu đi ra cửa sang nhà
chồng, con ma nhà cô dâu đi theo. Khi cô dâu dừng chân cạnh mâm cỗ, con ma sà
vào ăn cỗ. Cô dâu khẽ chạm chân vào mâm làm mâm cỗ đổ, con ma theo cô dâu
bị ngã, khi cô dâu bước nhanh chân vào nhà chồng, con ma chưa kịp đi theo vào
thì một bức “tường thép” vô hình đã ngăn không cho con ma theo cô dâu vào nhà.
Bằng động tác này, người ta tách ma theo cô dâu ra khỏi cô dâu và sau đó thầy
cúng nhập vía cô dâu vào cho ma nhà chú rể quản lý. Ở nhà chú rể, cô dâu cũng
phải lạy tổ tiên, mời rượu bậc cha chú, bậc anh, chị của chú rể và người được mời
cúng cũng có quà cho cô dâu.Tục lại mặt được thực hiện sau ngày cưới 3
hôm.Một điều đáng chú ý là người làm mối cho đám cưới là người bên họ mẹ chú
rể, thường là ông cậu. Ông cậu đóng vai trò người đại diện cho nhà trai trong quá
trình giao dịch trước khi cưới, trong khi cưới và là bố nuôi (vợ ông là mẹ nuôi)
của cô dâu. Cô dâu, sau này có nghĩa vụ đối với bố mẹ nuôi như con đẻ. Căn cứ
vào tuổi tác, con nuôi được xếp thứ bậc trong hàng các con của gia đình.
3.11.
Tập quán sinh đẻ và nuôi con nhỏ
Sau khi lấy chồng, về nguyên tắc, người con gái sang cư trú bên nhà chồng,
nhưng theo tập quán cô gái không sang nhà chồng ở hẳn ngay, mà chỉ đi lại, mỗi
lần có việc gì đó, nhà chồng sang đón, cô gái sang ở nhà chồng vài ba hôm, lại
quay lại ở nhà bố mẹ đẻ. Quá trình đi lại này kéo dài 2 - 3 năm, khi nào có bầu
sắp đến ngày đẻ cô gái mới sang ở hẳn bên nhà chồng chờ ngày sinh con. Lấy
chồng mà sinh sớm là rất xấu hổ. Khi sinh con so dược 3 ngày, bà ngoại sang
thăm cháu đưa bàn thờ bà mụ và chiếc nôi đến cho cháu. Trẻ sinh ra được mẹ và
cả nhà chăm sóc cẩn thận, sau này cho đi học. Bình thường con trai theo bố, con
gái theo mẹ đi làm, vừa làm vừa học trong tình thương yêu hết sức cao quý. Dư
luận cộng đồng lên án những người bố, người mẹ lừa dối con văng tục, ngược đãi
con, không quan tâm dạy bảo con, không có tình thương với trẻ và coi đó là việc
làm vô đạo đức, phải gánh chịu hậu quả. Với đứa trẻ có mệnh học trò thì từ 7 đến
12 tuổi còn được cha mẹ làm “chá lẹ pít chia” - cấp giấy bút đi học.
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 23 | 28
TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC NÙNG | Hoàng Trần
Người Nùng có tục nhận con nuôi - lục chượng. Con nuôi là do yêu cầu từ phía
bố mẹ đứa trẻ. Bố mẹ đứa trẻ muốn gừi con cho ai đó nuôi, chứ không phải do
yêu cầu từ người nhận con nuôi. Người được ngắm chọn làm bố mẹ nuôi là người
có uy tín lớn trong cộng đồng, kể cả trong cuộc sống đời thường và đời sống tâm
linh.Khi bố mẹ đã ngỏ lời mún nhận ai đó làm bố mẹ nuôi của đứa trẻ của mình
thì người đó thường nhận, không mấy khi từ chối. Có nhiều cớ để gửi con nuôi
như: nhận con nuôi do làm muối lục chượng hất mòi, lục càu - con nuôi do cẩu tự
có, lục ký - con nuôi gửi ăn cơm nhờ họ, lục slay - con học nghề thầy, con nuôi
nhận cùng họ nhưng không có quan hệ huyết thống, con nuôi chữa khỏi bệnh nan
y... Tất cả các con nuôi đều có quan hệ với bố mẹ nuôi như con đẻ và ngược lại
bố mẹ nuôi cũng có trách nhiệm với con nuôi như con đẻ. Chỉ có một điề u khác là
các con nuôi không được thừa kế bất động sản do bố mẹ nuôi để lại. Trên thực tế,
cho đến hiện nay, những người có uy tín lớn trong cộng đồng, mới 45 tuổi mà đã
có tới nhiều người con.
Hat khoăn - sinh nhật: Người Nùng có tục làm sinh nhật cho người còn sống. Khi
chết rồi không làm giỗ như người Tày.Theo tập quán, khi tuổi đời khoảng 40 trở
lên, có con cái đã lớn, con có trách nhiệm làm sinh nhật cho cha, cho mẹ. Có hai
nguyên tắc để tổ chức sinh nhật là: thứ nhất, con làm sinh nhật cho cha, mẹ chứ
cha mẹ không tự làm sinh nhật cho mình; thứ hai, trong gia đình chỉ có một thế hệ
được làm sinh nhật, nếu cha mẹ còn, hàng năm vẫn làm sinh nhật cho cha mẹ, thì
thế hệ con cái dù có nhiều tuổi, có nhiều con, có cả cháu cũng không đượ c tổ
chức sinh nhật. Sinh nhật được tổ chức như một nghi lễ và nghi lễ quan trọng
nhất trong sinh nhật là lễ Pủ lường - bù thêm lương thực cho người được tổ chức
sinh nhật. Điều này quan trọng, vì người Nùng tin vào số mệnh mà Nam Tào cho
ăn, cho sống. Ẳn hết gạo Nam Tào cho, thì chết. Thường là hù thêm thóc gạo vào
kho để có thêm thóc gạo ăn được lâu hơn, do đó sống được lâu hơn. Lễ sinh nhật
được tổ chức hàng năm, chủ nhà chỉ mời người trong họ hàng năm đầu tiên, các
năm sau đó mọi người tự liên hoan. Trong lễ sinh nhật, con gái thường có quà đến
biếu cho người được tổ chức sinh nhật. Quà cao nhất là một con lợn quay, còn
quà thông Ilurờng là một con gà và hai miếng bánh giầy hình tròn, đường kính
khoảng 30 cm và độ dày khoảng 3cm. Tan tiệc sinh nhật, chủ nhà trả lại quà cho
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 24 | 28
TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC NÙNG | Hoàng Trần
con gái một nửa quà mang đến.
3.12.
Tập quán tang ma
Tang ma là nghi thức dành cho người chết. Người Nùng cũng quan niệm con
người có xác và hồn. Khi người còn sống là vía, nhưng khi chết vía biến thành
hồn. Các cụ hay kể với con cháu rằng, nhà nào có người ốm nặng thấy hồn bay ra
ba lần thì nghĩa là người đó đã chết. Làm tang ma chính là để đưa xác đi chôn và
tiễn linh hồn về thế giới bên kia. Sau khi khâm liệm người chết, việc tang ma
được thực hiện trong vòng khoảng ba đến năm ngày, tuỳ theo họ hàng đông người
hay ít người.
Theo phong tục, tất cả con cái: con trai, con gái, con dâu, con rể của nhà có người
chết chỉ ngồi chịu tang, túc trực suốt ngày, đêm bên cạnh linh cữu, không tham
gia việc làm cụ thể nào cả.
Mọi việc liên quan đến tang ma: chống lại nhà sàn cho chắc (chịu sức nặng hàng
trăm người), chống lại sàn ngoài nhà, làm cầu thang tạm thời để đi lên đi xuống,
lo củi đóm, nước ăn, nấu nướng cho gia đình, cho khách và cho thầy cúng, phục
vụ việc cúng tế của thầy, lập đàn cúng, thắp hương, rót rượu khi cúng, làm nhà
lườn bao, làm dàn khiêng quan tài, đào huyệt, khiêng quan tài, lấp huyệt... tất cả
đều được giao cho phe - hội hiếu đảm nhiệm.
Ngoài các việc làm trên, mỗi gia đình - thành viên hội hiếu còn phải đóng góp
cho tang chủ một chai rượu và hai ống gạo.Hội hiếu có kỷ luật rất nghiêm ngặt,
khi đã báo có việc hiếu, thì không chấp nhận lý do vắng mặt. Vi phạm kỷ cương
của hội sẽ bị đuổi ra khỏi hội, bị cộng đồng ghẻ lạnh, khinh bỉ và khi nhà có
người chết, hội hiếu sẽ không đến giúp.
Theo phong tục làm ma, họ nội đóng góp gạo, rượu và phà, phượn, con gái làm
cây tiền, cháu gái làm co xa, co cháy, va doóc và hòm họ ngoại thì làm ngựa giấy.
Họ ngoại có vai trò rất quan trọng trong đám tang ma: Họ ngoại chưa đến, chưa
có mặt để chứng kiến thì người chết chưa được nhập quan tài. Khi tế dâng của cải
cho người chết thì con ngựa của họ ngoặi phải tế đầu tiên, sau đó mới được tế các
thứ khác.
Khi tế dâng cây tiền cho cha (mẹ), con gái thường mổ lợn và có thể đưa thầy cúng
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 25 | 28