Tải bản đầy đủ (.pdf) (17 trang)

Tổng quan dân tộc Mường (PDF,Word)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1004.56 KB, 17 trang )

TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC MUỜNG | Hoàng Trần

TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC MUỜNG

MỤC LỤC:
1.

Vài Nét Về Dân Tộc Mường ................................................................................................. 2

2.

Kinh Tế Truyền Thống ......................................................................................................... 2

3.

2.1.

Trồng trọt.......................................................................................................................... 2

2.2.

Chăn nuôi ......................................................................................................................... 3

2.3.

Khai thác tự nhiên ............................................................................................................ 4

2.4.

Ngành nghề thủ công........................................................................................................ 4


2.5.

Trao đổi, mua bán............................................................................................................. 5

Văn hoá truyền thống ............................................................................................................ 6
2.6.

Làng .................................................................................................................................. 6

2.7.

Nhà ở ................................................................................................................................ 6

2.8.

Y phục, trang sức ............................................................................................................. 7

2.9.

Ẩm thực ............................................................................................................................ 9

2.10.

Phương tiện vận chuyển ............................................................................................. 10

2.11.

Ngôn ngữ .................................................................................................................... 10

2.12.


Tín ngưỡng tôn giáo ................................................................................................... 10

2.13.

Lễ Hội ......................................................................................................................... 11

2.14.

Văn hóa xã hội ............................................................................................................ 14

2.15.

Gia đình, dòng họ ....................................................................................................... 14

2.16.

Tục lệ cưới xin ............................................................................................................ 14

2.17.

Tập quán tang ma ....................................................................................................... 15

2.18.

Văn nghệ dân gian ...................................................................................................... 15

N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 1 | 17



TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC MUỜNG | Hoàng Trần

1. Vài Nét Về Dân Tộc Mường
Dân số : 1.268.963 người (2009)
Ngôn Ngữ: thuộc nhóm ngôn ngữ Việt Mường.
Tên gọi khác: Mual, Moi, Au tá, Ao tá
Nhóm địa phương: Ao Tá (âu tá), Mọi Bi
Địa bàn cư trú:Hòa Bình, Thanh Hóa, Phú
Thọ, Sơn La, Hà Nội

Địa bàn cư trú:
Người Mường sống tập trung tại tỉnh Hòa Bình (63,9%), Thanh Hóa (10%), Phú
Thọ, Sơn La, Hà Nội.

2. Kinh Tế Truyền Thống
2.1. Trồng trọt
Người Mường sinh sống bằng nghề
làm ruộng, cây trồng chính là cây
lúa. Đồng bào trồng lúa “nếp”
nhiều hơn lúa tẻ. Do sinh sống ở
miền núi, để làm ruộng nước, đồng
bào thường phải khai thác các triền
đất, các sườn đồi thành ruộng bậc
thang. Người Mường làm ruộng
bậc thang với kỹ thuật cao, gồm
các khâu: cày, bừa, gieo mạ, cấy
lúa, làm cỏ, bón phân cho cây lúa.
Khâu làm đất dùng trâu, bừa cày
mộng là phổ biến. Tuy nhiên có nơi, do loại đất, đồng bào chỉ dùng trâu giẫm cho nát
nhuyễn đất, rồi cấy luôn. Sau cấy độ một tháng, đồng bào làm cỏ cho cây lúa một lần. Để

tăng chất màu, đồng bào Mường thường bón phân cho cây lúa. Đồng bào không chỉ tận
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 2 | 17


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC MUỜNG | Hoàng Trần

dụng các dòng chảy của sông, suối đưa nước vào ruộng mà còn làm cọn nước để đưa
nước lên cao, khai thoáng máng cho dòng nước chảy vào ruộng ở cao hơn mực nước
sông.. mà dòng chảy tự nhiên không thể chảy vào được.
Dân tộc Mường còn trồng trọt trên nương rẫy. Nếu ruộng chuyên trồng lúa nước, thì trên
nương lại chuyên trồng ngô. khoai, sắn. Các loại cây trồng này được đồng bào sử dụng
làm thức ăn chăn nuôi lợn, gà, vịt, nhưng cũng có thể được sử dụng như nguồn lương
thực dự phòng khi mùa màng thất bát, cây lúa nước bị thất thu do hạn hán.
Ngoài cây lương thực, đồng bào Mường ở tỉnh Thanh Hoá còn trồng một số cây khác có
giá trị kinh tế như: cây luồng, cây trẩu, cây sở; vài vùng khác trồng cây quế, cây gai, cây
đay, cây bông, cây dâu nuôi tằm, cây lấy cánh kiến. Một số nơi có trồng rau xanh, trồng
cây ăn nhưng chưa nhiều, chưa thành tập quán phổ biến trong các gia đình.
2.2. Chăn nuôi
Đồng bào Mường chăn nuôi
đại gia súc: trâu, bò theo
phương thức ban ngày thả
trâu, bò vào rừng tự kiếm cỏ
ăn, chiều tối lùa trâu, bò vào
chuồng. Trâu, bò được nuôi
để làm sức kéo: cày ruộng,
nương, kéo gỗ... nhưng đồng
thời trâu, bò cho nguồn phân
chuồng để bón cho ruộng,
nương và các loại cây trồng
khác. Nuôi trâu, bò còn có

mục đích sử dụng vào việc

Chăn nuôi Dê của đồng bào Mường

ăn thịt trong các dịp cưới xin, ma chay, lễ tết và cho đồng bào miền xuôi. Chăn nuôi trâu,
bò được thực hiện trong gia đình. Mỗi gia đình thường nuôi dăm, bảy con đại gia súc.
Tiểu súc cũng được nuôi nhiều trong các gia đình đồng bào Mường. Đó là chó, mèo. Chó,
mèo nuôi để giữ nhà, còn lợn thì chủ yếu để ăn thịt làm vật hiến sinh trong các nghi lễ
cúng bái, cưới xin, tang ma và cũng để bán.
Gia cầm được nuôi phổ biến là gà, vịt. Cách nuôi cũng chủ yếu chăn thả ra vườn, ra đồi
núi để tự kiếm ăn ban ngày, chiều tối gọi về cho ăn một bữa rồi chúng tự vào chuồng ngủ
đêm.
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 3 | 17


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC MUỜNG | Hoàng Trần

Trong môi trường rừng núi, một số gia đình nuôi ong lấy mật sáp. Mật ong dùng để ăn,
nhưng cũng để bán hoặc làm vật trao đổi hàng
Ở một số nơi đồng bào nuôi tằm lấy tơ dệt lụa.
2.3. Khai thác tự nhiên
Đồng bào Mường tận dụng môi trường tự nhiên để thu hái lâm, hải sản; săn bắt muông
thú. đánh cá. Sản vật trên núi rừng là nguồn cung cấp thực phẩm thường xuyên cho đồng
bào Mường. Hàng ngày đi làm nương, ngoài đồng ruộng, lúc về nhà, chị em phụ nữ
thường tranh thủ hái rau rừng, măng rừng hoặc lấy bó củi về đun. Lúc đói kém, người
Mường vào rừng đào củ mài, củ nâu, hạ cây báng về chế biến ăn thay cơm. Nấu hương,
mộc nhĩ, mật ong rừng, quế cũng được đồng bào hết sức chú tâm thu hái, bởi đây được
coi là thứ đặc sản rừng. Những sản vật này không chỉ có giá trị sử dụng cao, mà còn có
giá trị kinh tế lớn, có thể đem bán ở ngoài chợ bất kì mùa nào. Con trai đồng bào Mường
cũng hay đi đánh bẫy, săn đuổi, săn rình các con thú nhỏ và hạ thủ chúng bằng súng kíp,

súng hoả mai. Trong bản làng người Mường, gia đình nào cũng có súng để sử dụng vào
việc săn bắn thú rừng. Việc săn bắn thú rừng vừa để bảo vệ mùa màng vừa để cải thiện
cuộc sống và điều quan trọng nhất là rèn tính can đảm trước sự “uy hiếp” của thú rừng
đối với con người như mùa màng. Người Mường hay đánh bắt cá, mò cua, bắt ốc ao,
đầm, hồ và những con sông, con suối hoặc trên đồng ruộng khi vào mùa cày cấy. Người
nam giới nào cũng biết đánh cá trên sông suối, hồ. Công cụ đánh cá khá đa dạng: chài,
lưới, đơm, đó, đăng. Ngoài cách vây đánh bắt, người Mường còn dùng cách đánh cá bằng
thuốc lá một số nơi, người Mường có thói quen đánh cá vào dịp cuối năm, Mực nước ở
các ao, hồ, sông, suối xuống thấp, đồng bào hay đánh cá để lấy thực phẩm dự trữ ăn trong
những ngày tết cổ truyền.
2.4. Ngành nghề thủ
công
Ngành nghề thủ công phổ
biến ở đồng bào Mường là
nghề dệt, đan lát song, mây,
tre và nghề mộc làm nhà
cửa. Trong từng gia đình,
phụ nữ ai cũng biết dệt vải,
nam giới ai cũng biết đan
lát, làm mộc.

Nghề dệt thủ công của người Mường (Ảnh minh họa)
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 4 | 17


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC MUỜNG | Hoàng Trần

Nghề dệt được chị em phụ nữ đảm nhiệm từ khâu trồng bông, kéo sợi, dệt vải, dệt thổ
cẩm, nhuộm, cho đến khâu cắt may, khâu thành
quần, váy mặc. Sản phẩm dệt của đồng bào Mường không chỉ được sử dụng làm‘ làm y

phục, mà còn được dùng làm chăn đắp, làm màn gió, màn cửa buồng ngủ, làm màn
chống muỗi. Kỹ thuật dệt thổ cẩm của người Mường rất độc đáo. Vải thổ cẩm làm nên
những tấm váy Mường nổi sóng đẹp với những mô típ hoa văn hình rồng, hình phượng,
hươu, rùa, rlúm... có tính thẩm mĩ cao. Nghề dệt thổ cẩm của người Mường rất độc đáo
với kỹ thuật dệt chiếc thắt lưng.
Vùng người Mường sinh sống có sẵn các sản vật: tre, luồng, song, mây. Đàn ông Mường
sử dụng các sản vật đó để đan những đồ gia dụng như thúng, mủng, giần, sàng, nong nia;
đan các công cụ dùng đánh bắt cá như: đơm, đó, giỏ; dùng dây gai, dây đay để đan chìa,
lưới đánh cá.
Người Mường cũng như các dân tộc khác, tự làm lấy nhà để ở. Kỹ thuật làm nhà của
người Mường đã đạt đỉnh cao của kỹ thuật đục, bào. Tuy nhiên ở nhiều nơi kỹ thuật dựng
nhà vẫn chưa vượt qua kỹ thuật thô sơ ban đầu, tức là dùng ngoãm để đặt xà ngang, quá
giang, cột nhà chôn thẳng xuống đất.
2.5. Trao đỏ i, mua bá n
Tuy nền kinh tế tự túc, tự cấp là chính, nhưng bước đầu có một số hoạt động mua bán ở
trong vùng người Mường. Đó là sự hình thành các chợ nông thôn. Trong các chợ này,
đồng bào Mường bán các loại hàng nông sản như: trâu, bò, lợn, gà, vịt, ngô, khoai, sắn,
thổ cẩm; bán các lâm sản như măng khô, mật ong, nấm hương, mộc nhĩ, quế; mua các
hàng nhu yếu phẩm như muối, dầu thắp, kim khâu, sách vở, giầy bút cho trẻ em đi học;
mua các loại công cụ sản xuất như: lưỡi cuốc, cày, thuổng, xẻng, dao, búa...

N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 5 | 17


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC MUỜNG | Hoàng Trần

3. Văn hoá truyền thống
2.6. Làng
Làng của dân tộc Mường được
dựng ở chân núi, thông thường

trước làng có vùng đất bằng để
khai phá thành ruộng nước, cấy
lúa; làng là đồi núi thấp, có thể
khai phá thành nương rẫy, trồng
ngô, kho sắn bông, dâu nuôi tằm.
Mỗi làng có địa giới được dân
bản quy định với nhau, không có
văn bản phân chia địa giới làng,
mà chỉ là truyền miệng, nhưng
được mọi người tôn trọng nghiêm túc. Trong địa phận của làng có hai loại đất là đất đã
được khai thác và đất chưa được khai thác. Đất đã được khai thác là đất ruộng, đất
nương, đất trồng các loại cây, đất ao hồ của các gia đình trong bản. Tuyệt nhiên không có
người ở làng khác vào đây khai phá ruộng, nương...; đất làm nhà ở, làm các chuồng trại
gia súc. Còn đất chưa được khai thác là đất rừng, đất chung của cả làng để cho cả làng
chăn gia súc, thu hái lâm thổ sản và cũng là đất dự trữ để dân làng có thể khai phá thành
ruộng, nương, làm nhà ở khi xuất hiện nhu cầu mới. Một làng của dân tộc Mường còn có
hệ thống thuỷ lợi chung của làng, do dân làng cùng góp sức xây dựng nên.
Là cư dân sống định canh, định cư lâu đời, làng của người Mường khá đông đúc, mỗi
làng có hàng chục đến vài chục nóc nhà. Cư dân trong làng thuộc nhiều dòng họ khác
nhau, cùng chung sống, làm ăn hoà thuận với nhau. Trong làng, người Mường dựng một
chiếc miếu thờ thổ công và đặc biệt hơn là trong rừng của làng thường có cây si - nơi
thần linh trông coi bản cư trú. Ngoài ra, trong làng người Mường thường có hủn| cau cao,
làm nổi lên nét văn hoá làng riêng của dân tộc Mường.
2.7. Nhà ở
Nhà ở truyền thống của người Mường là nhà sàn - nhà gác. Nguyên liệu làm nhà là
những cây que, gỗ tre, nứa, lá... sẵn có tại địa phương nơị đồng bào sinh sống. Đồng bào
vào rừng chặt lấy cây về làm nhà chứ không phải đi mua. Kỹ thuật làm nhà có thể chia
thành hai trình độ: kỹ thuật phu lật dùng cội nguồn, chôn xuống đất và kỹ thuật dùng cột
kê. Những gia đình giàu sang thường làm nhà với kỹ thuật cao lum - dùng cột kê, lắp
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 6 | 17



TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC MUỜNG | Hoàng Trần

ghép mộng; còn đại đa số thường
làm nhà cột chôn xuống đất. Nhà có
4 mái: hai mái chính và hai mái nhỏ
ở đầu hồi. Nhà người Mường thường
mở cửa đi lại ở hai đầu hồi nhà, cầu
thang lên nhà được đặt ở dưới mái
nhà cho nên thang không bị mưa.
Mái nhà người Mường thường thấp
so với sàn người ở. Từ mặt sàn người
ở có một số cửa sổ, cửa sổ này được
mở từ sát mặt sàn. Trong nhà người
Mường có bàn thờ tổ tiên và còn có
cột ma cho con ma đi lại. cỏ lui bếp, một bếp nấu ăn, một bếp để sưởi và đun nước uống,
tiếp khách. Dưới sàn nhà ở là nơi để cối giã gạo, các công cụ sản xuất như cày, bừa, cuốc
xẻng, các đồ đan, nhưng cũng có nơi làm cả chuồng nhốt gia súc như chuồng trâu,
chuồng bò, chuồng lợn và làm chuồng nhốt gia cầm như gà, vịt, ngan, ngỗng.
Mỗi ngôi nhà ở hầu như đều có hàng rào bằng tre, nứa hoặc bằng cây xương rồng để hạn
chế trộm cắp và đề phòng thú dữ làm hại. Mỗi ngôi nhà cũng là nơi ở của một gia đình.
Gia đình dân tộc Mường là tiểu gia đình phụ hệ mỗi gia đình thông thường chỉ có hai thế
hệ cùng sinh sống, đó là cha mẹ và các con. Ngày trước thường mỗi gia đình có đến 5-7
con, cho nên trong mỗi gia đình thường khá đông người. Một số gia đình còn có cả ông
bà cùng sinh sống, cho nên thành ba thế hệ. Con cái sinh ra lấy họ cha. Họ từng gia đình,
từng dòng họ cũng căn cứ vào họ của người cha . Họ người cha là họ nội, còn những
người bên họ mẹ là họ ngoại.
2.8. Y phục, trang sức
Bộ y phục của người Mường được làm bằng vải bông. Chị em phụ nữ Mường là người

làm ra vải, may quần áo, váy cho cả gia đình dùng. Vải không chỉ để làm ra y phục, mà
còn dùng làm chăn, màn chống muỗi, màn gió che cửa buồng ngủ của phụ nữ, màn gió để
trang trí nơi thờ phụng trong gia đình. Với nền kinh tế tự túc, tự cấp, đồng bào tự lo cả
các khâu làm quần áo như: trồng bông, dệt vải, nhuộm, cắt, may thành quần, áo cho nam
giới; cắt, may áo váy cho phụ nữ. Người Mường cũng như nhiều dân tộc khác sinh sống ở
vùng thấp, trong y phục thì chỉ y phục phụ nữ là có sự khác nhau rõ rệt còn y phục nam
giới thì có nhiều nét tương tự như nhau.

N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 7 | 17


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC MUỜNG | Hoàng Trần

Bộ y phục nữ gồm
khăn đội đầu, yếm, áo
và váy. Khăn đội đầu
của phụ nữ Mường sử
dụng trong dịp lễ tết
thường là chiếc khăn
hình vuông, màu trắng
tự nhiên của bông,
không thêu thùa hoa
văn, khi đội gấp khúc
theo một chiều 4 lần
thành một dải, rồi
buộc dải khăn đó lên
đầu, để đuôi khăn ở
sau gáy. Chiếc khăn đội hàng ngày có thể là chiếc khăn màu nâu. Phụ nữ Mường sử dụng
yếm che ngực. Chiếc yếm của chị em tương tự như chiếc yếm của phụ nữ dân tộc Kinh,
đủ che kín phần ngực, dải dây giữ yếm buộc lên cổ, một dải khác buộc ngang thân người.

Yếm cũng có màu trắng tự nhiên của bông, hoặc nhuộm màu nâu. Yếm màn nâu thường
được sử dụng trong lao động ngoài đồng áng hoặc trên nương rẫy. Vào các dịp cần diện,
chị em hay mặc yếm màu trắng. Chiếc áo phụ nữ Mường có đặc điểm là ngắn, bó sát lấy
người. Phần chiều dài của áo chỉ chấm vùng thắt lưng. Áo được cắt may theo kiểu Xa
ngực, cũng có khi xẻ trên vai, ống tay áo nhỏ. Mặc áo xẻ trước ngực nhưng khi mặc phần
nhiều là không cài cúc. Khi mặc, toàn bộ áo ôm siết lấy thân hình người phụ nữ. Áo của
chị em phụ nữ cũng thường dùng hai màu: màu trắng tự nhiên của vải bông và màu nâu
được nhuộm từ củ trên rừng. Áo màu trắng được sử dụng trong ngày lễ hội, còn áo màu
nâu được mặc thường ngày ở nhà cũng như khi lao động trên ruộng, trên nương. Chị em
phụ nữ Mường mặc váy dài. Váy phụ nữ Mường có hai phần rõ rệt là thân váy và cạp
váy. Phần thân váy chỉ có một màu đen hoặc nâu, nhưng phần cạp váy lại được dệt hoa
văn nhiều màu sặc sỡ. Những mô típ hoa văn thường gặp trên cạp váy là hình rồng,
phượng, hươu, nai, chim, đồng tiền hoặc quả mê. Hoa văn trên cạp váy Mường không chỉ
là những hình thêu, dệt mang tính mỹ thuật, mà ẩn sau nó còn 1 là nhân sinh quan và thế
giới quan của một dân tộc.

N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 8 | 17


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC MUỜNG | Hoàng Trần

2.9. Ẩ m thực
Nguồn lương
thực chính của
người Mường là
lúa gạo do họ tự
sản xuất trên
đồng ruộng, trên
nương. Trong bữa
cơm thường ngày,

đồng bào chủ yếu
ăn cơm nếp với
rau xanh và có
thể có cua, cá,
ếch nhái. Rau
xanh thu hái ở
trên rừng và rau
Món sâu măng của người Mường (Ảnh sưu tầm )
xanh trong vườn
nhà; cua, cá, ếch
nhái thì đánh bắt ở ngoài suối, trên đồng ruộng. Thịt các con gia súc, gia cầm thường
được sử dụng trước tiên vào việc cúng
bái, sau đó ăn thịt; cũng có nhiều trường hợp người Mường dùng thịt gia cầm để tiếp
khách quý, Trong các dịp cưới xin, giỗ chạp, ma chay, đồng bào Mường giết mổ gia cầm
hoặc gia súc để làm cỗ bàn chiêu đãi khách.
Cách chế biến thức ăn của đồng bào Mường rất gây ấn tượng cho du khách. Đến với
đồng bào Mường ta được nghe câu nói về đặc trưng chế biến ẩm thực: “cơm đồ, lợn
thui”., trước đây, họ không đùng nước nóng để cạo sạch lông, mà dung
lửa thui lông lợn. Một số món ăn được đồng bào chế biến sử dụng là canh thịt nấu với lá
lùm và món cá ướp muối ăn tươi. Đồng bào Mường uống rượu cần trong các lễ tết, hội
hè, những lúc gặp gỡ đông người vui vẻ. Rượu cần được ủ từ gạo nếp con và trấu. Trấu
được cho vào bình ủ cùng rượu để có chỗ hở cho không khí lọt vào, rượu dễ lên men,
nhưng đồng thời trong trấu còn có vitamin bổ dưỡng cho người.

N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 9 | 17


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC MUỜNG | Hoàng Trần

2.10.

Phương tiện vận
chuyển
Đồng bào Mường vận chuyển vật
dụng bằng cách dùng sức người như
gùi, gánh; dùng suốt trâu để kéo gỗ,
trâu, bò, ngựa kéo xe. Những làng
người Mường ở gần sông thì dùng
thuyền, bè làm phương tiện vận
chuyển.

Dùng gánh để thồ hàng (Ảnh sưu tầm)

2.11.
Ngôn ngữ
Tiếng nói dân tộc Mường thuộc hệ ngôn ngữ Nam Á, nhóm ngôn ngữ Việt - Mường.
Tiếng Mường rất gần với tiếng Mường cùng sinh sống trong vùng. Tuy nhiên do cư trú
gần dân tộc Thái và nhiều nơi sống định cư, cho nên nhiều người Mường còn thành thạo
cả tiếng Kinh và tiếng Thái.
Chữ viết: Người Mường chưa có chữ viết riêng của dân tộc mình.
2.12.
Tín ngưỡng tôn giáo
Đồng bào Mường tin vào đa thần giáo, coi vạn vật hữu linh, mọi vật đều có hồn - linh
hồn, thần linh. Các thần linh là những siêu nhiên có khả năng tác động tốt hoặc xấu đến
cuộc sống con người. Con người có 90 vía, 10 vía ở bên vai phải, 50 vía ở bên vai trái.
Vía đi lạc không biết đường về với thân chủ thì người bị ốm. Do đó khi có người ốm,
ngoài việc chữa chạy bằng thuốc thang, đồng bào thường tổ chức cúng ma. Lễ kẻo si là
một nghi lễ cúng ma rất đặc trưng của người Mường để gọi vía lạc về với thân chủ. Khi
trong nhà có người ốm đau, người Mường bắt đầu chữa chạy bằng thuốc lá, nhưng khi
chữa chạy bằng thuốc lá không khỏi, họ tìm đến thầy cúng ma tổ chức lễ “kéo si”. Người
Mường quan niệm, con người sinh ra thì cũng lúc đó cây si mọc lên một cành xanh tốt.

Người chết thì cành si đó cũng chết theo. Thực hiện lễ kéo si là để cúng vía cho người
ốm. Sau khi chọn được ngày lành, tháng tốt, con dâu trưởng đi đến từng gia đình trong
làng xin mỗi nhà một nắm gạo; còn con trai trưởng đi đến cây cổ thụ ở hướng mặt trời
mọc để lấy một cành si nhó về nhà. chức lễ kẻo si tại nhà người ốm, với ba mâm cỗ
cúng.
Trong các gia đình đồng bào Mường đều thờ cúng tổ tiên.

N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 10 | 17


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC MUỜNG | Hoàng Trần

Các làng đều có miếu thờ thổ công. Trong một số làng có đình thờ Thành hoàng, có chùa
thờ Phật (bụt) và Thánh Tản Viên. Trước đây trong vùng người Mường có một số nhà thờ
Thiên Chúa giáo, nhưng nhìn chung, ảnh hưởng của các tôn giáo lớn đối với người
Mường khỏng nhiều. Không có tín đồ, khi có việc, người dân Mường vẫn chỉ tìm đến
thầy cúng.
2.13.
Lễ Hội
Liên quan đến tín ngưỡng tôn giáo, người Mường thường có các lễ hội: lễ hát Sắc bùa, lễ
hội Đoọc moong, lễ Khai hạ, lễ hội Pồn pông.
Hát Sắc bùa thực chất là cuộc tổ chức chúc tết bằng tiếng cồng, do một số người biết
đánh cồng, thích chơi cồng vui vẻ trong dịp tết thực hiện. Đoàn người có khoảng 10-12
người đi hát chúc những gia đình trong làng nhân dịp năm mới, trong các dịp lễ tết, hội
hè, các dịp cưới xin... Một số gia đình giàu sang mời đoàn sắc bùa đánh cồng cho vui cửa
vui nhà trong ngày tểt. sắc bùa được tổ chức từ ngày mồng 2 cho đến hết mồng 7 tết. Đến
gia đình chúc tết, đoàn đứng quây quần dưới chân cầu thang, đánh bài cồng và hát bài
chúc gia đình sức khoẻ, làm ăn may mắn, mùa màng bội thu, gia súc gia cầm đầy sân,
đầy chuồng. Chủ nhà cũng hát đáp lại những lời chúc đầy tình cảm đầm ấm, mời đoàn hát
ăn uống, hoặc tặng gạo, tiền.

Lễ hội Đoọc moong: Nghĩa đen của thuật ngữ Đoọc moong là dám thú (4 chân). Lễ hội
được tổ chức vào ngày 6 tháng Giêng hàng năm, Thực chất của lễ này là lễ khai sơn " mở
cửa rừng. Sau lễ này. người mới được vào rừng hái lượm, săn bắt thú rừng. Để chuẩn bị
cho lễ hội này, người dân làng quy định với nhau về một khu rừng cấm không ai được
vào rừng đó hái lượm, săn bắn trong năm, để thu hút những con thú bốn chân có thể về
trú ngụ bình yên tại khu rừng đó và do đó lễ hội Đoọc moong chắc ăn hơn.
Đến ngày lễ, dân làng bất kể già, trẻ, trai, gái ai có thể trèo đồi, leo núi được thì rủ nhau
mang theo vũ khí: dao, giáo cùng kéo nhau đi vào rừng săn thú. Dân làng phân công nhau
bao vây rừng từ bốn phía. Các cụ già - trùm săn trong làng, cầm đàu các mũi tiến vào
rừng. Trước đó các thợ săn, các tay súng giỏi đã được bố trí đón lõng các ngả đường mà
con thú đi qua, hiệu lệnh tiếng cồng của người Irùm săn. Tiếng cồng vang lên ầm ĩ, cùng
tiếng người hô vang rung chuyển núi rừng và những chó chạy lùng sục khắp nơi làm con
thú hoảng sợ tìm cách chạy thoát thân. Con thú chạy nhanh ra ngoài vòng vây, nhưng
chúng đã bị các tay súng thiện xạ đón lõng hạ thủ. Cũng có trường hợp con thú không tìm
được lối thoát thân cứ chạy lui, chạy tới trong vòng vây và cuối cùng bị những người dân
hạ thủ bằng những cú đâm dũng mãnh bằng giáo. Khi con thú chết hẳn, người trùm săn
đánh tiếng cồng hiệu lệnh dừng đâm.
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 11 | 17


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC MUỜNG | Hoàng Trần

Con thú được khiêng đến miếu thờ Đức Thánh Tản Viên để mổ dâng lễ . Thánh Tản. Nếu
cuộc săn thú không đạt được kết quả. thì dân làng chọn một con bò để cúng thần (không
cúng thần bằng trâu) thay làm con thú rừng. Trong lễ cúng thần, thầy mo thay mặt dân
làng khấn vái mong thần linh cho mùa làm ăn năm mới được mùa, dân làng được khoẻ,
mùa màng bội thu, không dịch bệnh, mọi việc làm ăn của làng được thuận hoà.
Theo phong tục, người ta chia thịt con thú đâm như sau: Người đâm chết con thú được
hưởng một đùi sau và cái đầu. Nếu nhiều người cùng đâm chết thì cũng phần đùi và đầu
đó chia với nhau. Phần đầu con thú được xác định bằng cách tai con thú xuống phía đến

đâu thì đó là điểm cắt đầu con thú. Nếu mũi giáo dính máu thì người chủ của mũi giáo đó
được hưởng phần thịt của người hạ thủ con thú. Trong thực tế có trường hợp người trùm
săn đã ra hiệu lệnh ngừng đâm, nhưng có người đã đâm thêm vài nhát cho mũi giáo dính
máu
Là một lễ hội, nhưng Đoọc moong - cuộc săn - cũng rnang ý nghĩa như một ngày hội văn
hoá, chứa đựng nhiêu yếu tố sinh hoạt cộng đồng, không khí hưng phấn thông qua các
hoạt động như: đánh cồng,chiêng. leo núi, uống rượu cần, thi tài bắn nỏ, bắn súng, đâm
giáo...
Lễ khai hạ thực chất là lễ hạ
điền - bắt đầu mùa sản xuất
mới trong năm. Lễ khai hạ
được tổ chức vào ngày 7 tháng
Tư theo lịch Mường, tức nhằm
8 tháng Giêng âm lịch trên
khu ruộng rộng. Đối tượng thờ
cúng tại lễ khai hạ là Thánh
Tản Viên và Thành hoàng
làng. Việc chuẩn bị cho lễ hội
dược phân công cho các ạu
phụ trách. Có ạu lo săn thú
rừng về làm lễ, có ạu chuyên
lo việc dọn dẹp xóm làng, có
ạu lo mâm cỗ cúng

Lệ hội Đoọc moong của người Mường
(Ảnh sưu tầm)

trồng cây trên ruộng cúng. Thầy mo lo cúng tế và bói xương gà. Sau khai hạ, người làng
mới được ra làm việc đồng áng. Người có vai vế khá giả ra đồng trước, dân làng theo sau.
Phần hội trong lễ hội khai hạ được mở đầu bằng việc biểu diễn của dàn cồng 360 chiếc,

tiếp đó là các màn diễn múa kiếm, đi cà kheo, đánh cù, ném còn, đu dây, kéo co, đánh V
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 12 | 17


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC MUỜNG | Hoàng Trần

.Ngoài trò diễn còn có các cuộc thi: hát dân ca, hát đúm hàng đang mẹng; thi nấu ăn: cá
nướng, cá đồ, ếch hầm, nộm cua.
Lễ hội Pồn pông: Pồn pông nghĩa đen là mừng hoa. Pồn nghĩa vui chơi, múa hát; còn
pông là bông (bông hoa). Lễ mừng hoa đương nhiên là phải cỏ hoa. Người Mường dùng
lá cây bạng cắt theo hình cái kèn, xếp uốn hình bông hoa cúc, cắm vào thân cây chuối trụ để cắm hoa, làm thành từng cành. Mỗi cành có từ 400 đến 1. 070 hoa. Mỗi cây hoa có
từ 5 đến 12 cành. Các loại hoa tượng trưng cho hoa lúa, hoa bà hoa ngô, hoa sinh đẻ, hoa
trâu bò, hoa lim, hoa chuối. Theo dân gian giải thích, lễ hội Pồn pông có nguồn gốc liên
quan đến sự tích, ngày xửa ngày xưa có đôi vợ chồng nghèo, nhưng làm ăn chăm chỉ,
sống bằng nghề cày cấy, kiếm cá trên sông Mã. Một hôm người chồng đi bừa, mang theo
đàn vịt để chúng ăn theo đường bừa. Bừa đến trưa, mệt, người nông dân cho trâu nghỉ,
bản thân ông ta cũng thảnh thơi, tâm hồn nhẹ nhõm, hưng phấn, ông bắt chước thầy mo
trong làng mo mấy tiếng cho vui. Không ngờ, tiếng mo của người nông dân lọt vào tai
vua nước. Vua nước liền sai người rẽ nước lên mời ông nông dân xuống thuỷ cung chữa
bệnh cho con gái nhà vua. Người nông dân biết mình không phải là thầy thuổc cũng
không phải là thầy mo cho nên cố gắng từ chối, nhưng không thể từ chối được nên đã
theo người mời xuống thuỷ cung. Đến thuỷ cung, người nông dân nhìn thấy cô gái nằm
trên giường bệnh, nước da xanh, mặt xanh nhớt. Người nông dân ngồi xuống cạnh cô gái,
nhìn kĩ, thấy cô gái bị mắc 9 mắt chài, 12 mắt lưới (mắt chài quấn chặt vào cổ, 12 mắt
lưới quấn chặt ngang bụng). Người nông dân xin vua con dao bài mỏng, sắc. Vua sai
người đi lấy dao về đưa cho người nông dân. Người nông dân dùng dao cắt 9 mắt chài, 12
mắt lưới. Vừa cắt xong, cô gái đứng dậy được ngay, rồi nói cười, ra khỏi phòng đi cảm
ơn vua cha. Vua cha vô cùng vui mừng, đem nhiều vàng bạc, châu báu tặng cho người
nông dân! nhưng người nông dân không nhận, mà chỉ nhận một viên ngọc ước. Có viên
ngọc ước trong tay, về nhà người nông dân ước con gái đầu được làm vợ vua Ba Vì, con

trai cả được làm vua cai quản vùng đất Phù thuộc xã Cẩm Lương, huyện Cẩm Thủy, tỉnh
Thanh Hóa; con trai được làm vua cai quản vùng đất Pừa nắng Pải Pòn (nay thuộc tỉnh
Hòa Bình). Nhân sự kiện này, người nông dân tổ chức lễ Pồn pông, cùng dân làng vui
chơi, nhưng vợ chồng người nông dân vẫn sinh sống ở làng quê , ngôi nhà cũ và vẫn cày
bừa, bắt cua cá như xưa.
Trò chơi dân gian mang tính phổ biến trong trẻ em Mường là trò đố vui. Đây là trò chơi
mang tính vui chơi thoải mái vô tư, tạo sự hưng phấn, hoà nhập cộng đồng. Trò chơi
mang tính thi đấu cho nên tham gia vào tuộc đố là ít nhất phải có hai người trở lên. Cách
chơi: mỗi người chơi chuẩn bị một túi nhẳng hay một rổ nhỏ dùng để đựng lá. Rồi tiếp
tục so. Loại lá nào người này có, người kia không thì người có lá đó giữ lá lại. So cho đến
hết lá, người nào giữ lại được nhiều lá hơn thì người đó thắng cuộc. Người thắng cuộc sẽ
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 13 | 17


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC MUỜNG | Hoàng Trần

được búng vào tai người thua cuộc. Thắng bao nhiêu lá thì được búng bấy nhiêu cái.
Người thua cuộc không được búng trả lại.
2.14.
Văn hóa xã hội
Dân gian có câu: “Cơm đồ, nhà gác, nước vác, tới”. Đây là câu nói được gắn với văn hoá
dân gian dân tộc Mường tu.li hiện từ lâu đời và nêu lên một cách khái quát nhất về văn
hoá vật chất của người Mường.
2.15.
Gia đình, dòng họ
Gia đình người Mường cũng là gia đình phụ quyền. Trong quan hệ gia đình, người cha có
quyền quyết định mọi công việc; người con trai có thừa kế tài sản và có trách nhiệm thờ
cúng tổ tiên. Con trưởng được thừa kế nhiều hơn. Con gái đi lấy chồng được cha mẹ cho .
của hồi môn, ít nhiều do hoàn cảnh từng gia đình và hưởng tài sản thừa nhà chồng. Trong
gia đình người Mường có quan hệ giữa anh trai và em trai út rất độc đáo. Người anh cả

nhận em trai út làm con và sự có trách nhiệm với em út trong mọi mặt của cuộc sống. Từ
đề . . đình phụ hệ, trong xã hội dân tộc Mường có hiện tượng khi một cha mẹ qua đời cả
mà không có con trai thừa kế tài sản thì tài sản của gia đình đó có thể bị thu lụt - tức ỉà bị
giảng đạo thu hết, con gái hoàn toàn không có quyền giữ, kế thừa tài sản của cha mẹ để
lại.
về quan hệ dòng họ, nhiều nhà nghiên cứu cho rằng trước đây, người Mường không có
họ, mà chỉ có tên người. Sự hình thành tên họ có với sự hình thành bộ máy cai trị trong
dân tộc. Đồng bào Mường một số dòng họ có uy tín do nắm quyền cai trị trong bộ máy
hành > hình. Đó là các họ Đinh, Quách, Bạch, Hà, Hoàng, Xá. Đó là những họ những
người nằm trong hệ thống nhà Lang. Họ của dân, thường là họ Uì. Nhiều người lấy họ
Bùi, nhưng không hề có quan hệ anh em với Iiluiu. Trong người Mường một số dòng họ
cỏ kiêng kỵ, không được ăn. không được sát hại một số con vật hoặc một số cây nhất
định như họ Ọuách (ở Lạc Sơn) kiêng ăn thịt chó, họ Đinh (ở Kỳ Sơn) kiêng ăn thịt khỉ...
Những kiêng kỵ của các dòng họ thường gắn liền với những truyền thuyết về nguồn gốc
của dòng họ đó.
2.16.
Tục lệ cưới xin
Người Mường thực hiện hôn nhân ngoại hôn dòng tộc. Theo phong tục, người cùng dòng
họ tròn 5 đời không được phép lấy nhau. Vì điều này là phạm tội loạn luân, thường bị dư
luận trong họ hàng và làng xóm chê bai, lên án nặng nề. Thậm chí người thân ghét bỏ.
Hôn nhân của người Mường là hôn nhân một vợ, một chồng bền vững. Cộng đồng những
người lấy vợ lẽ. Tuy nhiên, trong cuộc sống, không tránh khỏi những kẻ giàu sang, quyền
có chức trọng - lang đạo, bất chấp dư luận hội và những kẻ tham giàu sang vẫn lấy vợ
hai. Song đó là trường hợp không phổ biến trong cuộc sống của cộng đồng người Mường.
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 14 | 17


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC MUỜNG | Hoàng Trần

Sau khi cưới, người vợ sang cư trú bên nhà chồng là chính. Có tục ở rể một n&ld nhưng

trong thời gian đó không được chung chăn gối. Hình thái gia đình phụ quyền đã chi phối
tập quán trong hôn nhân. Đối với người Mường, việc hôn nhân của con cái chủ yếu do
cha quyết định. Con cái lớn lên được quyền làm quen thổ lộ tình cảm với nhau, nhưng
quyền quyết định cuối cùng thuộc về cha mẹ. Tục lệ cưới xin của người Mường có một
số nét độc đáo như: Ông bà mối trong đám cưới là người trung gian không thuộc họ hàng
bên nào; khi đón rể, đón dâu đều có tục ném củ ráy rừng, củ chuối trộn lẫn tro bếp ném
vào quần áo đẹp của nhà trai và nhà gái. Theo quan niệm của đồng bào, việc này có ý
nghĩa làm cho cuộc sống của đôi tân hôn thêm hạnh phúc, cố gắng chịu đựng gian khổ
trong cuộc đời, sau này sinh con không mụn nhọt. Khi đón dâu về đến nhà chú rể, thì cô
dâu và chú rể phải làm thủ tục lòn lau lót ỉáo, tức là phải chui qua cổng lau (hai ngọn lau
chụm lót nứa (có nứa lót ở dưới), chú rể chui qua trước, cô dâu chui qua SQUt I Đây là
nghi thức cầu cho mát mẻ trong làm ăn sau này. Xong lễ cưới, phù dâu tiếp tục ở lại nhà
trai ba ngày, vợ chồng chưa được chung chăn gối. Một bà lớn tuổi bên cô dâu ở lại để
trông đèn, không cho ngọn đèn tắt trong ba đêm liên tục. Nếu để đèn tắt là điềm báo sự
bất hạnh, chia lìa
2.17.
Tập quán tang ma
Xuất phát từ quan niệm người sống có xác, có hồn. Người ta khi còn sống có 90 vía, khi
chết các vía biến thành hồn. Khi chết là chết phần xác, còn phần hồn -vẫn tồn tại và sẽ
sống ở thế giới bên kia. Người Mường làm tang ma cho người chết là để tỏ lòng thương
tiếc người chết và tiễn linh hồn người chết sang thế giới bên kia.
Khi cha, mẹ chối (ử Ngọc Kặc - Thanh Hóa), người con trai Inrờng ẩm đao, nín thở, chặt
ba nhát vào khung cửa sổ gian thờ. Sau đỏ nói phát tang. Quan tài được quàn trong nhà,
nhưng có đặc điểm là: ta treo quần áo các con trai, con gái trên cây sào, bắc trên quan tài,
theo chiều dài của quan tài. Bên cạnh quan tài các cô dâu ngồi quạt thi - quạt trực tiếp
vào quan tài cho hồn người chết được mát mẻ.
2.18.
Văn nghệ dân gian
Người Mường có một nền văn nghệ dân gian khá phong phú, bao gồm văn học dân gian
và nghệ thuật dân gian.

Văn học dân gian của người Mường chủ yếu là văn học truyền miệng, bởi trước đây đồng
bào chưa có chữ viết và cũng như nhiều dân tộc khác ở nước ta, người Mường chọn cách
thể hiện và lưu giữ những tác phẩm văn học của mình dưới dạng văn vần - thơ, Thơ đòi
hỏi tu từ tượng hình xác và do đó nội dung cốt truyện trong thơ được ổn định, người (lan
dễ nhập tâm, dễ thuộc.
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 15 | 17


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC MUỜNG | Hoàng Trần

Các truyện thơ nổi tiếng của người Mường như: út Lót Hồ Liêu, Nga Hai Mối, Nàng Òm
chàng Bồng Hương... Những truyện thơ bám theo chủ đề tình yêu nam nữ, phản ánh
những mối tình thuỷ chung son sắt, nhưng lại gặp nhiều trắc trở và chính những trắc trở
đó làm nổi lên tình yêu chân thành, trong sáng của con người. Truyện thơ dân tộc Mường
còn phản ánh cuộc đấu tranh thiên nhiên vất vả, nhất là những người có số phận không
may mắn như trẻ mồ côi.
Ngoài truyện thơ, người
Mường còn có các làn điệu
dân ca như hát Sác bùa, hát
Thường, hát Bọ mẹng, hát
Ví, Đúm... Hát sắc bùa chủ
yếu dành cho việc chúc tụng
trong các dịp gặp gỡ đông
người vui vẻ. Hát bùa lúc nào
cũng kết hợp với việc đánh
Điệu múa sênh tiền của người Mường (Ảnh sưu tầm)
cồng. Việc đánh cồng Mường
cũng phải tuân theo bài bản
nhất định cho phù hợp với tình huống. Thường (có nơi gọi là rằng thường hoặc xường) là
làn điệu dân thường được sử dụng vào việc ca ngợi công việc làm ăn vất và nhưng rất

hiệu quả, ca ngợi những phong tục tập quán tốt đẹp của dân tộc. Bọ mẹng hoặc Lệ giọng
là hình thức hát giao duyên của các chàng trai, gái. Nội dung bài hát chứa đựng tâm tư
tình cảm của tuổi trẻ ước ao tìm bạn đời, muốn được kết bạn, kết duyên trăm năm, làm ăn
phát đạt sống hạnh phúc bên nhau suốt đời. Hát Ví, Đúm (có nơi gọi là hát Bí) làhình
thức hát đối đáp và được cất lên khi gặp nhau trên đường đi chợ, hay đường hoặc trong
lao động sản xuất trên đồng ruộng, trên nương lú nương ngô. Loại dân ca này cũng có
chủ đề về tình yêu nam nữ và nhiều chủ đề về những vấn đề xã hội khác. Loại hình hát
Ví, Đúm thường dùng thể thơ lục bát. Bên cạnh các thể loại nêu trên, ở người Mường còn
có các loại dân ca khác như: tiếng hát ru con, hát đồng dao, hát đập hoa, hát hát trẻ con
chơi. Một thể loại văn học dân gian khác của người Mường rất được các nhà nghiên cứu
quan tâm là thơ ca nghi lễ. Bởi trong lo thơ ca này chứa đựng thế giới quan và nhân sinh
quan của người Mường Đỏ là những bài mo, bài khấn do ông mo, ông trượng đọc và hát
khi hành lễ cúng tang ma, khi cúng ma, cầu vía. Một tác phẩm văn nghệ, nghi lễ nối tiếng
của người Mường là “Mo sử thi dân tộc Mường” một tài liệu văn học dân gian có giá trị
khoa học và nghệ thuật lớn. nghi lễ, “Mo sử thi dân tộc Mường” là một áng thơ văn dài
kể về Sự hình thành xã hội Mường với nhân vật chính là Lang Cun cần. Trung Mo, tuy có

N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 16 | 17


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC MUỜNG | Hoàng Trần

những yếu tố hoang đường, nhưng qua một tác phẩm tầm cỡ như vậy ta cũng thấy được
sự phát triển tư duy và khả năng trí tuệ của dân tộc

N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 17 | 17




×