Tải bản đầy đủ (.pdf) (17 trang)

Tổng quan dân tộc Mạ (PDF,Word)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.1 MB, 17 trang )

TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC MẠ | Hoàng Trần

TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC MẠ
MỤC LỤC:
1.

Vài Nét Về Dân Tộc Mạ ........................................................................................................ 2

2.

Kinh Tế Truyền Thống ......................................................................................................... 2

3.

2.1.

Trồng trọt.......................................................................................................................... 2

2.2.

Chăn nuôi ......................................................................................................................... 4

2.3.

Khai thác tự nhiên ............................................................................................................ 5

2.4.

Ngành nghề thủ công........................................................................................................ 5

2.5.



Trao đổi, mua bán............................................................................................................. 6

Văn hóa truyền thống ............................................................................................................ 6
3.1.

Làng .................................................................................................................................. 6

3.2.

Nhà ở ................................................................................................................................ 7

3.3.

Y phục, trang sức ............................................................................................................. 7

3.4.

Ẩm thực ............................................................................................................................ 9

3.5.

Phương tiện vận chuyển ................................................................................................... 9

3.6.

Ngôn ngữ ........................................................................................................................ 10

3.7.


Tín ngưỡng tôn giáo ....................................................................................................... 10

3.8.

Lễ hội.............................................................................................................................. 11

3.9.

Gia đình, dòng họ ........................................................................................................... 11

3.10.

Tục lệ cưới xin ............................................................................................................ 12

3.11.

Tập quán sinh đẻ, nuôi con nhỏ .................................................................................. 14

3.12.

Tập quán tang ma ....................................................................................................... 15

3.13.

Văn nghệ dân gian ...................................................................................................... 16

N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 1 | 17


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC MẠ | Hoàng Trần


1. Vài Nét Về Dân Tộc Mạ
Dân số : 41.405 người (2009)
Ngôn Ngữ:

thuộc nhóm ngôn ngữ

Môn - Khơ me, ngữ hệ Nam Á.
Tên gọi khác: Châu Mạ, Chô Mạ,
Chê Mạ
Nhóm địa phương:

Mạ Ngăn, Mạ

Xốp, Mạ Tô, Mạ Krung.
Địa bàn cư trú: Lâm Đồng, Đắk
Nông, Đồng Nai, Bình Phước, Tp.Hồ
Chí Minh
Địa bàn cư trú:
Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, người Mạ ở Việt Nam có dân số
41.405 người, cư trú tại 34 trên tổng số 63 tỉnh, thành phố. Người Mạ cư trú tập
trung tại các tỉnh: Lâm Đồng (31.869 người, chiếm 77,0% tổng số người Mạ tại
Việt Nam), Đắk Nông (6.456 người), Đồng Nai (2.436 người), Bình Phước (432
người), thành phố Hồ Chí Minh (72 người).

2. Kinh Tế Truyền Thống
2.1. Trồng trọt
Nghề nghiệp chủ yếu của người Mạ là phát rừng làm rẫy, ruộng nước của đồng
bào chiếm một tỉ lệ rất nhỏ. Đồng bào Mạ gọi rẫy là mir và chia rẫy thành hai
loại: rẫy cũ - mdrỉh và rẫy mới - mpuh. Rẫy mới là lần canh tác năm đầu và chỉ

trồng lúa. Ngoài cây lúa, trên nương này người Mạ còn trồng xen canh các loại
cây: ngô, bầu, bí, mướp, bông, ớt, thuốc lá... Trên các đám rẫy mới gần làng, sau
khi thu hoạch lúa năm đầu, đồng bào có thể trồng sắn, vì vậy còn gọi là rẫy sắn.
Rẫy cũ là rẫy canh tác từ năm thứ hai trở đi, cũng có thể trồng lúa thêm một năm
nữa, rồi trồng màu một vài năm liền tiếp theo, sau đó bỏ hoá khoảng 15 năm cho
rừng tái sinh.
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 2 | 17


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC MẠ | Hoàng Trần

Công việc canh tác trên rẫy được
bắt đầu từ việc tìm rừng chọn đất.
Trong việc tìm rừng, chọn đất,
xác định khu vực canh tác thường
được tiến hành vào tháng Giêng
âm lịch. Trong tháng Giêng,
người Mạ thường làm lồ vu sin
bri để cúng thần rừng. Theo tập
quán, người Mạ có hai cách đi
tìm rừng: cả làng cùng nhau đi
tìm rừng, tìm được khu rừng lớn

Người Mạ ở Các Tiên làm lúa nước

rồi chia cho các gia đình trong

(Ảnh sưu tầm)

làng từng đám nhỏ để từng gia

đình tự canh tác; và từng gia đình tự đi tìm rừng khoảnh rừng nhỏ rải rác trong
phạm vi đất làng để làm rẫy. Người Mạ cũng có nguyên tắc chọn rừng chặt
chẽ.Đồng bào không chọn những rừng thưa cây cối (lac) và rừng nguyên sinh
(rlau), vì những rừng này còn thì mới có cơ hội cho rừng tái sinh tiếp tục phát
triển. Rừng thuộc đối tượng chọn để làm rẫy là rừng thứ sinh ịsar), rừng chồi,
rừng tre. Trong vùng Mạ, thỉnh thoảng lại hiện lên một chòm rừng, lá có màu
xanh thẫm. Đó là rừng già nguyên sinh mà người Mạ gọi là rừng thiêng - krông,
do đồng bào giữ lại để thờ thần K 'Bông - vị thần sáng tạo ra màu xanh của đất
theo tín ngưỡng cổ truyền của người Mạ.
Với nghề làm rẫy, người Mạ sử dụng nhiều công cụ sản xuất thủ công. Đó là: rìu
(sung) dùng để đốn cây to, cành lớn; chà gạc dùng để chặt cây con, phát cành nhỏ
và những đám dây leo; gậy chọc lồ dài được làm cở lúa; liềm để thu hoạch lúa
nếp, còn lúa tỏ thì suốt bằng tay.
Trong các loại lúa thì lúa tẻ được trồng nhiều hơn lúa nếp. Lúa tẻ là cây lương
thực chính cho nên còn được gọi là “lúa mẹ” (kol me), lúa nếp (mbar) thường
gieo thành khoảnh riêng bên cạnh rẫy lúa tẻ.
Sau ngày gieo hạt, người Mạ có tập quán dựng nhà sàn nhỏ, thấp ở bên cạnh rẫy
để chăm sóc, bảo vệ cây lúa. Thời gian chăm sóc suốt thời kỳ sinh trưởng cây lúa,
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 3 | 17


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC MẠ | Hoàng Trần

kéo dài hàng mấy tháng trời, cho nên, người lên rẫy chăm sóc cây lúa phải mang
theo lương thực, thực phẩm, đồ dùng nấu ăn, váy áo, chăn mền, nông cụ và cả
chiêng, ché để có điều kiện sinh hoạt đầy đủ như ở trong làng. Ngoài ra ở giữa
rẫy người ta còn làm chòi cao để đuổi chim, thú đến phá hoại hoa màu.Thu hoạch
vụ mùa rẫy xong, mọi người lại về làng sinh sống bình thường.
Ngoài rẫy, người Mạ còn làm ruộng.Đồng bào Mạ tận dụng các nơi đất bằng và
thấp, đồng cỏ xavan mọc vào mùa nắng, nước ngập vào mùa mưa, không có cây

cối - srê, ở hạ lưu các dòng sông để canh tác ruộng nước.Phương thức canh tác
lúa nước của đồng bào Mạ cũng còn thô sơ tương tự như canh tác rẫy.Sau khi dẫn
nước vào ruộng ngâm vài ngày cho đất nhão, người ta dùng cu ốc cuốc lật đất một
lần, rồi trang mặt bằng ruộng.Công cụ trang đất là một tấm ván nặng, dài khoảng
2m, hai đầu có chỗ buộc dây để hai người kéo.Tr áng xong mặt mộng, người Mạ
tháo nước đi hết rồi để trong vòng nửa tháng cho ruộng khô. Tiếp theolà việc gieo
trồng. Ở đây phương thức canh tác rẫy lại được áp dụng: dùng gậy chọc lỗ và tra
hạt. Với ruộng lúa tẻ, khi nào khô hạn mới tháo nước vào ruộng, với ruộng lúa
nếp thì không cần nước nữa.
Ngoài cây lương thực - cây lúa, người Mạ còn trồng các cây ăn quả như: chuối,
mít, đu đủ... Một số gia đình cỏ vườn chuyên canh, trồng bông, dâu tằm, thuốc lá,
mía, bo bo. Những loại cây này thường được trồng trong vườn cạnh nhà ở.
2.2. Chăn nuôi
Nhìn chung, việc chăn nuôi ở người
Mạ ít phát triển. Đồng bào chăn nuôi:
trâu, bò, ngựa, lợn, dê, gà... nhưng
nuôi trâu, bò không dùng làm sức kéo,
mà chủ yếu dùng làm vật hiến sinh
trong các dịp cúng tế, lễ tết. Một số
gia đình nuôi ngựa để sử dụng vào
việc thồ hàng. Nuôi lợn, dê, gà cúng
nhằm mục đích phục vụ cúng bái với
kết hợp ăn thịt.

Đồng bào nuôi ngựa để lấy sức kéo
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 4 | 17


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC MẠ | Hoàng Trần


Phương thức chăn nuôi chủ yếu lả chăn thả vào rừng tự tìm cỏ ăn, tối đến chủ lùa
trâu, bò về chuồng. Con lợn, con gà buổi sáng thả từ trong chuồng ra, chủ cho ăn
một bữa, sau đó cả ngày được thả rông, tự kiếm mồi ăn. Đến chiều tối trước khi
vào chuồng, chủ nhà cho bữa nữa để chúng nhớ về chuồng ngủ đêm.
2.3. Khai thác tự nhiên
Vùng cư trú của người Mạ trước đây có nhiều rừng.Trong rừng có nhiều lâm sản,
thổ sản và muông thú có thể khai thác sử dụng vào mục đích phục vụ cuộc sống
của con người. Người Mạ thu hái lâm sản như: rau rừng, hoa quả dại, măng tươi,
mộc nhĩ, nấm hương... ; thu hái thổ sản như: củ mài, củ mỡ, tìm quặng từ trong
cát, đá trên các ngọn núi cao đem về luyện thành sắt, thép... ; săn bắn các loại
muông thú như: chim, hươu, khỉ, gấu, chồn, cáo. Việc săn bắn vừa là bảo vệ mùa
màng, vừa là bảo vệ chính bản thân con người.Đồng bào Mạ còn thường xuyên
đánh bắt cá trên sông. Nhìn chung với nền kinh tế tự túc, tự cấp thì những sản
phẩm thu được từ khai thác tự nhiên có giá trị bổ sung đáng kể vào nguồn lương
thực và thực phẩm của đồng bào. Trong sinh hoạt thường ngày, lâm sản thu hái
được luôn tham gia vào bữa ăn của đồng bào Mạ nói riêng, vào bữa ăn của các
dân tộc sống bằng kinh tế tự túc, tự cấp nói chung. Điều dễ thấy là bữa nào cũng
cần củi đun, cũng cần nước.Với đồng bào, củi và nước là lấy không từ tự nhiên,
chứ không mất tiền mua.
Công cụ sử dụng để khai thác tự nhiên là những dụng cụ đơn giản, thô sơ. Hái
lượm lâm sản thì dùng dao, thu hái thổ sản thì dùng cuốc, thuổng để đào; săn bắn
động vật trên rừng thì dùng nỏ truyền thống với mũi tên tẩm thuốc độc và dùng
các loại cạm bẫy đặt trên đường đi của con thú; đánh bắt cá trên các dòng suối thì
dùng chài, lưới, câu; còn đánh cá trên sông thì đồng bào dùng thuyền.
2.4. Ngành nghề thủ công
Người Mạ cũng như các dân tộc khác, khi nền kinh tế còn tự túc, tự cấp thì tấ t
yếu sẽ cần có ngành nghề thủ công để tự túc những đồ dùng cần thiết cho hoạt
động sản xuất.Tuy nhiên nghề thủ công vẫn luôn là nghề phụ trong hoạt động
kinh tế của gia đình.Nghề thủ công phổ biến ở người


N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 5 | 17


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC MẠ | Hoàng Trần

Mạ là nghề đan lát mây tre, nghề
dệt, nghề rèn. Với nghề đan lát
mây tre, đồng bào đan những đồ
dùng như: gùi, thưng, giỏ, những
công cụ để bắt cá. Nghề dệt vải
được thực hiện trên khung dệt cố
định thô sơ, nhưng kỹ thuật cao
và phương pháp dệt hoa văn khá
tinh xảo;. Một nét đáng chú ý
người Mạ đã từng có thời đi tìm
quặng trong cát, trong đá trên các
ngọn núi cao lấy về luyện.

Nghề dệt của người Mạ (Ảnh sưu tầm)

2.5. Trao đổi, mua bán
Với nền kinh tế tự túc, tự cấp, việc trao đổi, mua bán hàng hoá l| phát triển. Tuy
nhiên, nhu cầu cuộc sống đòi hỏi người Mạ cần trao đổi, mua bán một số mặt
hàng như muối ăn, dầu thắp sáng, kim khâu. Những mặt hàng đồng bào Mạ đưa ra
chợ vùng bán chủ yếu là những hàng lâm sản: mật ong, mộc nhĩ, nấm hương.

3. Văn hóa truyền thống
3.1. Làng
Người Mạ chọn đất dựng làng
gắn liền với đất sản xuất. Đất

thuộc làng không chỉ có đất
ở, đất sản xuất, mà còn có
rừng để hái lượm và săn bắn,
bãi chăn thả gia súc, đất lưu
canh, sông, suối và khoảng
rừng

thiêm

để

thờ

cúng

giàng. Đất sản xuất rộng thì
làng đông nhà, ổn định sản
xuất lâu, do đó định cư lâu. Làng truyền thống của đồng bào Mạ thường nhỏ bé,
mỗi làng bao gồm vài ba ngôi nhà dài, dựng ở ven sông, suối hay trong các thung
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 6 | 17


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC MẠ | Hoàng Trần

lũng, ven sườn đồi, thuận tiện nguồn nước sinh hoạt. Mỗi ngôi nhà dài thường là
nơi cư trú của vài gia đình. Cuối thế kỷ XX ở xã Lộc Trung, huyện Bảo Lộc, tỉnh
Lâm Đồng có một ngôi nhà dài 54m, trong ngôi nhà dài này là nơi cư trú 12 gia
đình. Thông thường mỗi làng định cư khoảng 15 đến 20 năm.Trong k hoảng thời
gian đó, đất canh tác đã bạc màu và rừng tái sinh trên rẫy bỏ hoang chưa đủ thời
gian phục hồi thì đồng bào phải tổ chức dời làng đến một khu rừng khác thuận

tiện cho sản xuất hơn - sản xuất trên rẫy mới.
3.2. Nhà ở
Người Mạ ở nhà sàn, phần
nhiều là nhà dài. Theo các tài
liệu ngày trước để lại, vào đầu
thế kỷ XX, ở người Mạ tồn tại
những ngôi nhà dài đến hàng
trăm mét. Nhưng đến cuối thế
kỷ XX thì chỉ thấy những ngôị
nhà dài với chiều dài khoảng
20 - 30m và cũng xuất hiện
nhiều nhà sàn ngắn khoảng 4
đến 8m chiều dài.Nguyên liệu chính để làm nhà là gỗ, tre, nứa, bương, mai, lá
mây hoặc cỏ gianh. Gỗ dùng làm khung nhà, tre, nứa, bương, mai dùng làm sàn,
phên che xung quanh, còn lá mây hoặc cỏ gianh dùng để lợp mái nhà, mây lợp
được kết thành tấm, mỗi tấm dài khoảng 2m. Chiều cao của ngôi nhà sàn người
Mạ khoảng 0,4 đến 0,6m, nhưng trước kia theo các cụ kể lại thì ngôi nhà sàn còn
cao hơn, chiều dài là 1,4 đến l,5m.
Mỗi ngôi nhà dài của người Mạ là nơi cư trú của một gia đình lớn hay nhiều gia
đình nhỏ có quan hệ huyết thống với nhau theo dòng cha. Trong mỗi gia đình nhỏ
đều có một vựa lúa, bếp nấu ăn riêng. Sự phân định không gian sinh hoạt trong
ngôi nhà sàn dài của người Mạ giống như sự phân định không gian sinh hoạt
trong ngôi nhà dài của người Mnông Ga ở Đắk Lắk.
3.3. Y phục, trang sức
Y phục truyền thống của người Mạ cũng như y phục truyền thống của các dân tộc
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 7 | 17


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC MẠ | Hoàng Trần


ở Tây Nguyên là khố, váy
và áo. Nam giới Mạ đóng
khố. Khố có loại dài, loại
ngắn, có loại đơn giản chỉ
một màu chàm sẫm và hai
đường hoa văn đơn sơ dọc
theo rìa mép; song cũng có
loại được thêu dệt nhiều
đường hoa văn dọc theo
rìa mép và hai dải hoa văn
ở hai đầu khố. loại khố
còn được trang trí cầu kì
hơn, ở hai đầu khố còn
đính

những

chuỗi

hạt

cườm và để những dải tua
dài. Váy của phụ nữ Mạ là loại váy, khi mặc quấn quanh phần dưới của thân
người.Chiều dài của váy bắp chân. Những hình trang trí trên váy, áo, khố của
người Mạ là những hoa văn hình học mô tả thiên nhiên: thực vật, động vật (cây
bông, kè, lá bí, con vượn, con công, răng hổ); mô tả công cụ sản xuất, sinh hoạt
của người Mạ: con dao, chà gạc, bình ủ rượu cần, cối giã gạo...
Nam, nữ người Mạ đều mặc áo chui đầu. Áo nữ mặc bó sát thân, kín tà, hai vạt
trước, sau bằng nhau, cổ thấp bằng vai, dài tới ngang thắt lưng. Áo nam thường
rộng hơn một chút, hở tà, vạt sau dài hơn vạt trước và dài che kín mông.Áo lễ hội

còn được thêu tua dài ở vạt sau. Nhìn chung, áo có nhiều loại, có loại áo dài tay,
có loại áo ngắn tay và có loại cọc tay. Người Mạ cũng như nhiều dân tộc Tây
Nguyên khác, không có rét mùa đông.Khi trời lạnh, người già thường khoác thêm
tấm mền.
Người Mạ có tập quán “cà răng, căng tai”. Họ cà cho cụt hết 6 răng của hàm răng
trên, phụ nữ sâu lỗ ở dái tai để đeo đồ trang sức. Đồ tr ang sức là những đôi vòng
bạc, bông tai cỡ lớn bằng đồng, nhôm, ngà voi, hoặc bằng gỗ hay những khoanh
nứa vàng. Nam nữ đều thích đeo nhiều vòng đồng ở cổ tay, trên vòng đó khắc
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 8 | 17


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC MẠ | Hoàng Trần

những ngấn chìm. Những hình khắc chìm đó là ký hiệu ghi nhận các lễ hiến sinh
tế thần linh cầu mát cho người đeo. Đàn bà còn thường mang ở cổ những chuỗi
hạt cườm có nhiều màu sắc bên cạnh những chiếc vòng đồng.
3.4. Ẩ m thực
Nguồn sống chính của người Mạ là
lúa.Cây lúa trồng trên nương và ruộng.
Trong bữa ăn thường ngày của đồng
bào có cơm gạo tẻ với rau xanh và muối
trộn ớt, tỏi, xả. Cơm được nấu trong nồi
gốm cao cổ. Rau xanh có nhiều loại:
măng tươi, rau rừng các loại, bầu, bí,
cà, đọt mây, đọt sắn. Thỉnh thoảng bữa
ăn có cá, tôm, cua, ốc thu lượm được ở
sông suối hoặc thịt chim, thú rừng săn
bắn được. Vào những dịp lễ tết, cúng b

Cơm lam thịt nướng của người Mạ


đồng bào làm thịt các con vật nuôi để cúng rồi sau đó ăn thịt. Khi g ia đình có
khách quý, hoặc có việc nhờ hàng xóm như: sửa chữa nhà cử a thu hoạch ngô, lúa,
cũng hay làm thịt gia cầm để chiêu đãi người giúp mình. Cách làm thịt con vật
nuôi trong gia đình của đồng bào Mạ thư là sau khi vặt lông xong, họ còn thui
trên bếp lửa cho sạch hết các lông mao sau đó mới mổ, rửa sạch và chặt để chế
biến. Người Mạ thường chế biến thức ăn theo cách nướng, luộc, kho và nấu canh.
Trước kia, người Mạ ăn bốc, thức ăn
thường đựng trong các ống tre chẻ;
nước uống đựng trong các vỏ trái bầu
khô. Đồng bào Mạ uống rượu cần như
các dân tộc khác cùng sinh sống trên
đất Tây Nguyên.
3.5. Phương tiện vận chuyển
Hàng ngày đồng bào đi làm thường
mang theo chiếc gùi nan tre để ở sau
lưng. Chiếc gùi có chức năng chứa đựng

Chiếc gùi trong đời sống người Mạ

N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 9 | 17


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC MẠ | Hoàng Trần

và vận chuyển các đồ dùng hàng ngày của đồng bào. Gùi có nhiều loại: đan mau
và đan thưa kích thước to, nhỏ khác nhau. Gùi đan thưa dùng để vận chuyển
khoai sắn, củi, rau rừng; gùi đan mau dùng để vận chuyển lúa, ngô.Nhữn g chiếc
gùi chuyên dùng trong các dịp nghi lễ, đi xa còn được đan nghệ thuật, tạo mô típ
hoa văn trên gùi thông qua kỹ thuật đan.Nhiều gia đình sinh sống ven sông Đạ

Đơng dùng thuyền độc mộc làm phương tiện vận chuyển trên sông nước.
3.6. Ngôn ngữ
Tiếng nói: Tiếng nói của dân tộc Mạ thuộc hệ ngôn ngữ Nam A, nhóm Môn Khmer, gần với tiếng nói của người Mnông, Chơ Ro, Xtiêng. Trong vốn từ vựng
của ngôn ngữ Mạ, yếu tố Khmer trội hơn hẳn so với tiếng của các dân tộc nói
cùng nhóm ngôn ngữ ở Bắc Tây Nguyên như dân tộc Ba Na, Xơ Đăng...
Chữ viết: Trong lịch sử, người Mạ có viết: Thời thực dân Pháp xâm lược, nhóm
cố vấn đạo Gia Tô đã dựa vào bảng chữ cái Latinh để phiên âm tiếng nói của dân
tộc Cờ Ho và họ gọi là chữ Cờ Ho. Ý đồ của nhà truyền giáo là sử dụng chữ này
dùng cho cả người Mạ, nhưng không mấy thành công, vì nội dung của sách được
in ra bằng chữ Cờ Ho này chủ yếu là những công trình biên dịch Kinh Thánh.
3.7. Tín ngưỡng tôn giáo
Người Mạ tin theo quan niệm “vạn vật hữu linh”. Mọi vật từ núi sông cho đến cây
cối và các thú vật đều có linh hồn. Tất cả các loại thần linh khác nhau đó được
người Mạ gọi chung một tên là giàng. Con người cũng có linh hồn ở ngay trong
cơ thể đang sống. Linh hồn của con người, công việc làm ăn của con người có thể
bị linh hồn của tự nhiên chi phốiquan niệm đó, cho nên người Mạ có nhiều nghi
lễ liên quan đến nông nghiệp, nhằm cầu mong thần linh phù hộ cho mùa màng bội
thu.
Nghi lễ đầu tiên liên quan đến nông nghiệp là nghi lễ chọn đất làm nương
rẫy.Công việc tìm rừng, chọn đất làm rẫy được tiến hành vào tháng Giêng âm
lịch.Để việc tìm rừng được thần rừng ủng hộ, đạt được kết quả tốt, người Mạ làm
lễ yu sin bri để cúng thần rừng.Nghi lễ yu sin hri là n ghi lễ nông nghiệp đầu tiên
hàng năm của người Mạ. Buổi lễ được tổ chức tại nhà người đứng đầu làng để các
chủ gia đình cùng bàn bạc công việc sản xuất trong năm tới.

N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 10 | 17


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC MẠ | Hoàng Trần


3.8. Lễ hội
Vào khoảng tháng 3 âm lịch, khi các cành cây phát đã khô, người Mạ làm lễ cúng
thần lửa - lơ jang us, rồi mới được đưa lửa ra rẫy đốt, chuẩn bị đất xong, trước
khi gieo hạt, bà con người Mạ làm lễ cúng hồn lúa - leịang tuyt koi. Khi lúa đến
thì con gái, sắp trổ đòng thì làm ỉễ yu lam nơm để ăn mừng và tạ ơn mẹ lúa. Đến
lúc lúa trổ bông, người Mạ làm lễ yu rumul. Lễ đụng là lễ lớn thứ hai sau lễ hội
mùa - nô rhe trong chu trình một năm sản xuất. Lễ này cần vật hiến sinh là lợn
hoặc dê.Trong lễ này có tục
dựng cây nêu - yu trên rẫy.Cây
nêu tượng trưng cho ngôi nhà
của hồn lúa. Khi công việc thu
hoạch hoàn thành, chủ nhà đem
cây nêu về cắm ở gần kho lúa
của gia đình.
Người Mạ thường tổ chức lễ
đâm trâu vào dịp tết cổ truyền
(sau tết Nguyên đán khoảng một
tháng).Mùa lễ hội đâm trâu
thường kéo dài một hai tháng
liền.

Lễ đâm trâu của người Mạ (Ảnh sưu tầm)

3.9. Gia đình, dòng họ
Gia đình người Mạ là gia đình phụ hệ. Mỗi đôi vợ chồng sau ngày cưới đều mong
muốn sinh được người con trai nối dõi tông đường dòng họ. Người Mạ quan
niệm, con trai thì phải giữ nhà, cho nên người con trai trong gia đình đượ c chú ý
hơn, coi trọng hơn con gái. Người Mạ có các gia đình lớn còn tồn tại ở khu vực
sông Đạ Đơng, gia đình nhỏ cư trú cao nguyên Bảo Lộc.
Gia đình lớn thường được tổ chức theo hai hình thức: hình thức thứ nhất là cư trú

chung dưới một mái nhà dài và chung sản xuất; hình thức thứ hai là cư trú chung
dưới một mái nhà dài, nhưng sản xuất riêng. Theo hình thức thứ nhất, mỗi vụ thu
hoạch, sản phẩm thu được, cất vào các kho chung. Nhưng tổ chức bữa ăn lại theo
từng gia đình nhỏ, chia theo từng cặp cho vợ chồng và con cái của họ. Hình thức
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 11 | 17


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC MẠ | Hoàng Trần

gia đình lớn này ||‘||| có tài sản chung của gia đình lớn và tài sản riêng của gia
đình nhỏ. Tài sản chung của gia đình lớn là nhà ở, nhà kho, hoa lợi canh tác trên
ruộng, rẫy và những vật dụng có giá trị cao như: chiêng, ché, trâu, bò, dê,... Tài
sản riêng của từng gia đình nhỏ gồm: công cụ sản xuất: rìu, chà, dao, cuốc, tên,
nỏ... ; đồ dùng cá nhân: váy, áo, khố, chăn, mề n, đồ trang sức, nhạc cụ nhỏ; đồ
dùng nhà bếp và gia súc nhỏ: lợn, gà, ngan, ngỗng. Theo hình thức tổ chức gia
đình lớn thứ hai, dưới mái nhà dài có nhiều gia đình nhỏ.Các gia đình nhỏ tự tổ
chức sản xuất trên rẫy riêng, giữ nông sản vào kho riêng.Họ vẫn thường xuyên
giúp nhau trong sản xuất và khi một gia đình thiếu ăn, họ có thể lấy của gia đình
khác và không cần trả lại.
Gia đình lớn thường cư trú hai, ba nhà liền kề nhau. Mỗi gia đình từ hai, ba cho
đến sáu, bảy cặp vợ chồng cùng con cái của họ gồm từ 10 cho đến 30 người thuộc
3 - 4 thế hệ được sinh ra từ một gốc. Đứng đầu gia đình lớn - chau pô hiu là
người đàn ông cao tuổi thuộc thế hệ trên trong gia đình. Ông ta là người quán
xuyến mọi công tác chính trong gia đình như: xác định vùng đất canh tác, chỉ đạo
sản xuất, chủ trương việc dời nhà sửa chữa hay làm mới, mua sắm những tài sản
lớn: chiêng, ché, trâu, voi; tổ chức các lễ nghi phong tục: cúng thần,. hỏi, ma
chay, đối ngoại và giải quyết mọi xích mích trong gia đình có.
3.10.

Tục lệ cưới xin


Dân tộc Mạ thực hiện hôn nhân ngoại hôn dòng họ - nao. Người Mạ, dòng họ nao, cùng huyết thống, không được kết hôn với nhau, mà lựa người muốn kết hôn
với nhau phải khác nao. Người nao này kết hôn với nao khác là nguyên tắc bắt
buộc. Hôn nhân của người Mạ cũng là hôn nhân một vợ một chồng bền vững.
Trong lịch sử, hiện tượng đã có xảy ra với những người chủ làng, nhưng cũng
không mang tính phổ biến. Một người muốn lấy vợ bé phải được sự thoả thuận
của vợ cả. Tình trạng ly hôn ít khi xảy ra ở người Mạ. Khi vợ chồng muốn ly hôn
phải được chủ làng chấp thuận mới hợp thức theo phong tục. Ngoại tình bị là một
tội lớn. Kẻ gian dâm vừa phải chịu phạt vạ để tạ tội với thần linh vừa phải bồi
thường cho người bị phụ tình một số tài sản lớn theo quy định của phong tục.
Việc bồi thường còn được đưa ra toà án phong “ xét xử công khai.
Trai gái đến tuổi trưởng thành khoảng 15-16 tuổi được tự do tìm hiểu người bạn
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 12 | 17


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC MẠ | Hoàng Trần

đời và việc quan hệ trai gái trước hôn nhân không ảnh hưởng đến cuộc hôn nhân
chính thức sau này. Khi đôi bên tâm đầ ý hợp, muốn kết hôn với nhau, chàng trai
về nói với cha mẹ và cha chàng trai nhờ người mối - chau jồỉ pao đi hỏi vợ cho
con là chủ yí. Tuy nhiên, trong lễ cưới còn cần trải qua một số thủ tục quan trọng
khác.
Tại nhà gái, sau khi nhận được lễ vật của nhà trai mang đến thoả thuận từ trước,
lễ thành hôn được tổ chức trước sự có mặt đông đủ của chủ làng, những người
mối mai và làm chứng.Ở đây có một nghi thức quan trọng là đôi tân hôn đứng bên
nhau trước cột cúng thần, người chủ hôn trùm lên đầu họ một tấm mền trong ít
phút với ý nghĩa là thừa nhận hạnh phúc trăm năm của họ. Sau đó, theo lệ tục hai
người trao đổi vòng tay cho nhau rồi cùng uống chung một sừng rượu cần. Tục lệ
dành cho đôi tân hôn đến đây là
kết thúc. Tiếp theo là những lời

chúc tụng tốt đẹp của anh em họ
hàng và những người đến dự lễ
dành cho đôi tân hôn cùng lúc đó
nhà gái trao tặng cho ông cậu và
chú, bác bên nhà trai những chiếc
vòng đồng và những chuỗi hạt
cườm ngũ sắc. Một buổi tiệc và
tiệc rượu được tổ chức linh đình cho
đến tận nửa đêm.

Nhà trai mang lễ vật đến nhà gái
(Ảnh sưu tầm)

Sáng hôm sau, họ rước dâu về nhà chồng để tế thần linh. Tại trai, trước khi vào
cuộc tiệc lớn, họ hàng nhà trai chúc tụng cô dâu, chú rể và tiến hành tặng những
kỷ vật: chiêng đồng, ché sành, ché sứ, áo, và những chiếc vòng đồng cho cậu mợ,
cô dì, chú bác nhà gái.
Sau ngày cưới đôi vợ chồng trẻ thiên về cư trú bên nhà chồng nhưng tục lệ thông
thường là sau hôn nhân, chú rể cư trú bên nhà vợ thời gian dài khoảng 2-3 năm,
sau đó mới về cư trú hẳn ở nhà chồng. Tuy nhiên ở người Mạ chấp nhận hiện
tượng nhà chú rể nghèo, chưa đủ sính lễ cho nhà vợ trong ngày cưới thì thời gian
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 13 | 17


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC MẠ | Hoàng Trần

cư trú bên nhà kéo dài đến khi những giá trị sính lễ được thanh toán xong. Theo
tục lệ, những gia đình khá giả, hiếm con trai, người ta cưới chồng cho con gái.
Trong trường hợp này, đồ sính lễ thường nhiều hơn đồ sính lễ cưới vợ cho con
trai, số sính lễ đó thường là: một bộ sáu chiêng đồng, 30 ché các loại, một con

trâu và 3 - 4 con lợn.
Một số nơi thuộc Tây Nam tỉnh Đắk Lắk có tục lệ con gái đi hỏi chồng và sau hôn
nhân, vợ chồng trẻ cư trú luân phiên cho đến khi một khi cha mẹ mất hết thì về cư
trú hẳn ở bên cha mẹ còn sống. Vai trò ông hỏi trong hôn nhân rất lớn, nhiều khi
có tính chất quyết định trong việc hòn nhân của các cháu ngoại.
Trong quan hệ hôn nhân, người Mạ thực hiện hôn nhân thuận, nghĩa là con trai
của chị em gái có thể kết hôn với con gái của anh trai mình, nhưng tục lệ không
chấp nhận kiểu hôn nhân ngược lại.
Ngoài nghi lễ hôn nhân bình thường, người Mạ có tục lệ cho phép người chị dâu
kết hôn với em chồng khi chồng chết và người anh rể kết hôn với em vợ khi vợ
chết.
3.11.

Tập quán sinh đẻ, nuôi con nhỏ

Người phụ nữ Mạ khi mang thai vẫn tham gia lao động sản xuất như mọi người
khác, nhưng thường được làm những việc đỡ nặng nhọc hơn. Sắp đến ngày sinh,
gia đình làm cho cái chòi ở góc sân, khi trở dạ, sản phụ vào chòi đó đẻ.Người Mạ
có một số bảo sinh - chau đơng deh hoặc chau ảt deh trong mỗi làng. Những
người này thường giúp sản phụ đẻ, nhưng cũng có các trường hợp sản phụ tự đỡ
đẻ lấy. Nhau của đứa trẻ được cắt bằng con dao cật nứa, rồi bỏ vào trong trái bầu
khô hoặc bỏ vào trong một cái bao đan bằng cây blô (một loại cây họ lác). Nếu là
con trai, nhau chôn ở phía trước nhà, còn nếu là con gái, nhau chôn ở phía sau
nhà. Người Mạ có tục kiêng cữ khi gia đình có người sinh con nhỏ.
Trong bảy ngày đầu, những người trong gia đình sản phụ không được vào rừng
hoặc lên rẫy và mẹ con người sản phụ không được đi ra khỏi chòi sinh.Sáng ngày
thứ 8, người mẹ bồng con ra sân tắm nắng. Nếu là con trai thì mang theo một cây
chà gạc, một cái nỏ và một con dao vót nan; còn nếu là con gái thì đem theo một
chiếc gùi, trong đó đựng một rìu chẻ củi, một túi đựng cơm đan bằng lá lác và
dụng cụ dệt vải. Sang ngày thứ chín, gia đình người sản phụ làm lễ cúng thần để

N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 14 | 17


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC MẠ | Hoàng Trần

ăn mừng và đặt lên cho đứa trẻ rồi mẹ con đưa nhau vào nhà ở.
Tên của đứa bé thường được đặt trùng với tên của một trong những người bề trên
thuộc về bên cha hoặc bên mẹ đã mất. Tên của cá nhân cũng kèm theo tên đệm
phân biệt giới tính. Tên đệm giới tính nam là Kơ như: Kơ Sơm, Kơ Sinh, Kơ
Hanh. Tên đệm giới tính nữ là Ka, như Ka Grum, Ka Grúp, Ka Grao. Khi bé gái
lên 7, lên 8 tuổi thì xâu lỗ dái tai để sau này đeo khuyên tai. Vào độ tuổi 15 - 16,
mọi đứa trẻ đều phải trải qua thủ tục cà răng cửa hàm trên và nhuộm răng đen.
Tục lệ này có giá trị như một tiêu chí khẳng định quyền công dân trong làng xã
người Mạ.
3.12.

Tập quán tang ma

Từ quan niệm vạn vật hữu linh, con người ngoài phần xác còn có phần hồn.Khi
người còn sống phần hồn nằm trong phần xác. Còn khi con người chết đi, phần
xác sẽ bị huỷ hoại, nhưng phần hồn còn tồn tại và sẽ về thế giới bên kia sinh
sống. Do đó, những người thân thiết nhất của người quá cố sẽ cắt một ít tóc của
mình bỏ vào quan tài để cho người quá cố về bên kia thế giới có cái lợp nhà.
Tang chủ chia cho người quá cố một phần tài sản: công cụ sản xuất cá nhân, chà
gạc, rìu, gùi; công cụ săn bắn: lao, nỏ, ống đựng tên... công cụ đánh bắt cả: rọ,
giỏ, chúm; những tài sản khác như ché, đồ mặc, đồ trang sức... và cuối cùng là
những đồ nhà bếp: nồi gốm, bát sành, vỏ trái bầu khô. số tài sản này được bỏ vào
trong quan tài hoặc để xung quanh quan tài dưới huyệt, cũng có thứ để trên phần
mộ hoặc để rải rác trên đường đi ra huyệt.
Người chểt được cho vào quan tài.Quan tài là một khúc gỗ tròn, dài khoảng hai

mét, bổ đôi, khoét rỗng cho vừa đặt thi hài.Hình dáng b ên ngoài của quan tài
được cấu tạo khá độc đáo.Đáy quan tài phẳng, hai th ành bên thì trên ngả ra, dưới
chụm lại một chút. Ván thiên làm thành hai mái đều nhau, sống thẳng và dài theo
chiều dài của cỗ áo quan, cấu tạo này khiến ta tưởng tượng như người chết đang
nằm trong một ngôi nhà dài. Ở góc nhìn khác: đầu quan tài to và cao rồi nhỏ và
thấp dần về phía cuối. Phía đầu hai bên tấm ván thiên được gắn một đôi “sừng
trâu” bằng gỗ, đằng cuối quan tài cắm một cái “đuôi trâu” vót bằng tre, Ở vùng 8
Tây Nam Đắk Lắk, đồng bào còn cắm thêm bốn cái chân cao khoảng 15cm chốt
vào hai bên thành ván địa.Cấu tạo này được phỏng theo hình dáng của một con
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 15 | 17


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC MẠ | Hoàng Trần

trâu.
Một số người đàn ông khỏe mạnh trong thân tộc vào rừng tìm cây gỗ quý nhất để
làm quan tài, coi như gia quyến tặng cho người quá cố một bộ đồ quý nhất. Làm
xong họ đưa quan tài vào nhà bằng một cửa chính. Đồng bào kiêng kỵ đưa quan
tài qua lối đi hàng ngày.Đến ngày thứ ba thì làm lễ khâm liệm. Thi hài được đặt
vào quan tài với tư thế nằm ngửa, đầu gối trên một cái bát úp, hai chân duỗi
thẳng, hai tay đổ vòng trên ngực. Hai chân và hai tay đều được buộc lại với nhau
từng đôi một bằng một đoạn dây. Xác được quấn trong nhà khoảng một tuần lễ để
làm mọi và mọi người đến thăm viếng.
Mỗi làng có một khu nghĩa địa riêng.Những người thuộc về một làng đều mai
táng trong một khu nghĩa địa nhất định. Trong đám ma người Mạ, theo phong tục,
chỉ những người trong thân tộc mới tham gia vào việc mai táng. Khi quan tài đưa
ra đến nghĩa địa, người Mạ mới bắt đầu đào huyệt. Huyệt thường không theo một
hướng nào. Đáy huyệt được lót một lớp cây trước khi hạ quan tài xuống.Trên nắp
ván thiên lại một lớp cây rồi mới trải trên lớp cây một chiếc chiếu. Đây là chiếc
chiếu mà người quá cố đã nằm trong phút nhắm mắt xuôi tay. Tiếp đó là hạ huyệt

kết thúc việc mai táng.
3.13.

Van nghệ dan gian

Dân tộc Mạ có vốn văn nghệ dân gian phong phú với nhiều loại hình: truyền
thuyết, truyện cổ, tục ngữ, thành ngữ, dân ca trữ tình.
Người Mạ có những truyền thuyết gắn liền với vùng đất: núi, sông nơi đồng bào
sinh sống; gắn liền với con người các dân tộc mà họ có quan hệ trong cuộc sống
hàng ngày. Truyền thuyết về nạn hồng thuỷ của người Mạ kể:... Nước bắt đầu
dâng lên từ sông Đạ Đong rồi ngập hết cả vùng Đạ Lát (Đà Lạt), Di Linh, Blao
(Bảo Lộc)... Loài người chết gần hết, chỉ còn sống sót vài người, trong đó có ba
cô gái người Mạ. Ba cô gái người Mạ này đã lấy chồng thuộc ba dân tộc khác
nhau: cô K’Grúp lấy chồng người Chăm, cô K’Grun lấy chồng người miền núi
(chỉ người Cờ Ho), còn cô gái M’Ho lấy chồng người Gioan (Kinh). Từ đó sinh ra
con cháu các dân tộc cùng sinh sống trên xứ sở người Mạ hiện nay.
Người Mạ có thể loại truyện cổ tích bằng văn vần gọi là yea lỉau - một dạng
trường ca như kiểu kể khan người Ê Đê.Người kể yea lỉau cũng có những động
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 16 | 17


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC MẠ | Hoàng Trần

tác cử chỉ điệu bộ mang tính diễn xuất của một “diễn viên tấu”. Trường ca thường
được các cụ kể vào ban đêm cho con cháu nghe. Có những trường ca dài kể hai,
ba đêm mới hết. Chủ đề tư tưởng của các truyện văn vần này luôn gắn với cuộc
sống người Mạ trong đẩu tranh thiên nhiên với tinh thần vượt khó, vượt khổ, khắc
phục khó khăn vươn lên trong sản xuất và đấu tranh xã hội chống các thói hư tật
xấu, lười biếng, tham ăn, trộm cắp...
Vốn cổ văn học của người Mạ còn có thể loại tục ngữ, thành ngữ mà người Mạ

gọi là hdri. Đây thực chất là những câu văn vần nói về luật tục của người Mạ.
Luật tục này quy định những vi
phạm và xử lý vi phạm. Vì vậy,
những câu văn vần này đã trở
thành công cụ để toà án phong
tục xét xử phạm nhân theo quy
định của luật tục.
Người Mạ có bộ nhạc cụ khá độc
đáo.Bên cạnh bộ chiêng đồng,
trống, ở người Mạ còn có khèn
bàu, khèn sừng trâu, đàn lồ ô, sáo
trúc ba lồ gắn với trái bầu khô.

Cồng chiêng của người Mạ

N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 17 | 17



×