Tải bản đầy đủ (.pdf) (16 trang)

Tổng quan dân tộc MNông (PDF,Word)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.18 MB, 16 trang )

TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC M’NÔNG | Hoàng Trần

TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC M’NÔNG
MỤC LỤC:
1.

Vài Nét Về Dân Tộc M’Nông ................................................................................................ 2

2.

Kinh Tế Truyền Thống ......................................................................................................... 2

3.

2.1.

Trồng trọt.......................................................................................................................... 2

2.2.

Chăn nuôi ......................................................................................................................... 4

2.3.

Khai thác tự nhiên ............................................................................................................ 4

2.4.

Ngành nghề thủ công........................................................................................................ 5

2.5.



Trao đổi, mua bán............................................................................................................. 5

Văn hoá truyền thống ............................................................................................................ 6
3.1.

Làng .................................................................................................................................. 6

3.2.

Nhà ở ................................................................................................................................ 7

3.3.

Yphục, trang sức .............................................................................................................. 8

3.4.

Ẩm thực ............................................................................................................................ 9

3.5.

Phương tiện vận chuyển ................................................................................................. 10

3.6.

Ngôn ngữ ........................................................................................................................ 10

3.7.


Tín ngưỡng tôn giáo ....................................................................................................... 11

3.8.

Lễ Hội ............................................................................................................................. 11

3.9.

Văn nghệ dân gian .......................................................................................................... 11

3.10.

Gia đình, dòng họ ....................................................................................................... 12

3.11.

Tục lệ cưới xin ............................................................................................................ 12

3.12.

Tập quán tang ma ....................................................................................................... 14

N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 1 | 16


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC M’NÔNG | Hoàng Trần

1. Vài Nét Về Dân Tộc M’Nông
Dân số : 102.741 người (2009)
Ngôn Ngữ: thuộc nhóm ngôn ngữ Môn Khơ Me.

Tên gọi khác: Bu-dâng, Preh, Ger, Nong,
Prâng, Rlăm, Kuyênh, Chil Bu Nor…
Nhóm địa phương: M’Nông Gar, M’Nông
Nong, M’Nông Kuênh, M’Nông Preh,
M’Nông Prông, M’Nông Rlâm, M’Nông
Buđàng, M’Nông Chin…
Địa bàn cư trú: Đắk Lắk, Đắk Nông, Lâm
Đồng, Bình Phước, Quảng Nam

Địa bàn cư trú
Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, người M’Nông ở Việt Nam có dân
số 102.741 người, cư trú tại 51 trên tổng số 63 tỉnh, thành phố. Người M’Nông cư
trú tập trung tại các tỉnh: Đắk Lắk (40.344 người, chiếm 39,3% tổng số người
M’Nông tại Việt Nam), Đắk Nông (39.964 người, chiếm 38,9% tổng số người
M’Nông tại Việt Nam), Lâm Đồng (9.099 người), Bình Phước (8.599 n gười),
Quảng Nam (13.685 người)

2. Kinh Tế Truyền Thống
2.1. Trồng trọt
Người Mnông là một trong những cư dân sinh sống chủ yếu bằng nông nghiệp nương
rẫy. Bên cạnh đó còn có một ít ruộng nước.

N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 2 | 16


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC M’NÔNG | Hoàng Trần

Đồng bào làm nương rẫy trên các sườn đồi, triền núi - nơi đất dốc, còn rừng để khai phá
thành đất sản xuất. Kỹ thuật sản xuất được thực hiện theo phương thức cổ truyền: phát,
đốt, chọc lỗ, tra hạt. Công việc

phát rừng, đốt rẫy được tiến
hành vào những ngày đầu năm,
sau khi đã tổ chức một số nghi lễ
nông nghiệp. Theo phong tục,
người Mnông, có 1 người “kéo”
ra lửa, gọi là mút. Ngọn lửa do
người này kéo ra bằng phương
pháp thô sơ: dùng một thanh tre
được vót theo hình lưỡi dao, đặt
ngửa, chắc chắn trên mặt đất;
một mảnh tre khác có hình như
cái máng, khoét một khe thủng

Nương rẫy trên sườn đồi (Ảnh minh họa)

ngang cái máng đó, đặt bùi nhùi
vào
chỗ có khe ủng, dùng một mảnh tre khác có bùi nhùi ờ khe thúng lên thanh tre lưởi dao,
kéo mạnh, kéo đi, kéo loi vài lần thật nhanh và mạnh, từ bùi nhùi đó sẽ phát ra lừa. Ngọn
lửa được chia cho từng gia đình trong cả làng. Các gia đình trong làng nhúm lửa từ đây
về để đốt rầy của gia đình mình. Công cụ sản xuất chủ yón là chiếc chà gạc dùng để chặt
cây nhỏ, phát cành, dây leo, chiếc rìu lít' phát cây to, chiếc cuốc dùng để xới đất, gậy
chọc lỗ để chọc lỗ tra hạt, lồ ô để đựng hạt giống, cái văng để làm cỏ, chiếc liềm để gặt
lúa nếp, tlucc gùi để mang lúa về kho. Cây trồng trên rẫy, chủ yếu là lúa nương. Ngoaì ra,
người Mnông có tập quán trồng xen canh các loại cây ngô, khoai, bầu, bí... dưới gốc cây
lúa nương. Canh tác trên nương rẫy thường không ổn định lâu dài. Phần nhiều rẫy trên
đất dốc được gieo trồng hai, ba năm rồi để hoang, cho đất nghỉ, hồi phục màu. Những rẫy
trên đất được canh tác liên tục, thường từ 6 đến 12 năm mới lại để hoá.
Ở những nơi ven sông, suối, gần hồ nước - đất bằng phẳng, đồng bào khai phá làm ruộng
nước. Để làm đất cấy lúa nước, người Mnông dùng hàng chục con trâu để giẫm cho đất

nhuyễn. Mạ được gieo độ khoảng một tháng thì nhổ và đem cấy. Người Mnông không
mấy khi ngâm mạ trước khi cấy. Đồng bào Mnông cấy nhiều lúa tẻ, còn lúa nếp được
trồng ít.

N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 3 | 16


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC M’NÔNG | Hoàng Trần

2.2. Chăn nuôi
Người Mnông chăn nuôi các loại gia súc, gia cầm có tính phổ biến. gia đình nào cũng
nuôi: trâu, dê, lợn, gà. Chăn nuôi dù mang tính phổ biến, nhưng chủ yếu vẫn là để tự túc,
phục vụ cho nhu cầu tế lễ, cúng bái, ăn thịt... Theo phong tục, hàng năm người Mnông có
hàng chục lần tế lễ cúng bái các vị thần linh, mà đồng bào gọi chung là Jàng. Mỗi lần tế
lễ lụi cần một, hai con gia súc, gia cầm, tuỳ từng nghi lễ. Tế lễ to thì vật hiến sinh là con
trâu, tế lễ nhỏ thì vật hiến sinh có thể là con gà hoặc con lợn. Sau mỗi lần tế lễ cúng bái
thần linh như vậy, người Mnông lại sử dụng thịt các vật đó để ăn... Một số trường hợp
người Mnông chăn nuôi trâu, dê, lợn để bán lẩy tiền mua cồng chiêng, ché, mua những
đồ trang sức quý giá khác.
Trong chăn nuôi của người
Mnông, có con vật nuôi nổi
tiếng là con voi. Đồng bào
nuôi voi kèm theo nhiều
nghi thức mang tính tâm
linh. Từ khi bắt được voi
rừng đưa về nhà để thuần
dưỡng cho đến khi con voi
chết đi, con voi được chủ
nhà nuôi voi ứng xử với voi
như một thành viên cùa gia

dinh, ở Tây Nguyỏn nhiều
dân tộc nuôi voi, nhưng
Người M’Nông chăn nuôi voi (Ảnh sưu tầm)
người Mnông được biết
đến
không chỉ nuôi voi giỏi, mà là còn cỏ nghệ thuật săn bắt voi rừng rất tài. Những nơi săn
bắt voi nổi tiếng nhất là Bản Dỏm (tỉnh Đắk Lắk). Đồng bào Mnông nuôi voi dùng để
làm phương tiện vận chuyển, làm sức kéo, làm con mồi đi săn để tiếp tục săn bắt voi
hoang dã để bán để lấy ngà voi làm đồ trang sức. Một cách sử dụng voi quan trọng khác
là dùng voi đi đánh giặc - voi chiến.
2.3. Khai thác tự nhiên
Sống ở rừng, sản xuất tự túc, người Mnông tận dụng khai thác nguồn lâm, thổ sản cũng
như muông thú trên rừng phục vụ nâng cao đời sống vật chất của mình. Cuộc sống hàng
ngày, bữa ăn hàng ngày đều ghi dấu ấn của nguồn lợi lâm thổ sản. Đồng bào Mnông thu
hái nhiều thn khác nhau từ rừng như: nấm hương, mộc nhĩ, măng, song mây, các rau
rừng, hoa quả củ rễ; săn băt muông thú, đánh bắt cá trên sông, suối Tất cả sản vật thu hái,
săn bắt được, một phần sử dụng ngay hoặc đề dành ăn lâu dài (măng khô, cá khô), phần
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 4 | 16


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC M’NÔNG | Hoàng Trần

khác đem bán lấy tiền mua nhu yếu phẩm cần thiết cho cuộc sống như: muối, dầu thắp,
đồ sành sứ, chiêng, ché cùng nhiêu đồ trang sức quý giá khác.
Trong khai thác tự nhiên, người Mnông có ý thức bảo vệ môi trường, bảo vệ rừng và
muông thú. Khi hái cây rau rừng, đồng bào không hái hết lá để cây không chết, hái măng
cũng không hái hết tất cả ngọn măng, mà luôn để dành vài ngọn cho măng mọc lên thành
tre, sang năm sau còn măng để hái; săn thú không săn vào mùa con thú chửa đẻ...
2.4. Ngành nghề thủ công
Người Mnông có một số nghề thủ công mang tính phổ biến, có tác động đến đời sống

của đồng bào. Đó là nghề dệt,
nghề đan lát, nghề rèn, nghề làm
gốm và nghề mộc. Người
Mnông tự sản xuất ra vải mặc từ
I khâu đầu đến khâu cuối. Kỹ
thuật vải của đồng bào khá cao,
họ dệt trơn 1 và dệt hoa văn trên
nền vải như: cành đa, lá đậu, hạt
dưa, trái trám; nghè I đan lát
mây tre cũng phát triển. Đồng
bào đan những đồ dùng thông
dụng trong gia đình: gùi, giỏ,

Nghề dệt của người M’Nông (Ảnh sưu tầm)

thúng, mủng, mẹt. Đồ đan mây tre của
các dân tộc ở Tây Nguyên nói chung, trong đó có dân tộc Mnông, đạt trình độ mỹ nghệ
cao. Đan cài hoa văn thường thấy trong các đồ dùng gia đình. Trong nhiều làng người
Mnông có nghề rèn, nhưng công việc chủ yếu của các thợ rèn ở đây là sửa chữa nông cụ
bằng kim loại như: dao, cuốc, hà gạc, rìu... Người Mnông còn làm nghề gốm. Những sàn
phẩm họ làm ra là: nồi đất, hát, hũ. Nghề mộc của người Mnông có thể là việc đồng bào
tự làm nhà ở, làm ghế gỗ để ngồi. Đặc biệt, những cư dân sinh sống bên dòng sông Srê
Pốc làm thuyền độc mộc với kỳ thuật khá cao. Tuy nhiên, nhìn chung tất cả các ngành
nghề thủ công của đồng bào cũng chỉ mang tính chất tự túc là chính.
2.5. Trao đổi, mua bán
Nền kinh tế của người Mnông là nền kinh tế tự túc, tự cấp, nhưng người Mnông cũng có
những hoạt động trao đổi, mua bán một số mặt hàng. Người Mnông lẩy lâm sản đổi lấy
muối ăn, kim khâu, dầu thắp úng; đem những lâm sản được coi là quý như: măng khô,
nấm hương, mộc nhĩ, mật ong đi ra chợ bán để lấy tiền mua các mặt hàng có giá trị kinh
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 5 | 16



TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC M’NÔNG | Hoàng Trần

tế cao như: chiêng, ché đựng rượu cần cũng có khi đem voi, ngà voi đi bán hoặc đổi lấy
hàng quý, thể hiện sự giàu sang trước đây của người Mnông. Việc trao đổi, mua bán hàng
có thể diễn ra ở chợ, nhưng ở vùng người Mnông cư trú ít có chợ, cho nên để mua bán
hay trao đổi hàng thường có hai phương thức: một là, đồng bào mang hàng ra chợ ở Bản
Đôn, Gia Nghĩa, Đắc Min bán, rồi mua thứ cần dùng; hai là, thương lái người Lào, người
Căm-pu-chia hoặc người Kinh mang hàng đến các làng ma đồng bào Mnông đổi lấy nông
sản của đồng bào.

3. Văn hoá truyền thống
3.1. Làng
Việc chọn đất dựng làng lúc
nào cũng gắn liền với đất cho
sản xuất và sinh hoạt. Làng
người Mnông thường được
dựng ở các chân núi, sông,
suối, đầm, hồ nước. Đó là
những vùng đất đáp ứng được
cơ bản điều kiện sản xuất làm rẫy, làm ruộng, hái lượm,
chăn nuôi và đáp ứng làm cầu
đi lại thuận tiện, có nước để
sản xuất và cho cuộc sống của
con người. Mỗi làng cỏ một phạm vi đất đai nhất định. Đất đai của làng gồm đất khai
phá làm nương, làm ruộng, đất làm nhà ở và đất rừng chưa khai thác - nơi để dân làng hái
lượm lâm thổ sản, săn bắt, đánh cá. Làng của người Mnông thường chỉ có dân tộc Mnông
cư trú, họ ít cư trú với dân tộc khác trong một làng. Mỗi làng có khoảng trên dưới chục
nóc nhà dài.

Trong xã hội cổ truyền người Mnông có người đứng đầu làng. Người đứng đầu làng gọi
là Rnủt hay Kroanh bon, do dân tín nhiệm cử. Nhiệm vụ của người đứng đầu làng là điều
khiển công việc chung của làng. Khi có chiến tranh thì cử ra Nê tăm lúm lở để chi huy
những đội dân binh. Dân binh chính là những trai tráng trong làng. Con trai M’Nông vào
tuổi 15, 16 có nghi lễ đánh dấu sự trưởng thành. Đó là tục cà răng cưa cụt 4 răng cửa và 2
răng nanh hàm trên và nhuộm răng đen. Sau cáo I nghi lễ thức trên, con trai trở thành
đinh tráng, có nghĩa vụ tham gia đội dân binh khi có chiến sự. Sau các cuộc giao tranh,
nếu chiến thắng, những tù binh bắt được sẽ trở thành nô lệ gia đình của Nê tăm lăm lớ,
Tuy có tổ chức dân binh sẵn sàng chiến đấu bảo vệ làng, nhưng người Mnông quan hệ
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 6 | 16


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC M’NÔNG | Hoàng Trần

hoà bình trong các làng là chủ yếu. Điều này thể hiện rd 1 qua việc người Mnông có ý
thức xây dựng quan hệ liên minh, tương trợ bảo vệ chung, giúp nhau phát triển sản xuất,
thông tục kết nghĩa giữa các cá nhân trong làng hoặc giữa các cá nhân làng này với làng
khác, thông 1 qua nghi lễ hiến sinh để thần linh cùng dân làng chứng giám.
3.2. Nhà ở
Dân tộc Mnông có hai loại
nhà ở: nhà đất và nhà sàn.
Nhóm người Mnông Ga,
Mnông Prăng, Mnông Preh
sinh sống vùng Đắc Nông,
Đáo I Min chủ yếu ở nhà đất;
còn nhóm người Mnông
Rlâm, Mnông Chin sinh 1
sống gàn người Ê Đê chủ yếu
ở nhà sàn.
Nhà đất của người Mnông

còn giữ nhiều nét cổ truyền.
Đó là ngôi 1 nhà dài 20 – 30m, cột cái cao khoảng 3m, chôn thẳng xuống đất, cột quân 1
cao khoảng l,5m. Nhà có hai mái chính và hai chái, do đó mái chạy bổn 1 bề. Mái nhà lợp
bằng cỏ gianh, cửa nhà được mở ở mái chính, xungl quanh nhà thưng kín bằng phên tre
đan lóng đôi hay lóng một. Do cột quân thấp cho nên mái nhà rất thấp. Có nơi mái nhà
buông gần sát đất, Trong lòng nhà người Mnông được chia thành ba phần xấp xỉ bằng
nhau, mỗi phần có một chức năng khác nhau. Phần ngoài là nơi để những đổ 1 dùng gia
dụng, phần giữa nhà là nơi đặt bếp đun nấu, kho thóc và lối đi 1 lại, phần trong cùng rộng
hơn một chút là nơi kê sạp để ngủ.
Nhà đất của người Mnông có hai nét đặc trưng, đó là kiến trúc kho lúa trong nhà ở và
mái cửa ra vào nhà. Kho lúa đặt ở phần giữa nhà, cố 1 kiến trúc khá đặc biệt như là một
vựa thóc. Vựa thóc này đặt trên 4 cột cao khoảng l,5m. Cột được làm bằng gỗ chắc chắn,
thưng kín bốn bề và phía trên, đảm bảo chuột không vào ăn thóc được. Dưới gầm sàn là
bếp đun nấu.
Nhà đất của người Mnông có kiến trúc mái nhà cũng rất khác nhiều dân tộc khác. Vì là
mái nhà thấp xuống gần mặt đất, cho nên mái cửa vào phải cắt phân mái cỏ giành nơi để
làm cửa đi lại, cao lên một đọan lại được bình thưởng. Cửa đi lại này còn được trang trí
bằng những thanh tre uốn cong có hình dáng một cổng tò vò.
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 7 | 16


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC M’NÔNG | Hoàng Trần

Nhà sàn của người Mnông thường xuất hiện ở nhóm Mnông sinh sống xen kẽ với người
Ê Đê. Có lẽ, do sống xen kẽ với người Ê Đê cho ngôi nhà sàn của người Mnông có nhiều
nét tương đồng với người Ê Những nét tương đồng ở đây thể hiện ở kiến trúc nhà sàn
(chứ không phải là nhà đất), kết cấu kỹ thuật làm ngôi nhà sàn, cách bài trí sử dụng trong
ngôi nhà, làm “kho lúa” riêng ở ngoài ngôi nhà ở. Điển hình nhà sàn này là cư dân
Mnông sinh sống gần hồ Lắc.
Khi một ngôi nhà được dựng xong, người ta tổ chức lễ vào nhà mới khá linh đình. Trong

nghi lễ này có tổ chức hiến sinh cúng Jàng và dân làng ăn uống trong một ngày. Đồ dùng
trong gia đình Mnông ở nhà đất khá đơn giản vì cuộc sống định cư có thời hạn. Ngoài
một số nhạc cụ chủ yếu dùng trong nghi lễ theo phong tục dân tộc như cồng chiêng bằng
thì cỏ một số đồ sành, sứ như ché ủ rượu cần, nồi đất để nấu cơm, iỏi giã gạo, một số đồ
đan mây tre và rất nhiều vỏ bầu khô để đựng nước. nhóm cư dân sống ở nhà sàn có thêm
một số đồ dùng bằng gỗ như: chiếc hồ dài, ghế chủ, ghế khách, ghế dành cho nhạc công.
3.3. Yphục, trang sức
Bộ y phục của người Mnông
có nhiều nét chung của Tây
Nguyên: nữ mặc váy, áo chui
đầu, dài đến ngang thắt ưng,
bó sát lấy thân người; nam
đóng khố, mặc áo chui đầu,
dài che kín mông. Vải làm
váy, áo, khố do đồng bào tự
làm ra từ khâu trồng bông dệt
vải, dệt, nhuộm, cho đến
khâu cắt may, khâu thành y
phục mặc.
Váy và khố không phân biệt theo mùa thời tiết cũng như không phân biệt theo lứa tuổi
mà phân theo địa vị ở trong làng và theo môi tiirờng sinh hoạt. Kiểu dáng, mẫu mã áo
mặc cũng không phân biệt về lứa tuổi, kiểu dáng áo của trẻ con và người lớn đều giống
nhau. Mùa hè, người Mnông có thể ở trần hoặc mặc áo ngắn tay như các dân tộc khác ở
íty Nguyên; còn mùa đông, trời se lạnh, đồng bào khoác thêm tấm mền.
Những tấm mền đó đồng bào cỏ thể dùng để đắp khi ngủ đêm. Trên nền Miỵ, khố, áo
màu chàm đen, đều có những mô típ hoa văn. Những mô típ hoa văn này được thực hiện
bằng kỹ thuật dệt. Những mô típ hoa văn nén trang phục người Mnông có chủ đề là
những cảnh vật thiên nhiên, những nét sinh hoạt của cộng đồng dân làng. Hoa văn trên
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 8 | 16



TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC M’NÔNG | Hoàng Trần

váy, áo, khố là những tiêu chí để đánh giá chất lượng của hộ y phục. Chiếc áo ngày hội
của nam giới Mnông là chiếc áo dài tay mà những người địa vị xã hội xưa thường mặc.
Chiếc áo này có mảng hoa văn trang hình thang cân ở trên ngực áo, với cạnh dài ở trên và
cạnh ngắn .Mảng trang trí hình thang cân này được thực hiện bằng những con màu đỏ
nằm ngang, làm chức năng của những hàng khuy khuyết. Hoa văn này được đồng bào
giải thích là tượng trưng cho cánh chi phượng hoàng dũng mãnh tung cánh bay lên.
Trong điều kiện kinh tế tự túc, tự cấp, người Mnông tự túc vải trong từng gia đình. Đó là
công việc của người phụ nữ.
Trang sức: Đồng bào Mnông cũng thích mang nhiều đồ
trang sức bằng bạc, đồng, kẽm, nhôm. Những đồ trang sức
đồng bào hay đeo vòng cổ, vòng chân, vòng tay. Những
chiếc vòng đồng mang ở cổ tay dấu hiệu những cuộc lễ hiến
sinh hay kỷ vật của người thân. Đàn ông đàn bà thường đeo
khuyên tai bằng vòng đồng, vòng kền hay ngà voi Nếu là
hoa tai bằng ngà voi thì có hình cối giá. Nhiều khi khuyên
tai nam giới chỉ là một đoạn nứa màu vàng. Chị em phụ nữ
còn thường đeo trên cổ một vài chuỗi hạt cườm ngũ sắc.
3.4. Ẩm thực
Người Mnông ăn cơm.
Cơm được nấu trong nồi
đất. Ngoài cua đồng bào
còn thường ăn cháo chua.
Món cháo chua thường hay
sử dụ vào mùa hạ làm bữa
ăn trưa. Những khi lên
nương, đồng bào mang
theo cháo chua, đựng trong

vỏ trái bầu khô. Thức ăn
thường này của đồng là rau
rừng các loại, muối ớt, cá

Người M’Nông tập trung ăn uống (Ảnh sưu tầm)

khô, thỉnh thoảng có thêm
thịt
thú Khi săn bắt được thú rừng, đồng bào Mnông thường thui trên lửa chứ không làm lông
bằng cách dùng nước nóng cạo. Cách chế biến các món ăn thịt thú rừng chủ yếu là ướp
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 9 | 16


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC M’NÔNG | Hoàng Trần

gia vị rồi nướng trên than củi hồng, tiếp đến là luộc, ninh nhừ hoặc nấu với hoa quả.
Người Mnông thường uống rượu gạo. Rượu được ủ trong vò sành, uống bằng cần trúc.
Công việc lo hái rau rừng làm thực phẩm hàng ngày, cùng việc nấu nướng là công việc
của phụ nữ. Chị em trong gia đình hàng ngày đi với chiếc gùi sau lưng khi về nhà thường
lúc nào cũng có thứ rau, củi hay một vài thứ gì đó cho bữa ăn của cả gia đình.
3.5. Phương tiện vận chuyển
Phương tiện vận chuyển của người Mnông phổ biến nhất là sử dụng chiếc gùi đeo sau
lưng. Con gái đi làm là đeo gùi để khi có
nhu cầu vận chuyển gì đỏ thì dùng gùi.
Người Mnông ở vùng gần hồ, ven sông

nước có cách vận chuyến dùng thuyền độc
mộc. Con voi được sử dụng vào việc vận
chuyển những vật nặng như: kéo gỗ, thồ
hàng với khối lượng lớn.

3.6. Ngôn ngữ
Tiếng nói: Tiếng nói của dân tộc Mnông
Chiếc gùi (Ảnh minh họa)
thuộc ngữ hệ Nam Á. Tuy người Mnông cư
trú trên địa bàn rộng, có nhiều rừng ngăn cách, các nhóm người Mnông ít có cơ hội tiếp
xúc thường xuyên với nhau, nhưng tiếng nói của họ cơ bản vẫn thống nhất, sự khác biệt
trong các phương pháp không đáng kể.
Chữ viết: Trong lịch sử, người Mnông chưa có chữ viểt riêng của dân tộc mình.

N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 10 | 16


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC M’NÔNG | Hoàng Trần

3.7. Tín ngưỡng tôn giáo
Dân tộc Mnông quan niệm vạn vật hữu linh. Mọi vật tồn tại trên thế giun này, dù là sinh
vật hay vật vô tri, vô giác, đều có linh hồn - thân linh. Là cư dân nông nghiệp, cho nên,
thần linh chủ yếu là những thần lien quan đến nông nghiệp. Một số thần mà người
Mnông vẫn thờ như: nữ thần mặt trời Jiêng Tnge, thần sét Krang Tnaỉ, thần núi, thần đất,
thần tung suối... Tất cả những thần này có thần thiện và thần ác, nhưng đều có một tên
chung là Jàng. Trong nhiều nghi lễ nông nghệp, thầy cúng ; Mnông còn cầu khấn đến vị
thần nông nghiệp có hình dáng nửa thần, nửa nprời như các thần Xiêng Nô, Xỉêng Nung.
Các vị bậc thầy trong nghề voi như các ông Bơ Nang, M’tang, M’Yang, Rơ Giao... cũng
được người Mnông thờ cúng trong
nhiều nghi ]ễ hàng năm.
3.8. Lễ Hội
Lễ hội đâm trâu cúng Jàng là lễ hội cổ
truyền lớn và được coi trọng nhất.
Hàng năm, sau vụ thu hoạch, dân làng
tổ chức đâm trâu cúng Jàng, tạ ơn thần

linh - thần trời đất, thần lúa phù hộ cho
vụ mùa bội thu. Con vật hiến sinh
trong nghi lễ này là con trâu.
Người Mnông cũng thờ cúng tổ tiên
thể hiện chủ yếu ở các nghi lễ cúng
ma.

Lễ đâm trâu của người M’nông (Ảnh sưu tầm)

3.9. Văn nghệ dân gian
Vốn văn học dân gian truyền miệng của dân tộc Mnông rất phong phú. Có nhiều thể loại
văn học như: thần thoại, truyền thuyết, cổ tích, dân ca, ca dao tục ngữ, mỹ thuật tạo hình,
âm nhạc... thường được truyền lại dưới dạng văn vần hoặc văn xuôi, nhưng thỉnh thoảng
lại có những đoạn văn vần. Chủ đề của các truyện cổ thường liên quan đến nhân sinh
quan, vũ trụ quan của người Mnông như: n 'dring, o yău, n’ơn... Người Mnông có hình
thức kể truyện cổ theo kiểu dlỉ xướng. Khi kể truyện cổ bằng văn vần thì nhấn mạnh ở
những chỗ vần để tăng thêm sức truyền cảm. Kể truyện văn xuôi, đến những chỗ văn vần
thì người kể ngân nga như cất tiếng hát. Người Mnông có kể truyện cổ gọi là tăm n ’dring
và gọi riêng thể loại văn học này là nị brah. Nhiều nghệ nhân kể ngơi brah ví ngơi brah
như khan của người. Người Mnông còn có cách kể gia phả gọi làn kể yao, kể truyện côi
gọi là n 'kẽ năo kon đôi. Người Mnông có nhiều truyện ngụ ngôn cười mà tính giáo dục
rất cao.
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 11 | 16


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC M’NÔNG | Hoàng Trần

Dân ca Mnông giàu chất trữ tình. Loại dân ca này được gọi chung là tam pớt hay toong
toong. Tên này dùng để gọi các hình thí đơn ca như hát ru, hát thổ lộ tâm tình; còn cách
hát giao duyên đối đá nam nữ gọi là đơih lơn hay păt war. Một số làn điệu dân ca phổ

thông như: toong, reng, păt, parơ, t’tôông, đ’doh. Người Mnông sinh sống vùng hồ Lắc
đã tiếp nhận dân ca Ê Đê.
Trong văn học truyền miệng của người Mnông còn có thể loại dao và tục ngữ. Ca dao của
người Mnông được gọi là tăm pỡt bỉơr. Đó những bài văn vần nói về kinh nghiệm sản
xuất, về tình yêu quê hương xứ sở, về tình yêu lứa đôi, về nểp sống gia đình và trật tự xã
hội. Điều đáng chú ý là nhiều luật tục của người Mnông đã được văn vần và gọi bằng
những tên khác nhau như: no ngoi đôih, đuê đôih, Đỏ là những đoạn văn vần ngắn gọn,
thể hiện một hướng rõ ràng về quy ước quan hệ gia đình, quan hệ xã hội cùng những chế
tài xử phạt khi vi phạm luật tục. Qua loại văn vần này, với hình tượng nghệ thuật ví von
đặc sắc làm cho luật tục trở nên dễ phổ cập đồng bào dễ nhớ, dễ làm theo.
Múa dân gian ở người Mnông ít phát triển. Trước đây có điệu múa ngựa, được gọi là kdõ
seh và kdõ her. Đây là điệu múa với những động tác khòe khoắn mang tính thể thao nhiều
hơn là những động tác mềm mại, uyển chuyển của múa nghệ thuật cổ truyền. Nam thanh
niên hay múa điệu múa ngựa trong cảc dịp nghỉ lễ cưới xin, vào nhà mới, hội mùa ăn lớn.
Nhóm Mnông ở nhà sàn gần người Ê Đê đã tiếp nhận một điệu múa của họ.
Mỹ thuật dân gian trong dân tộc Mnông được thể hiện ở các mô típ hoa văn dệt trên vải,
những mô típ hoa văn đan cài trên đồ đan mây, tre. Một sổ hoa văn truyền thống thường
gặp trên vải dệt: hình chân nhện, hạt dưa - ngơ găr pùng, dây quả trám - rơ nôk poh, lá
dâu - rrnng ha tuh, cành đa - rơ nôk mbah jri, chà gạc - ngơ gă viêh, chông bảy - dững
srông. Trên đồ đan thì mô típ hoa văn cũng cơ bản như mô típ hoa văn trên vải dệt.
3.10.
Gia đình, dòng họ
Mỗi ngôi nhà là nơi cư trú một gia đình người Mnông. Gia đình dân tộc Mnông là gia
đình mẫu hệ (có ý kiến cho là phụ hệ), mẫu quyền. Con gái sinh ra lấy họ theo dòng mẹ;
trong gia đinh người mẹ có quyền cao trong việc chỉ đạo, xử lý mọi việc gia đình cũng
như quan hệ họ hàng, xom giềng. Tuy nhiên người đàn ông được tôn trọng. Theo dòng
mẫu hộ nên quyền thừa kế tài sản của bổ mẹ để lại thuộc về con gái út.
3.11.
Tục lệ cưới xin
Nguyên tắc trong hôn nhân của người Mnông là ngoại hôn dòng lục. Trong mỗi làng của

người Mnông có nhiều dòng họ - mpôl cùng sinh •.ong trong một làng. Mỗi mpôl đó là
những đơn vị ngoại hôn với nhau luật tục quy định xử phạt rất nặng những trường hợp
loạn luân. Dân tộc Mnông thực hiện hôn nhân một vợ, một chồng bền vững. Trong cuộc
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 12 | 16


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC M’NÔNG | Hoàng Trần

sống sự chung thuỷ của vợ chồng được đề cao, được luật tục bảo vè. Những trường hợp
ngoại tình bị xử phạt nghiêm khắc. Sau hôn nhân, đôi vợ chồng trẻ thường cư trú bên nhà
bố mẹ vợ, có nhiều trường hợp họ cư trú luân phiên song phương rồi ra ở riêng. Một nội
dung quan trọng trong hôn nhân là chi phí cho cuộc hôn nhân. Theo tập quán của người
Mnông thì nếu sau hôn nhân, đôi vợ chồng trẻ cư trú bên nào thì bên đó chịu n ách nhiệm
mọi chi phí. Do có tập quán cư trú luân phiên song phương cho nên chi phí cho lễ cưới do
cả hai bên cùng chịu.
Trong tập quán hôn nhân của
người Mnông có tục nối nòi ăm noi.
Trong một cặp vợ chồng, một
người chết đi thì dòng họ của
người quá cố có trách nhiệm
chọn một người trong thân tộc
để thay thế..
Người Mnông coi quan hệ hôn
nhân một chiều, tức là con trai
chị em gái lấy con gái của các
anh em trai là thích họp với
phong tục được ưa thích.

Lễ cưới người M’Nông (Ảnh sưu tầm )


Ở người Mnông, tục lệ cưới xin thường có ba bước: Sa ur, Tâm Ẳ và Tăm nsông.
Sa ur là lễ thức mà người mối thay mặt bên nhà trai đem hai ống lồ ồ đựng lễ vật đến nhà
gái cầu hôn. Nếu nhà gái ưng thuận, thì nhận ống lồ ô và bàn bạc nghi lễ thứ hai; nếu nhà
gái từ chối thỉ gửi ông một bát gạo để đưa đến nhà trai.
Tâm ốp là nghi lễ chính thức khẳng định trước họ hàng và dân làng hôn nhân của đôi trai
gái đã được thoả thuận. Trong nghi lễ này, nhà trai thân nhân đến nhà gái và mang theo
một số lễ vật như lược sừng, cườm, vòng đồng, mỗi thứ một chiếc, một con lợn chừng
20kg, một ché rượu cần, khoảng 20 - 30 ống lồ ô đựng măng chua cùng với da trâu muổi
Trong nghi thức này, việc cư trú sau hôn nhân của đôi trai gái cần được thoề thuận vì nó
liên quan đến chi phí cho hôn lễ mỗi bên. Theo tập quán hỏn nhân của người Mnông, nếu
sau hôn nhân hai vợ chồng về cư trú bên vợ thi nhà gái sẽ phải biếu tặng cho nhà trai
nhiều hơn là sau hôn nhân hai vợ chồng về cư trú bên nhà chồng. Nếu cư trú bên nhà
chồng thì quà cô dâu tặng mẹ chồng chỉ là một bát gạo và 10 cái bát sành.
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 13 | 16


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC M’NÔNG | Hoàng Trần

Tâm nsông là nghi lễ đám cưới. Nếu sau đám cưới, chàng trai về cư trú tại nhà cô gái thì
nghi lễ được mở đầu bằng việc nhà trai biếu tặng mồi người trong gia đình nhà gái một
bát gạo đầy, sau đó nhà gái sẽ tặng lại mỗi người trong gia đình nhà trai một ché sành, sứ
để ủ rượu cần nghi thức này được tổ chức ở bên nhà gái, cạnh cây cột chính giữa nhà.
Trong cây cột chính giữa nhà, hai người làm mối buộc một con dao chà gạc, Ông mối
đứng làm chủ lễ, dẫn đôi tân hôn đến bên cây cột rồi cầm tay họ đặt lên chiếc chà gạc và
căn dặn về bổn phận của vợ chồng trong quan hộ mới. Sau lễ thức này là cuộc vui bên
các ché rượu cần và các nia thức ăn, Cuộc vui thường kéo dài vài ba ngày.
Đồng bào Mnông có tập quán kiêng cữ trong một tuần tính từ sau ngày cưới. Trong thời
gian này, hai vợ chồng luôn sống ở trong nhà, không được tiếp xúc với người lạ mặt.
Tiếp đó là tuần lại mặt - gai phit lồi một bát gạo dầy. Một lần nữa đôi tân hôn nhận được
sự cung chúc lành của ông mối.

Khi phụ nữ mang thai, người Mnông làm một lễ hiến sinh quan gọi là mbrang. Trong lễ
hiến sinh này, những con vật hiến sinh có vịt, chó và heo cùng rượu cần. Trong nghi lễ
này người ta cúng thần- Jàng, cầu mong Jàng phù hộ cho sản phụ được mẹ tròn, con
vuông. Khi trở dạ, sản phụ được đưa đến gần bếp lửa và uống một liều thuốc nam - nước
lá cây ót nghiêng, với hy vọng liều thuốc đó sẽ giúp làm sản phụ sinh đẻ dễ dàng.
Người sản phụ được bà mụ vườn chăm sóc. Nhau đứa trẻ được cắt bằng dao cật nứa rồi
bỏ vào trái bầu khô, có thể chôn ở cạnh vách sau nhà treo lên cây xoài trong rừng. Những
cây xoài đó được tập quán bảo ú. gia đình có người đẻ, thường cắm một cành lá xanh với
ý nghĩa là cấm cười lạ mặt vào nhà trong một tuần. Cũng trong thời gian một tuần đó,
min phụ phải ăn kiêng, chỉ được ăn cháo với muối. Het tuần cữ, mới được lnV lại ăn
uống bình thường. Khi bỏ cữ, gia đình tổ chức một lễ hiến sinh \-i\ người cha làm cho trẻ
một số đồ chơi theo giới tính của đứa trẻ. Lễ đặt lẽn thường được tiến hành khi đứa trẻ
tròn một năm tuổi. Những bậc ông h;'i hoặc các cậu của đứa bé chủ trì buổi lễ đặt tên này.
Nguyên tắc đặt tên I ho trẻ là sử dụng lại tên của một người trong dòng họ đã mất. Tên
gọi của li i' cũng được gắn liền với tên đệm giới tính. Từ sau lễ đặt tên, đứa trẻ đirợc coi
là thành viên chính thức của làng và thường được người mẹ địu IICII lưng khi đi làm
nương hoặc đi trong làng xóm, quê hương xứ sở, để lic quen dần với môi trường tự nhiên
và xã hội.
3.12.
Tập quán tang ma
Quan niệm vạn vật hữu linh, con người có xác, có hồn đã quy định việc làm tang ma cho
người chết. Đồng bào quan niệm có hai loại chết:

N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 14 | 16


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC M’NÔNG | Hoàng Trần

Chết bình thường tức là chết già, chết bệnh tại nhà và chết không bình thường tức là chết
“bất đắc kỳ tử”, chết đuối mất xác, chết bị rắn cắn, hổ vo, ngã cây, ngã vực chết đường

chết chợ, chết ngoài nhà. Từ quan niệm vẻ hai loại chết này dẫn đến sự khác nhau trong
cách làm nghi lễ tang ma. Người chết được làm tang ma theo nghi thức của đồng bào,
trước tiên người đó phải là người chết bình thường, tức là chết già, chết bệnh tạinhà.
Theo quan niệm cùa đồng hào, những người chết theo cách này sang thế giới bên kia phan, sẽ tiếp tục sống và đầu thai đổ trở lại kiếp làm người; còn những người chết không
bình thường, chết bất đắc kỳ thỉ không có khả năng đầu thai trở lại. Những người chết
không bình thường sẽ biến thành ma làm hại cho người, gia súc... Chính vì vậy, không
được làm nghi lễ ma theo tập quán của người Mnông.
Đối với người chết bình thường, trong thời gian quàn ở nhà, trước khi đưa mai táng, thi
hài đặt ở giữa nhà, đầu quay về phía đông, người làm cho người quá cố một khuôn bếp
riêng cạnh thi hài để bữa ngi sống trong gia đình nấu ăn cho người chết. Mỗi khi có thân
nhân đến thăm viếng, lại đem cơm cho người chết để tỏ lòng thương tiếc ngưí chết. Thân
nhân đến thăm viếng người chết thường đem tặng người chết những vật tuỳ táng như:
ché, nồi đất nung, bát sứ, vòng tay, vỏ trái bầu khô... để góp vào gia tài của người chết ở
thế giới bên kia. Khi khâm liệm thì được bọc bằng một tấm mền. Đồng bào làm quan tài
bằng cây gạo. Từ khi cắt cử người vào rừng lấy gỗ làm áo quan cho đến quá trình hoàn
thành áo quan là một quá trình có nhiều nghi lễ theo phong tục củậl người Mnông. Cây
gỗ được bổ đôi, khoét rỗng giữa, để vừa người. chết, dáng bên ngoài cỗ áo mô phỏng
hình dáng con trâu. Các bộ phận: sừng, mắt, đuôi, chân được làm bằng tre hoặc gỗ rồi
gắn lại vào các vị trí cũ nó. Tấm dưới của áo quan thường sơn màu đen, vàng, đỏ hoặc để
màu giống tự nhiên; tấm thiên được trang trí hoa văn hình học. Quá trình quàn thi hài ở
nhà là cả một quá trình tiến hành các nghi lễ tang ma, trong đó còi các lễ hiến sinh bằng
gà, bằng lợn. Và nhiều khi có cả lễ hiến sinh bằng 1 trâu, bò.
Khi trong làng có người chết, cả làng đều phải nghỉ việc đồng áng để cùng gia đình người
quá cố chăm sóc cho kẻ quá cố, giúp gia chủ mọi việc tang ma. Mỗi dòng họ có một khu
nghĩa địa riêng. Huyệt được đào sâu khoảng một mét. Sau khi hạ quan tài xuống, miệng
huyệt được gạc những cành cây và trải lá, rồi mới lấp đất đắp thành nấm cao hom một
mét, theo hình bán cầu hoặc hình lăng trụ tứ giác. Trước khi lấp mộ, người ta đặt một ống
tre thông mấu tò quan tài, nhô lên mặt đất, để hàng ngày người nhà đổ thức ăn vào ống
tre đó xuống huyệt cho người nằm dưới huyệt ăn.
Đồng bào Mnông thường để tang bảy ngày hay một tháng rồi làm lễ mãn tang. Không có

tục cải táng.

N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 15 | 16


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC M’NÔNG | Hoàng Trần

Đối vởi nguòi chết không hình thường - sơí ndriêng, đồng hào coi như một tai hoạ lớn
giáng xuống gia đình. Do đó, khi có người chết không bình thường, gia đình phải bỏ cả
ngôi nhà cùng toàn bộ gia tài đế tránh mọi điều dữ luôn ám ảnh, bám theo họ sau cái chết
của người thân, í lọ không làm ma cho người chết theo tang lễ thông thường, nhưng lại
phải chịu khoản chi phí lớn, qua nhiều nghi lễ hiến sinh để giải thoát cho hồn người chết
và cầu an cho người sống.

N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 16 | 16



×