Tải bản đầy đủ (.pdf) (14 trang)

Tổng quan dân tộc Lự (PDF,Word)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.1 MB, 14 trang )

TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC LỰ | Hoàng Trần

TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC LỰ
MỤC LỤC:
1.

Vài Nét Về Dân Tộc Lự ......................................................................................................... 2

2.

Kinh Tế Truyền Thống ......................................................................................................... 2

3.

2.1.

Trồng trọt.......................................................................................................................... 2

2.2.

Chăn nuôi ......................................................................................................................... 3

2.3.

Khai thác tự nhiên ............................................................................................................ 4

2.4.

Ngành nghề thủ công........................................................................................................ 5

2.5.



Trao đỗi, mua bán............................................................................................................. 5

Văn hoá truyền thống ............................................................................................................ 6
3.1.

Làng .................................................................................................................................. 6

3.2.

Nhà ở ................................................................................................................................ 7

3.3.

Yphục, trang sức .............................................................................................................. 8

3.4.

Ẩm thực ............................................................................................................................ 9

3.5.

Phương tiện vận chuyển ................................................................................................... 9

3.6.

Ngôn ngữ ........................................................................................................................ 10

3.7.


Tín ngưỡng tôn giáo ....................................................................................................... 10

3.8.

Lễ hội.............................................................................................................................. 12

3.9.

Gia đình, dòng họ ........................................................................................................... 12

3.10.

Tập quán tang ma ....................................................................................................... 14

3.11.

Văn nghệ dân gian ...................................................................................................... 14

N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 1 | 14


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC LỰ | Hoàng Trần

1. Vài Nét Về Dân Tộc Lự
Dân số : 5.601 người (2009)
Ngôn Ngữ: Thuộc nhóm ngôn ngữ Tày Thái.
Tên gọi khác: Lữ, Nhuồn, Duồn
Nhóm địa phương:
Địa bàn cư trú: Lai Châu, Thái Nguyên,…


Địa bàn cư trú
Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, người Lự ở Việt Nam có dân số
5.601 người, cư trú tại 21 trên tổng số 63 tỉnh, thành phố. Phần lớn người Lự cư
trú tập trung tại tỉnh Lai Châu (5.487 người, chiếm 98,0% tổng số người Lự tại
Việt Nam), Thái Nguyên (75 người), các tỉnh còn lại có không quá 10 người .

2. Kinh Tế Truyền Thống
2.1. Trồng trọt
Người Lự sinh sống bằng nghề cấy lúa
nước và gieo trồng lúa nương. Đồng
bào Lự làm lúa nước từ lâu đời. Trong
kỹ thuật làm ruộng nước, người Lự
thường đào mương xung quanh các thửa
rụộng, vừa đé ngăn trâu, bò vào mộng
phá hoại mùa màng, vừa để
lấy đất đắp bờ cao giữ nước

Ruộng bậc thang của người Lự (Ảnh minh họa)

N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 2 | 14


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC LỰ | Hoàng Trần

cho ruộng, về kỹ thuật cấy, đồng bào Lự có nét khác ỉà “cấy” hai lần: lần đầu, mạ
nhổ về đem giâm từng khóm ở ruộng vài ngày, sau mới cấy chính thức. Đồng bào
Lự cho rằng, “cấy” hai lần sẽ giúp cây lúa sinh trưởng nhanh hơn. Tuy làm ruộng
nước đã lâu đời, nhưng kỹ thuật làm đất của người Lự có phần đơn giản: cầy một
lần, bừa hai lần, cấy, chay, không làm cỏ, không bỏ phân, do đó năng suất thấp,
hiệu quà không cao.

Ngoài ruộng nước, người Lự còn gieo trồng trên nương. Diện tích nương ít hơn
diện tích ruộng. Trên nương, người Lự trồng lúa nương và trồng ngô. Lúa nương
là nguồn lương thực quan trọng, nhưng ngô thì được trồng chủ yếu phục vụ cho
nhu cầu chăn nuôi lợn, gà. Khi mùa màng thất bát, thiếu gạo ăn, ngô cũng được
coi là lương thực. Ngoài ra, người Lự còn trồng khoai lang, sắn...
Trong lao động nông nghiệp, người Lự có sự phân công lao động theo giới: nam
giới làm những công việc nặng nhọc hơn như cày, bừa, nhổ mạ, đập lúa, ph át
nương; phụ nữ cấy, lấy củi, lấy nước...
Bên cạnh cây lương thực, đồng bào Lự còn trồng một số cây công nghiệp như:
cây lạc, cây bông, cây chàm, cây mía; trồng cây ăn quá (như: chuối, mít, đu đủ);
bầu, bí, rau thơm, ớt, tỏi, hành.
2.2. Chăn nuôi
Với nền kinh tế nông nghiệp,
người Lự cũng như các dân tộc
khác, bên cạnh trồng trọt lúc nào
cũng có chăn nuôi. Người Lự
chăn nuôi cả gia súc và gia cầm.
Đại gia súc có trâu, bò, ngựa; tiểu
gia súc có lợn, chó, mèo; gia cầm
có gà, vịt, ngỗng.
Đồng bào Lự nuôi trâu, bò để làm
sức kéo - cày ruộng, nương, kéo
những cây gỗ to về làm nhà, để

Chăn nuôi Heo rừng của người Lự
(Ảnh minh họa)

bán. Phương thức chăn nuôi chủ yếu là chăn thả. Hàng ngày, vào buổi sáng, trâu,
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 3 | 14



TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC LỰ | Hoàng Trần

bò được thả vào rừng tự kiếm cỏ ăn, chiều tối chủ nhà lùa chúng về chuồng. Con
ngựa dùng để cưỡi. với vai trò là sức kéo quan trọng trong nông nghiệp, cho nên
gia đình Lự nào cũng nuôi trâu, hò; còn ngựa thì ít gia đình nuôi hơn.
Các con vật khác: lợn, gà được nuôi chủ yếu làm vật hiến sinh vào các dịp lễ tết
trong năm; làm thực phẩm trong các dịp tiếp khách quý thông gia, cưới xin, vào
nhà mới, ma chay. Những con vật này được nuôi cho ăn ngày hai bữa kết hợp với
cách chăn thả. Con vật được nuôi nhốt trong chuồng ban đêm, sáng ra chủ nhà thả
chúng ra sân, cho chúng ăn một bữa, rồi thả rông chúng tự đi kiếm ăn thêm.
Chiều tối, chủ nhà gọi chúng về, cho ăn bữa nữa trước khi cho vào chuồng ngủ.
Thức ăn cho lợn, gà là ngô và thức ăn thừa của người. Thức ăn cho lợn có các
loại như khoai lang nấu với ngô xay. Chăn nuôi lợn, gà là nguồn thực phẩm quan
trọng không chỉ cung cấp thức ăn hàng ngày, mà còn là lễ vật cúng chính
trong sinh hoạt tâm linh của đồng bào.
2.3. Khai thác tự nhiên
Sinh sống ở miền núi, nhiều lâm thổ sản, đồng bào Lự tận dụng thu lúi lâm thổ
sản phục vụ cuộc sống của mình. Người Lự hải lượm măng tre các loại, nấm
hương, mộc nhĩ, mật ong, các loại hoa quả dại, các loại rừng mùa nào thức ấy,
hầu như quanh năm luôn thu hái được thức ăn lư lừng. Đông bào Lự cũng tận
dụng rừng đê lây gô làm nhà, làm công cụ sản xuất và khai thác các loại thảo
dược. Việc thu hái lâm sản thường là công việc của phụ nữ.
Người Lự thường săn bắn các thú rừng như hổ, hươu, nai, lợn rừng và các thú
rừng nhỏ khác. Việc săn bắn thú rừng vừa là để bảo vệ cuộc sống của con người,
vừa là bảo vệ những thành quả lao động do con người làm ra. Những con thú nhỏ
hay phá hoại mùa màng khi săp thu hoạch, săn được chỉ dùng làm thực phâm, còn
những con thú lớn như hổ, loài thịt ăn còn dùng xương để nấu cao hổ làm thuốc
bổ. Có nhiều cách mìn bắn thú rừng như: cá nhân đi rình, gặp được con thú thì hạ
thủ nó hang súng; hoặc tổ chức đặt bẫy các kiểu như bẫy treo, bẫy sập, bẫy cũi.

Việc săn bắn các loại thú rừng do đàn ông thực hiện.
Nghề đánh bắt cá của người Lự khá phát triển. Họ đánh bắt cá ở các am suối nhỏ
bằng cách dùng đơm, đó, ngăn suối tát nước, thậm chí đánh thuốc độc bằng lá
cây. Trẻ chăn trâu, bò thường hay đánh băt cá.
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 4 | 14


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC LỰ | Hoàng Trần

2.4. Ngành nghề thủ công
Với nền kinh tế tự túc, tự
cấp thì ngành nghề thủ công
của bất cứ dân tộc nào cũng
có vị trí quan trọng trong đời
sống của chính họ.
Tuy nhiên nghề thu công nỗi
bậc của người Lự là nghề
dệt. Điều nỗi tiếng không
phải chỉ là làm ra được nhiều
sản phẩm dệt mà còn là ở
quy mô tổ chức dệt.

Nghề dệt của người Lự (Ảnh sưu tầm)

Trong mỗi gia đình người Lự đều có
vài ba khung dệt, các em gái từ tuổi lên mười đã được mẹ, chị hướng dẫn quay
xa, kéo sợi dệt vải. Vào mùa nông nhàn, sau bữa cơm tối, trong các gia đình đều
vang lên âm thanh phát ra từ guồng quay xa, kéo sợi. Chị em làm việc đó với sự
hưng phấn nhiệt tình cao.


1

2.5. Trao đỗi, mua bán
Vùng người Lự nói riêng và Tây Bắc nói chung trước đây ít họp chợ tại các địa
phương. Tuy nhiên việc mua bán những nhu yếu phẩm vẫn được thực hiện tại các
chợ trong vùng. Đồng bào đem bán những lâm thổ sản thu hái được như mật ong,
mộc nhĩ, nấm hương và mua những hàng phục vụ cho đời sống như muối ăn, dầu
thắp, kim khâu, chỉ may công nghiệp và các thứ đồ dùng như xoong, nồi, ninh,
công cụ sản xuẩl (dao, lưỡi cày, lưỡi cuốc, cưa, rìu)...

N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 5 | 14


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC LỰ | Hoàng Trần

3. Văn hoá truyền thống
3.1. Làng
Người Lự cư trú
thành từng bản nhỏ.
Có những bản chỉ
có dân tộc Lự,
nhưng nhiều bản
dân tộc Lự cư trú
xen kẽ với dân tộc
Thái, Lào. Nơi
đồng bào chọn
dựng bản thường là
chân núi, phía trước
làng nhìn ra khoảng trống rộng rãi - cánh đồng thung lũng; phía sau làng là đồi
núi, rừng. Địa hình bản như vậy tiện cho sản xuất trên ruộng lúa cũng như trên

nương ngô. Nơi dựng bản còn phải cỏ nước cho sản xuất, sinh hoạt cũng như
thuận tiện đi lại giao tiếp anh em họ hàng, làng xóm.
Mỗi bản của người Lự thường có một, hai chục nóc nhà. Các nhà trong bản
thường là những anh em họ hàng với nhau. Một bản có vài dòng họ cùng sinh
sống, trong đó có một dòng họ có uy thế lớn hơn. Người đứng đầu dòng họ lớn
này thường được coi là trưởng bản. Trưởng bản thường đại diện cho bản xử lý
những vẩn đề chung cho cả bản, liên quan đến nhiều dòng họ khác nhau; còn
những vấn đề riêng của dòng họ nào, thì dòng họ đó tự xử lý trong nội bộ dòng họ
với nhau. Trong các bản của người Lự thường có người hành nghề thầy cúng.
Thầy cúng là những người hành nghề đáp ứng nhu cầu cuộc sống tâm linh của
đồng bào. Những ngày lễ tết, ngày cưới xin, ma chay đều có mặt thầy cúng
Những người đại diện cho dân thường giao dịch với tổ tiên, với thần linh. Việc
hành nghề của thầy cúng khẳng định vai trò quan trọng của thầy cúng trong cuộc
sống linh thần - tâm linh cúa dân bản.
Trong bản có một số nghi lễ cúng bái chung. Vào tháng Giêng có lễ gọi là “kiêng
bản” - căm bản. Lễ được thực hiện trong một túp lều dựng ở đầu bản, cạnh sông,
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 6 | 14


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC LỰ | Hoàng Trần

suối. Lễ vật cúng là 3 yến thịt lợn. Ngày 3 tháng 3 cúng khu rừng cấm - đông
căm, dùng ba yến thịt lợn làm vật cúng. Ngày 6 tháng 6 làm lễ với mâm cúng 6
yến thịt lợn. Sau khi thầy cúng xong, cả bản ăn cỗ, uống rượu, vui chơi, kéo co,
ca hát. Trong dịp lễ, người Lự cấm người lạ vào bản từ 3 đến 9 ngày.
3.2. Nhà ở
Người

Lự




nhà

sàn.

Nguyên vật liệu làm nhà là
gồ, tre, nửa, lá. Đây là
những nguyên liệu sẵn có
tại chỗ, không mất tiền
mua, mà chỉ tốn công Inn
sức đi vào rừng đốn lấy về,
rồi tự làm thành nhà ở. Nhà
ở người Lự có mái, lợp
bằng cỏ gianh, mái trước
dài mái sau ngan. Mái sau
chỉ che phía sau, mái trước còn che cả hiên đằng trước nhà và che cả cầu thang đi
lên nhà. Khác với nhà người Thái và nhà người Lào, nhà người Lự chỉ có một cửa
ra vào nhà, trong khi đó, nhà người Thái, người Lào có hai, ba cửa ra vào nhà.
Hướng nhà của người Lự thường chọn là hướng Tây Bắc. So với nhà người Thái
và người Lào thì nhà người Lự có kích thước nhỏ hơn: dài khoảng 12m, rộng
khoảng 5 - 6m. Bên trong nhà người Lự được bố trí sắp xếp theo một trật tự nhất
định. Một bên được ngăn làm buồng ngủ và để làm thờ tổ tiên. Chỗ ngủ của bố
mẹ sát ngay bàn thờ, tiếp đó lần lượt là phòng ngủ các con cả, con thứ, cuối cùng
là chỗ ngủ của con gái chưa chồng. Nhà người Lự có hai bếp, một bếp để nấu ăn
hàng ngày, còn bếp kia dùng để đun nước uống và tiếp khách. Khách đến chơi
nhà ngồi ngay cạnh bếp, chủ nhà vừa đun nước, vừa tiếp khách.

N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 7 | 14



TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC LỰ | Hoàng Trần

3.3. Yphục, trang sức
Y phục của nam giới Lự cơ
bản giống như y phục nam
của người Lào ,người Thái.
Tuy nhiên chiếc quần có sự
khác nhau đáng kể. Chiếc
quần mà người Lự từ đầu gối
trở xuống hẹp hơn và có thêu
hoa văn.
Trang phục nữ giới Lự thể
hiện rõ bản sắc văn hoá dân
tộc. Phụ nữ mặc áo chàm xẻ ngực, dài ngang thắt lưng. Áo lao động thường ngày
bằng vải thô, còn áo mặc trong lễ hội dệt bằng tơ lụa. Kiểu dáng cắt may chiếc áo
có nét rất đặc biệt, khi trải ra tạo thành hình bán nguyệt, khi mặc thân phải lót
vào trong, cỏn thân trái bát chéo sang bên phái, buộc bằng những sợi dây vải, tết
thành tua rua nhiều màu.
Phụ nữ Lự mặc váy. Váy người Lự có hai loại: váy mặc trong lao, động thường
ngày và váy mặc trong ngày lễ hội. Vảy mặc trong lao động thường ngày thì nửa
dưới đen tuyền, còn từ đầu gối trở lên dệt các đường sọc ngang nhỏ , xen kẽ, nhiều
màu sắc. Váy mặc trong ngày lề hội, gấu
váy có thêu hoa văn; phần giữa thêu nhiều
hoa văn nhiều màu sắc: xanh, hồng, tím,
vàng sặc sỡ; đoạn từ thắt lưng trở lên dệt
nổi tiếp một đoạn 40 - 50cm có nhiều sọc
ngang (dệt mặt trái) rồi lật xuống, hình
thành ba đoạn. Cũng có kiểu mà đoạn giữa
váy không dệt, mà đoạn trên dệt dài hơn,

phù xuống tận gấu váy, hình thành ba đoạn
hoa văn. Đây là kiểu váy hai lớp.
Trang sức: Trước đây nam, nữ dân tộc Lự
đều dùng đồ trang sức, Đàn ông Lự thường
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 8 | 14


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC LỰ | Hoàng Trần

đeo còng tay, xăm mình, xâu tai, nhuộm răng. Phụ nữ cũng đeo vòng tay và đồ
trang sức bằng kim loại quý như bạc trắng, ngà voi. Khác với một số dân tộc
khác, ở người Lự đôi khi đồ trang sức được đính đầy vào áo, váy.
3.4. Ẩm thực
Nguồn lương thực chính của người Lự là lúa gạo,
ngô do đồng bào tự sản xuất. Đồng bào Lự thích
ăn cơm nếp hơn cơm tẻ, cho nên hàng ngày thường
ăn cơm nếp. Thỉnh thoảng nấu cơm tẻ ăn. Còn ngô
chủ yếu sử dụng làm thức ăn chăn nuôi lợn, gà.
Ngô chỉ được dùng làm lương thực cho người vào
lúc đói kém, mất mùa.
Nguồn thực phẩm là rau xanh các loại thu hái được
từ tự nhiên và trồng trong vườn cạnh nhà. Trong
thực phẩm có nguồn thức ăn động vật, cá đánh bắt
được tự nhiên có vị trí quan trọng. Cá được đồng
bào sừ dụng nhiều hơn thịt gia súc, gia cầm. Thịt
các con lợn, gà cũng được dùng làm thức ăn,
nhưng thường kết hợp với các dịp lễ tết, cưới xin,
vào nhà mới. Những dịp này, lợn, gà là những con

Phụ nữ Lự đang chuẩn bị

bữa ăn

vật hiến sinh, người ta mổ lợn, gà để cúng bái. Kết thúc các nghi lễ cúng bái, chủ
nhà thết đãi khách bữa cơm rượu thịnh soạn. Những con vật hiến sinh đó được sử
dụng làm thức ăn cho cả chủ và khách. Những con thú rừng săn bắn được cũng là
nguồn thức ăn, nhưng không chủ động được, mà khi nào săn bắn được thì dùng.
Một trong những đặc điểm về chế biến thức ăn của người Lự là đồng bào thích ăn
nướng và ăn cây. Trong bữa ăn hàng ngày, hầu như món ăn nào đồng bào cũng
cho ớt vào, món ăn nào cũng có vị cay.
3.5. Phương tiện vận chuyển
Đồng bào Lự cũng như nhiều dân tộc khác ở miền Tây Bắc thường chuyển các vật
dụng nhẹ, gần thì dùng sức người và

N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 9 | 14


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC LỰ | Hoàng Trần

vận chuyển bằng cách gùi, gánh hoặc
vác. Vận chuyển vật dụng nặng như khúc
gỗ , đồng bào hay dùng trâu kéo, vận
chuyển đi đường xa thường hay bằng
ngựa thồ.
3.6. Ngôn ngữ
Tiếng nói: Tiếng nói của dân tộc Lự
thuộc hệ ngôn ngữ Hán - Tạng, nhóm
ngôn ngữ Tạng - Miến. Tiếng nói của dân

Chiếc gùi


tộc Lự là tiếng nói chỉ sử dụng để giao

tiếp trong nội bộ dân tộc Lự. Khi giao tiếp với các dân tộc khác ở Tây Bắc, người
Lự dùng tiếng Thái hoặc tiếng Lào. Người Lự
nói biết dùng vài ba thứ tiếng nói, thứ tiếng nào
cũng thông thạo.
Chữ viết: Người Lự không có chữ viết riêng của
dân tộc mình, nhưng họ biết và dùng chữ Thái,
chữ Lào - là chữ gốc Phạn. Người Lự dùng gai
hoặc que sắt nhọn viết trên lá cọ rừng ghi lại
nhiều truyện thẩn thoại, cổ tích... Đồng bào còn
dùng vỏ cây guột khô vót nhọn, chấm mực làu
viết trên vải trắng. Ngày xưa trẻ em trai lên 7 -8
tuổi đã đi học chữ nia ông chẩu hua - ông sư.
Chữ Thái vẫn được người
Lự dùng

3.7.

Tín ngưỡng tôn giáo

Người Lự vừa tin vào đa thần, vừa tin vào độc
thần. Theo quan niệm của đồng bào, độc thần -

đạo Phật xác định vị thế của con người trong thế giới hiện tại cũng như trong thế
giới bên kia. Nhưng Phật giáo không giúp con người ứng xử với những khó khăn
trong cuộc sống đời thường như bệnh tật, thiên tai, mất mùa và các quan hệ ứng
xử trong mộc sống tâm linh khác. Do đó, đồng bào Lự vẫn t in cả vào đa thần.
Người Lự tin ràng vạn vật đều có linh hồn. Những linh hồn đó tồn lại cùng mọi
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 10 | 14



TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC LỰ | Hoàng Trần

vật, dù đó là sinh vật hay là vật vô tri, vô giác. Những linh hồn đó còn được gọi
là thần linh, có khả năng tác động đến đời sống con người: phù hộ cho con ngư ời
hoặc làm hại cho con người.
Theo quan niệm đa thần, người Lự tin có ma bản - phi bản. Ma bản là ma những
người đầu tiên lập ra bản. Người Lự lập nhà cúng ma bán trong rừng già um tùm
cây cối tại rìa hán. hàng năm dân hát tố chức cúng ma bán một lần, cầu mong ma
bản phù hộ cho mùa màng tốt tươi mọi người khoẻ mạnh, không bệnh tật ốm đau.
Ngoài ma bản, người Lự còn tin có ma mường. Ma mường là ma của những người
có công lập bản, lập mường; có công đánh đuổi kẻ thùj giữ gìn cuộc sống bình
yên

cho

dân

bản,

dân

mường. Ma mường là ma
linh thiêng nhất của người
Lự.
Đồng bào Lự còn tin có ma
rừng cây, ma sông, ma suối,
ma cây cổ thụ. Đó là ma giữ
rừng, giữ cây, giữ sông,

suối. Khi vào rừng chặt cây
cổ thụ, chặt cây to về làm
nhà... không có thủ tục cúng

Thầy cúng chính và các thầy cúng đang hành lễ

bái xin phép đầy đủ có thể

trước nơi thờ thần bản.

làm ma tức giận, bị ma phạt.
Khi không cúng bái ma bản,ma mường đầy đủ và theo đủng cảm thủ tục thì các
ma này giận dữ, có thể làm hại người: gây ốm đau, làm chết người, làm cháy nhà,
phá hoại mùa màng, xô đẩy con người làm điều tội lỗi khác.
Đạo Phật: Vào đầu thiên niên kỷ thứ hai sau công nguyên người Lự bắt đầu chịu
ảnh hưởng của đạo Phật. Phật giáo đối với người Lự có khái niệm bun - hành vi,
việc làm có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Bun mang lại lợi ích cho cá nhân, cho
cộng đồng. Thông qua khái niệm và hành động bun, Phật giáo được dân tộc hoá,
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 11 | 14


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC LỰ | Hoàng Trần

cổ vũ cho hoạt động của con người vì lợi ích chung, vừa lợi cho bản, vừa có lợi
cho cộng đồng, xây dựng tình thương yêu từ bi hỉ xả trong mỗi con người. Ảnh
hưởng của đạo Phật còn thể hiện ở chỗ người Lự đưa hồn người chết lên chùa.
3.8.Lễ hội
Từ những quan niệm vê tôn
giáo như trình bày ở trên, 4
người Lự có một số lễ hội được

tổ chức vào các thảng khác nhau
trong

năm theo lịch dân tộc:

tháng Giêng tổ chức lễ mừng
năm mới - bun pỉ may; tháng 11
- 12 tổ chức lễ té nước - hun
huất nặm; tháng 2 - 3 tố chức lễ
thả ống pháo sáng - bun bảng
phày.

Lễ Căm Mường của người Lự

3.9. Gia đình, dòng họ
Gia đình người Lự là gia đình nhỏ phụ hệ. Mỗi gia đình thường gồm một vợ,
chồng cùng các con. Một số gia đình có cả ông bà nội của các cháu, loại gia đình
này không nhiều, vì gia đình thường đông con, ông bà chỉ có lui người, ở với
người con này thì thôi ở với người con kia. Trong gia đình, các thành viên quan
hệ bình đẳng với nhau, cùng lao động, cùng hướng thụ thành quả lao động đạt
được; sống vui vẻ hoà nhã. Nhưng trong quan hệ với tài sản do bố mẹ để lại thì
chỉ con trai được kế thừa, con gái khùng được kế thừa tải sản do bố mẹ để l ại, mà
chỉ được chia của hồi môn.
Người con trai cũng là người chịu trách nhiệm thờ cúng tổ tiên.
Gia đình người Lự là gia đình phụ quyền. Ông bố hay con trai cả là chủ, quyết
định mọi công việc trong gia đình cũng như trong quan hệ với làng bản.
Trong gia đình người Lự thường thờ tổ tiên ở gian hoóng và cúng mỗi năm một
lần vào tháng Giêng theo lịch Lự, vào khoảng tháng 10 âm lịch.
Người Lự có họ, tên đệm, tên người như các dân tộc khác. Các tên phổ biến là họ
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 12 | 14



TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC LỰ | Hoàng Trần

Vàng, họ Tao, họ Lò. Các tên họ không thay đổi, được lưu truyền từ thế hệ này
qua thể hệ khác; nhưng tên đệm gắn với giới linh: nam lấy tên đệm là “bạ”, còn
nữ lấy tên đệm là “ý”, tên đệm cũng không thay đổi từ lúc trẻ cho đến lúc già.
Riêng tên người cụ thể lại có thể thay đổi tuỳ thuộc vào những biến cố trong đời
sống của người đó. Một đứa trẻ sinh ra thường đặt tên âu yếm, phù hợp với tuổi
trẻ. Lớn lên có thể bị ốm đau, nếu sau cơn bệnh nặng, được chữa khỏi, người Lự
hay đổi tên để “đánh lừa” quỷ thần.
Người Lự thực hiện hôn nhân ngoại hòn dòng tộc. Những người có quan hệ huyết
thống với nhau không được lấy nhau. Điều này đã được xác định từ lâu trong lịch
sử. Hôn nhân của người Lự cũng là hôn nhân một vợ, một chồng bền vững. Trong
tục lệ cưới xin, thông thường người Lự chỉ lấy một vợ một chồng. Nếu có lấy vợ
lẽ cũng là do vợ cả không có con và trường hợp này được coi như ngoại lệ, rất
hạn hữu.
Hôn nhân của người Lự chịu ảnh hưởng của đạo Phật, trai gái được tự do yêu
nhau, song để tiến tới hôn nhân cũng cần sự đồng ý của cha mẹ.
Nhìn từ góc khác, ta thấy hôn nhân của người Lự chịu ảnh hường của Khổng giáo,
trai gái yêu nhau, cha mẹ đông ý, nhưng số của đôi nam nữ không hợp nhau thì
cũng không thể két hôn, không thể tổ chức đám cưới, đôi trai gái không thể thành
vợ chồng.
Sau lễ cưới, người Lự có tục ở rể. Thông thường lễ cưới hay thực hiện vào tháng
10, tháng 11 hoặc tháng 12 lịch Lự, tức là vào thời điểm đã thu hoạch xong vụ lúa
mùa. Cưới xong, chú rể phải ở rể từ 3 đến 5 năm, tuỳ theo hoàn cảnh gia đình bố
mẹ vợ. Nếu nhà vợ neo đơn, it người làm thì thời gian ở rể thường phải kéo dài
hơn. Cũng có trường họp, cô dâu, chú rể cùng cư trú tại mỗi bên bố mẹ vợ và
chồng ba năm rồi mới ra ở riêng. Trong thời gian ở rể, chú rể phải làm nhiều việc
cho gia đình bố mẹ vợ. Cũng trong thời gian ở rể, việc sinh con không ảnh hưởng

đến thời hạn ở rể; nhưng nếu không sinh con, theo phong tục dân tộc Lự, bố vợ có
thể kéo dài thời gian ở rể hoặc khước từ con rể. Việc ly hôn rất ít xảy ra trong gia
đình người Lự, tuy vậy, họ vẫn có những quy tắc quy định trách nhiệm bởi
thường khi ly hôn. Theo phong tục người Lự, gái bỏ chồng phạt trâu, trai bỏ vợ
phạt bò. Tuy nhiên, nếu hai vợ chồng cùng thoả thuận bỏ nhau thì tài sản gia đình
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 13 | 14


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC LỰ | Hoàng Trần

sẽ chia đôi.
3.10.

Tập quán tang ma

Xuất phát từ quan niệm vạn vật hữu linh, coi con người khi sống cỏ xác và có
hồn, hồn ngụ trong xác. Nhưng khi người chết thì chỉ có phần xác .bị huỷ hoại,
còn phần hồn thoát ra khỏi xác và vẫn tồn tại trong khống gi an. Mục đích làm ma
là để đưa xác đi chôn và tiễn hồn về với cõi tiên. Người Lự cho rằng con người có
nhiều hồn. Hồn chính ngụ ở trên đầu, các hèn khác ngụ ở mắt, ờ mũi, ở mồm và
ở trong các bộ phận khác nhau trên cơ thể con người.
Với người chết bình thường thì người ta đặt nguyên, người chết ở chỗ ngủ hàng
ngày để bà con họ hàng đến thăm viếng và làm ma. Người Lự làm ma I hi) người
chết không quá ba ngày. Trong thời gian làm ma, thân nhân và họ hàng mang
nhiều quà đến cho người chết, với ý nghĩa tặng của cải cho người chết mang về
thế giới bên kia làm vốn liếng làm ăn. Thông thường những quà đó là vải, quần
áo, túi đeo, dao...
Sau mai táng một thời gian, gia đình người chết làm một nhà táng bằng giấy coong tan, trang trí đẹp, kèm theo vải, đệm gối, ti ền, thóc, mời sư thầy đến làm lễ
đưa hồn người chết lên chùa.
3.11.


Văn nghệ dân gian

Người Lự có vốn văn học nghệ thuật dân tộc độc đáo. Nhiều truyện I thần thoại,
truyện cổ tích, truyện lịch sử được truyền miệng rộng rãi trong dân gian từ đời
này qua đời khác. Nội dung cốt truyện rất phong phú, nói về cảnh đẹp thiên
nhiên, về sự cần cù sáng tạo trong lao động sản xuất, về lịch sử di cư của dân tộc
cũng như những nhân vật lịch sử, những người dân tộc có công với bản, với
mường. Dân ca Lự được yêu thích Một hình thức hát Khắp Lự là cách con gái
dùng khăn vải đỏ che mật hát theo tiếng sáo đôi do con trai thổi đệm. Đây là cách
hát khi màn đêm buông xuống, các đôi nam nữ ngồi trên chiếu cói trải giữa sân
hát sưa đến tận đêm khuya.
Trong các trò chơi của người Lự có kéo co, ném én. Nam thanh niên thích múa
kiếm

N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 14 | 14



×