Tải bản đầy đủ (.pdf) (18 trang)

Tổng quan dân tộc Lô Lô (PDF,Word)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.14 MB, 18 trang )

TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC LÔ LÔ | Hoàng Trần

TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC LÔ LÔ
MỤC LỤC:
1.

Vài Nét Về Dân Tộc Lô Lô .................................................................................................... 2

2.

Kinh Tế Truyền Thống ......................................................................................................... 2

3.

2.1.

Trồng trọt.......................................................................................................................... 2

2.2.

Chăn nuôi ......................................................................................................................... 4

2.3.

Khai thác tự nhiên ............................................................................................................ 5

2.4.

Ngành nghề thủ công........................................................................................................ 6

2.5.



Trao đổi, mua bán............................................................................................................. 6

Văn hoá truyền thống ............................................................................................................ 7
2.6.

Làng .................................................................................................................................. 7

2.7.

Nhà ở ................................................................................................................................ 9

2.8.

Y phục, trang sức ........................................................................................................... 10

2.9.

Ẩm thực .......................................................................................................................... 11

2.10.

Phương tiện vận chuyển ............................................................................................. 12

2.11.

Ngôn ngữ .................................................................................................................... 12

2.12.


Tín ngưỡng tôn giảo ................................................................................................... 12

2.13.

Lễ hội .......................................................................................................................... 13

2.14.

Gia đinh dòng họ ........................................................................................................ 14

2.15.

Tục lệ cưới xin ............................................................................................................ 14

2.16.

Tập quản tang ma ....................................................................................................... 16

2.17.

Văn nghệ dân gian ...................................................................................................... 18

N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 1 | 18


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC LÔ LÔ | Hoàng Trần

1.

Vài Nét Về Dân Tộc Lô Lô


Dân số : 4.541 người (2009)
Ngôn Ngữ: thuộc ngữ tộc Tang - Miến
trong ngữ hệ Hán -Tang.
Tên gọi khác: Màn Dì, Mùn Dì hay Màn
Chì
Nhóm địa phương: Lô Lô hoa và Lô Lô đen
Địa bàn cư trú: Cao Bằng, Hà Giang, Lai
Châu

Địa bàn cư trú:
Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, người Lô Lô ở Việt Nam có dân số
4.541 người, cư trú tại 30 trên tổng số 63 tỉnh, thành phố. Người Lô Lô cư trú tập
trung tại các tỉnh: Cao Bằng (2.373 người, chiếm 52,3% tổng số người Lô Lô tại
Việt Nam), Hà Giang (1.426 người), Lai Châu (617 người)

2. Kinh Tế Truyền Thống
2.1. Trồng trọt
Trồng trọt là nguồn sống chính của người Lô Lô. Cây lương thực chính là cây ngô
và cây lúa. Cây ngô được trồng trên phần lớn điện tích trồng cây lương thực. Cây
lúa được trồng ở ruộng và cả trên nương.
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 2 | 18


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC LÔ LÔ | Hoàng Trần

Căn cứ vào điều kiện địa lý tự
nhiên, nơi người Lô Lô cư trú, có
thể phân vùng trồng trọt của đồng
bào Lô Lô thành hai khu vực: khu

vực vùng cao núi đá tỉnh Hà
Giang (huyện Đồng Văn, huyện
Mèo Vạc) và khu vực vùng cao
núi đất tỉnh Cao Bằng (huyện Bảo
Lâm). Khu vực vùng cao núi đá,
đất trồng trọt được chia thành hai

Đồng ruộng của người Lô Lô

loại: ruộng và nương. Từ xa xưa
người Lô Lô đã làm ruộng chờ mưa, cấy lúa một vụ/năm; trên nương chủ yếu
trồng ngô. Khu vực vùng cao núi đất có ruộng bậc thang và nương định canh.
Canh tác trên nương định canh là nguồn sống chính của đồng bào. Trong sản
xuất, đồng bào Lô Lô thành thạo các kỳ thuật: chọn thời vụ sản xuất, làm đất,
chọn giống, gieo trồng, bón phân, trồng xen canh, gối vụ, luân canh, be đá làm bờ
nương chống xói mòn...
Cây ngô có nhiều loại giống: ngô nếp - đu nhăng, ngô tẻ - đu phó, ngô trắng - đu
phỉu, ngô đỏ - đu nẻ, ngô vàng - đu khỉ. Đây là các loại giống ngô truyền thống.
Loại ngô này thường cho năng suất không cao bằng ngô lai, nhưng ăn thơm, ngon
hơn ngô lai và để dành cả năm không bị mốc, không bị mọt ăn. Giống ngô sớm
được trồng vào tháng 2, tháng 3 âm lịch, khi mùa hoa gạo nở rộ đỏ rực và thu
hoạch vào tháng 7, tháng 8 âm. Giống ngô muộn thỉ gieo trồng vào cuối tháng 3,
đầu tháng 4 và thu hoạch vào tháng 9, tháng 10 âm. Đồng bào trồng ngô sớm là
chính.
Cây lúa cũng có nhiều loại giống: lúa nếp - khả ti, lúa tẻ - khả te. Giống lúa nếp
cây cao, lá to, tuy năng suất không cao, nhưng được trồng khá phổ biến vỉ nó phù
hợp với thói quen chế biến thành các loại bánh mà người Lô Lô ưa thích. Lúa tẻ
cây cao, lá to, năng suất trung bình, được người Lô Lô trồng nhiều. Đối với lúa
nương, đồng bào dùng gậy chọc lỗ (với nương dất dốc) hoặc dùng cày (với nương
đất bằng) đổ làm lát tra hạt. Mỗi lỗ trên nương dốc tra khoảng dưới mười hạt, còn

N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 3 | 18


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC LÔ LÔ | Hoàng Trần

trên mương đất bằng, đồng bào làm đất bằng cày, cày thành hàng nông rồi tra hạt
theo từng cụm, sau đó dùng bừa lướt qua lấp lớp đất mỏng trên h ạt giống để chim
chuột khỏi ăn hạt giống. Người Lô Lô ít khi vãi hạt giống khi gieo trồng, vì sau
này khồ làm cỏ, khó bón phân cho cây lúa. Đối với ruộng, đồng bào gieo mạ trên
ruộng đã được làm đất kĩ. Sau khoảng một tháng, khoảng tháng 5, tháng 6, đồng
bào nhổ mạ cấy xuống ruộng. Lúa ruộng thu hoạch vào tháng 9, tháng 10 lịch âm.
Ngoài cây ngô và cây lúa, người Lô Lô còn trồng các loại hoa màu như: sắn,
khoai lang; trồng các cây thực phẩm ở trên nương như: đậu lương, đậu đũa, bí
xanh, bí đỏ, bầu, dưa, gừng. Xung quanh nhà ở, đồng bào Lô Lô trồng các loại
cây ăn quả như: chuối, mít, chanh, vải, hồng. Các cây rau xanh như: su su, su
hào, bắp cải, rau cải, cải làn, hành, tỏi, ớt được đồng bào trồng trong vườn.
Những cây trồng trên đây cũng là những cây mà cư dân sinh sống trong vùng đều
trồng, cỏ điều đáng chú ý là cùng cư trú ở vùng núi đá Đồng Văn, Mèo Vạc
nhưng người Mông chỉ trồng cây ngô, còn người Lô Lô thì trồng cả cây ngô và
cây lúa.
2.2. Chăn nuôi
Người Lô Lô chăn nuôi các loại đại gia súc: trâu, bò, ngựa. Việc chăn nuôi đại
gia súc thực hiện theo hình thức chăn thả: sáng ra, thả trâu, vào rừng tự tìm kiếm
cỏ ăn; chiều tói chủ nhà lùa trâu, bò về chuồng. Một số nơi, rừng bị khai phá hết,
như ở Đồng Văn, Mèo Vạc, không còn nơi thả trâu, bò, đồng bào phải chăn theo
hình thức chăn dắt. Sáng đi làm mang con bò, chiều dắt bò về nhà, đôi khi còn
thêm gánh cỏ cho bò. Với hình thức chăn dắt, mỗi nhà chỉ nuôi được 1 -2 con trâu
(bò). Khi vụ mùa thu hoạch xong, vào khoảng 15 tháng 10 âm, đồng bào thả rông
trâu, bò. Con ngựa được nuôi ít khi thả ra đồng, mà thường nhốt trong chuồng,
chủ nhà cắt cỏ về cho ngựa ăn.

Người Lô Lô chăn nuôi gia súc chủ yếu dùng làm sức kéo: cày niọim, cày nương,
nhưng đồng thời nuôi gia súc còn để lẩy phân bón cho trồng trên nương, trên
ruộng. Có phân bón cho ruộng, nương, cây lua, cây ngô mới cho năng suất ổn
định, đảm bảo cuộc sống định cư lâu ilai. Ngoài đại gia súc, đồng bào Lô Lô còn
nuôi lợn, gà, vịt, ngan, ngỗng. Người Lô Lô nuôi nhiều lợn, hầu như gia đình nào
cũng nuôi dăm, ba con, cỏ gia đình nuôi cà lợn. Chăn nuôi theo hình thửc thả
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 4 | 18


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC LÔ LÔ | Hoàng Trần

rông tự đi kiếm ăn thêm. Tuy
nhiên, mỗi ngày thường cho
ăn từ hai đ ba bữa vào các
buổi sáng, trưa, chiều tối.
Thức ăn cho lợn là cây chuổ
rau lang, khoai môn và cám
ngô, cám gạo. Người Lô Lô
cho gà, vịt ăn một bữa vào
buổi chiều tối trước khi chúng
vào chuồng
ngủ, còn ngày chúng được tự
do đi ra ngoài đồng, đi vào
rừng tìm ăn. Gà, vịt

được

Người Lô Lô chăn nuôi lợn

chăm sóc và bảo vệ khỏi bị cầy, cáo, diều hâu đến

bắt.

2.3. Khai thác tự nhiên
Sống trong môi trường rừng núi, làm ăn gặp muôn vàn khó kh việc trồng trọt chỉ
có thể đáp ứng được phần nào nhu cầu cuộc sống, bản là đáp ứng nhu cầu lương
thực; còn nhu cầu thực phẩm thì đồng bi tận dụng khai thác nguồn lâm thổ sản:
rau rừng, thú rừng để bổ sung c' nguồn thực phẩm trồng trong vườn nhà. Việc
khai thác tự nhiên cũng vào kế hoạch làm ăn, có sự phân công lao động rõ ràng.
Hái rau rừng I công việc của phụ nữ, còn săn bắt thú rừng lại là công việc của
nam giới.
Thu hái lâm sản thực hiện theo mùa. Mùa xuân - hè thì hái các loại rau rừng,
măng, nấm, mộc nhĩ, còn mùa thu - đông thì kiếm các loại c quả. Việc săn bắt thú
được thực hiện chủ yếu bàng bẫy các loại: b chuồng, bẫy sập, bấy hố, bẫy phóng
lao, bẫy treo, bẫy đá. Các loại thú thường bẫy là cày, cáo, don, nhím, chồn, sóc,
khỉ...
Ngoài thu hái lâm thổ sản, săn bắt muông thú, người Lô Lô cò đánh bắt cá dưới
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 5 | 18


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC LÔ LÔ | Hoàng Trần

sông, suối. Đồng bào cũng có nhiều cách đánh bắt c như: thả lưới, quăng chài,
kéo vó, thả rọ (có mồi ở trong), xúc, câu.
Đồng bào còn lấy cây rừng làm nhà ở, làm công cụ sản xuất. Một số cây rừng
được dùng làm thóc chữa bệnh như cây dó, cây vông đở, cây họa cốt đan...
2.4. Ngành nghề thủ công
Người Lô Lô có ba nghề thủ
công được nhiều người trong
vùng biết đến. Đó là nghề đan
lát, nghề làm ngói và nghề

thêu. Đan lát và nghỉ làm ngói
là công việc của đàn ông, còn
thêu thùa là công việc của đàn
bài Đàn ông Lô Lô từ khi lên
9, lên 10 tuổi đã được cha,
anh hướng dẫn truyền nghề
đan lát, cho nên khi lớn lên ai
cũng có khả năng dan.
Nguyên liệu đan là mây, tre. Sản

Nghề đan lát của người Lô Lô

phẩm đan có nhiều chủng loại khác nhau và mỗi chủng loại được đan theo kỹ
thuật khác nhau. Những sản phẩm đan thường gặp trong gia đình người Lô Lô là:
gùi, nong, nia, hòm đựng quần áo ;một số nơi, người Lô Lô làm ngói lợp nhà.
Ngói của đồng bào là ngói máng, được làm bằng khuôn gỗ. Đồng bào nung ngói
trong lò bằng củi trong 7 ngày đêm liên tục.Chị em phụ nữ Lô Lô từ 6 - 7 tuổi đã
được bà, mẹ, chị hướng dẫn thêu thùa để khi lớn lên tự may quần áo cho bản thân
và cho cả gia đình. Người Lô Lô không dùng khung thêu. Họ thêu vào lúc nhàn
rỗi. Mô típ hoa văn của họ là những hình vuông, hình tam giác, hình chim khâu
theo gấu áo.
2.5. Trao đổi, mua bán
Kinh tế của người Lô Lô cũng như các dân tộc khác trong vùng cơ bản là kinh tế
tự túc, tự cẩp. Tuy nhiên, họ cũng có nhu cầu trao đối, mua lún một số mặt hàng
phục vụ nhu cầu thiết yếu. Họ bán một số hàng thủ t đan lát, bán lâm sản như mật
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 6 | 18


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC LÔ LÔ | Hoàng Trần


ong, mộc nhĩ... và mua muối, dầu thắp kim khâu, chỉ thêu, đèn pin, công cụ sản
xuất...
3.

Văn hoá truyền thống

Dân tộc Lô Lô cư trú ở hai môi trường xã hội khác nhau. Ở Hà Giang, người Lô
Lô cư trú cùng với người Mông, còn ở Cao Bằng họ cư trú cùng người Tày. Hai
môi trường xã hội khác nhau này đã có tác động quyết định đến nếp sống văn hoá
của dân tộc Lô Lô sinh sống tại địa phương đó. Điều dễ thấy nhất là người Lô Lô
ở Hà Giang nói giỏi tiếng Mông và một số người còn giỏi cả tiếng Quan Hoả
trong giao tiếp; còn người Lô Lô ở Cao Bằng lại nói giỏi tiếng Tày.
2.6. Làng
Người Lô Lô định cư thành
từng làng nhỏ. Họ chọn nơi
dựng làng ở các sườn đồi, sườn
núi, nơi có đất sản xuất, có
rừng, có nguồn nước và đường
giao thông, giao tiếp cộng đồng
và xã hội. Làng người Lô Lô
thường dựng tách biệt với làng
người Tày và làng người Mông.
Một trong những đặc điểm của
làng người Lô Lô là có cây to ở xung quanh làng. Rừng cấm có vị trí quan trọng
trong đời sống của dân làng. Đồng bào quan niệm, một mặt, rừng cấm là nơi cư
trú của các linh phù hộ cho cuộc sống và làm ăn của dân làng, mặt khác rừng cấm
giữ nguồn nước ăn và bóng mát cho con người. Chính vì vậy, đồng bào Lô Lô coi
cây to trong làng và rừng cấm là thiêng liêng, nghiêm cấm triệt để người dân vào
rừng cấm chặt cây, hái củi, thu hái lâm thổ sản.
Nhà cửa trong làng được dựng theo nguyên tắc sau: sau là núi, trước mặt là thung

lũng rộng.
Một đặc điểm của làng người Lô Lô là tên làng luôn luôn gắn V tên dân tộc.
Người Lô Lô gọi làng là chải - âm Hán - Việt nghĩa là trại, nơi cư trú, làng. Kết
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 7 | 18


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC LÔ LÔ | Hoàng Trần

quả khảo sát ở tỉnh Hà Giang cho thấy, phần 1 làng Lô Lô ở Hà Giang đều có tên
là Lô Lô Chải, không gắn thêm địa danh khác như tên làng các dân tộc cùng cư
trú trong vùng. Tên làng người Lô Lô thường gặp như: Lô Lô Chải Lũng Cú, Lô
Lô Chải Lũn Táo, Lô Lô Chải Sủng Là, Lô Lô Chải thị trấn Mèo Vạc... Việc đặt
tên làng gắn với tên dân tộc của người Lô Lô, phải chăng do người Lô Lô ít
người, mỗi xã chỉ cư trú trong một, hai làng; đồng thời phải chăng đây là 1 minh
chứng về lịch sử di cư của người Lô Lô đến vùng đất này từ trước sau đó các dân
tộc khác di cư đến đã thấy có làng của người Lô Lô rồ do đó gọi làng của họ là
làng Lô Lô - Lô Lô Chải.
Làng người Lô Lô có những luật tục, những quy ước mà mọi người dân trong
làng và dân làng khác phải tuân theo: Người làng này mới đến địa vực của làng
khác khai phá đất đai để làm nương thì phải xin phép và được sự đồng ý của
người đại diện làng; Nương của gia đình tạm để hoá còn lưu canh thì phải tự bảo
vệ, nếu không tự bảo vệ sẽ thàn đất chung của làn g. Đến mùa sản xuất, các gia
đình phải nhốt gia súc, gia cầm, chỉ được chăn thả ở những khu đất, khu rừng
theo quy định. Kẻ nào ăn trộm, bị bắt quả tang thì bị phạt: trộm một đền ba, còn
tái phạm thì lấy một đền mười. Tái phạm nữa thì đuổi ra khỏi làng; người nào
phạm tội phá hoại rừng đầu nguồn, chặt cây trong khu rừng cấm, làm bẩn nguồn
nước sinh hoạt của làng thì phải làm lễ rửa tội trước miếu làng, đồng thời nộp
tiền phạt vào quỹ làng. Gia đình nào có khách ngủ qua đêm thì phải báo cho
trưởng làng biết. Nếu không báo, trong làng xảy ra trộm cắp mà kẻ trộm là khách,
thì chủ và khách phải đền. Ngoài ra còn phải nộp tiền phạt. Nếu trong làng có hoả

hoạn, trộm cắp, nghe thấy tiếng gọi hoặc báo hiệu khác, phải đến tập trung tại nơi
quy định, hoặc đến thẳng nơi xảy rẳ sự việc để cùng nhau cứu chữa, giúp gia đình
nạn nhân. Nếu ngoại tình bị bắt quả tang thì bị phạt tiền; phụ nữ có chồng mà
ngoại tình thì phải trả lại lễ vật cưới trước đây cho nhà chồng. Ngược lại, nếu
chồng ngoại tình thì vợ không phải trả lại lễ vật cưới.
Trong làng người Lô Lô còn có nghi lễ tín ngưỡng cúng kiếng làng. Đó là việc
thờ cúng thu tỵ - thổ thần, miếu thờ thổ thần của làng. Miếu thờ thổ thần là ngôi
nhà nhỏ, được dựng ở gốc cây to rìa làng. Miếu được cúng mỗi năm một lần vào
cuối tháng Hai hoặc đầu tháng ba âm lịch, trước khi gieo trồng mùa vụ mới. Lễ
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 8 | 18


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC LÔ LÔ | Hoàng Trần

vật cúng đều do các gia đình đóng góp tiền mua, gồm: lợn, gà, chó, cơm, bánh,
rượu, hương, vàng mã. Điều đáng chú ý là khi cúng, thịt chó phải để riên g, không
chung với thịt gà, thịt lợn. Thầy cúng là người đứng đầu dòng họ lớn của làng.
Trong khi cúng tất cả các gia đình đều phải có đại diện đến dự và lúc cúng phải
có thanh niên đứng gác ngoài đường, không ch o người lạ vào, các gia đình không
được phơi đồ trắng ra ngoài nhà. Mục đích cúng thổ thần là cầu mùa màng tươi
tốt, không bị sâu, bọ, chim chuột phá hại. Sau khi cúng song, họ tổ chức một bữa
ăn chung ngay tại miếu để cùng nhau bàn bạc việc chung của làng. Trong các dịp
tết Nguyên đán, tết Rằm tháng Bảy, ông trưởng dòng họ lớn của làng cũng có lễ
vật là bánh, thịt, rượu, vàng ra miếu cúng tạ ơn thổ thần, các thần linh đã phù hộ
dân làng được mùa bội thu và mời
ăn tết.
2.7. Nhà ở
Nhà ở của người Lô Lô có thể
chia làm ba loại: nhà sàn, nhà
đất và nhà nửa sàn, nửa đất. Ở

Bảo Lâm (Cao Bằng) và ở Xín
Cái (Hà Giang) người Lô Lô ở
nhà sàn và nhà nửa sàn, nửa đất.
Nhà sàn ở đây tương tự như nhà
ở của người Tày; còn nhà nửa
sàn nửa đất thì chia thành hai
nửa, nửa trước là sàn, nửa sau

Nhà đất của người Lô Lô

là đất, cột nhà chôn thẳng xuống đất; còn ở Đồng Văn, Mèo Vạc, người Lô Lô
làm nhà đất tương tự như nhà ở của người Mông trong vùng.
Về tập quán sử dụng ngôi nhà ở, dù là dựng nhà sàn, nhà đất, nhà nửa sàn, nửa
đất để ở, người Lô Lô vẫn có cách bố trí bên trong nhà ở giữa các vùng đều hoàn
toàn giống nhau, thể hiện rõ bản sắc dân tộc Kinh. Bàn thờ ma tổ tiên đặt ở sát
vách sau gian giữa, gian bên phải bàn thờ là buồng ngủ và bếp sưởi, đồng bào
kiêng không để đồ uế tạp lên bàn thờ ma; gian bên trái đặt bàn thờ khoan li - thờ
người chết bất đắc kì tử, nơi linh thiêng nhất của mỗi gia đình. Chỉ chủ nhà được
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 9 | 18


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC LÔ LÔ | Hoàng Trần

đi lại, quét dọn nơi đặt bàn thờ này. Gian này còn là nơi đặt bếp lò, để đồ gia
dụng và công cụ lao động. Với nhà đông người, đồng bào bố trí buồng ngủ cho
một số thành viên cũng ở gian này. Khi cúng khoan lì không được nói giống dân
tộc khác.
2.8. Y phục, trang sức
Bộ trang phục nữ dân tộc Lô Lô gồm:
khăn, áo, quần, váy, dây lưng, xà cạp và

tạp dê... Cư trú ở hai môi trường xã hội
khác nhau, trang phục nữ cũng có đôi
nét khác nhau.
Ở Hà Giang, phụ nữ đội khăn màu chàm
hoặc đen, dài khoảng 15cm - 200cm,
rộng khoảng 25cm được trang trí rất
công phu ở hai đầt khăn: gắn các tua sợi
màu có đính hạt cườm, thêu hoặc đáp
những miếng vải nhỏ hình tam giác với
các màu xanh, đỏ, vàng, trắng. Giữa
khăn còn thêu các hoa văn hình hoa đào
màu trắng. Còn ở Cao Bằng, chị em đột
khăn trắng bằng vải mộc tự dệt, dài
khoảng l00cm, rộng 20cm sau đó đội khăn đen dài l00cm, rộng 50cm ra ngoài.
Phụ nữ Lô Lô Đen mặc áo cổ vuông, xẻ ngực cài khuy bằng vải hoặc đồng, trang
trí khắp hai ống tay áo, mỗi ống tay được thêu hoặc đắp nhiều miếng vải màu
khác nhau; phần sống lưng áo cũng được thêu những hoa văn hình vuông nhỏ.
Phụ nữ Lô Lô Hoa mặc áo cổ tròn, màu đen hoặc chàm, xẻ ngực, Điều khác với
áo nữ Lô Lô Đen là hầu như toàn bộ chiếc áo được thêu và đắp những miếng vải
đỏ, xanh, vàng, trắng.
Tất cả phụ nữ Lô Lô đều mặc quần bằng vải màu đen hoặc chàm, cắt kiểu chân
què, cạp lá tọa hoặc luồn dây, dài đến mắt cá chân, ống rộng 35 - 40cm. Mặt
trước và mặt sau của quần đều được trang trí hoa văn. Các hoa văn này cũng là
những mảng vải ghép như trang trí trên áo.
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 10 | 18


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC LÔ LÔ | Hoàng Trần

Phụ nữ Lô Lô sử dụng từ một đến bốn chiếc dây lưng bằng vải, tuỳ theo từng

vùng. Ở Mèo Vạc, phụ nữ chỉ dùng một thắt lưng, nhưng ở Lũng Cú thì chị em
dùng bốn thắt lưng mỏng và nhỏ.
Xà cạp của chị em Lô Lô là một miếng vải hoa hoặc màu chàm đen, được khâu
thành ống hình ống chân, đầu buộc dây.
Tạp dề có chiều ngang khoảng 0,7 đến lm, dài khoảng 0,5 đến 0,6m. Tạp dề cũng
được trang trí đẹp như quần, áo.
2.9. Ẩm thực
Nguồn lương thực của người
Lô Lô là sản phẩm từ nghề
trồng trọt: lúa, ngô. Sản
phẩm trồng trọt của đồng bào
cung cấp cho bữa ăn hàng
ngày, trong các dịp lễ tết. Từ
điều kiện trồng trọt, người
Lô Lô ở Cao Bằng và một số
nơi như: Lũng Cú (huyện
Dồng Văn), xã Xín úi, Thị
trấn Mèo Vạc (huyện Mèo Vạc) ăn

Món mèn mén của người người Lô Lô

gạo là chính, còn người Lô Lô ở một số xã: Sủng Là, Lũng Táo (huyện Đồng
Văn) ăn ngô là chính được chế biến theo nhiều cách để thành các món như: mèn
mén, , cháo ngô, hoặc nấu độn với các loại khoai, củ. Gạo cũng chế nấu thành
nhiều món như: cơm, cháo, bánh, hoặc nấu độn với ngô, khoai. Người Lô Lô cũng
như nhiều dân tộc khác hay dùng gạo nếp để làm các loại bánh: bánh chưng, bánh
giầy, bánh sừng bò, xôi nhiều màu nhiều loại.
Nguồn thực phẩm của người Lô Lô chủ yếu là rau xanh tự gieo tự trồng, rau rừng;
nguồn thực phẩm động vật là các con vật nuôi trong gia đình và những con vật
săn bắt được. Người Lô Lô uống rượu ngô tự chưng cất trong từng gia đình.


N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 11 | 18


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC LÔ LÔ | Hoàng Trần

2.10.

Phương tiện vận chuyển

Cũng như các dân tộc khác, người Lô Lô
sử dụng gùi như công cụ vận chuyển
hàng hóa thông dụng.

Chiếc gùi (Ảnh minh họa)
2.11.

Ngôn ngữ

Tiếng nói: Tiếng nói của dân tộc Lô
Lô thuộc hệ ngôn ngữ Hán - Tạng.
Chữ viết: Chữ viết của người Lô Lô, theo một
số nhà nghiên cứu, xuất hiện khá sớm, nhưng
ngày nay đã bị mai một. Theo họ, minh chứng
cho ý này là ở vùng Bảo Lạc (Cao Bằng) một
số cụ già vẫn giữ được di vật văn tự quý giá đó,
song chính các cụ cũng khó có thể đọc nổi.
Hiện nay, không ai đọc mà khẳng định đó là
chữ viết cổ của người Lô Lô thì thưa đủ sức
thuyết phục. Phải chăng những di vật văn tự này

đã tồn tại từ trước thời kì mà dân tộc Lô Lô di cư

Chữ Hán

vào Việt Nam. Để làm rõ điều này, cần tìm hiểu về lịch sử chữ viết của người Di
ở Trung Quốc hiện nay. Người Lô Lô ở Việt Nam vẫn sử dụng chữ Hán trong
cúng bái và để ghi chép các văn bản về cưới xin, khai sinh, khai tử, ruộng,
nương...
2.12.

Tín ngưỡng tôn giảo

Người Lô Lô tin vào “vạn vật hữu linh”. Mọi vật tồn tại trên thế giới này đều có
linh hồn - thần linh. Trong thế giới thần linh vô cùng bí ẩn đó có hai vị thần: Kết
dơ - vị thần cai quản vũ trụ sáng tạo ra con người và thần; Mít dơ - vị thần cai
quản mặt đất, che chở cho con người. Con người cũng có phần linh hồn. Linh hồn
con người nằm trong thể xác lìa con người. Hồn con người tách khỏi xác là người
bị ốm, nếu hồn lìa khỏi xác là người sẽ chết. Các thần linh có thể điều khiển hồn
người tách khỏi xác, do đó khi người ốm, người Lô Lô thường phải đến thầy cúng
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 12 | 18


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC LÔ LÔ | Hoàng Trần

u-m bói để biết được thần linh nào đã điều hồn người lìa khỏi xác và sau đó nhở
thầy cúng giúp, gọi hồn về với xác. Khi hồn người trứ lại với xỉ thì người khỏe
trờ lại.
Người Lô Lô thờ tổ tiên gần - dùy
khế, gồm những ông tổ 3 - 4 đi và tổ
tiên xa - Pờ xi gồm những ông tổ từ

5-6 đời trở đi. Bàn thờ dị khe được
đặt sát vách sau của gian giữa, đối
diện với cừa chính. Trong vách của
bàn thờ người ta cài những hình
nhân bằng gỗ tượng trưng cho tổ
tiên 4 đời.
Các hình nhân đó được xếp theo thứ tự từ

Lễ cúng tổ tiên của người Lô Lô

trái sang phắ theo thứ bậc quan hệ từ gần đến xa . Hàng năm vào dịp Tết Nguyên
đán và tết tháng Bảy, hoặc những dịp cưới xin, ma chay, sinh nở, người Lô cúng
ở bàn thờ tổ tiên - dùy khế. Lễ vật cúng là cơm, thịt lợn luộc.
2.13.

Lễ hội

Trước đây người Lô Lô có nhiều
lễ hội như: lễ rước thỉ bản, lễ tế
trời đất, lễ rước đuốc, lễ cầu mưa.
Lễ rước thần bản được chức vào
tháng 5, rước thổ công, người đã
có công khai lập bản; lễ tế trời đất
được bắt nguồn từ triết lý bố trời,
mẹ đất của người Lô Lô. Theo triết

Lễ cầu mưa của người Lô Lô

lý đó, trời là cha, đất là mẹ, trời đất
sinh ra muôn loài, muôn vật và con người. Lễ tế trời đất được tổ chức trên quả

đồi rộng, có đánh trống đồng, thanh la, thổi kèn vang động trời đất, tạ ơn trời đất
đã phù hộ con người làm ăn, đồng thời cũng cầu mong năm mới sẽ được trời đất
tu tục phù hộ cho con cháu dân bản sức khoẻ và bản làng bình yên.
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 13 | 18


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC LÔ LÔ | Hoàng Trần

Lễ cầu mưa được tổ chức ở một số làng như làng Lô Lô Chải Lũ r Cú (huyện
Đồng Văn), làng Lô Lô thị trấn Mèo Vạc vào cuối tháng 5 ân lịch, trên bãi đất
rộng giữa bản. Lễ vật gồm có: rượu ngô, chó, gà, thanh kiếm, một bát nước, bốn
chén rượu, bốn ống hương bằng tre tượr trưng cho bốn phương trời và trống đồng.
Khi hành lễ, thầy cúng dùng tay phải cầm kiếm nâng lên hạ xuống, dùng tay trái
đánh trống đồng miệng cầu khấn hai vị thần Ket dơ và Mít dơ phù hộ cho mưa
thuận gió
hoà, mùa màng ,tươi tốt, bản làng được yên ổn, dân làng được no ấm. Cúng xong,
dân làng ăn uống, múa hát xung quanh đàn tế.
2.14.

Gia đinh dòng họ

Quan hệ dòng họ của người Lô Lô được tính theo phụ hệ - dòng thu. Ý nghĩa của
quan hệ dòng họ quan trọng nhất là duy tri cách thờ nmg tổ tiên, cúng ma và
nghiêm cấm người trong dòng họ có quan hệ hôn nhân với nhau trong vòng 4-5
đời. Một đặc điểm khác của quan hệ dùng họ người Lô Lô là mỗi dòng họ có một
bộ trống đồng. Dòng họ nào tó lừ ba bộ trống đồng trở lên là dòng họ lớn, có vị
thế trong dân tộc Lô Lô. Trống đồng của dòng họ do trưởng họ giữ, chôn ngay
trong vườn nhà limmg họ, khi có việc mới đào lấy lên sử dụng.
Người Lô Lô có các dòng họ: Chi, Chu, Lò, Lang, Lý, Hoàng, Chờ... Các thành
viên trong dòng họ có nghĩa vụ giúp đỡ nhau trong cưới hỏi, ma chay, làm nhà

mới, hoặc cứu tế nhau khi hoạn
nạn ốm đau.
2.15.

Tục lệ cưới xin

Tục lệ hôn nhân của người Lô
Lô tuân thủ nguyên tắc ngoại
hôn dòng họ.

Những người

trong họ, trực hệ cùng huyết
thống không được lấy nhau
trong 4 5 đời. Hôn nhân của
người Lô Lô cũng là hôn nhân
một vợ, một chồng bền vững,

Cô dâu chú rễ người M’Nông trong ngày cưới

N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 14 | 18


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC LÔ LÔ | Hoàng Trần

không có hiện tượng đa thê, đa phu. Sau hôn lễ, người vợ sang cư trú bên nhà
chồng. Trong hôn nhân, việc chọn vợ chọn chồng thường do cha mẹ sắp đặt.
Trước đây thường hay tảo hôn, con trai 15 tuổi trở lên, thạo việc, người Lô Lô
biết cúng bái là có thể lấy vợ; con gái 14 - 15 Inoi biết làm nương, biết may vá,
thêu thùa là có thể lấy chồng. Người Lô Lô thường kết hôn với người đồng tộc.

Trong hôn nhân của người Lô Lô ba mẹ vai trò quan trọng đầu tiên, sau đó mới là
ông cậu.
Tục lệ hôn nhân của người Lô Lô gồm các nghi lễ chính sau: nghi lễ hỏi tuổi con
gái, nghi lễ thông báo hợp tuổi, nghi lễ ăn hỏi, nghi lễ đón và cuối cùng là nghi lễ
lại mặt.
Nghi lễ hỏi tuổi: Nhà trai sang nhà gái hỏi tuổi cô gái. Tham gia nghi lễ này là
những người họ hàng nhà trai. Lễ vật mang theo thường thuốc lá, chè, rượu và
đường kính. Nếu nhà gái ưng thuận việc gả con thì sẽ cho nhà trai biết tuổi con
gái.
Nghi lễ thông báo hợp tuổi - nỉ vê: Sau khi nhờ thầy cúng so sánh giữa tuổi con
trai với tuôi con gái, nếu hợp nhau thì nhà trai tổ chức nghi lễ thông báo họp tuổi.
Nếu tuổi của cô gái và chàng trai không hợp nhí thì nhà trai cũng thông báo cho
nhà gái biết. Lễ vật cho nghi lễ thông bể hợp tuổi gồm rượu, kẹo, thuốc lá. Sau
nghi lễ này, nếu nhà trai có việc cần như làm ruộng cho kịp thời vụ, làm nhà
mới... thì bên nhà trai thường là mẹ chồng đến nhà gái để xin phép cho cô dâu
tương lai đi giúp việc dăm ba buổi.
Nghi lễ ăn hỏi - ni vê rả: Trước khi tổ chức nghi lễ này, nhà trai chọn n gày lành,
tháng tốt, thông báo cho nhà gái biết trước để hai bên cùng chuẩn bị. Đến ngày
hẹn, đại diện bên nhà trai gồm 6 người cùi ông mối - qua lồ đem lễ vật gồm: chè,
đường kính mỗi thứ một điếu thuốc lá... sang nhà gái xin cưới. Đoàn nhà gái tiếp
đoàn nhà trai gồm ông bác hoặc chú và bà dì của cô dâu tương lai.
Nghi lễ đón dâu: Như đã thoả thuận, đoàn nhà trai gồm ông chú rể, phù rể cùng
một số người giúp mang lễ vật sang nhà gái. Lễ vật gồm: khoảng 30 đến 50kg
gạo, một tạ thịt lợn, vài lít rượu, chè, thuốc (khoảng 10 bao), đường kính vạ tiền
mặt. Trường hợp nhà trai nghèo, vật cưới mang đến nhà gái khống đủ như thoả
thuận, ông mối thay mi nhà trai thương lượng với đại diện nhà gái xin được nợ,
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 15 | 18


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC LÔ LÔ | Hoàng Trần


sau đó nghi đón dâu vẫn được tiến hành bình thường. Những lễ vật này được đưa
cả xuống bếp để những người phò xịch - hoả thực chế biến thức ăn. sau bữa cơm
thân mật, trịnh trọng tại nhà gái, đến giờ tốt, nhà trai làm lễ đ ón dâu, nhà gái làm
lễ đưa cô dâu ra khỏi nhà. Cô dâu được bố mẹ, cô chú bác tặng vòng tay, vòng cổ,
khăn... và lúc này cô dâu cũng được đẻ trao lại chiếc vòng bạc quý giá - bảo vật
của các thế hệ trước. Đợi nhà gái đưa dâu về nhà chồng nhạt thiết phải có hai phù
dâu và ông cậu ông bà mối và một số người trong họ hàng nhà cô dâu. Ông cậu cô
chịu trách nhiệm phân công cho một số thanh niên mang theo một bình rượu, một
con lợn giống, các loại nông cụ như cào, cuốc, dao... và dè dùng gia đình như
mâm, nồi, bát... về nhà chồng. Đoàn nhà trai cử em của chú rể (những người ít
tuổi hơn chú rể) để khiêng đồ của cô dâu về nhà chồng gồm hòm áo, vải vóc, đồ
dùng cá nhân.
Trên đường đưa dâu vồ nhà chồng, sau khi đã đi được một quãng đường, mọi
người dừng lại ăn uống. Đồ ăn gồm cơm nắm, thịt, rượu... do cô gái chuẩn bị.
Theo phong tục, cô dâu về nhà chồng phải có hai tấm chăn làm quà cho bố mẹ
chồng. Khi về đến nhà chồng, cô dâu được bà dì phía nhà thung trực tiếp ra đón
ngay từ chân cầu thang lên nhà. Bà dì bên nhà chồng đón cô dâu phải dặn dò và
hướng dẫn cô dâu thực hiện các nghi lễ .Cô dâu phải làm khi bước vào nhà chồng.
Các nghi lễ đó là: trình báo nhận ma nhà chồng, cô dâu vào buồng để bà dì làm
các nghi thức nhập phòng. Sau khi thực hiện xong các nghi lễ cần thiết trong đám
cưới, cô dâu cởi bỏ trang phục cưới, mặc thường phục ra mời rượu khách, dọn
phục vụ tiệc cưới. Khách được cô dâu mời rượu thường chúc mừng cô dâu bằng
quà hoặc tiền mặt.
Lễ lại mặt - khế po gấu: Một hoặc hai ngày sau ngày cưới, cô dâu VA chú rể trở
lại nhà bố mẹ vợ làm lễ lại mặt. Lễ vật trong lễ lại mặt gồm: mọi chai rượu, một
cân đường kính, một con gà. Bố mẹ vợ làm cỗ cúng lổ liên và mời đôi vợ chồng
trẻ cùng ăn uống thụ lộc. Sau bữa cơm , hai vợ chồng về nhà ở hẳn nhà trai sinh
sống làm ăn.
2.16.


Tập quản tang ma

Xuất phát từ quan niệm người ta có xác và có hồn. Khi chết là xác chết, còn hồn
vẫn Sống, cho nên làm ma để đưa xác đi chôn và đưa hồn lên thiên đàng, về với
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 16 | 18


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC LÔ LÔ | Hoàng Trần

tổ tiên.
Khi có người chết, người nhà bẳn ba phát súng kíp báo cho dân làng biết, cử
người đi báo họ hàng gần xa; đồng thời lau rửa cho người chết sỗ, mặc quần áo
cho người chết và bỏ vào miệng đồng bạc một hào, itr người chết mua đất, mua
nước ở thế giới bên kia. Sau đó mời thầy cúng về làm lễ gọi hồn cho người chết.
Người Lô Lô quan niệm, khi người còn sống, hồn có thể đi tha phương cầu thực ở
nhiều nơi, nhiều vùng... chưa về. Thầy cúng gọi hồn về để con cháu đưa tiễn linh
hồn lên thiên đàng, về với tổ tiên. Tiếp đến là lễ nhập quan. Lễ này được tiến
hành một cách thận trọng - chọn thời gian không trùng với giờ sinh, ngày mất của
các thành viên còn sống trong gia đình. Đồng bào quan niệm, ngày giờ, ngày
nhập quan cho người quá cố mà trùng với giờ sinh, ngày sinh cùa thành viên nào
trong nhà thì người đó sẽ di quan. Quan tài được làm bằng gỗ độc mộc, bổ đôi,
khoét rỗng ở giữa. Khi nhập quan chân của người chết hướng ra cửa chính của
nhà ở. Sau khi nhập quan xong, thầy cúng làm lễ đưa lỉnh hồn người chết đi sang
thế giới của bên kia. Thầy mo cúng mở đường, hướng dẫn linh hồn người quá cố
từ biệt vợj chồng, con, cháu, anh chị em... và dẫn linh hồn đi qua nhiều nơi để về
thệ Ị giới của tổ tiên. Họ quan niệm rằng làm như vậy để linh hồn người quAl cố
không bị lạc trên đường đi về với tổ tiên và không thể quay về làm hạịỊ con cháu.
Kèm theo nghi lễ đưa linh hồn là chia của cho người chết.! Trong thời gian linh
cữu quàn tại nhà, người nhà cúng cơm ngày ba bữa sáng, trưa, chiều tối. Đưa tang

và hạ huyệt cũng là những thời điểm được người Lô Lô quan tâm chọn kĩ lưỡng
sao cho không trùng với ngày giời sinh, cưới, làm nhà... của người trong nhà còn
sống. Người Lô Lô đưa quan tài ra cửa chính, trên quan tài phủ miếng vải mộc
màu trắng. Theo tập quán người Lô Lô, con rể và các cháu trai trong gia đình là
những người trực tiếp khiêng quan tài xuống cầu thang và khiêng quan tài ra t ới|
huyệt. Trên đường đi ra huyệt, thầy mo luôn đi ngay sau quan t ài, vừa đi vừa
khấn, dẫn đường cho linh hồn người chết đi ra nơi chôn cất và về thế giới ma của
tổ tiên họ.
Nét đặc trưng trong tang lễ người Lô Lô là tục sử dụng trống đồng ti Khi thi hài
còn quàn trong nhà, người ta đánh trống khi múa ma để tò lòng thươn g xót của
người sống đối với người chết và tiễn đưa linh h ồn người chết về thể giới bên kia
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 17 | 18


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC LÔ LÔ | Hoàng Trần

- một địa danh ở Phú Linh (Trung Quốc). Trai, gái vừa múa, vừa hát đối đáp. Họ
hát về các địa danh mà tổ tiên của họ đã từng sống, diễn tả lại những sinh hoạt
trong đời sống của người Lô Lô từ khi còn ấu thơ (đánh quay, nhảy sạp, cuốc
nương, trồng lúa) cho đến khi về già.
2.17.

Văn nghệ dân gian

Dân tộc Lô Lô có một vốn văn học dân gian khá phong phú. Đó tà truyện cổ, tục
ngữ, thành ngữ, câu đố, múa dân gian, nhạc dân gian. Nhiều truyện cổ Lô Lô đã
được xuất bản thành cuốn sách. Dân ca và những bài hát cúng nghi lễ đều được
sáng tác theo thể thơ 5 chữ.
Ngày nay, nhiều vùng đồng bào Lô Lô còn giữ được trống đồng. Một bộ tr ống
đồng gồm hai chiếc: trống đực - giành kê (trống nhỏ), trống cái- giành đủ (trống

to). Khi dùng trống bao giờ cũng dùng hai chiếc: đực và cái, cùng một lúc.
Trống đồng được sử dụng trong nghi lễ tang nin dô làm nhịp điệu cho nhảy múa.

Trống đồng của người Lô Lô

N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 18 | 18



×