TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC LÀO | Hoàng Trần
TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC LÀO
MỤC LỤC:
1.
Vài Nét Về Dân Tộc Lào ....................................................................................................... 2
2.
Kinh Tế Truyền Thống ......................................................................................................... 3
3.
2.1.
Trồng trọt.......................................................................................................................... 3
2.2.
Chăn nuôi ......................................................................................................................... 3
2.3.
Khai thác tự nhiên ............................................................................................................ 4
2.4.
Ngành nghề thủ công........................................................................................................ 4
2.5.
Trao dôi, mua bán............................................................................................................. 5
Văn hoá truyền thống ............................................................................................................ 6
3.1.
Làng .................................................................................................................................. 6
3.2.
Nhà ở ................................................................................................................................ 6
3.3.
Y phục, trang sức ............................................................................................................. 7
3.4.
Ẩm thực ............................................................................................................................ 8
3.5.
Phương tiện vận chuyển ................................................................................................... 8
3.6.
Ngôn ngữ .......................................................................................................................... 9
3.7.
Tín ngưỡng tôn giáo ......................................................................................................... 9
3.8.
Lễ hội.............................................................................................................................. 10
3.9.
Gia đình, dòng họ ........................................................................................................... 12
3.10.
Tục lệ cưới xin ............................................................................................................ 12
3.11.
Tập quản sinh đẻ và nuôi con nhỏ .............................................................................. 13
3.12.
Tập quán tang ma ....................................................................................................... 13
3.13.
Văn nghệ dân gian ...................................................................................................... 13
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 1 | 14
TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC LÀO | Hoàng Trần
1. Vài Nét Về Dân Tộc Lào
Dân số : 14.928 người (2009)
Ngôn Ngữ: thuộc nhóm ngôn ngữ Tày - Thái,
ngữ hệ Thái - Ka Đai
Tên gọi khác: Phu Thay, Thay Nhuôn
Nhóm địa phương: Lào Bốc (Lào Cạn), Lào
Nọi (Lào Nhỏ)
Địa bàn cư trú: Lai Châu, Điện Biên,Sơn La,Hà
Tĩnh,Đắk Lắk
Địa bàn cư trú:
Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, người Lào ở Việt Nam có dân số
14.928 người, cư trú tại 42 trên tổng số 63 tỉnh, thành phố. Người Lào cư trú tập
trung tại các tỉnh: Lai Châu (5.760 người, chiếm 38,6% tổng số người Lào tại
Việt Nam), Điện Biên (4.564 người, chiếm 30,6% tổng số người Lào tại Việt
Nam), Sơn La (3.380 người, chiếm 22,6% tổng số người Lào tại Việt Nam), Hà
Tĩnh (433 người), Đắk Lắk (275 người).
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 2 | 14
TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC LÀO | Hoàng Trần
2. Kinh Tế Truyền Thống
2.1. Trồng trọt
Người Lào ở Việt Nam chủ yếu
làm ruộng nước kết hợp với làm
một số nương rẫy. Kỹ thuật trồng
trọt ruộng nước của người Lào đạt
trình độ khá cao: kỹ thuật dùng
cày với sức kéo là con trâu, dùng
phân bón cho ruộng và hệ thống
thuỷ nông khá quy mô. Người Lào
rất chú Irọng đến công tác thuỷ
lợi. Hàng năm việc đắp đập, khơi
mương, bắc máng được dân bàn về
việc tố chức nạo vét, tu sửa vào tháng Hai âm lịch dể chuẩn bị cho vụ mùa cỏ đù
nước cầy cấy. Người Lào có nông lịch rõ ràng, chặt chẽ về thời vụ và những việc
liên quan đến xen canh gối vụ thu hoạch... Nếu như người Lào đạt trình độ khá
cao trong việc gieo cấy lúa nước, thì họ lại tỏ ra ít kinh nghiệm trong việc làm
nương và trôn thực tế, công việc làm nương không đ ược chú ý đầu tư công sức.
Trên nương, người Lào cũng trồng những cây lươn g thực như các dân tộc khác ở
vùng Tây Bắc như: lúa nương, ngô, khoai, sắn. Ngoài trồng ruộng, trên nương,
đồng bào Lào còn trồng trọt ở vườn ngay cạnh nhà ở. Cây trồng chính ở vườn là
các cây gia vị, rau thơm, hành, tỏi, ót. Mảnh vườn không lớn, giá trị k inh tế chưa
nhiều, nhưng lại tranh thủ tận dụng
được lao động của cả người già và
trẻ em, cũng như cả lao động người
lớn những lúc nông nhàn.
2.2. Chăn nuôi
Người Lào chăn nuôi nhiều gia súc:
trâu, bò, ngựa, lợn, chó, mèo, Trâu,
bò được sử dụng vào việc làm sức
kéo cho nghề ruộng nước; con ngựa
thường được dùng nhiều vào việc
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 3 | 14
TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC LÀO | Hoàng Trần
chở hàng và cưỡi khi chủ nhà có công việc cần đi lại; con lợn vừa để cúng bá i
trong các dịp lễ tết, vừa kết hợp ăn thịt. Nuôi gia súc còn cho nguồn phân chuồng
lớn dùng bón cho cây lúa nước. Trâu, bò thường được chăn thả. Ngày thả trâu, bò
vào rừng, tối lùa cả đàn về chuồng.
Các loại gia cầm như gà, vịt, ngan, ngỗng được nuôi nhiều trong các gia đình. Gia
cầm cũng được kết hợp nuôi với thả đi tự kiếm ăn và thường nhốt ở dưới gầm sàn
ban đêm. Buổi sáng, khi thả gia cầm ra chuồng, chủ nhà cho ăn một bữa, rồi cho
chúng tự đi kiếm ăn ở trong rừng, ngoài đồng ruộng. Chiều tối, chủ nhà gọi đàn
gia cầm về và cho ăn một bữa nữa trước khi vào chuồng ngủ đêm. Do cách chăn
nuôi chưa mang tính chuyên nghiệp này nên đàn gia cầm rất chậm tăng trọng,
nhưng lại chắc thịt, ít mỡ. Đàn gia cầm được nuôi vừa để ăn thịt, vừa phục vụ cho
nhu cầu hiến sinh cúng bái trong các dịp lễ tết trong năm, Khách quý đến nhà
thường được chủ nhà tiếp bằng thịt gia cầm.
2.3. Khai thác tự nhiên
Việc khai thác lâm thổ sản, thuỷ sản được người Lào quan tâm.
Măng rừng, nấm hương, mộc nhĩ, mật ong, các rau rừng, các loại hoa quả dại... là
nguồn lâm sản dồi dào, được đồng bào khai thác sử dụng thường xuvên. Củ mài,
củ nâu là những loại thổ sản cũng được đồng bào khai thác dùng để ăn hoặc làm
thuổc.
Người Lào sinh sống chủ yếu ớ
vùng thấp, nhiều suối lắm cá.
Nhùng con cá các loại, tôm, tép là
nguồn thức ăn động vật dồi dào,
được long bào Lào đánh bắt về làm
thức ăn hàng ngày.
2.4. Ngành nghề thủ công
Đồng bào có một số nghề thủ công
phát triển tốt. Sản phẩm thủ công
của đồng bào không chỉ có tiếng đổi
với người Lào; đối với các dân tộc
khác trong vùng Tây Bắc. Đó là các
Nghề dệt của người Lào
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 4 | 14
TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC LÀO | Hoàng Trần
nghề dệt, đan lát, gốm, rèn, kim hoàn.
Nghề dệt: Người Lào có nghề dệt rất nổi tiếng, sản phẩm dệt thổ cẩm của người
Lào vừa đẹp về mẫu mã hoa văn, vừa giỏi về kỹ thuật thực hiện hoa văn. Trên sản
phẩm dệt của đồng bào có một hệ thống các hoa văn. Các loại hoa văn này có thể
chia thành các nhóm như: nhóm hình người, nhóm hoa văn động vật, nhóm hoa
văn thực vật, nhóm hoa văn các hiện tượng thiên nhiên, nhóm hoa văn hình kỷ hà.
Nhóm hoa văn hình người có các dạng khác nhau như: người cưỡi ngựa, người
cưỡi voi, người cưỡi hổ. Nhóm hoa văn động vật có: rồng, rắn, các loại tôm, rùa,
voi, hổ, nai, khỉ, chó, gà, vịt; các loại chim, bướm. Nhóm hoa văn thực vật như:
rau dớn, hoa xoan, hoa mướp, chạc cây. Nhóm hoa văn hiện tượng thiên nhiên
như: phỏng theo hình mặt trời- mặt trăng, ngôi sao... Trong nghề dệt cũng như
các ngành nghề khác, khâu kỹ thuật là rất trọng. Nghề dệt của người Lào rẩt nổi
tiếng với các kỹ thuật như: kỹ thuật dệt trơn, kỹ thuật dệt khuýt, kỳ thuật dệt cát cài que kết thành hoa văn trên tầng sợi để làm chuẩn mực trước và trong khi dệ t.
Sản phẩm của người Lào được nhiều dân tộc ở Tây Bắc ưa dùng.
Nghề mộc: chủ yếu là làm nhà ở và làm thuyền độc mộc. Nhà ở cúa người Lào
được dựng một cách chắc chắn, đẹp và thể hiện bản sắc riêng dân tộc Lào. Người
Lào làm ra những chiếc thuyền độc mộc đuôi én xinh xắn, chèo lướt trên mặt
nước nhẹ nhàng.
Nghề đan lát: Người Lào tự đan gùi, dậu để chuyên chở thóc, ngô, khoai sắn. Đồ
đan của người Lào có chất lượng tốt, bền, kiểu dáng đẹp.
Nghề gốm: Việc làm gốm của đồng bào dân tộc Lào được thực hiện bằng bàn
xoay. Sản phẩm gốm có chum, vại, vò, ché, nồi với chất lượng cao. Nghề gốm
của người Lào có kiểu dáng cùng mô típ hoa văn mang dấu ấn .Những sản phẩm
gốm được sản xuất tại nước Lào thời hiện tại.
2.5. Trao dôi, mua bán
Người Lào thường hay tổ chức những chuyến hàng thủ công dùng ngựa thồ đi xa
để bán. Tuy nhiên, đây chưa phải là những thương nh ân chuyên nghiệp, nhưng
những hoạt động này đã khơi dậy trong đầu người Lào tư duy làm kinh tế thương
mại.
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 5 | 14
TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC LÀO | Hoàng Trần
3. Văn hoá truyền thống
3.1. Làng
Người Lào thường chọn những nơi đất bằng phẳng ở chân núi h chạy dọc theo các
con suối để đựng làng. Đất dựng làng cũng cần ih tiện cho sản xuât và đi lại giao
tiêp xã hội. Người Lào có những riêng, nhung cũng có các bản sống xen kẽ vớ i
các dân tộc khác (vùng như: Thái, Lự, Khơ Mú. Bản Lào thường cư trú mật tập,
không mái chấm như bản
người Thái, mà giữa các nhà
thường trồng ăn quả hoặc cây
lấy bóng mát. Mỗi bản có
bốn, năm chục nóc nhà, đông
dân có tới hàng trăm nhà.
Sinh sống ở Tây Bắc Việt
Nam, tổ chức xã hội của
người Lào thuộc vào tổ chức
hành chính của phong kiển
Thái trong vùng, được quyền
tự quản ở cấp bản. Mỗi bản của người Lào có một ng đứng đầu gọi là chẩu bàn.
Chẩu bản đại diện cho dân bản điều hành c việc đời thường của bả n và giao tiếp,
xử lý công việc đối ngoại. Thể chế tự quản chi phối hoạt động kinh tế, đạo đức
truyền thống, thậm cả đời sống tâm linh của dân bản.
3.2. Nhà ở
Người Lào ở nhà sàn.
Nguyên liệu làm nhà là
gỗ, tre, nứa, lá những
nguyên liệu sẵn có ở
địa phương. Gỗ được
dùng làm cột, kèo, nhà.
Tre dùng lát sàn nhà
cho người ở và thưng
xung quanh nhà, gianh
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 6 | 14
TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC LÀO | Hoàng Trần
dùng vào việc lợp nhà. Nhìn từ xa, nhà người Lào có mái hình rùa, vì mài hai đầu
hồi được uốn tròn (chứ không vuông), giống như nhà người Thái Đen, cho ta cả m
giác khác với nhà người Lào ở biên giới. Nhưng khi vào trong nhà thì tất cả
những nét đặc trưng cho văn hoá Lào lại hiện lên rõ rệt. Đó là ngôi nhà ở có mái
cao, lòng rộng, thuật chạm khắc điêu luyện trên cột, kèo. Khác với nhà ở truyền
thống của người Thái, khuôn viên nhà ở của người Lào có thêm mảnh vườn trồng
các cây gia vị.
Khi làm nhà mới, việc dầu tiên là phải dựng cột chính cùa ngôi nhà.cộ t chính của
nhà người Lào dựng ở phía bếp nấu ăn hàng ngày, giống Iiliư tập quán dựng cột
chính của nhà người Thái Trắng. Trong khi đó ngườiThái Đen lại dựng cột chính
ở gần bếp đun nước - bếp khách. Khi xây nhà mới, không phải lủng ta - ông cậu,
mà là người có chức sắc, giàu có, đông con trong họ nội được mời lên nhà mới
trước. Trong đêm đầu tiên lên mới, ngọn lửa lấy từ nhà cũ sang nhóm ở nhà mới
phải cháy liên tục, khôngg bao giờ để tắt.
Người Lào cũng như người Thái có tục không được dọn đồ từ nhà sang thẳng nhà
mới, mà phải dọn ra để ở một nhà tạm - nhà phán. Từ nhà phán, mọi đồ đạc mới
được chuyển lên nhà mới.
3.3. Y phục, trang sức
Y phục của phụ nữ Lào tuỳ
từng vùng có những nét
riêng
biệt,
song
nhìn
chung vẫn thống nhất và
tương tự như trang phục
của phụ nữ Thái, búi tóc
của chị em phụ nữ Lào ở
Sông Mã khác với chị em
ở Điện Biên. Ở Sông Mã
khăn piêu được chị em chít
nhọn đàu; còn ở Điện Biên
em lại vấn khăn theo kiểu
người Lự với một đuôi
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 7 | 14
TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC LÀO | Hoàng Trần
khăn thõng xuống một bên vai. Khi không chít khăn, chị em thích cài nhiều trâm
bạc với những hình chạm trổ rất tinh tế lên búi tóc. Cách búi tóc của chị em phụ
nữ người Lào là một dấu hiệu về quan hệ hôn nhân của chủ. Gái chưa có chồng,
búi tó đặt giữa đỉnh đầu như người Khơ Mú; gái đã có chồng búi tó (lặt lệch sang
bên trái. Phụ nữ Lào ở Sông Mã mặc chiếc áo ngắn với lúng cúc bạc kiểu hệt như
chị em người Thái. Còn với người Lào ở Điện Biên, hàng cúc trước ngực được
thay bằng một dải vải màu xanh, trên đó thêu những đồng tiền. Kiểu áo này lại
tương tự như kiểu áo chị em người Klur Mú. Chị em phụ nữ Lào mặc chiếc váy
màu đen quấn cao lên tận ngực, phần gấu váy thêu nhiều hoa văn hình các thứ
hoa hay hình chim, lim, rồng giống như hoa văn trên váy của phụ nữ Lào ở bên
kia biên giới.
Y phục nam giới về cơ bản tương tự như y phục nam giới
Thái.
Trang sức: Phụ nữ Lào thích dùng nhiều đồ trang sức
như: vòng cổ, vong tay, khuyên tai. Điều đặc biệt là
người Lào hay xăm các hình trên cơ thể. Nếu như phụ nữ
hay xăm trên mu bàn tay hình rau bợ -phiắc van, nam
giới hay xăm hình chữ “vạn” của nhà Phật ở cổ tay và
hình các con vật ở đùi để làm cho thuồng luồng khi nhìn
thấy phải sợ hãi. Tuy nhiên họ không xăm ở bụng, ở lưng
hay ờ chân, tay nhiều như người Lào Nậm ở nước Lào.
3.4. Ẩm thực
Là cư dân nông nghiệp, nguồn lương thực chính của người Lào là gạo nếp, gạo tẻ
nhưng gạo nếp vẫn giữ vai trò quan trọng hơn. Thường ngày người Lào hay ăn
cơm nếp. Nguồn thực phẩm cũng là những thứ rau xanh, rau rừng và cá, thịt.
Người Lào thích ăn những món ăn chế biển từ cá, đặc biệt là món pà đẹc - cá ướp
rất nổi tiếng.
3.5. Phương tiện vận chuyển
Để vận chuyển các đồ đạc nặng, đồng bào Lào thường sử dụng các phương thức
gùi, gánh, dùng ngựa thồ. Ở những nơi tiện sông nước, người Lào dùng thuyền
làm phương tiện vận chuyển trên sông rất giỏi.
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 8 | 14
TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC LÀO | Hoàng Trần
3.6. Ngôn ngữ
Tiếng nói: Tiếng nói của người Lào ở Tây
Bắc Việt Nam thuộc hộ ngôn ngữ Thái,
nhóm Thái phía Tây. Tiếng Lào ở Việt Nam
và tiếng Lào ở bên kia biên giới cơ bản là
một. Giữa người Lào, người Thái ở Việt
Nam và người Lào ở nước Lào, người Thái
ở Thái Lan có thể trực tiếp giao tiếp với
nhau không cần phiên dịch, không cần
thông qua ngôn ngữ trung gian.
Chữ viết: Chữ viết của người Lào ở Việt
Nam có cùng nguồn gốc với chữ viết của
dân tộc Lào ở nước Cộng hoà dân chủ nhân
dân Lào. Chữ viết của người Lào là chữ
viết ghi âm tiết. Khi di cư vào Việt Nam,
thế kỳ thứ XIII - XIV, người Lào đã mang
theo chữ viết này. Nói chung, chữ viết của
người Lào ở nước Lào và chữ viết
của người Lào ở Việt Nam cổ
Bảng chữ cái tiếng Lào (Ảnh sưu tầm)
nguồn gốc từ chữ viết Brami Ấn
Độ. Trong chữ viết của người Lào, các ký hiệu ghi phụ âm đồng thời cũng dùng
để biểu hiện sự khác nhau về thanh điệu: có 10 ký hiệu phụ âm cao, 9 ký hiệu phụ
âm trung bình và 23 ký hiệu phụ âm thấp. Khi viết, ký hiệu ghi nguyên âm và âm
cuối được viết xung quanh (trên, dưới, trước, sau) ký hiệu ghi phụ âm đầu.
Dấu tích của chữ Lào hiện còn giữ lại là các sách trên lá cọ. Sách lả cọ tồn tạ i khá
phổ biến trong người Lào. Sách ghi lại những truyện cổ. Điều này nói lên tính
phổ biến của chữ Lào trước đây, loại chữ không chi được dùng ở công việc hành
chính nhà nước, mà đã được sử dụng rộng rãi trong cuộc sống của người dân.
3.7.Tín ngưỡng tôn giáo
Dân tộc Lào cũng như nhiều dân tộc khác ở Tây Bắc, tin vào “vạn vật hữu linh”,
tức là mọi vật đều có linh hồn - thần linh. Đồng bào thờ cúng tổ tiên, nhưng
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 9 | 14
TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC LÀO | Hoàng Trần
không làm lễ pạt pông như người Thái (không dâng utin cho bố mẹ đã khuất 10
ngày một lần), mà chỉ cúng tổ tiên vào dịp năm mới; ở các bản không có chùa,
tháp, ma bản được thờ, cúng ở một gốc cây cổ thụ. Hệ thống nhiên thần giống
như người Thái. Ông món một loại thầy cúng chuyên chữa bệnh bằng phù phép
tôn giáo, có vai trò quan trọng trong đời sống của dân bản. Hàng năm ông món tổ
chức kin pang vào khoảng tháng ba, tháng tư dương lịch, mùa hoa ban nở, mùa
sản xuất mới bắt đầu. Mục đích lễ kin pang là đền ơn cho phi một - lo sư của ông
món. Trong lễ kin pang ông món mời tất cả lục liệng. Người nhận làm c on
nuôi ông món do ông món chữa khỏi bệnh và dân làng đến dự. Khác với người
Thái, lễ kin pang của người Lào không có thịt gà, thịt lợn, không múa tăng bu, mà
chỉ cỏ chuối, mía, bánh chưng,rượu cần và múa lăm vông.
Tuy nhiên điều cần lưu ý thêm về tín ngưỡng tôn giáo của người Lào ở Tây Bắc
là ở đây có bóng dáng của đạo Phật thâm nhập vào đời sống của họ. Điều này thể
hiện ở các sự việc: sử dụng chữ viết gốc Phật; một số chùa Phật, tháp Phật ở vùng
người Lào cư trú ở Mường Và (Sông Mã, tỉnh Sơn La), ở Mường Luân (Điện Biên
Đông, tỉnh Điện Biên); có tục thiêu xác khi chau mường, chẩu bản chết; trong lễ
kin pang không ăn thịt, chỉ ăn hoa quả.
3.8. Lễ hội
Là cư dân nông nghiệp, người Lào ăn tết năm mới - bun pỉ may vào giữa tháng 4
dương lịch, khi bắt đàu mùa mưa - mùa làm lúa mrớc đến. Hàng tháng, vào ngày
rằm và ba mươi, người Lào có
tục dâng lề lên tháp theo nghi
thức Phật giáo, lễ vật chỉ có hoa
quả. Ngoài ra, người Lào còn có
nhiều nghi lễ tín ngưỡng khác
liên quan đến nghề nông Iiliư lễ
cầu mưa - xo nămphôn, tục ăn
cơm mới...
Theo thông lệ cứ khi nào thu
Té nước trong lễ Bun Vốc Nậm của người
hoạch xong vụ lúa, bà con dân
Lào (Ảnh sưu tầm)
tộc Lào lại vui đón Lễ hội Bun
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 10 | 14
TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC LÀO | Hoàng Trần
Vốc Nậm. Dân tộc Lào lấy cây lúa nước làm cây trồng chủ đạo. Từ ngàn đời xưa,
người Lào đã coi trọng nước, nước là nhu cầu sống của vạn vật. Ngày nay nhiều
công trình thủy lợi đã góp phần khắc phục những khó khăn về nước, nhưng tiêu
chí nước vẫn là một mối quan tâm của đồng bào các dân tộc nói chung và của bà
con dân tộc Lào nói riêng. Ý nguyện ấy xưa nay đã trở thành một đòi hỏi chính
đáng, và bà con dân tộc Lào đã nương tựa vào “phạ”, “then” để giải tỏa nỗi niềm
lo lắng. Đó là nguồn gốc hình thành và lưu truyền tục cầu mưa của dân tộc Lào,
theo thời gian phát triển thành Lễ hội cộng đồng.
Lễ hội Bun Vốc Nậm - Lễ hội té nước cũng vì thế mà chứa đựng nhiều nét sinh
hoạt văn hoá, văn nghệ, trò chơi dân gian lành mạnh. Trong lễ hội, tất cả cộng
đồng các dân tộc đều được tham gia, và chủ lễ khôn g phải là các “mo bản”, “then
bản” hay già làng mà là các nam nữ thanh niên trong bản. Họ đập mẹt, gõ trống,
tuốt lá cọ, tuốt lạt... bắt trước tiếng sấm, tiếng mưa rơi. Họ đội nón, khoác áo tơi
đến các nhà xin nước, xin lộc trời; ra sông té nước vào nhau v ới những hành động
mang tính phồn thực, nhằm gợi ý cho trời đất để mưa xuống cho vụ mùa tốt tươi,
bội thu...
Cũng như các Lễ hội té nước diễn ra với hai phần. Phần Lễ là cúng cầu các thần
linh về chứng giám Lễ hội, rồi cho mưa thuận gió hòa, người người mạ nh khỏe,
nhà nhà hạnh phúc. Đoàn các nghệ nhân đi thành hai hàng, theo sau hai người
đánh trống và đánh chiêng tiến về 3 gia đình văn hóa tiêu biểu của xã. Lời xin
nước được thể thiện bằng hình thức hát. Chủ nhà thay mặt bà con hát xin với thần
linh cho mưa đúng thời vụ, cây cối sinh sôi nẩy nở, không bị sâu bệnh phá hoại.
Hát xong, chủ nhà bất ngờ cầm muôi, gáo múc nước ở trong một cái chum để sẵn
ngay đầu nhà, té đều vào cả Đoàn xin nước. Làm cả đoàn xin nước và chủ nhà
cùng cười vui vẻ...
Sang phần Hội tiếp tục té nước nhưng là cùng nhau ra suối. Lúc này chẳng ai
không bị ướt, thậm chí ướt sũng, nhưng quan niệm của bà con là càng ướt nhiều
càng may mắn. Người xem đứng ở trên bờ suối cũng không thoát. Nhưng tất cả
đều cười vui vẻ, thoải mái vang cả một góc rừng. Té nước xong mọi người cùng
về thưởng thức các món ẩm thực làm từ sản phẩm nông nghiệp của chính bà con
dân tộc Lào như cơm lam, bánh trưng, xôi màu...
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 11 | 14
TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC LÀO | Hoàng Trần
Các trò chơi đẩy gậy, kéo co cũng vui không kém. Các bản đều cử những chàng
trai, cô gái khỏe mạnh, khéo léo, xinh đẹp nhất ra đua tài.
Lễ hội khép lại với phần nén còn hào hứng dành cho cả tất cả mọi người không
phân biệt địa vị xã hội, không phân biệt già trẻ, gái trai, người Lào, người Thái,
người Kinh...
3.9. Gia đình, dòng họ
Mỗi ngôi nhà là nơi ở của một gia đình. Gia đình người Lào là gia đình phụ hệ,
phụ quyền. Vào cuối thế kỷ XX, tiểu gia đình phụ hệ chiếm 1 ưu thế, tuy nhiên
đâu đó ở các vùng xa còn gặp những gia đình lớn với ba hoặc bốn thế hệ cùng
sinh sống. Trong gia đình, con cái được đối xử bình đẳng, không phân biệt trai
hay gái, nhưng khi xây dựng gia đình thì con gái chỉ được của hồi môn, không
được phân chia bất động sản, ruộng, vườn, đất đai. Người cha có vai trò quyết
định mọi vấn đề trong gia đình, nhất là trong quan hệ đối ngoại giao thiệp với bản
mường và tiếp khách.
Người Lào có nhiều dòng họ. Tên gọi các dòng họ cơ bản giống với các dòng họ
người Thái ở Tây Bắc. Những họ lớn là họ Lò, họ Vi, họ Lường, họ Ca... Mỗi
dòng họ cũng có kiêng kỵ như dòng họ của người Thái cùng tên. Trong quan hệ
ba dòng họ: ải noọng, lúng ta và nhính sao thì vai trò của dòng họ lúng ta không
bị gò bó bởi những tục lệ khăt khe như ở người Thái.
3.10.
Tục lệ cưới xin
Người Lào thực hiện hôn nhân theo nguyên tắc ngoại hôn dòng tộc, tức là những
người có quan hệ huyết thống với nhau không được lấy nhau. Đây là nguyên tắc
hôn nhân đã hình thành từ lâu trong lịch sử dân lộc Lào. Trong quan hệ hôn nhân,
người Lào cũng theo nguyên tắc hôn nhân một vợ, một chồng bền vững. ít có
trường họp đa thê, li dị, ngoại lình... Tương tự như người Thái, người Lào thực
hiện nguyên tắc hôn nhân thuận chiều. Theo đó con trai dòng họ nhỉnh sao được
phép và khuyến khích lẩy con gái dòng họ lúng ta, nhưng nghiêm cấm lấy ngược
lại. Không thấy có tục lệ hôn nhân sôrôrat, lêvirat. Người Lào có tục ở rể sau khi
cưới, thời gian ở rể theo quy định bình thường là 5 năm cho mọi trường họp.
Nhà trai đón dâu bằng cách để sẵn một tấm ván và một chậu nước ở chân cầu
thang, khi cô dâu đến chân cầu thang, bà cô bên chú rể rửa chân cho cô dâu.
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 12 | 14
TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC LÀO | Hoàng Trần
Người Lào quan niệm, sau khi rửa chân, cô dâu bước lên tấm ván mà không ngã
là tốt.
3.11.
Tập quản sinh đẻ và nuôi con nhỏ
Phụ nữ khi mang thai được mọi người quan tâm, không phải làm việc nặng nhọc
và phải tuân theo nhiều kiêng kỵ trong ăn u ống cũng như hành vi ứng xử. Trẻ
sinh sau một tháng được đặt tên đời thường, không đặt tên Phật như ở bên nước
Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào. Con trai lớn lên phải học chữ Sanscrit và kinh
qua đọc sách kinh Phật từ ba đến kiy năm. Sau bảy năm học chữ Sansc rit được
cộng đồng công nhận là người giỏi chữ.
3.12.
Tập quán tang ma
Điều khá đặc biệt là người Lào không gào khóc khi trong nhà có người chết, bởi
họ quan niệm chết chỉ là sự thay đổi thế giới tồn tại sang sinh sống ở thế giới bên
kia. Đây cũng là quan niệm chung của hầu hết tất cả các dân tộc ở nước ta và
nhiều dân tộc ở các nước khác. Người Lào không có tục con rể làm chủ đám tang
như người Thái Đen. Nếu còn trong thời gian ở rể, con rể khiêng một bên đòn
quan tài bố (mẹ) vợ cùng l ác con trai của người đã khuất. Nếu đã hết thời hạn ở
rể, đã ra ở riêng, rể chỉ phúng một đồng bạc trắng. Nhìn chung, người Lào thực
hiện thổ táng, chỉ có những người có chức vị mới thực hiện hoả táng.
3.13.
Văn nghệ dân gian
Người Lào có vốn văn hoá
nghệ thuật dân gian phong
phú. Người I .ào rất yêu văn
nghệ. Người dân nào cũng biết
múa, biết hát. Phụ nữ Lào múa
giỏi, hát hay. Thể loại văn
nghệ dân gian có tính phổ biến
và mang lại không khí vui
nhộn, tưng bừng, náo nhiệt
nhất trong các dịp lễ tết, trong
các cuộc hội ngộ là điệu múa
Một điệu múa của người Lào (Ảnh sưu tầm )
dân gian lãm vông. Múa lăm
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 13 | 14
TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC LÀO | Hoàng Trần
vông là múa theo từng đôi một nam, một nữ. Điệu múa mang ý tưởng thể hiện
tình yêu nam nữ tình yêu con người với con người, với nhừng động tác mềm mại,
uyển chuyến, ý tứ dầy chất nhân văn, chất bình dăng của đạo Phật.
Thông thường người biết và kể nhiều truyện cố là những ông mo lăm. Mo lăm là
người giỏi chữ Lào, biết nhiều truyện thần thoại, truyện cố tích và dân ca. Một
đặc điểm của truyện cổ Lào là sự pha trộn giữa I văn nghệ Lào và Thái, nơi mà cả
hai dân tộc Lào và Thái cùng cư trú xen kẽ. Sách chữ của người Lào ghi cả những
truyện cổ người Lào quen thuộc, nhưng cũng ghi cả những làn điệu dân ca trữ
tình của người Thái, làn điệu khắp rất đặc trưng của người Thái.
Nghệ thuật điêu khắc Lào cũng rất tinh tế. Những chạm khắc trên cột nhà, trên
các vì kèo, cánh cửa nhà ở là những sản phẩm điêu khắc dân gian rất đặc sắc.
Nghệ thuật kiến trúc chùa, tháp của người Lào trước đây khá độc đáo, nhưng hiện
nay những chùa, tháp đó chỉ còn là những phế tích. Tháp rêu phủ, cỏ mọc xung
quanh, việc cúng bái không được quan tâm, các pho s ách kinh Phật viết trên lá cọ
để trong chùa không ai đọc.
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 14 | 14