Tải bản đầy đủ (.pdf) (22 trang)

Tổng quan dân tộc kinh (PDF,Word)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.38 MB, 22 trang )

TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC KINH | Hoàng Trần

TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC KINH
MỤC LỤC:
1.

Vài Nét Về Dân Tộc Kinh ..................................................................................................... 2

2.

Kinh Tế Truyền Thống ......................................................................................................... 2

3.

2.1.

Trồng trọt.......................................................................................................................... 2

2.2.

Chăn nuôi ......................................................................................................................... 4

2.3.

Khai thác tự nhiên ............................................................................................................ 5

2.4.

Ngành nghề thủ công........................................................................................................ 6

2.5.



Trao đỗi, mua bán............................................................................................................. 6

Văn hóa truyền thống ............................................................................................................ 8
3.1.

Làng .................................................................................................................................. 8

3.2.

Nhà ở ................................................................................................................................ 9

3.3.

Gia đình .......................................................................................................................... 10

3.4.

Trang phục...................................................................................................................... 10

3.5.

Trang sức ........................................................................................................................ 11

3.6.

Ẩm thực .......................................................................................................................... 11

3.7.


Phương tiện vận chuyển ................................................................................................. 12

3.8.

Ngôn ngữ ........................................................................................................................ 13

3.9.

Tín ngưỡng tôn giáo ....................................................................................................... 14

3.10.

Lễ hội .......................................................................................................................... 16

3.11.

Tục lệ cưới xin ............................................................................................................ 18

3.12.

Tập quán tang ma ....................................................................................................... 19

3.13.

Văn nghệ dân gian ...................................................................................................... 20

N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 1 | 22


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC KINH | Hoàng Trần


1.

Vài Nét Về Dân Tộc Kinh
Dân số : 73.594.427 người (2009)
Ngôn Ngữ: hệ ngôn ngữ Nam Á, nhóm Việt Mường
Tên gọi khác:người Việt
Nhóm địa phương:
Địa bàn cư trú: 63 tỉnh thành Việt Nam

Địa bàn cư trú:
Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, người Kinh ở Việt Nam có dân số
73.594.427 người, chiếm 85,7% dân số cả nước, cư trú tại tất cả 63 tỉnh, thành
phố. Các tỉnh, thành phố có số lượng người Kinh lớn nhất là: Thành phố Hồ Chí
Minh (6.699.124 người), Hà Nội (6.370.244 người), Thanh Hóa (2.801.321
người), Nghệ An (2.489.952 người), Đồng Nai (2.311.315 người) , An Giang
(2.029.888 người)

2. Kinh Tế Truyền Thống
2.1. Trồng trọt
Nghề nghiệp chính của người Kinh là trồng lúa nước. Có thể nói, văn hóa dân tộc Kinh là
văn hóa lúa nước. Trên nền tảng văn hóa này, các giá trị văn hóa khác xuất hiện và phát
triển. Đồng bào Kinh có kinh nghiệm làm nông nghiệp trồng cấy lúa nước. Tuy nhiên kỹ
thuật gieo trồng cây lúa ở hai miền Bắc, Nam có khác nhau. Miền Bắc có kinh nghiệm
làm thủy lợi: những con đê to, dài hàng ngàn kilômét có giá trị thủy, cùng những hệ
thống nông giang, mương máng tưới tiêu... cơ bản được hoàn chỉnh từ thế kỉ XV. Việc
trồng lúa nước ở miền Bắc thực hiện theo quy trình: gieo mạ, nhổ mạ, cấy. Miền Nam lại
có kinh nghiệm làm thủy lợi theo hướng khác, trái ngược với miền Bắc. Cư dân châu thổ
sông Mêkông không đắp đê mà đề nước lũ tràn đồng, không gieo mạ, nhổ mạ, mà sạ lúa gieo thẳng cho cây lúa mọc tự nhiên. Ở Nam Bộ còn có lúa nôi. Giống lúa này gieo một
vụ thu hoạch 3-4 năm.

N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 2 | 22


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC KINH | Hoàng Trần

Dân tộc Kinh cấy lúa hai vụ: vụ
đông xuân và vụ hè thu. Việc chọn
thời vụ cho cây lúa có ý nghĩa hết
sức quan trọng. Trong dân gian có
câu nói: nhất thì nhì thục, đây là lời
tổng kết kinh nghiệm làm nghề
nông hàng trăm năm của tổ tiên ta
để lại cho hậu thế. Dấu hiệu bắt đầu
thời vụ được đánh dấu bằng tiếng
sấm đầu năm. Tiếng sấm là kinh
nghiệm, nhưng tiếng sấm cũng rất
khoa học, bởi tia lửa của sấm đẩy
lui khí lạnh vào quá khứ, đem hơi ấm của khí trời đến cho cây trồng phát triển.
Có nhiều giống lúa nếp, lúa tẻ khác nhau. Nhưng giống lúa tẻ vẫn chiếm tỉ lệ cao, bởi
người ta dùng lúa tẻ để nấu cơm ăn hàng ngày; còn lúa nếp được trồng ít. Lúa nếp chỉ
được sử dụng phổ biến để làm bánh trái trong các dịp lễ tiết, hội, giỗ tổ, cưới xin. Ấn
tượng nhất là giống nếp cái hoa vàng. Bên cạnh cây lúa, đồng bào còn trồng một số loại
cây lương thực phụ và hoa màu khác như: ngô, khoai, sắn. Cây lương thực phụ được sử
dụng khi mùa màng thất bát và làm thức ăn chăn nuôi gia súc, gia cầm.
Ngoài cây lương thực, người Kinh còn trồng nhiều cây thực phẩm - rau xanh: rau cải, đu
đủ, rau dền, rau mồng tơi, rau muống, các loại đậu đỗ, các loại bầu, bí, mướp; các loại
hành tỏi ớt, rau húng, tía tô, xà lách; sau này trồng thêm các loại cây bắp cải, su hào...
Người Kinh còn trồng nhiều cây ăn quả: nhãn, vải, na, xoài, cam, chanh, khế, bưởi,
chuối, dứa, mít. Cây ăn quả ở một số nơi có chất lượng nổi tiếng như: cam Xã Đoài, bưởi
Phúc Trạch, nhãn lồng Hưng Yên. Ở miền Nam, một mặt do khí hậu ấm áp quanh năm,

mặt khác tín đồ Phật giáo chỉ được ăn cơm trước 12 giờ trưa, sau đó cả buổi chiều không
được ăn cơm, mà phải ăn hoa quả. Do vậy, ở miền Nam, cây trái càng phát triển hơn ở
miền Bắc. Một số cây ăn quả rất đặc thù cho miền Nam như: chôm chôm, sầu riêng,
măng cụt, mít tố nữ, nhãn tiêu. Vườn cây Lái Thiêu nổi tiếng không chỉ ở miền Nam, mà
còn nổi tiếng cả nước.
Cây công nghiệp được đồng bào trồng khá nhiều loại như: cây bông, cây dâu (nuôi tằm),
cây mía, cây chè, cây lạc, cây vừng, cây đậu tương. Việc trồng cây công nghiệp đã tạo ra
cơ hội cho một số ngành nghề thủ công phát triển như: ngành mía đường tỉnh Thanh Hóa,
nghề dệt lụa Hà Đông, ngành chế biến chè ở Phú Thọ.
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 3 | 22


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC KINH | Hoàng Trần

Người Kinh còn trồng cây thuốc nam chữa bệnh. Nhiều thầy lang có vườn thuốc nam quý
giá, góp phần tích cực chữa bệnh cho người dân.
Nói đến trồng trọt còn phải nói đến thú chơi cây cảnh của các vị “trưởng lão” lấy nghề
chăm sóc cây cảnh làm thú vui, tiêu khiển, đồng thời máu trong người lưu thông đều đặn,
người khỏe mạnh hơn.
2.2. Chăn nuôi
Người Kinh chăn nuôi
nhiều gia súc, gia cầm.
Những con vật nuôi phổ
biến là: trâu, bò, ngựa lợn,
chó, dê; gà, vịt, ngan,
ngỗng; nuôi chim cảnh,
chim chọi, nuôi tằm, nuôi
ong...
Trâu, bò được nuôi chủ
yếu để kéo cày làm ruộng

nước. Trâu kéo cày cho
năng suất cao, vì vậy,

Chăn nuôi lợn công nghiệp (Ảnh sưu tầm )

với người nông dân, “con
trâu là đầu cơ nghiệp”. Con trâu, bò còn sử dụng vào việc kéo xe. Nhà nuôi nhiều trâu, bò
có thế đem bán. Vùng đồng bằng, đất đai hầu hết đã được khai thác, không còn những bãi
đất rộng để chăn thả, cho nên chủ yếu là chăn dắt. Nuôi ngựa cũng chủ yếu dùng vào việc
kéo xe và cưỡi.
Trong nông thôn vùng người Kinh sinh sống, gia đình nào cũng nuôi lợn, chó, dê, gà, vịt,
ngan, ngỗng. Các loại tiểu gia súc, gia cầm này được nuôi phục vụ cho nhu cầu gia đình:
lễ tết, cúng bái, cưới xin, ma chay, sinh hoạt, tiếp khách, bồi dưỡng sức khỏe cho người
ốm, người mới đẻ, làm quà biếu cho họ hàng nội ngoại trong dịp tết năm mới. Nuôi cá
trong ao gia đình cũng được các gia đình có điều kiện (có ao) quan tâm. Biết kỹ thuật
nuôi cá thì nghề này cũng dễ gặp may, thắng lớn. Dân gian có câu bằng tiếng Hán - Việt
là: thứ nhất canh trì, thứ nhì canh viên - thứ nhất làm ao, thứ nhì làm vườn, hoặc thứ nhất
thả cá, thứ nhì gá bạc - thứ nhất thả cá, thứ nhì cho thuê nhà đánh bạc. Các con vật nuôi
khác như: tằm, ong, chim là những con vật nuôi không có tính phổ biển rộng rãi trong xã
hội người Kinh.
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 4 | 22


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC KINH | Hoàng Trần

Bên cạnh kinh tế trồng trọt là nguồn sống chính, thì chăn nuôi cũng đóng vai trò rất quan
trọng trong đời sống của người dân, nhất là cư dân ở nông thôn.
2.3. Khai thác tự nhiên
Mặc dù kinh tế sản xuất nông nghiệp đã phát triển khá, nhưng kinh tế khai thác tự nhiên
vẫn được đồng bào chú ý tận dụng. Người Kinh chú ý khai thác cả sản vật ở trên rừng và

cả những động, thực vật ở dưới sông, dưới biển.
Ở trên rừng có nguồn lâm, thổ sản rất lớn. Đó là mật ong, nấm hương, mộc nhĩ, măng tre,
măng nứa, các loại rau rừng; các loại hoa quả dại trên rừng; các loại củ như củ mài, củ
nâu; các loại gỗ làm nhà cửa, các loại củi đun, rơm rạ ở ruộng. Mùa nào thức ấy, trên
rừng quanh năm có cái để khai thác. Nguồn thu từ khai thác tự nhiên luôn có mặt trong
nhà họ và thực sự góp phần cho bữa ăn của người dân phong phú hơn, đa dạng hơn, nhiều
chất hơn.
Người Kinh còn khai
thác sản vật sẵn có ở
dưới sông, dưới biển.
Chỉ tính riêng ở biển đã
có tới 6.845 loài động
vật, trong đó có 2.038
loài cá, 300 loài cua, 300
loài trai ốc, 75 loài tôm,
7 loài mực, 653 loài rong
biển. Có những loài hải
sản quý hiểm như: hải
sâm, sò huyết, trai ngọc...

Đánh bắt hải sản trên biển (Ảnh sưu tầm)

Phương tiện để khai thác thủy sản là cái đơm, cái đó, chài, lưới. Ngư nghiệp trở thành
nghề làm ăn đối với một số người dân sinh sống ở ven sông ven biển. Ngư nghiệp có hai
yếu tố khác với nông nghiệp. Thời vụ nông nghiệp tính theo mùa thời tiết, còn thời vụ
ngư nghiệp trên biển tính theo mùa dòng nước hải lưu; nông nghiệp chủ yếu làm việc ban
ngày, còn đánh bắt hải sản chủ yếu đi biển vào ban đêm. Một số ngư dân sinh sống ngay
trên mặt nước, lấy việc đánh bắt thủy hải sản làm nghề làm ăn chính của họ. Cuộc sống
theo mùa hải lưu, theo dòng cá biển, cho nên không ổn định, nay đây mai đó, tương tự
như dân nông nghiệp di canh, di cư. Đại đa số nông dân lấy nghề nông làm nghề làm ăn

chính, nhưng việc đánh bắt thủy hải sản vẫn có vai trò quan trọng trong cuộc sống của họ.
Cá, cua, tôm, tép được sử dụng trong bữa ăn hàng ngày của đồng bào.
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 5 | 22


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC KINH | Hoàng Trần

2.4. Ngành nghề thủ công
Dân tộc Kinh có nhiều ngành nghề thủ
công rất phát triển như: nghề gốm, nghề
chạm gỗ, nghề khảm, nghề dệt, nghề thêu,
nghề đan lát mây tre, nghề sơn mài, nghề
chạm khắc đá, nghề đúc đồng, nghề làm
tranh, nghề nón, nghề làm chiếu, nghề kim
hoàn...
Một số câu văn vần còn lưu truyền trong
dân gian, nói lên sự phát triển của nghề thủ
Làm tranh Đông Hồ (Ảnh sưu tầm)
công như: “gốm sứ Bát Tràng, bạc vàng
Định Công, đúc đồng Ngũ Xã. Những nơi làm chạm gỗ nổi tiếng như: Lỗ Khê (Đông
Anh, Hà Nội), Nội Duệ, Đồng Kỵ (Bắc Ninh), Kim Bồng (Hội An, Quảng Nam), La
Xuyên (Ý Yên, Nam Định). Những sản phẩm chủ yếu của nghề chạm gỗ là: hoành phi,
câu đối, sập gụ, tủ chè, tượng Phật, đồ thờ. Người thợ khảm dùng sơn ta để gắn vỏ trai, ốc
có vân ngũ sắc đẹp, lên những sản phẩm gỗ tốt như: hộp đựng đồ trang sức, đựng đồ
khâu của chị em phụ nữ, khay... Nghề dệt lụa có ở nhiều nơi, những địa danh nổi tiếng
như Vạn Phúc (Hà Đông), Phương Thành (Trực Ninh, Nam Định). Nghề thêu tinh xảo là
thêu tranh chân dung, thêu tranh phiên bản. Tương truyền vùng đất tổ nghề của nghề này
là Quất Động, huyện Thường Tín, Hà Nội. Nghề đan lát mây tre làm ra những sản phẩm
như: giường tủ, bàn ghế, rổ rá, đĩa khay bày hoa quả, làn, giỏ, chao đèn. Các địa phương
nổi tiếng làm hàng mây tre đan là: Phú Vinh, Ninh Sở (Hà Nội), Quảng Phong (Quảng

Xương, Thanh Hóa). Nghề sơn có lịch sử hàng nghìn năm, nhưng nghề sơn mài thì mới
xuất hiện từ những năm 30 của thế kỉ 20. Nghề chạm khắc đá với những sản phẩm rất
phong phú ở các làng nghề nổi tiếng như: làng Nhồi (Thanh Hóa), làng Quan Khái, Hòa
Khê dưới chân núi Ngũ Hành Sơn (Đà Nang); Nghề làm nón làng Chuông, Huế... Nghề
làm chiếu với những làng nghề nổi tiếng ở Nga Sơn (Thanh Hóa), Tiên Kiều (Hưng Yên),
Chiếu Hới (Thái Bình). Nghề rèn làng Đa Sĩ (Hà Đông) và nhiều làng nghề khác...
2.5. Trao đỗi, mua bán
Trong lịch sử dân tộc Kinh đã có những cơ sở buôn bán nổi tiếng đi vào câu ca dân gian:
thứ nhất Kinh Kỳ, thứ nhì Phổ Hiến (Hưng Yên ngày nay). Những cảng buôn'bán Vân
Đồn (Quảng Ninh), cảng biển Hội An (Quảng Nam) còn giữ lại nhiều di tích đô thị cổ:
phố cổ Hội An, chùa cổ Trung Quốc, Nhật Bản chứng tỏ sự phát triển buôn bán từ nhiều
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 6 | 22


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC KINH | Hoàng Trần

thế kỉ trước. Tuy nhiên, trong
lịch sử dân tộc Kinh, nghề
buôn bán phát triển nhiều là ở
miền Nam, gắn với địa danh
Sài Gòn - Chợ Lớn, cần Thơ,
Châu Đốc... Việc buôn bán
không chỉ ở trong nước mà còn
đối với nước ngoài. Mặt hàng
buôn bán phố biến là các hàng
nông sản do nông dân sản xuất;
các mặt hàng thủ công do các
thợ thủ công làm ra.

Chợ Bến Thành – niếm tự hào của Tp.Hồ Chí Minh

(Ảnh sưu tầm)

Một số mặt hàng nước ngoài
như: vải, đồ gốm sứ, đồ kim hoàn, tượng mỹ thuật, tượng thờ... Ớ dân tộc Kinh chợ hình
thành họp khắp các vùng nông thôn. Đặc điểm chợ là có sự phân cấp tự nhiên theo cấp
bậc hành chính.
Có chợ làng;, chợ xã, chợ huyện, chợ tỉnh. Tính quy mô của chợ: lượng hàng lưu thông,
lượng khách đến họp chợ, thời gian họp chợ cũng từ đó mà lớn dần lên theo cấp hành
chính. Đặc biệt vùng dân tộc Kinh có chợ âm - dương, họp ở cạnh ngôi miếu có tiếng là
thiêng, thuộc làng o, xã Võ Cường, thành phố Bắc Ninh. Chợ âm - dương họp mỗi năm
một lần vào đêm ngày 4 rạng ngày 5 tháng Tết (tháng giêng âm lịch). Tương truyền rằng,
nơi đây trong lịch sử là một bãi chiến trận, rất nhiều người đã nằm lại tại đây. Chợ họp là
cơ hội cho người chết đi chợ mua bán, là dịp để người sống và người chết gặp nhau. Chợ
họp từ lúc chập tối đến giữa đêm nhưng không hề có đèn, không lều quán. Nhiều người
đi chợ mang theo một con gà đen để làm vật tế thần. Trong chợ đầy hàng mã, hương nến,
trầu, cau. Ở chợ âm - dương, người mua không mặc cả, người bán không đếm tiền. Người
đi chợ không quan tâm ‘‘mua may, bán rủi”, mà cốt để người cõi âm được gặp. Sáng hôm
sau, xem lại túi tiền, có người được toàn là vỏ hên, lá đa, nhưng họ vẫn vui vẻ, bởi họ
nhận thức đây là dịp làm phúc, làm điều thiện với người đã chết vì quê hương đất nước.
Nhìn tổng thể, kinh tế dân tộc Kinh phát triển hơn nhiều dân tộc khác, thể hiện ở sự phát
triển nhiều hình thức canh tác, trồng nhiều cây ở những vùng địa lý khác nhau, nuôi
nhiều con; có nhiều hình thức khai thác tự nhiên: khai thác lâm sản, thổ sản, thủy sản, hải
sản; phát triển nhiều ngành nghề thủ công, phát triển buôn bán nhỏ ở các thị trấn, thị xã...
Tuy nhiên, nền kinh tế dân tộc Kinh và kinh tế các dân tộc khác đều có một điểm chung

N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 7 | 22


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC KINH | Hoàng Trần


là trình độ sản xuất phát triển trên nền kỹ thuật thủ công, hay nói cách khác là hầu hết các
dân tộc nước ta đều sản xuất bàng kỹ thuật tiền công nghiệp.

3. Văn hóa truyền thống
3.1. Làng
Nơi cư trú của nông dân Kinh: Đối với nông dân Kinh cũng như nhiều nông dân khác,
việc dựng làng luôn được tính toán để thuận lợi cho sản xuất và cuộc sống của con người.
Ở miền Bắc, trên đồng bằng sông Hồng, người nông dân chọn những mô đất cao giữa
cánh đồng để làm nhà ở, hướng nhà quay về phía nam đón gió mát mùa hè. Trung tâm
văn hóa làng là “đình làng, giếng nước, cây đa”, hoặc chùa. Đình làng là nơi hội họp dân
làng, nơi thờ cúng, cầu mùa, cầu an cho dân làng. Đình làng dưới con mắt kiến trúc là

những công trình nghệ thuật làm đẹp cho quê hương xóm làng. Đó là chùa Phật Tích
(Bắc Ninh) xây dựng năm 1057, triều vua Lý Thánh Tông. Tên chữ là “Vạn Phúc Tự”.
Chùa chính bố cục kiểu nội công, ngoại quốc, hai bên tả, hữu còn có đền thờ Bà Chúa
Tiên, nhà phương trượng, nhà tổ đệ nhất, điện thờ. Phía sau chùa là khu vườn tháp, với
32 ngọn tháp xây bằng gạch, đá; là đình Đình Bảng (Bắc Ninh), xây dựng năm 1736, thờ
ba vị thành hoàng: Cao sơn đại vương (thần núi), Thủy bá đại vương (thần nước) và Bạch
lễ đại vương (thần đất). Kiến trúc quan trọng nhất là toà nhà đại đình với 2 chái, 4 mái,
góc đao cong và chạm khắc hình rồng, phượng, lân, hoa lá, “bát mã quần phi” trải kín
hầu khắp bộ khung nhà; Chùa Tây Phương (Hà Nội), được xây dựng từ thời Cao Biền
(856 - 873), với mái hai tầng và các đầu đao cao vút kết hợp điêu khắc trang trí rồng,
phượng đẹp mắt. Giếng nước to, nơi cả làng đến đó lấy nước về nấu ăn, phục vụ mọi sinh
hoạt khác của gia đình. Cây đa là nơi ngụ của thần linh. Người Kinh có câu: thần cây đa,
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 8 | 22


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC KINH | Hoàng Trần

ma cây gạo, cú cáo cây đề. Những làng to, có truyền thống làm ăn lâu đời, giàu sang,

phát đạt thường làm cổng làng. Cổng làng uy nghi thường là cổng tam quan, cổng làng
tam quan chúng ta còn gặp ở những phố cổ của Hà Nội. Ở miền Nam, làng được dựng
trên những giồng đất, không quây quần trên một khu đất cao như miền Bắc. Tiếp nối
truyền thống đó, sau này khi có hệ thống đường giao thông bộ, người dân miền Nam làm
nhà dọc theo các tuyến đường, vừa để tiện đi lại, vừa đế bán hàng.
Mỗi làng người Kinh còn có lễ hội làng. Các lễ hội làng thường tập trung vào việc cầu
mùa màng nhà nông, cầu chăn nuôi phát triển, cầu nghề thủ công phồn vinh, tôn vinh các
hoạt động văn hóa của địa phương, kỷ niệm các sự kiện lịch sử... Một số tên lễ hội được
nhiều người biết đến như: Lễ hội đền cổ Loa, lễ hội Phù Đổng, lễ hội Đống Đa (Hà Nội);
Lễ hội Chọi trâu, Lễ hội Đen Trạng (trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm), Lễ hội xuống
biển (Hải Phòng); Lễ hội Chùa thầy, Lễ hội chùa Tây Phương, Hội Chùa Hương, Hội
làng Chuông, Hội làng Đa sĩ, Linh Tiên Quán (Đạo giáo) (Hà Nội); Lễ hội Cá Ông, Lễ
hội Tháp Bà (Khánh Hòa); Lễ hội cúng biển Mỹ Long (Trà Vinh); Lễ hội Ooc Om Bók
(Sóc Trăng),...
3.2. Nhà ở
Nhà ở của nông dân Kinh Bắc Bộ
là “nhà tranh vách đất”. Nguyên
liệu làm nhà là tre ngâm nước để
sau này mối, mọt khỏi ăn, rơm rạ.
Tre làm khung cột, kèo, xà nhà;
rơm, rạ dùng để lợp nhà. Nhà ở
thường có ba gian, hai chái, một
cửa đi lại. Bố trí trong nhà theo
một trật tự nhất định: hai chái là
hai buồng ngủ, một bên là buồng
ngủ của vợ chồng chủ nhà và bên
kia là buồng ngủ của con gái; hai
gian sát hai buồng ngủ là nơi đặt giường ngủ của con trai; gian giữa sát vách sau là bàn
thờ, trước bàn thờ là bàn nước - nơi tiếp khách của gia đình.
Một khuôn viên nhà ở của ngưòi Kinh còn có nhà bếp, sân, vườn, ao. Nhà bếp được dựng

vuông góc với nhà ở. Từ nhà ở, đi dọc theo hành lang là sang bên nhà bếp, không bị mưa,
nắng. Sân nhà nằm ở trước mặt nhà ở. Ở đồng bằng, khi dựng nhà, người ta phải đào đất
đắp nền, nơi đào lấy đất đắp nền nhà chính là ao của gia đình. Ao thường đào ở phía
trước nhà. Người đồng bằng Bắc Bộ thường chọn hướng nam làm nhà: “lấy vợ hiền hòa,
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 9 | 22


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC KINH | Hoàng Trần

làm nhà hướng nam”. Nhà hướng nam, mùa hè gió nồm thổi qua ao, mang hơi nước bay
vào nhà tạo không khí mát mẻ, dễ chịu. Ao là nơi thả cá, đồng thời là nơi rửa chân trước
khi đi vào sân, vào nhà. Cạnh ao là vườn rau xanh, người ta lấy nước ao để tưới rau. Như
vậv trong khuôn viên nhà ở không phải chỉ làm nơi ở, mà còn kết hợp làm kinh tế rất
thiết thực: thứ nhất canh trì, thứ nhì canh viên được thực hiện ngay trong khuôn viên nhà
ở. Mỗi khuôn viên nhà ở là nơi cư trú của một gia đình.
3.3. Gia đình
Gia đình người Kinh là tiểu gia đình phụ hệ, phụ quyền. Mỗi gia đình thường có bố mẹ
và các con cái chưa dựng vợ gả chồng. Các thành viên trong gia đình đều có nghĩa vụ
tham gia lao động, có quyền hưởng lợi thành quả lao động như nhau. Phân công lao động
được thực hiện theo giới tính: việc nặng nhọc thường do con trai đảm nhiệm: cày, bừa,
làm nhà, đào ao, đắp đê... Trong gia đình người chồng, người bố, người con trai trưởng
có nhiều quyền hành trong mọi công việc gia đình. Gia đình là một tế bào xã hội, nề nếp
trong gia đình là một bộ phận của nề nếp xã hội. Trong gia đình việc giáo dục đạo đức
được thực hiện theo tư tưởng Khổng học, với con trai là “quân, sư, phụ”, với con gái “tại
gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử”, “công dung ngôn hạnh”.
Một số trường hợp, một số nơi có thể có gia đình nhiều cặp vợ chồng, nhiều thế hệ con
cháu cùng chung sống dưới một mái nhà. Tuy nhiên đây thường là trường hợp những
ông, bà già sức khỏe, khả năng lao động giảm, ở chung với con cái, vừa giúp con cái
trông nom các cháu, vừa trông cậy vào sự giúp đỡ chăm sóc của con cháu. Con cháu lớn
lên, xây dựng gia đình, chăm sóc ông bà lúc tuổi cao sức yếu là nét nhân văn của người

Châu Á nói chung và của người Việt Nam nói riêng.
3.4. Trang phục
Dân tộc Kinh mặc vải bông, tự trồng bông, dệt
vải, cắt may thành những bộ trang phục dân tộc,
với nhiều nét độc đáo. Dân tộc Kinh có trồng dâu
nuôi tằm, làm ra vải lụa để mặc, nhưng không
mang tính đại trà. Bộ trang phục dân tộc Kinh có
sự khác nhau giữa hai miền Bẳc, Nam, cả bộ
trang phục nam và bộ trang phục nữ.
Bộ trang phục nam ở miền Bắc: Nông dân dân
tộc Kinh ở đồng bằng sông Hồng thường ngày
lao động mặc áo cánh xẻ ngực và quần chân què,
cạp lá toạ, màu nâu sồng, đi chân đất. Màu nâu là
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 10 | 22


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC KINH | Hoàng Trần

sự lựa chọn hài hòa với thiên nhiên - môi trường lao động, nước bùn màu nâu làm bẩn
quần áo ít lộ rõ khi lao động trên đồng ruộng. Trên đầu nam giới đội nón lá. Đàn ông có
bộ trang phục lễ hội: quần trắng, áo the dài, đầu đội khăn xếp, chân đi guốc gỗ. Bộ trang
phục của đàn ông miền Nam về kiểu dáng tương tự như bộ trang phục của đàn ông miền
Bắc, tuy nhiên có sự khác nhau về màu sắc. Bộ bà ba của đàn ông miền Nam thường có
màu đen.
Bộ trang phục nữ miền Bắc là: yếm, áo cánh, váy tròn ống rộng, đầu chít khăn mỏ quạ.
Tất cả là một màu nâu sồng. Trong các dịp lễ hội, chị em phụ nữ có áo dài mớ ba, mớ
bảy, váy, chiếc nón lá. Ở miền Nam, chị em hay mặc bộ bà ba den, chiếc khăn rằn ri
quàng trên vai, để đầu trần. Chiếc khăn rằn ri, có thể có gốc là của dân tộc Khmer, song
phụ nữ Nam Bộ đã sử dụng nó từ lâu năm và coi như là bộ phận không thề tách rời của
trang phục phụ nữ Nam Bộ. Chiếc khăn rằn coi như là một vật có nhiều tính năng: che

nắng, che mưa, “túi” đựng đồ (củ khoai, quả dứa...), điệu con...
3.5. Trang sức
Đồ trang sức thường được chị em sử dụng là: hoa tai, khuyên tai, nhẫn. Nguyên liệu làm
đồ trang sức là vàng.
3.6. Ẩm thực
Nguồn lương thực của dân tộc Kinh cũng như các dân tộc khác ở nước ta là lúa gạo, là
sản phẩm của nghề nông. Có hai loại gạo: gạo tẻ và gạo nếp. Trong đời sống thường
ngày, người Kinh ăn cơm tẻ. Cơm nếp được sử dụng nhiều trong các lễ tết, cưới xin, ma
chay, cúng bái, giỗ chạp. Từ gạo tẻ, người Kinh nấu thành cơm, nấu cháo, chế biến thành
bún, bánh cao khô; còn từ gạo nếp được chế biến thành nhiều thứ ăn hơn. Ngoài lương
thực, nguồn thực phẩm của người Kinh cũng rất đa dạng: rau xanh, bầu bí, đậu đỗ các
loại, rau mùa hè, rau mùa đông; các loại thịt gia súc, gia cầm; các loại thủy hải sản.
Cách chế biến lương thực thì ở cả ba miền Bắc, Trung, Nam cơ bản giống nhau; nhưng
cách chế biến thực phẩm thì có những nét khác nhau rõ rệt. Thức ăn của người miền Bắc
có vị mặn đậm đà của muối; vào miền Trung dùng bữa cơm, ta thấy vị cay rất ấn tượng;
đến miền Nam, mọi thức ăn khô hay canh đều có vị ngọt lờ lợ. Trong bữa ăn thường
ngày, dân miền Bắc thường có rau, tôm cá, thịt; dân miền Trung có rau với mắm cá, còn
dân miền Nam hay ăn nhiều thủy hải sản với rau xanh. Cả ba miền, trong bữa ăn đều có
cơm (gọi bữa ăn là ăn cơm) và thức ăn có: món xào đậm muối - món ăn mặn, bát nước
chấm và món canh.

N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 11 | 22


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC KINH | Hoàng Trần

Một số món ăn có
tiếng như: giò lụa,
phở, bánh cuốn,
tôm chua Huế, hủ

tiếu Mỹ Tho, nem
rán, lẩu mắm,
chạo tôm, mắm
thái Châu Đốc.
Bánh xèo Nam
Bộ
(Ảnh sưu tầm)

Người Kinh uống rượu trong bữa
ăn ngày lễ tết. Rượu được làm
bằng gạo nếp. Có hai loại rượu:
rượu chưng cất và rượu nếp.
Trước đây một số người có tục
ăn trầu cho môi hồng, cho chắc
răng, tránh sâu răng.
3.7. Phương tiện vận chuyển
Người kinh có rất nhiều phương
tiện để vận chuyển, thô sơ có,
hiện đại tân tiến cũng có, tuy
nhiên ở vùng nông thôn, nơi
chiếm tỷ lệ lớn nơi sống của người
Kinh thì vẫn dùng nhưng phương
tiện thô sơ, khá lạc hậu

Xe bò khá thong dụng ở nông thôn (Ảnh sưu
tầm)

N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 12 | 22



TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC KINH | Hoàng Trần

3.8. Ngôn ngữ
Tiếng nói: Tiếng Kinh là tiếng nói của dân tộc Kinh, nhưng trong quá trình hình thành
quốc gia Việt Nam, đã trở thành tiếng nói chính thức của quốc gia Việt Nam. Do đó tiếng
Kinh được gọi tắt là tiếng Việt (tiếng Việt Nam). Các dân tộc nước ta đều lấy tiếng Kinh
làm phương tiện giao tiếp với nhau. Người nước ngoài đến Việt Nam giao dịch công tác
cũng chỉ cần biết tiếng Kinh là được. Tiếng Kinh thuộc hệ ngôn ngữ Nam Á, nhóm ngôn
ngữ Việt – Mường.
Ảnh hưởng của nghìn năm Bắc thuộc, do tổ chức xã hội của phong kiến phương Bắc
(Hán) phát triển hơn, cho nên trong tiếng Kinh có khá nhiều thuật ngữ Hán - Việt, nhất là
các thuật ngữ liên quan đến tổ chức xã hội, quan hệ xã hội. Trong tiếng Kinh cũng có khá
nhiều thuật ngữ có nguồn gốc tiếng Pháp (tiếng Tây). Thuật ngữ gốc (vay mượn) Pháp
thường liên quan đến lĩnh vực kỹ thuật công nghiệp hiện đại. Trong tiếng Kinh có một số
phương ngữ như phương ngữ Hà Nội, phương ngữ Nghệ - Tĩnh, phương ngữ Huế,
phương ngữ Nam Bộ.
Chữ viết: Người Kinh có sáng tạo ra chữ
viết không?. Có học giả cho rằng, từ thời
Hùng Vương nước ta đã có chữ viết,
nhưng ý kiến này chưa đủ sức thuyết
phục về mặt khoa học. Từ thời Bắc
thuộc, người Kinh đã tiếp nhận chữ Hán
làm chữ viết chính thức của nước ta. Chừ
Hán được sử dụng trong công tác hành
chính Nhà nước, trong giáo dục, trong
sáng tác văn học nghệ thuật, trong sách
tôn giáo (sách cúng).
Chữ Nôm được người Kinh cải tiến từ
Bảng chữ cái tiếng Việt (Ảnh sưu tầm)
chữ Hán, đọc theo âm Hán - Việt, có thể

hình thành từ thế kỉ thứ 9-10 và tiếp tục
hoàn chỉnh dần vào các thế kỉ sau. Chữ Nôm được sử dụng trong sáng tác văn học từ thế
kỉ 13 - 15; đặc biệt trong các thế kỉ 18 - 19, xuất hiện ngày càng nhiều tác phẩm văn học
bằng chữ Nôm (Truyện Kiều của Nguyễn Du).
Từ cuối thế kỉ 19 đầu thế kỉ 20, chữ La tinh xâm nhập vào nước ta, dần dần chiếm ưu thế,
chữ Nôm bị đẩy lùi và không còn được dùng nữa. Chữ La tinh vào nước ta cũng được cải
tiến thành chữ quốc ngữ - chữ Việt bằng cách thêm 7 chữ cái và thêm 5 dấu.
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 13 | 22


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC KINH | Hoàng Trần

3.9. Tín ngưỡng tôn giáo
Dân tộc Kinh tin vào vạn vật hữu linh và một số tôn giáo khác. Theo quan niệm dân gian,
mọi vật từ vô tri, vô giác đến sinh vật đều có phần xác và phần hồn: linh hồn - thần linh,
thần núi, thần sông, “thần cây đa, ma cây gạo, cú cáo cây đề”. Những biểu hiện cụ thể
trong cuộc sống đời thường là các hiện tượng dùng phù phép đuổi ma, trừ tà, các hiện
tượng bói toán, phù chú, xem phong thủy.
Trong đời sống tâm linh của các dân tộc Việt Nam nói chung và dân tộc Kinh nói riêng
có tục thờ cúng tổ tiên của gia đình, dòng tộc; thờ các nhân thần, nhiên thần. Một đặc
điểm trong tín ngưỡng dân gian của người Kinh là tục thờ Mầu (Mẹ). Thờ Mầu là sản
phẩm của tư duy nông nghiệp, là thần đảm bảo cho các vụ mùa được thắng lợi, bội thu.
Mầu được phân thành 4 loại: Mầu Thượng Thiên (đệ nhất) sáng tạo ra miền trời, đem cho
nghề nông Thiên thời; Mầu Thượng Ngàn (đệ nhị) sáng tạo ra rừng núi đem cuộc sống
đầy đủ của cải cho cả người sống lẫn người chết (thế giới của Mầu có nhiều tượng cô và
cậu); Mầu Thoải (đệ tam) sáng tạo ra nguồn nước cho cày cấy; Mầu Địa (đệ tứ) tạo đất
đai phì nhiêu. Các tượng Mầu thường được sơn son thếp vàng, riêng yếm ở cổ sơn các
màu khác nhau: Thượng Thiên có yếm màu đỏ; Thượng Ngàn, xanh lá cây; Thượng
Thoải, màu trắng; Thượng Địa, màu vàng. Cùng với điện Mầu còn có các tượng chầu
(giống tượng Mau) và ngũ vị tôn ông (hình tượng quan văn mũ cánh chuồn, áo vân cẩm)

là lực lượng thực hiện ý đồ sáng tạo của Mầu. Các tượng Ông Hoàng đội khăn xếp và các
tượng cô, cậu thường có giá trị nghệ thuật.
Trong dân tộc Kinh tồn tại các tôn giáo chính như: đạo Phật, đạo Thiên Chúa, đạo Tin
Lành, đạo Cao Đài, đạo
Hòa Hảo.
Đạo Phật: Đạo Phật từ Ấn
Độ du nhập vào Luy Lâu
(Thuận Thành, Bắc Ninh) trụ sở của Giao Chỉ (Việt
Nam thời Bắc thuộc) vào
đầu công nguyên, qua
đường biển. Tăng sĩ Phật
giáo và thương nhân Ấn Độ
là những người đầu tiên
truyền bá Phật giáo vào
nước ta. Đến đầu thế kỉ thứ
9 (thời Bắc thuộc) thiền Phật giáo – Tôn giáo chính của người Việt (Ảnh sưu tầm)
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 14 | 22


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC KINH | Hoàng Trần

sư Võ Ngôn Thông,người Quảng Châu (Trung Quốc), sang Việt Nam thành lập dòng
thiền thứ hai ở Việt Nam, mang nặng ảnh hưởng của Phật giáo Trung Quốc. Trong vùng
cư trú của dân tộc Kinh có nhiều chùa như: chùa Phật Tích, chùa Thày, chùa Tây
Phương, chùa Hương Tích, chùa Quán Sứ, chùa Keo, chùa Vĩnh Nghiêm, chùa Thiên
Mụ, chùa Xà Tón, chùa Xá Lợi...
Tư tưởng của đạo Phật ảnh hưởng đến nhân cách, hành vi của người dân. Người Kinh
quan niệm “ở hiền gặp lành”, “gieo gió gặt bão”... là xuất phát từ quan niệm về mối quan
hệ nhân - quả trong Phật giáo.
Một bộ phận cư dân trong dân tộc Kinh theo đạo Thiên chúa, tập trung ở các tỉnh thuộc

đồng bằng Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ, nhưng nhà thờ Thiên chúa giáo thì được người Pháp
xây dựng ở tất cả các thị xã tỉnh lỵ của các tỉnh từ miền xuôi đến miền ngược. Vùng Bùi
Chu, Phát Diệm là nơi có nhiều nhà thờ Thiên Chúa giáo (Công giáo). Những người tin
theo Thiên Chúa giáo vẫn làm ruộng, sinh hoạt công dân như mọi người công dân khác.
Tuy nhiên họ có một số tập quán sinh hoạt riêng như phải đi lễ nhà thờ vào các dịp lễ tết
của Thiên Chúa.
Đạo Tin Lành là một trong ba giáo phái của Kitô. Đạo Tin Lành được truyền bá vào Việt
Nam từ năm 1911, lúc đầu truyền giáo ở vùng nhượng địa của Pháp. Từ năm 1920 mới
được tự do truyền giáo ở khắp nước Việt Nam. Đạo Tin Lành không thừa nhận giáo hội
như cầu nối giữa Thượng đế và con người, đề xướng thờ cúng đơn giản, không có các
tượng thánh. Đạo Tin Lành cổ vũ cho đạo đức tiết kiệm, dùng của cải tiết kiệm được
không phải cho hưởng lạc cá nhân, mà cho tích luỹ đầu tư vào sản xuất công nghiệp và
coi lao động là sứ mệnh của con người.
Đạo Cao Đài là đạo nội sinh, ra đời năm 1926 tại tỉnh Tây Ninh. Tại lễ ra mắt có Toàn
quyền Đông Dương và Thống đốc Nam Kỳ đến dự. Người sáng lập đạo Cao Đài là Ngô
Văn Chiêu (1878 - 1932) cùng các công chức, quan lại thời Pháp. Người đứng đầu có
chức danh là Đức Giáo Tông, có nhiệm vụ thi hành phép tắc của đạo. Đức Giáo Tông có
ba hảng chức sắc thuộc ba ngành: Khổng giáo (mặc áo đỏ), Phật giáo (mặc áo vàng) và
Lão giáo (mặc áo lam). Ba màu áo đó tượng trưng cho uy tín, đức hạnh và sự bao dung
của đạo. Đức Giáo Tông có ba vị Chưởng Pháp thuộc ngành Lão giáo mặc áo trắng. Đạo
Cao Đài tự mệnh danh là Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, tôn thờ ba vị đấng tối cao là: Đức
Phật, Đức Giê Su và Đức Cao Đài. Đạo Cao Đài lấy biểu tượng là mặt trời - Thiên nhãn
(hình một con mắt). Hình tượng con mắt là hình thiêng của Đạo Cao Đài, vì con mắt là
cửa tâm hồn “Nhãn thị chủ tâm”, cần phải thấy được bản lĩnh thể chân để bước vào thiện
nghiệp. Khi hành lễ bức mành được kéo lên để lộ con mắt tối cao; thắp nến, hương và
trầm. Đạo Cao Đài phát triển ở Nam Bộ.
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 15 | 22


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC KINH | Hoàng Trần


Đạo Hòa Hảo là tôn giáo nội sinh ở Việt Nam năm 1939, tại xã Hòa Hảo tỉnh An Giang.
Người sáng lập là Huỳnh Văn Sổ (1919 - 1947), tự xưng là hóa thân của các vị tiền bối.
Còn gọi là Phật giáo Hòa Hảo. Nền tảng triết lý của đạo Hòa Hảo là lý tưởng “từ bi, bác
ái, đại đồng và luật nhân quả” của nhà Phật. Nội dung đạo Hòa Hảo là đạo Phật được
hiểu một cách đơn giản với sự cầu mong con người được sung sướng, thoát khỏi bến mê,
bể khổ. Đạo lấy việc tu thân làm chính. Tu thân theo tứ ân: ơn tổ tiên, ơn đất nước, ơn
đồng bào, ơn tam bảo (Phật, Pháp, Tăng). Lễ vật cúng chỉ gồm: nước lã (tượng trưng cho
sự tinh khiết thể xác), hoa tươi (tượng trưng cho sự trong sáng tâm hồn), hương (nhang
để thanh trừ mọi uế tạp. Ăn chay 4 ngày trong tháng là 14, 15, 29, 30 (nếu tháng thiếu thì
lấy ngày 1 tháng sau thay vào ngày 30). Không thờ Phật, mà theo Đức thầy Tây An chỉ
thờ một mảnh vải điều (Trần Điều) biểu hiện cho sự thoát tục.
3.10.
Lễ hội
Người Kinh có vô vàng lễ hội
để kể, song các lễ tết luôn là
các lễ quan trọng và đáng
chờ đợi nhất năm, dưới đây
là một số lễ tết của người
Kinh
-

Tết Nguyên đán:

Ba ngày đầu tháng Giêng âm
lịch là Tết Nguyên đán. Tết
này được tổ chức linh đình.
Trước Tết, người ta sắm sửa
quần áo mới cho con cháu,


Đón tết Nguyên đán của người Kinh
(Ảnh sưu tầm)

làm bánh, mua pháo, mua
hoa… cúng tất niên. Ngày 23 tháng Chạp cúng đưa ông Táo. Cận kề ngày Tết thì gói
bánh chưng, bánh tét, trang hoàng nhà cửa, lau chùi bàn th, bình chén, mổ heo, dựng nêu.
Chiều 30 tháng Chạp (tháng thiếu là ngày 29) làm lễ cúng rước ông bà. Nửa đêm 30 tết
đốt pháo giao thừa mừng năm mới, bày bánh trái cúng ông bà. Sau đó mỗi buổi sáng đều
cúng ông bà. Ðến mùng ba đưa tiển ông bà
Sáng mồng Một mừng tuổi những người trong nhà, rồi mang lễ vật về nhà thờ cúng tổ
tiên, rồi mang lễ vật về nhà thờ cúng tổ tiên. Ngày mồng Hai và mồng Ba đi thăm bà con.
Dân gian có câu “mồng Một nhà cha, mồng hai nhà vợ, mồng Ba nhà thầy”. Gặp nhau
người ta thường chúc nhau “trường an vạn thọ”, “vạn sự như ý”, làm ăn phát tài”… tiếp
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 16 | 22


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC KINH | Hoàng Trần

đãi nhau bằng hạt dưa, bánh mứt hoặc ly rượu đầu xuân. Ngày mồng, hai nhiều người
xem hướng xuất hành, hay lên chùa bẻ lộc đầu xuân, tin rằng có liên quan đến chuyện tốt
xấu may rủi trong năm.
Trong Tết người ta thường tổ chức các hình thức vui chơi: lô tô, bài chòi, đánh bài…
Ngày trước cuộc vui chi kéo dài suốt tháng Giêng, hoặc đến rằm tháng Giêng, hoặc đến
lễ hạ nêu (mồng 7 tháng Giêng). Ngày nay, lễ tết chỉ trong 3 ngày, có nhiều hình thức vui
chi mới, phong phú, lành mạnh.
Ðầu năm người ta kiêng nói bậy bạ, la mắng cãi cọ nhau, không làm tắt ngọn đèn trên
bàn thờ, người có tang không đến nhà người khác… Từ tết Ất hợi ( 1995) tục đốt pháo
được bãi bỏ để tránh lãng phí và tai nạn.
-


Tết Thanh minh:

Tiết Thanh minh trời trong sáng, mát mẻ, vào tháng 3 âm lịch. Dịp này người ta đi tảo mộ
tổ tiên, mộ vô chủ, từng gia đình cúng tổ tiên, làng tổ chức cúng mồ vô chủ.
-

Tết Ðoan ngọ:

Ngày mùng 5 tháng 5 âm lịch là ngày giỗ Khuất Nguyên (chết trên sông Mịch La, Trung
Quốc. Với người Việt đoan ngọ là ngày giữa năm, sinh hoạt vui chơi, có tục hái lá làm
thuốc đúng vào giờ ngọ.
-

Tết Trung nguyên:

Vào ngày rằm tháng 7 âm lịch, theo đạo Phật là ngày lễ xá tội nơi cõi âm. Nhiều nhà đốt
vàng mã cúng gia tiên. Nhiếu người đi viếng chùa cầu an cho gia đình.
Dân gian có câu “rằm tháng 7 kẻ quy người khiêng” ý nói giàu hay nghèo cũng phải
thành kính với vong linh người đã khuất trong ngày này.
-

Tết Trung thu:

Vào ngày rằm tháng 8 âm lịch, còn gọi là Tết trẻ em. Nhà nhà lo cho con cháu nhỏ tuổi
có quà bánh. Nhà khá giả thì làm cỗ trung thu. Trẻ em chờ trăng lên rước các loại đèn
lồng, múa lân, đốt pháo, kéo theo hàng đoàn, áo quần sặc sỡ. Ðội múa lân thường vào
từng nhà múa chúc tụng. Ðịa phương nào cũng có nhiều hình thức vui chơi cho trẻ em.
-

Tết Hạ nguyên:


N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 17 | 22


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC KINH | Hoàng Trần

Tết này được tổ chức vào ngày rằm tháng 10 âm lịch, lúc thu hoạch xong vụ mùa. Dân
gian có câu “rằm tháng 10, mười người mười quảy” ý nói nhà nào cũng cúng lễ Ðồ cúng
thường là bánh xèo làm bằng bột gạo và thịt gà, vịt heo…
3.11.
Tục lệ cưới xin
Dân tộc Kinh thực hiện hôn nhân theo nguyên tắc ngoại hôn dòng tộc, quy định những
người có họ hàng trực hệ với nhau thì không được lấy nhau. Dân tộc Kinh cũng thực hiện
hôn nhân một vợ, một chồng bền vững. Có trường hợp đa thê, một chồng hai vợ, nhưng
thường là trường hợp vợ trước không có con trai, hoặc các quan chức thời xưa có quyền
lấy gái đẹp làm vợ lẽ. Người Kinh theo quan niệm Khổng học: nhất nam viết hữu, thập
nữ viết vô (sinh một nam là có, sinh mười nữ vẫn là không), coi chưa sinh được con trai
là chưa có người nối dõi tông đường, là không có người thừa tự, trông nom hương hoả
sau này. Nhu cầu sinh con trai trở thành sức ép xã hội buộc họ phải chấp nhận lấy vợ lẽ.
Trong trường hợp như vậy, thường vợ cả đi hỏi vợ lẽ cho chồng. Sau khi cưới, đôi vợ
chồng trẻ thường ở riêng, nhưng; khi đón dâu thường đón về nhà bố mẹ đẻ để làm lễ cúng
gia tiên. Tục lệ cưới của người Kinh thường có một số nghi lễ: Chạm ngõ, ăn hỏi, lễ cưới,
thân nghinh (đón dâu), lễ nhị hỷ.
Lễ Chạm ngõ hay còn gọi là lễ xem mặt. Ngày xưa hay tảo hôn, trai gái nghe lời cha mẹ,
cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy, cha mẹ lo tìm con dâu, lo cưới vợ cho con. Đôi trai gái trẻ
thường không biết nhau, cho nên lễ Chạm ngõ là đê chàng trai, cô gái được biết nhau,
xem mặt nhau.
Lễ ăn hỏi hay nạp tệ:
Sau lễ Chạm ngõ một
thời gian, được nhà gái

đồng ý, nhà trai tổ chức
lễ ăn hỏi. Lễ vật nhà trai
đưa sang nhà gái gồm:
trầu cau, rượu chè, bánh
trái và bánh cốm, bánh
xu xê. Tất cả lễ vật đều
phong giấy đỏ hoặc
buộc lạt đỏ, đựng trong
quả sơn đỏ. Nhà gái
nhận lễ là chính thức
nhận rể tương lai. Lễ vật được
bày lên bàn thờ tổ tiên, sau đó lại

Lễ cưới của người Việt (Ảnh sưu tầm)

N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 18 | 22


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC KINH | Hoàng Trần

quả cho nhà gái một ít, số còn lại đem chia cho họ hàng báo hỉ.
Lễ cưới thường không cách xa lễ ăn hỏi. Người Kinh có câu: Cưới vợ thì cưới liền tay,
chớ để lâu ngày lắm kẻ gièm pha.
Lễ thân nghinh (đón dâu):
Ngày xưa thường cưới gả ngay trong làng, hoặc làng bên, do vậy đám cưới thường đi bộ.
Đoàn đón dâu do một cụ già đi đầu, hai tay nâng một bình hương toả khói nghi ngút với
mục đích để cúng Nguyệt Lão và trừ tà ma quấy nhiễu đám cưới. Tiếp theo là những
người dẫn lễ thắt lưng điều, đội mâm cau, quả, bánh trái, khiêng lợn quay, vò rượu. Chú
rể đi cùng người thân và phù rể. Trước khi đi đón dâu, ở nhà, chú rể phải thắp hương lễ
gia tiên, trình bày việc hôn nhân, lễ bố mẹ tạ ơn sinh thành, dưỡng dục. Lễ gia tiên: bốn

lễ, một vái; lễ bố mẹ: hai lễ, một vái. Khi đến nhà vợ, chú rể cũng làm lễ tương tự với gia
tiên và bố mẹ vợ. Khi đó, dâu, rể thường được bố mẹ vợ cho tiền, đồ nữ trang (phù dâu,
phù rể nhận hộ).
Tục chăng dây: Đến gần nhà gái, bên nhà gái thường tổ chức chăng dây ngang đường vào
cổng, hoặc đóng cổng lại. Đoàn đón dâu phải cho tiền trẻ con thì chúng mới gỡ dây cho
đi qua.
Lễ Nhị hỷ (lại mặt): Sau ngày cưới, hai vợ chồng trẻ mang lễ vật về nhà bố mẹ vợ. Trên
mâm lễ vật được che kín có một thủ lợn. Gia đình nhà gái hội họp chờ mở mâm ra xem.
Nếu thủ lợn bị cắt mất tai là cô dâu không còn trong trắng khi về nhà chồng. Đó là một sỉ
nhục lớn đối với nhà gái. Hạnh phúc gia đình coi như tan vỡ.
3.12.
Tập quán tang ma
Tất cả các dân tộc ở nước ta đều quan niệm người ta sống có xác và có hồn (linh hồn).
Khi chết, xác bị huỷ hoại, còn hồn vẫn sống cùng thời gian. Tang lễ nhằm đưa xác chết đi
chôn và đưa linh hồn người chết về chỗ an vui, được siêu sinh, tịnh độ. Nhiều chi tiết lễ
tang được quy định trong cuốn sách Thọ mai gia lễ. Nghi lễ khá phức tạp, nhưng trong
sách đã ghi câu nói của Khổng Tử: trong tang lễ, chủ yếu là nỗi đau buồn hơn việc theo
đúng nghi thức. Trong nghi thức tang lễ có ba thời điếm rất đáng lưu ý: lễ lâm chung, đưa
đám và chôn cất.
Lễ lâm chung: Khi có người già ốm nặng khó qua, người nhà không được khóc lóc, tránh
làm náo động, giữ cho người bệnh được yên tĩnh. Đưa người bệnh đến căn nhà chính
tẩm, đặt nằm đầu hướng về phía đông để tiếp nhận khí, mong kéo dài cuộc sống; con cái
xoa nắn chân tay, bố chết trong tay con trai, mẹ chết trong tay con gái; con trưởng hỏi
xem có trối trăng gì không và xin tên hiệu (tên sau này gọi khi cúng). Nếu không tự đặt
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 19 | 22


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC KINH | Hoàng Trần

được tên cúng thì con trai đặt tên cúng cho và ghé vào tai thưa lại cho người sắp chết; lấy

lụa trắng dài 7 thước đặt lên mặt hay tay người hấp hối để khi chết hồn sẽ nhập vào đó
gọi là hồn bạch; con trưởng thực hiện việc hú hồn (gọi hồn về) sau khi xác định đã chết.
Lễ đưa đám và chôn cất: Đưa đám là thể thức đưa linh cửu đến tận chỗ chôn. Con cháu đi
theo linh cửu, dẫn đầu là con trai, mặc áo xô, đội mũ rơm và gậy (cha gậy tre, mẹ gậy
vòng). Con trai thì cha đưa, mẹ đón; con gái, con dâu thì làn . Con cháu, nhất là phụ nữ
thì bày tỏ lòng yêu thương bằng tiếng khóc thảm thiết. Nhiều đám tang suốt dọc đường
còn rắc vàng mã, vàng giấy lá, khiến tà ma tham của khỏi quấy nhiễu. Sau khi lập huyệt
đắp thành mộ, mọi người đi về nhà tang chủ. Nếu điều kiện tự nhiên thuận tiện thì đường
từ mộ về phải là đường khác với đường đi ra mộ. về đến nhà, người ta dựng một bàn thờ
mới ở gian bên cạnh. Gian chính đã có bàn thờ tổ tiên. Chỉ khi nào hết tang, mới được
thờ chung với tổ tiên. Trong ngày có tang, khách đưa đám cùng người phục vụ được mời
cơm rượu tại nhà đám. Tục này thường gọi là trả nợ miệng.
3.13.
Văn nghệ dân gian
Dân tộc Kinh có vốn văn nghệ dân gian vô cùng
phong phú với đầy đủ các thể loại: văn học dân gian,
nghệ thuật dân gian.
Văn học dân gian: Dân tộc Kinh có đủ các thể loại văn
học dân gian truvền miệng: truyện thần thoại, sử thi,
truyện cổ tích, truyện ngụ ngôn, truyện tiếu làm,
truyện trạng; các làn điệu dân ca ba miền Bắc, Trung,
Nam. Dân ca quan họ Bắc Ninh, ca trù được UNESCO
công nhận là di sản văn hóa phi vật thể của loài người;
các bài ca dao, tục ngữ, câu đố, giải đố; các loại truyện
thơ... Dân tộc Kinh có các truyền thuyết nổi tiếng mà
các dân tộc khác trong nước đều biết như: Lạc Long
Quân - Âu Cơ, Thánh Giỏng, Tứ bất tử.
Các loại hình nghệ thuật như: hội hoạ, điêu khắc, kiến trúc 11 lĩ hệ thuật,...
Hội hoạ: Tranh dân gian Việt Nam gồm hai loại: tranh treo tết và tranh thờ. Để đáp ứng
đủ nhu cầu tranh chơi trong dịp tết, người Kinh đã biết sử dụng kỹ thuật khác ván dô in.

Trong dân gian người Kinh có hai dòng tranh nôi tiếng là tranh Đông Hồ và tranh Hàng
Trống. Dòng tranh Đông Hồ (Bắc Ninh) khá phong phú, phản ánh những sinh hoạt, quan
hệ xã hội nơi thôn dã như: tranh mèo, chuột, hái dưa. đánh ghen, khiêng trống, đánh vạt...
Tranh Mãn(Hà Nội) là dòng tranh phục vụ cho thị hiếu của dân thành thị với nét mảnh,
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 20 | 22


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC KINH | Hoàng Trần

yểu điệu, sử dụng; màu sắc phong phú: lam - hồng, lục - đỏ. da cam - vàng. Các tranh nổi
tiếng như' “Lý ngư vọng nguyệt”, Ngũ hổ, Tố nữ;
Điêu khắc: Những sản phẩm điêu khắc (lúng kè có lẽ bắt đầu từ thời nhà Lý (1010 1225). Thờiđó Phật giáo trở thành quốc đạo, nhà sử học Lê Văn Hưu đã Viết. "nhàn thin
quá nửa là sư sãi, trong nước chỗ nào cũng có chùa chiền". Trong chùa có các tượng
Phật: Tượng A Di Đà ở chùa Phật Tích (1057) là tác phẩm điêu khắc đầu tiên của thế giới
Phật giáo ở Bắc Bộ. Sau đó là các tượng đầu người mình chim, chạm khác chùa Bà Tấm.
Thời nhà Trần (1225 - 1426), Phật giáo vẫn thịnh hành, nhưng tượng Phật lại rất ít, chỉ
thấy có nhiều bệ tượng đá hoa sen hình hộp trên
đặt tượng Tam Thế (quá khứ, hiện tại, vị lai) ở
các chùa Thầy, chùa Bối Khê, chùa Dương Liễu
và nổi lên là chạm khắc gỗ trong trang trí kiến
trúc chùa ở các chùa: chùa Phổ Minh (Nam
Định), chùa Thái Lạc (Hưng Yên).
Thời Lê Sơ (1247 - 1527), Phật giáo có phần mờ
nhạt, xuất hiện loại hình điêu khắc lăng mộ của
các vua Lê ở Lam Sơn. Tám lăng vua Lê và hai
bà Hoàng hậu đều được xây theo hình thức của
lăng vua Lê Thái Tổ.
Thời Lê - Trịnh - Tây Sơn, thế kỉ 17 thế kỉ 18 là
giai đoạn phát đạt nhất của nghệ thuật điêu khắc.
Có các loại sau: Điêu khắc Phật giáo trong các

chùa làng; điêu khắc lăng mộ của vua quan Lê,
Trịnh; điêu khắc trong các đền chùa với tín ngưỡng
bản địa; tượng Phật Bà Quan Âm “nghìn mắt, nghìn
tay” chùa Bút Tháp (Bắc Ninh), chùa Hạ (Vĩnh
Yên).

Tượng Phật Bà Quan Âm nghìn
mắt nghìn tay (Ảnh sưu tầm)

Thời Nguyễn (1802 - 1945), nhà Nguyễn dời đô vào Huế, xây dựng kinh thành Huế và
lăng mộ các bậc đế vương ở phía tây kinh thành. Các lăng mộ nghèo nàn về ngôn ngữ
kiến trúc, quy phạm cứng nhắc. Riêng lăng Khải Định có nét mới hơn, dùng kỹ thuật tạp
kỹ, có các tượng quan hầu, lính hầu, voi, ngựa.
Trong mỹ thuật điêu khắc dân gian người Kinh nói riêng cũng như mỹ thuật dân gian
Việt Nam nói chung, thường gặp hình tượng bốn con vật thiêng (tứ linh): long, ly, quy,
phượng. Trong bốn con vật thiêng này, con rồng được coi là con vật thiêng liên quan đến
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 21 | 22


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC KINH | Hoàng Trần

tổ tiên của người Kinh: con rồng, cháu tiên, cho nên điêu khắc con vật này thường được
xuất hiện nhiều hơn. Điêu khắc rồng được sử dụng nhiều trong kiến trúc cung đình, đình,
chùa, trang phục. Điêu khắc rồng cũng thay đổi theo lịch sử: rồng thời Lý, rồng thời
Trần, rồng thời Lê.
Rồng thời Lý xuất hiện trên các vật điêu khắc đá, gốm, được tạc dưới dạng phù điêu.
Không gặp dạng chạm chìm và chạm tròn. Con rồng thời Lý thân khá dài, mình tròn lẳn,
thon nhỏ từ đầu đến đuôi, nhiều khi không có vẩy. Một số nhà nghiên cứu gọi nó là hình
giun hoặc hình dây. Một chi tiết đặc trưng của rồng thời Lý là đầu thường ngóc lên,
miệng há to, mép trên của miệng không có mũi. Rồng có bốn chân, mỗi chân có ba ngón

phía trước, không có ngón chân sau.
Rồng thời Trần rời khỏi kiến trúc cung đình, có mặt trên các kiến trúc dân dã; không chỉ
khắc trên đá, trên gốm, mà khắc cả trên gỗ ở các chùa; không chỉ đặt ở vị trí trang
nghiêm, mà có mặt ở bậc thềm (ở chùa Phổ Minh). Đôi khi vẩy lưng có hình răng cưa
lớn, nhọn, chân rồng thường ngắn. Hình ảnh rồng chầu mặt trời sớm nhất là con rồng
trong chùa Phổ Minh (Nam Định) có niên đại 1305 - 1310.
Rồng thời Lê có râu ngắn và một chân trước thường đưa lên đỡ râu; cổ rồng thường nhỏ
hơn thân.

N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 22 | 22



×