TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC KHƠ MÚ | Hoàng Trần
TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC KHƠ MÚ
MỤC LỤC:
1.
Vài Nét Về Dân Tộc Khơ Mú ............................................................................................... 2
2.
Kinh Tế Truyền Thống ......................................................................................................... 2
3.
2.1.
Trồng trọt.......................................................................................................................... 2
2.2.
Chăn nuôi ......................................................................................................................... 3
2.3.
Khai thác tự nhiên ............................................................................................................ 4
2.4.
Ngành nghề thủ công........................................................................................................ 5
2.5.
Trao đổi, mua bán............................................................................................................. 5
Văn hóa truyền thống ............................................................................................................ 6
3.1.
Làng .................................................................................................................................. 6
3.2.
Nhà ở ................................................................................................................................ 7
3.3.
Gia đình ............................................................................................................................ 8
3.4.
Trang phục........................................................................................................................ 9
3.5.
Trang sức .......................................................................................................................... 9
3.6.
Ẩm thực .......................................................................................................................... 10
3.7.
Phương tiện vận chuyển ................................................................................................. 10
3.8.
Ngôn ngữ ........................................................................................................................ 11
3.9.
Tín ngưỡng tôn giáo ....................................................................................................... 11
3.10.
Lễ hội .......................................................................................................................... 12
3.11.
Tục lệ cưới xin ............................................................................................................ 13
3.12.
Tập quán sinh đẻ nuôi con nhỏ ................................................................................... 16
3.13.
Tập quản tang ma ....................................................................................................... 17
3.14.
Văn nghệ dân gian ...................................................................................................... 18
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 1 | 18
TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC KHƠ MÚ | Hoàng Trần
1.
Vài Nét Về Dân Tộc Khơ Mú
Dân số : 72.929 người (2009)
Ngôn Ngữ: thuộc nhóm ngôn ngữ Môn Khơ me, ngữ hệ Nam Á
Tên gọi khác: Xà, Tày Hạy, Thềnh, Mứn
Xen..
Nhóm địa phương: Xá cẩu, Mứn Xen, Pu
Thênh, Tềnh, Tày Hạy.
Địa bàn cư trú:
Địa bàn cư trú:
Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, người Khơ Mú ở Việt Nam có dân
số 72.929 người, cư trú tại 44 trên tổng số 63 tỉnh, thành phố. Người Khơ Mú cư
trú tập trung tại các tỉnh: Nghệ An (35.670 người, chiếm 48,9% tổng số người
Khơ Mú tại Việt Nam), Điện Biên (16.200 người), Sơn La (12.576 người), Lai
Châu (6.102 người), Yên Bái (1.303 người), Thanh Hóa (781 người)
2. Kinh Tế Truyền Thống
2.1. Trồng trọt
Người Khơ Mú chủ yếu sinh sống bằng nghề trồng trọt trên nương rẫy. Phương thức canh
tác chính là phát nương, đốt nương làm rẫy. Người Thái có câu: “Xá ăn theo lửa, Thái ăn
theo nước” là để chỉ hình thức canh tác này. Với hình thức canh tác này, gậy chọc lỗ có
vai trò quan trọng. Trong truyền thống người Khơ Mú có hai loại gậy chọc lỗ: một loại
làm bằng gỗ thường, một loại làm bằng gỗ rất cứng, dùng được lâu. Loại làm bằng gỗ
thường để dùng tạm thời một lần. Dùng xong vứt, khi cần lại chặt cây gỗ khác, vót nhọn
là thành cây gậy chọc lỗ mới. Loại làm bằng gỗ rất cứng, chỉ mọc trên núi đá, mà tiếng
Thái gọi là “mạy cu”, hoặc bằng gỗ lim, gỗ táu... Gậy được đẽo, gọt, vát đều hình móng
chân hươu, đôi khi còn bịt sắt. Loại gậy chọc lỗ này dùng được lâu dài, từ vụ này sang vụ
khác, thông thường dùng được vài năm. Loại gậy chọc lỗ này chắc, bền, dùng tiện lợi,
năng suất cao. Ngoài gậy chọc lỗ, người Khơ Mú còn dùng rìu, dao, cuốc.
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 2 | 18
TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC KHƠ MÚ | Hoàng Trần
Cây trồng chính là lúa nương, ngô,
khoai, sắn, thuốc lá; các loại đậu đỗ, bầu
bí và các loại cây khác.
Để trồng trọt đạt năng suất cao và hiệu
quả, đồng bào Khơ Mú có nông lịch
riêng phù hợp với khí hậu vùng đồng bào
cư trú và các loại cây trồng khác nhau.
So với hệ thống lịch âm thì lịch của
người Khơ Mú sớm hơn hai tháng. Quy
trình trồng trọt: chặt cây, đốt cây, tra hạt,
làm cỏ, thu hoạch được quy định Thuốc lá sau khi người Khơ mú thu hoạch và phơi
theo lịch rất cụ thể, rõ ràng.
khô (Ảnh sưu tầm)
2.2. Chăn nuôi
Dân tộc Khơ Mú cũng như các dân tộc khác sinh sống ở Tây Bắc và miền Tây Nghệ An
ít chăn nuôi gia súc, gia cầm. Phương thức chăn nuôi chủ yếu là chăn thả, cho ăn hai bữa,
bữa sáng lúc mới thả ra và bữa tối trước khi vào chuồng ngủ, ban ngày tự đi kiếm ăn.
Chăn nuôi lợn, gà, vịt chủ yếu phục vụ cúng bái trong các dịp lễ tết, cúng ma khi có
người ốm đau, hoặc làm thịt đãi khách khi có khách đến chơi nhà.
Chăn nuôi gia
cầm
(Ảnh
minh họa)
Đồng bào Khơ Mú có kinh
nghiệm chọn giống gia súc lớn.
Trâu, bò có chân to và cao, cổ
to và ngắn là giống tốt, dễ nuôi.
Đồng bào chưa có tập quán làm chuồng trại gia súc riêng, mà nhốt ngay gầm sàn nhà
người ở. Đồng bào có kinh nghiệm cho trâu, bò ăn cỏ có muối vào các buổi chiều tối, một
mặt để gia súc có đủ chất, có sức khỏe, mặt khác luôn nhớ về nhà vào buổi tối. Trâu, bò
vào mùa cày kéo và ngựa (sau chuyển thồ hàng thường) được cho ăn thêm ngô xay nấu
chín.
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 3 | 18
TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC KHƠ MÚ | Hoàng Trần
Gia súc nhỏ: Con lợn được nuôi phổ biến trong từng gia đình. Giống lợn tốt là loại lợn
lưng thẳng (không võng), chân to, đuôi mập, lông thưa và ngắn. Đồng bào ưa thích giống
lợn đen tuyền. Con dê được nuôi ít hơn. Chỉ một số gia đình và một số vùng nuôi dê. Con
chó được nuôi trong từng gia đình nhằm mục đích giữ nhà, đuổi cáo đến gần nhà rình bắt
gà. Mỗi khi đi rừng người Khơ Mú thường gọi chó đi cùng.
Gia cầm được nuôi nhiều trong từng hộ. Mỗi hộ nuôi hàng chục con gia cầm lớn nhỏ
khác nhau. Nuôi gia cầm chủ yếu làm vật hiến sinh trong các dịp lễ tết. Trong các nghi lễ
gieo trỉa, lễ cơm mới, tiết gà được vẩy vào lúa mới, vào hạt giống...
2.3. Khai thác tự nhiên
Với nền kinh tế tự túc, tự cấp, sản xuất không bao giờ đáp ứng được mọi nhu cầu về ăn.
Nếu sản xuất nông nghiệp: trồng trọt, chăn nuôi đáp ứng cơ bản nhu cầu lương thực, thì
khai thác tự nhiên: hái lượm, săn bắt chủ yếu là phục vụ cho nhu cầu rau xanh, thịt - thực
phẩm cho đồng bào.
Hái lượm: Đồng bào hái măng rừng, măng có hai loại măng đắng và măng ngọt. Măng
đắng mọc vào tháng 2, tháng 3; còn măng ngọt mọc vào khoảng tháng 5 đến tháng 7 hàng
năm. Măng có thể ăn tươi hoặc có thể làm măng chua hoặc thái mỏng, phơi khô để dành
ăn dần. Rau rừng có nhiều loại khác nhau. Có loại mọc trong hang các dãy núi đá vôi,
thường ít gặp, gọi là sù lạ, hái về đồ lên ăn chấm muối; lạ chin (mọc trong rừng già, nơi
có nhiều cây cao); lạ xương nếch... hái về nấu canh hoặc xào mỡ ăn có vị ngọt. Nhiều
loại rau rừng khác, tiếng Thái gọi là: phác triệu, phác ban, phác ngoa, phác đúa, phác
ma... mùa nào thức ấy cũng được đồng bào hái về làm thực phẩm ăn thường ngày trong
mùa. Các loại nấm rừng, củ rừng, quả rừng được đồng bào quan tâm thu hái về ăn sau
mỗi ngày đi nương về. Rừng còn là nơi cung cấp một số loại thuốc chữa bệnh cho đồng
bào.
Săn bắn: Săn bắn là hoạt động vừa bảo vệ mùa màng, bảo vệ làng bản và cũng là bổ sung
nguồn thực phẩm cho bữa ăn. Có ba hình thức săn bắn chủ yếu là: săn bẫy, săn cá nhân
và săn tập thể. Săn bẫy là hình thức săn phổ biến ở mọi vùng. Đồng bào làm ra nhiều loại
bẫy khác nhau: bẫy thòng lọng, bẫy hầm, bẫy phóng lao, bẫy cũi. Săn cá nhân - săn rình
thường được tiến hành vào ban đêm, có dùng đèn. Cách săn này chỉ săn được những con
thú: hoẵng, nai, lợn rừng, sóc, nhím... Săn tập thể là cách săn dùng chó và tiếng mõ hò
reo làm con thú hoảng sợ từ trong rừng ra, các thợ săn đón đường dùng súng, nỏ bắn hạ
con thú. Ngoài săn thú, đồng bào Khơ Mú còn đánh cá vào mùa mưa, khi các con suối
đầy ắp nước. Khi đó đồng bào dùng chài, lưới để đánh bắt cá. Đồng bào còn khai thác
nguồn sản vật quý khác như củ mài, thân cây báng.
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 4 | 18
TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC KHƠ MÚ | Hoàng Trần
2.4. Ngành nghề thủ công
Nghề thủ công chính của người Khơ
Mú là nghề đan lát. Bên cạnh đó còn
có nghề dệt và nghề mộc. Nghề đan
lát là nghề thủ công truyền thống của
người Khơ Mú. Đồng bào làm ra
nhiều sản phẩm như: gùi để đeo sau
lưng, mbung để gánh, các loại “ếp”
để đeo vai như chiếc giỏ; các loại đồ
đan sử dụng như đồ gỗ gia đình của
các dân tộc khác như: bàn ăn, ghế
ngồi, mâm ăn, hòm đựng quần áo...
Nghề đan lát của người Khơ Mú
(Ảnh sưu tầm)
Gùi của người Khơ Mú có nét giống với chiếc gùi của một số dân tộc nói ngôn ngữ Môn
- Khmer ở Tây Nguyên như Ba Na, Xơ Đăng, Mạ về hình thức, bởi chúng có đáy vuông,
nhưng điểm khác là gùi ở Tây Nguyên có đáy bằng gỗ, còn đáy gùi của người Khơ Mú
được đan bàng tre. Tính phổ biến của đồ đan người Khơ Mú là ở chỗ nhiều đồ gia dụng
có giá trị, quà tặng, đồ sính lễ... đều có mặt của sản phẩm đan lát và một số đồ đan lát của
người Khơ Mú được nhiều dân tộc trong vùng như: Thái, Mông, Dao ưa thích.
Nghề dệt, nghề mộc ở người Khơ Mú không mấy phát triển. Họ tự dệt vải, tuy nhiên kỹ
thuật và sản phẩm dệt của họ chưa đạt chất lượng cao như sản phẩm dệt của người Thái
trong vùng. Nhiều sản phẩm quan trọng như: váy, áo, chăn, đệm, gối... thường phải mua
của người Thái về dùng. Nghề mộc của người Khơ Mú chỉ phục vụ cho nhu cầu của đồng
bào tại chỗ. Những sản phẩm có thể kể là: chõ đồ xôi, chiếc cối giã các loại hạt, củ, cầu
thang gỗ, nhà sàn để ở với kỹ thuật lắp mộng.
2.5. Trao đỏ i, mua bán
Vùng người Khơ Mú cư trú vốn chưa phát triển về kinh tế, cho nên việc mua bán hầu như
vắng bóng trong cuộc sống của họ. Tuy nhiên việc trao đổi hàng theo hình thức vật đổi
vật đã xuất hiện trong đồng bào, đồng bào thường lấy nông sản, đồ đan lát, gia súc... để
đổi với người Thái lấy vải mặc, đổi với người Mông lấy công cụ rèn. Việc đổi vật lấy vật
do hai bên thỏa thuận. Ở Điện Biên, sông Mã, muốn đổi chiếc váy cũ, phải mất số thóc
đổ đầy chiếc váy đó dựng đứng; ở Mai Sơn (Sơn La) lấy con lợn ba gang (đo theo vòng
bụng) đổi lấy khẩu súng kíp, con lợn hai gang đổi được một lưỡi cày; Ở Tuần Giáo một
“ếp” nho đổi được một gối nhồi bông.
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 5 | 18
TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC KHƠ MÚ | Hoàng Trần
Trong vùng người Khơ Mú có tồn tại một số vỏ ốc có tên khoa học là: Cauris Moneta một loại ốc ở bờ biển Tây Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương. Người Khơ Mú dùng loại
vỏ ốc này làm đồ trang sức, làm vật kỵ ma, làm đồ sính lễ của nhà trai đối với nhà trong
các đám cưới. Trong lịch sử, vỏ ốc Cauris Moneta từng được sử dụng như một loại tiền
cổ ở nhiều dân tộc từ Nam Á xuống Nam Trung Quốc đến Bắc Đông Dương. Sách Đại
nam chính biên liệt truyện có ghi đến đời Minh Mệnh, tiền vỏ ốc còn phổ biển ở Luông
Pra Băng. Thời đó, một trăm vỏ ốc có giá trị ngang một tiền, một ngàn vỏ ốc có giá trị
ngang một quan .
3. Văn hóa truyền thống
3.1. Làng
Làng, tiếng Khơ Mú là cung là
đơn vị cư trú của một số gia đình
cùng chung sống trên một phạm
vi đất đai nhất định. Mỗi làng đều
có tên. Nhưng do cuộc sống du
canh, du cư nên việc di chuyển
làng thường xảy ra. Mỗi khi di
chuyển làng đến nơi ở mới lại đặt
tên làng mới dựa vào điều kiện
địa lý tự nhiên. Do cư trú xen kẽ
cùng người Thái, chịu ảnh hưởng
của văn hóa Thái, cho nên tên
làng của người Khơ Mú thường
đặt theo tên Thái. Có làng định canh, định cư, nhưng cũng có làng du canh, du cư.
Mỗi làng thường có vài đến vài chục ngôi nhà cư trú theo địa hình tự nhiên. Xung quanh
làng và từng ngôi nhà không có vườn cây ăn quả, không có vườn rau xanh. Điều này thể
hiện tính tạm bợ của người sinh sống trong bản. Theo nguyên tắc chung, mỗi làng đều có
vùng đất riêng cho từng gia đình sản xuất và đất rừng chung chưa khai phá. Khi sinh sống
trong làng thì mọi thành viên đều có quyền sử dụng đất và rừng cùng nguồn tài nguyên
thuộc phạm vi làng. Nhưng khi di chuyển làng đến chỗ mới thì họ mất quyền sử dụng tài
nguvên làng cũ và thiết lập quyền sử dụng tài nguyên ở làng mới.
Trong một làng Khơ Mú thường có nhiều dòng họ khác nhau cùng sinh sống. Có thể có 3
- 4 dòng họ cùng cư trú trong một làng. Với những làng định canh, định cư có thể có tới
chục dòng họ cùng cư trú trong làng. Trong những làng lớn như vậy thường có một hai
dòng họ lớn đến ở trước, có công khai phá lập làng đầu tiên.
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 6 | 18
TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC KHƠ MÚ | Hoàng Trần
Làng người Khơ Mú là một đơn vị xã hội, có bộ máy quản lý theo chế độ tự quản dân
gian. Bộ máy tự quản dân gian gồm hai nhân vật là: già làng và thầy cúng. Già làng là
người đứng đầu làng, thường là người của dòng họ có đông thành viên và là người có
tuổi, có uy tín nhất trong làng. Già làng điều hành các công việc đời thường của làng: duy
trì sự hòa thuận giữa các thành viên trong làng, giải quyêt các xích mích, tranh chấp đất
đai. Công cụ điều hành là luật tục. Già làng còn có quyền quyết định trong việc dời làng
khi làng xảy ra hoả hoạn, bệnh dịch, mất mùa nhiều năm liền. Thầy cúng là người phụ
trách công việc liên quan đến đời sống tâm linh của dân làng. Ông là người thay mặt dân
làng giao tiếp với thần linh cứu giúp những người lâm bệnh qua cơn hiểm nghèo thông
qua việc cúng chữa bệnh cho người ốm bằng cách bói toán, đuổi ma, trừ tà.
3.2. Nhà ở
Dân tộc Khơ Mú ở nhà sàn là
chính, nhưng cũng có nơi làm
nhà nửa sàn, nửa đất. Vật liệu
làm nhà là gỗ, tre, nứa, song
mây, lá mây và cỏ gianh. Đây là
những nguyên vật liệu sẵn có tại
địa phương nơi đồng bào cư trú.
Về kỹ thuật làm nhà, chủ yếu là
làm nhà cột ngoãm, buộc lạt,
một số rất ít nhà làm theo kỹ
thuật ghép mộng. Nhà thường có
một gian hai chái, hoặc hai gian
hai chái, lợp cỏ gianh hay lá mây rừng, vách đan bằng nứa, mặt sàn lát tre bổ banh. Nhà
hầu như không có cửa sổ, chỉ một cầu thang lên xuống cho cả gia đình và khách. Trong
nhà có hai bếp, một bếp là bếp thiêng chỉ để đồ cơm, không được đun nấu thức ăn, còn
bếp kia nấu nướng ăn uống cho cả gia đình. Có “cửa ma” ở vách đầu hồi. Cửa này chỉ mở
khi chủ nhà qua đời. Ở Tây Bắc đôi khi nhìn từ bên ngoài, ta không phân biệt được ngôi
nhà Thái đen hay ngôi nhà người Khơ Mú, vì đều là nhà sàn, chái nhà lợp uốn vòng tròn
hình mai rùa. Nhưng khi vào trong nhà nhìn vào bếp nấu ăn, nếu trên bếp có đường dây
nối lên mái để làm đường cho ma đi lại, thì đó là nhà người Khơ Mú.
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 7 | 18
TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC KHƠ MÚ | Hoàng Trần
3.3. Gia đình
Gia đình ngưòi Khơ Mú là loại gia đình nhỏ, phụ quyền. Trong gia đình thường có vợ,
chồng cùng các con cái chưa lấy vợ, lấy chồng. Ngoài ra, ta cũng gặp những gia đình nhỏ
phụ quyền có thêm ông bà cùng ở chung và thậm chí ở Nghệ An tồn tại hiện tượng đại
gia đình theo hình thức “tam, tứ đại đồng đường”. Tuy nhiên loại gia đình gồm cặp vợ
chồng và các con chưa lập gia đình chiếm vị trí chủ đạo.
Tính chất phụ quyền trong gia đình người Khơ Mú thể hiện rõ ở quyền quyết định các
việc quan trọng trong gia đình thuộc về ông chủ gia đình. Trong gia đình chỉ con trai mới
được kế thừa tài sản do bố mẹ để lại. Tuy nhiên trong gia đình người Khơ Mú con gái lớn
được quyền tích luỹ một số tài sản riêng khi lấy chồng. Những tài sản riêng đó thường là
quần áo, chăn đệm. Quan hệ ứng xử con gái, con trai trong gia đình Khơ Mú tương đối
bình đẳng, thương yêu, đùm bọc, giúp đỡ nhau trong cuộc sống. ít thấy người trong nhà
chửi bới lẫn nhau hoặc đánh đập trẻ em.
Tiểu gia đình phụ hệ người Khơ Mú là một đơn vị kinh tế độc lập. Các thành viên trong
gia đình cùng lao động chung, hưởng thụ chung thành quả lao động đó. Sự phân công lao
động trong gia đình theo giới tính là rõ ràng. Nam giới khỏe mạnh là người đảm đương
những công việc nặng nhọc như: tìm đất, chọn đất làm nương, chặt cây lớn khi phát
nương, đốt dọn các cây lớn chưa cháy hết, chọc lỗ khi gieo trồng, dựng lều nương, canh
giữ nương khi mùa màng vào vụ thu hoạch. Tài sản của mỗi gia đình thường có: ngôi nhà
ở, nương rẫy, công cụ sản xuất, lúa gạo đã thu hoạch về, các loại gia súc, gia cầm; đồ gia
dụng, chăn đệm ngủ, quần áo...
Quan hệ dòng họ: Dân tộc Khơ Mú có nhiều dòng họ như: họ Tmoong, họ Soong, họ
Rvai, họ Lo, họ Seo, họ Chon, họ Cút, họ Chích, họ Ven, họ Hung, họ Oôc... Do cư trú
xen kẽ lâu đời với người Thái và chịu ảnh hưởng sâu sắc của văn hóa Thái cho nên ở
vùng Tây Bắc các tên họ của người Khơ Mú có chiều hướng chuyển sang lấy tên họ của
người Thái. Họ Rvai đổi thành họ Quàng; họ Om ở Điện Biên đổi thành họ Vi; họ
Tmoong ở Tuần Giáo đối thành họ Lù, họ Lường...
Họ của người Khơ Mú có thể lấy tên con thú, con chim hoặc tên thực vật như họ Rvai con hổ, họ Tmoong - con chồn (cầy); họ Chưn đre - chim bìm bịp, họ Ric - chim cú, họ
Pit - chim sẻ, họ Thrang - đại bàng; họ mang tên thực vật như họ Tvạ - dương xỉ. Thông
thường các dòng họ đều có truyền thuyết về dòng họ của mình và từ đó họ kiêng ăn thịt
một số con vật: họ Tmoong kiêng ăn thịt cầy hương, họ Rvai kiêng săn bắn và ăn thịt
hổ...
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 8 | 18
TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC KHƠ MÚ | Hoàng Trần
Quan hệ giữa các dòng họ của người Khơ Mú cũng tương tự như người Thái. Có ba mối
quan hệ liên quan chặt chẽ với nhau. Đó là tai hem - họ nội, dông êm, mạ êm - họ ngoại,
mạ cưn, dông quynh - họ nhà chồng các chị em gái.
3.4. Trang phục
Do không có truyền thống trồng
bông dệt vải người Khơ Mú dùng
đồ đan lát, lâm thổ sản đổi với
người Lào, người Thái lấy trang
phục, rồi thêm bớt một số chi tiết
nào đó cho vừa ý người dùng. Do
vậy, một số nơi phụ nữ Khơ Mú
mặc giống như người Lào, một số
nơi khác lại mặc trang phục giống
như người Thái đen cùng nơi cư
trú. Bộ trang phục nữ thường có
khăn đội đầu, áo ngắn, yếm, dây lưng, váy và xà cạp. Phụ nữ Khơ Mủ sinh sống ở Nghệ
An có hai loại khăn đội đầu: khăn thường dùng hàng ngày và khăn diện trong các dịp lễ
tiết, hội hè. Khăn đội đầu hàng ngày là chiếc khăn màu chàm do người Thái dệt; còn loại
khăn thứ hai gồm hai nửa nối với nhau: một nửa là vải thô nhuộm chàm, còn nữa kia là
vải dệt hoa văn. Chị em phụ nữ Khơ Mú ở Tây Bắc đội khăn piêu mà người Thái đen hay
đội. Áo ngắn của phụ nữ Khơ Mú là áo màu chàm, xẻ ngực, nẹp cổ liền nẹp ngực. Ở
Nghệ An, hai đầu của nẹp ngực được nối thêm những dải vải khác màu; còn ở Tây Bắc
cũng có nẹp cổ liền ngực. Ở hai thân trước bên trong nẹp ngực còn đáp thêm một băng
vải màu trắng, cũng to bằng nẹp ngực. Trên băng vải đó có đính nhiều mảnh thiếc hình
tròn - đồng tiền bạc. Dưới gấu lại khâu thêm một băng vải hóa. Do đó khi mặc phải chui
đầu. Tay áo đấu thăng vào thân áo, không khoét nách. Yếm của phụ nữ Khơ Mú được
thêu hoa văn ở đầu yếm, khâu hai dải vải đế khi mặc buộc sau cổ. Dây lưng thường bằng
lụa nhuộm màu vàng hay xanh. Váy của
phụ nữ Khơ Mú ở Nghệ An là váy Lào;
còn phụ nữ ở Tây Bắc mặc váy cùng kiểu
với váy của người Thái đen; xà cạp làm
bằng vải màu chàm.
3.5. Trang sức
Trang sức của người Khơ mú khá đơn
giản, chỉ gồm khuyên tai và vòng cổ, tất
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 9 | 18
TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC KHƠ MÚ | Hoàng Trần
cả đều làm từ bạc.
3.6. Ẩ m thực
Nguồn lương thực chính của người
Khơ Mú là lúa nương, giống nếp
nương. Ngoài ra đồng bào còn có các
loại lương thực khác như: ngô, khoai,
sắn. Ở những nơi có vườn, đồng bào
trồng một số loại cây thực phẩm như:
đậu đỗ, bầu bí, rau cải, dưa, ớt, cà.
Nguồn thực phẩm khai thác từ tự
nhiên như: củ mài, thân cây báng
dùng để nấu rượu.
Cách chế biến thức ăn của người Khơ
Mú có nét riêng. Đồng bào hay ăn
cơm nếp, đồ bằng chõ. Cơm tẻ được Mâm cổ của người Khơ mú (Ảnh sưu tầm)
nấu bằng nồi, nhưng ít khi ăn. Gặp khi
đói kém đồng bào thường ăn cơm độn ngô, độn khoai, sắn. Ngoài nấu cơm, người Khơ
Mú còn làm cơm lam như nhiều dân tộc khác. Đồng bào Khơ Mú có nhiều cách chế biến
thức ăn: đồ rau rừng, nấu canh, luộc, xào, tiết canh gà, lợn, dê, các món ăn tái, nướng,
nộm, nặm brịa (nặm pịa). Món ăn đặc trưng của người Khơ Mú là món unr. Món unr
được chế biến bằng cách lấy các loại rau cho vào nồi nấu nhừ rồi giã nhuyễn, sau đó đun
lại với các gia vị như tỏi, ớt. Món này càng được ưa thích nếu có thêm ả chặn - thịt trâu
thái miếng mỏng, để khoảng hai ngày cho
lên men rồi dùng xiên tre treo lên gác bếp.
3.7. Phương tiện vận chuyển
Cũng như những đồng bào dân tộc ít
người khác, người Khơ mú sử dụng những
chiếc gùi làm vật mang vác trong cả sinh
hoạt lẫn sản xuất canh tác, nó không chỉ
tiện lợi mà còn tạo nên nét đặc sắc riêng
cho dân tộc.
Chiếc gùi trong đời sống của người Khơ
mú (Ảnh sưu tầm)
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 10 | 18
TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC KHƠ MÚ | Hoàng Trần
3.8. Ngôn ngữ
Tiếng nói: Tiếng nói của người Khơ Mú thuộc ngữ hệ Nam Á, nhóm Môn - Khmer.
Tiếng nói của họ được sử dụng trong cộng đồng dân tộc Khơ Mú. Trong quá khứ, người
Khơ Mú ra khỏi cộng đồng, tham gia vào giao tiếp xã hội rộng hơn, họ thường dùng tiếng
Thái. Có thế nói tất cả mọi người dân Khơ Mú đều thông thạo hai thứ tiếng là tiếng Khơ
Mú và tiếng Thái. Một số người còn biết cả tiếng Lào.
Chữ viết: Cho đến nay đã có một số bài báo khoa học, có cả sách báo viết về dân tộc Khơ
Mú, nhưng chưa thấy bài báo hay sách nói về dân tộc Khơ Mú có chữ viết riêng của dân
tộc mình.
3.9. Tín ngưỡng tôn giáo
Trong lĩnh vực tín ngưỡng tôn giáo, người Khơ Mú cũng như nhiều dân tộc khác ở nước
ta quan niệm “vạn vật hữu linh”. Mọi vật dù là sinh vật hay vật vô tri vô giác đều có linh
hồn (thần linh) tồn tại ngay trong vật đó và mọi hoạt động của con người đều chịu sự chi
phối của thần linh - lực lượng siêu nhiên. Lực lượng siêu nhiên này tiếng Khơ Mú gọi là
hrôi - ma. Theo quan niệm người Khơ Mú có bốn loại hrôi: hrôi hang - ma trời, hrôi ptê ma đất, hrôi prư dồng - ma thuồng luồng, rvai - hổ. Trong bốn hrôi trên đây, hrôi lvang là
loại ma to nhất, đáng sợ nhất. Hrôi hang có một số ma dưới quyền để sai khiến khi có
việc cần. Trong hàng ma dưới quyền Hrôi lvang, có Chưn đrai - ma sấm sét là đáng sợ
nhất, khi nó nổi giận gây sấm, sét đùng đùng. Bên cạnh bốn hrôi nêu trên, trong từng gia
đình còn có hrôi tà dạ - ma tổ tiên. Các loại ma đều có thể mang lại cho con người điều
lành hay điều dữ nếu việc cúng bái không chu đáo.
Các nghi lễ tín ngưỡng tôn giáo: Quan niệm về vạn vật hữu linh của người Khơ Mú là cơ
sở cho các nghi lễ tín ngưỡng tôn giáo của họ. Đồng bào tố chức các nghi lễ cúng ma
bản, cúng ma nhà, các nghi lễ liên quan đến nghề trồng trọt.
Cúng hrôi cung - cúng ma bản làng: sống xen kẽ với dân tộc Thái, người Khơ Mú tham
gia vào lễ cúng xên bản, xên mường của người Thái. Tuy nhiên, hrôi cung vẫn được đồng
bào chú ý thực hiện theo từng bản. Lễ hrôi được tiến hành vào tháng hai âm lịch hàng
năm, sau lễ xên mường của người Thái. Nội dung của lễ cúng là cúng ma trời, đất, nước,
tinh hổ và ma làng. Lễ cúng nhằm cầu mong các lực lượng siêu nhiên phù hộ cho cuộc
sống của dân làng. Ma làng là hồn của người có công lập làng. Tuy người lập làng đã
mất, nhưng hồn của người đó vẫn trú ngụ ở một hòn đá to dưới gốc cây lớn trong làng.
Trước ngày lễ cúng, dân làng dựng một chiếc lều nhỏ cho ma làng trú ngụ trong thời gian
hành lễ. Vào ngày lễ, tất cả các thành viên trong làng đều tham dự. Lễ vật cúng là lợn, gà,
rượu. Thầy cúng thực hiện nghi lễ cầu mong các đấng siêu nhiên phù hộ cho dân làng.
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 11 | 18
TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC KHƠ MÚ | Hoàng Trần
Sau buổi lễ, dân làng tập trung ăn, uống, nhảy múa. Sau lễ cúng, đồng bào kiêng kỵ ba
ngày không cho người lạ vào làng, dân làng nghỉ việc, không đi làm, không ra khỏi bản,
không giã gạo. Ý nghĩa của việc kiêng kỵ là tỏ lòng tôn kính các bậc siêu nhiên phù hộ
cho dân làng.
Hrôi tà dạ - thờ cúng tổ tiên: Người Khơ Mú có hai khái niệm về tổ tiên của mình: hrôi
gang - ma bố mẹ đã khuất và hrôi tà dạ - ma tổ tiên chung chung, không coi đó là ông bà,
cụ, kỵ cụ thể của mình, mà chỉ hiểu rằng đó là những người đầu tiên sinh ra những người
mang cùng tổ tiên với người chủ gia đình. Ma bố mẹ đã khuất được thờ trên gác bếp; còn
ma tổ tiên là một trong ba ông đồ rau ở bếp thiêng gian trong. Mỗi dòng họ thường có
nghi thức thờ tà dạ riêng, không cho người ngoài biết. Nghi thức thờ tà dạ riêng chủ yếu
là chủ nhà cùng gia đình lặp lại động tác của tổ tiên với mục đích tự cải trang thể hiện
mình là hổ hay là chim, rau dớn.
3.10.
Lễ hội
Các nghi lễ liên quan đến nghề trồng trọt: Đây là những nghi lễ cụ thể nhằm vào việc cầu
mùa màng bội thu, cầu cho cuộc sống được no đủ. Có nhiều nghi lễ được đồng bào Khơ
Mú tổ chức như: hreẹc
hrệ - lễ tra hạt, hmạn
hngọ - cúng hồn lúa, mẹ
lúa, ru hừn tạ prư dồng lễ cầu mưa, kăm mệ - lễ
cơm mới. Ngoài ra còn
có nghi lễ liên quan đến
chữa bệnh khi bị ốm đau,
lễ giải hạn khi gặp rủi ro.
Lễ cầu mưa của người
Khơ Mú (Ảnh sưu tầm)
Một trong nghi lễ đặc sắc mang nét đặc trưng cho dân tộc Khơ Mú là lễ tra hạt - hrẹec
hrệ. Thực hiện lễ này, người Khơ Mú sau khi đốt nương để ba ngày cho đất nguội rồi mới
chọc lỗ tra hạt. Trước khi tra hạt, chủ nhà cắm một cái the le cao vút ở giữa nương nhằm
đánh dấu đất đã có chủ. Cũng ngày đó, chủ nhà làm mặt rẹec - nương tượng trưng, bằng
cách cắm 4 que nứa làm hình cầu vồng tạo thành một ô vuông khoảng hai mét vuông.
Trong hai mét vuông đó, chủ nhà dựng đàn cúng. Đàn cúng gồm có các thứ sau: dựng
một cái cọc, đỉnh cọc đặt một hòn đá. Sau đó người ta buộc một đoạn ống nứa được vót
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 12 | 18
TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC KHƠ MÚ | Hoàng Trần
nhọn tượng trưng cho lưỡi giáo trừ tà ma; ở giữa ống nứa còn giắt gài 3 que nứa vót nhọn
gọi là the le bà goá. Phía dưới the le buộc đoạn gỗ đẽo hình sinh thực khí đàn ông. Dưới
chân cột đặt một cái máng nước bằng nứa, vài cái ống nứa nhỏ tượng trưng cho liễu hút
nước. Bốn góc ô vuông được trồng bốn khóm sả, bốn gốc khoai sọ. Dựng xong đàn cúng,
chủ nhà mổ một con gà trống, luộc chín rồi bày ra mâm. Lễ vật cúng còn có rượu, trầu
cau, hai súc vải mộc trắng, một bát nước lã. Bày mâm xong chủ nhà thăp hương, đứng
trước mâm lễ khấn trời đất cho mưa thuận, gió hòa, ma mường phù hộ khỏi chim, thú phá
hại, lúa xanh tốt, hạt mẩy, bông dài... Khấn xong, chủ nhà chọc lỗ gieo hạt trong phạm vi
hrẹec hrệ. Sau đó chủ nhà cầm ống một nước đi quanh hrẹec hrệ, vừa đi vừa niệm thần
chú. Nghi lễ tra hạt kết thúc, mọi người ra về. Tối hôm đó, gia chủ tổ chức bữa cơm,
uống rượu cần với sự tham gia của anh em, bà con họ hàng. Trong buổi vui này, chị em
phụ nữ Khơ Mú múa điệu múa rất đặc sắc, mang tính phồn thực độc đáo.
Khi gieo hạt và khi thu hoạch, tinh linh lúa nhập vào mẹ lúa (mạ Imgọ) - bà chủ nhà. Mẹ
lúa phải im như thóc, mặc trang phục cổ truyền, sống tách biệt mọi người, tuân thủ một
số kiêng kỵ nhất định. Mẹ lúa là người gieo hạt và thu hoạch đầu tiên. Để giúp tinh linh
của lúa nảy nở, người Khơ Mú quan niệm có hai yểu tố: Thứ nhất, khoai sọ là bạn tình
của lúa, khoai sọ là yểu tố đực, lúa là yểu tố cái. Nhiều cư dân ở Đông Dương cũng có
quan niệm này. Khi thu hoạch lúa, mẹ lúa đến chỗ trồng cây khoai sọ ở cạnh mặt rẹec nương tượng trưng, phải giả vờ vấp vào nhóm cây khoai sọ, với ý mong tinh linh khoai
sọ tác động vào lúa để sang năm lúa nẩy nở được nhiều. Khi rước tinh linh lúa về bịch,
người ta phải rước cả tinh linh khoai sọ, bầu bí... theo. Trong lễ hoa màu, người Khơ Mú
bôi bầu, bí lên người nhau; ném khoai sọ đã luộc chín vào người nhau, vê xôi vào tóc với
ngụ ý là cho bầu, bí, khoai sọ kết thân với nhau. Tiếp đó họ gọi tinh linh lúa về và đặt
cụm lúa thiêng đó lên trên bầu, bí, khoai, cầu xin tinh linh các loại hoa màu này tăng
thêm tinh lực cho lúa. Thứ hai, thờ sinh thực khí với nghĩa là dạy cho cây lúa biết cách
sinh sôi nảy nở.
3.11.
Tục lệ cưới xin
Dân tộc Khơ Mú thực hiện hôn nhân ngoại hôn dòng tộc, tức là nghiêm cấm người cùng
một dòng họ (sinh hoặc tạk) kết hôn với nhau. Những người vi phạm nguyên tắc ngoại
hôn bị coi phạm tội loạn luân (sơ lang), bị phạt theo luật tục rất nặng. Người Khơ Mú ở
Tây Bắc, cũng giống như nhiều dân tộc ở Trường Sơn - Tây Nguyên cho rằng, loạn luân
gây ra sự ô uế cho đất, nước, gây động rừng, động đến thần linh, làm cho các thần linh
tức giận, gây ra lũ lụt, gió bão, hạn hán... Do đó những người vi phạm loạn luân phải chịu
phạt nặng nề, phải làm lễ hiến sinh một con dê để cúng thần linh và nộp thêm một nén
bạc nữa. Ngoài ra hai người phạm tội loạn luân không được mặc quần áo, còn phải ăn
trên một máng lợn trước sự chứng kiến của họ hàng và dân làng. Khi hai người đang ăn,
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 13 | 18
TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC KHƠ MÚ | Hoàng Trần
thầy cúng tay cầm búa giơ lên trên đầu họ giả vờ chém và miệng khấn gọi ma trời, ma
đất, ma nước; thuồng luồng, hổ, báo... nếu có trừng trị họ thì hãy bắt chúng đi ngay ngày
hôm nay. Ngày mai thì thôi đừng bắt chúng đi nữa. Sau sự trừng phạt này, hai người
phạm tội được sống với nhau như vợ chồng, nhưng phải rời bản đi sinh sống ở nơi khác.
Trong quan hệ yêu đương, trai gái Khơ Mú khi lớn lên được tự do chọn bạn đời. Họ
thường gặp gỡ nhau trong các dịp lễ tiết, hội hè, trong các cuộc cưới xin hoặc trong lao
động, nhất là trong thời vụ làm nương rầy. Khi trai gái đã có tình ý với nhau, chàng trai
chủ động nói chuyện với cha mẹ mình để chuẩn bị các thủ tục cần thiết cho một đám
cưới.
Người Khơ Mú thực hiện hôn nhân theo nguyên tắc dây chuyền và thuận chiều.
Trong thủ tục cưới xin của người Khơ Mú, ông cậu có vai trò rất quan trọng. Ông cậu
vừa có nhiệm vụ, vừa có quyền lợi liên quan đến gia đình của cháu, đặc biệt là cháu gái,
tức là người cùng tổ tiên với ông cậu. Khi dựng vợ gả chồng cho con trai, con gái, bố mẹ
phải hỏi ý kiến ông cậu, phải được sự chấp thuận của ông cậu. Khi người chồng còn cư
trú bên nhà vợ, sinh cháu đầu lòng, ông cậu đặt tên và thay mặt bà ngoại tặng cho cháu
vòng tay và chiếc địu; quyền chăm sóc các cháu thuộc về ông cậu. Khi vợ chồng cháu ở
riêng, ông cậu phải dựng bếp, làm khau cút ở hai đầu nhà, phải đốt bếp lửa, cho các cháu
hạt giống và giống gia súc. Khi gia đình cháu gái có xung đột, ông cậu có quyền can
thiệp, trách mắng cháu rể. Khi ông cậu mất, cháu rể là người đứng ra tổ chức tang lễ và
được hưởng đùi trâu và một số hiện vật. Một số nơi cháu gái còn có quyền thừa kế tài sản
của ông cậu.
Tục lệ đám cưới của người Khơ Mú có hai nghi lễ chính: lễ ăn hỏi và lễ cưới. Trước khi
tiến tới hôn nhân, người Khơ Mú có tục “do lạ con lưm” - một tục lệ tương tự như tục
chọc sàn của người Thái trước đây. Nếu chàng trai ưng ý một cô gái nào đó, thì tối đến,
chàng trai đem theo đàn nhị tới gầm sàn nhà cô gái - nơi cô gái ngủ để đánh đàn mời cô
gái ra ngoài tâm sự. Khi nghe tiếng đàn, cô gái nhận biết có chàng trai rủ mình ra ngoài
hiên tâm sự, cô ta mở cửa và cầm ghế ra ngoài hiên tâm sự, trò chuyện cùng chàng trai
cho đến tận đêm khuya. Ngày nay tục “do lạ con lưn” vẫn tồn tại nhưng cha mẹ quản lý
con gái chặt chẽ hơn. Nếu chàng trai đến nhà thổi sáo mà cha mẹ cô gái không ưng thì
cấm con gái ra ngoài hiên nói chuyện. Con gái buộc phải nghe theo lời bố mẹ. Chàng trai
chờ lâu không thấy cô gái ra, tự biết mà về.
Dù trai gái yêu nhau từ trước hay bố mẹ sắp đặt, đều trải qua các nghi lễ sau:
Lễ ăn hỏi - rọ manh căm brạ (ở Thuận Châu, tỉnh Sơn La) hay dum nhông dun mo (ở Kỳ
Sơn, tỉnh Nghệ An) là nghi lễ đầu tiên của hôn nhân. Thành phần đoàn người nhà trai
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 14 | 18
TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC KHƠ MÚ | Hoàng Trần
sang nhà gái ăn hỏi thông thường có: ông mối (ở Nghệ An) hay ông chú (ở Sơn La) và bố
(hoặc mẹ) chàng trai cùng một số anh em họ hàng nhà trai... Ở Thuận Châu (Sơn La)
trong đoàn đi sang nhà gái ăn hỏi có hai nam và hai nữ thanh niên giúp mang lễ vật ăn
hỏi. Lễ vật ăn hỏi gồm có: trầu cau, 4 lít rượu, 2 kilôgam gạo, một đôi gà. Khi đoàn nhà
trai đến được nhà gái tiếp đón tử tể. Tại nhà gái, ông mối (hoặc ông chú) ngỏ lời thay mặt
nhà trai truyền đạt ý kiến của nhà trai muốn cưới con gái họ về làm dâu, cha mẹ cô gái
hỏi ý kiến con gái xem cô gái ưng thuận thì cha mẹ nhận lời. Nhà gái làm một mâm cơm
bằng những lễ vật mà nhà trai đưa sang làm lễ đính ước giữa hai gia đình. Trong bữa cơm
thân mật này, hai bên gia đình cùng bàn bạc lễ vật thách cưới.
Lễ cưới: Sau lễ ăn hỏi
khoảng một tháng, nhà trai
tìm ngày tốt tiến hành làm lễ
cưới - pưn đệ klệ căm brạ.
Lễ vật cưới - khlương do pân
đệ klệ cân brạ, nhà trai phải
nộp đủ cho nhà gái theo thỏa
thuận từ ngày ăn hỏi gồm:
Lợn 1 con từ 50 kilôgam trở
lên, gạo 30 kilôgam, rượu 60
lít, gà 4 con, bạc trắng 2,5
đồng, chăn, đệm 2 bộ, vòng
cổ 1 cái, vòng tay 1 đôi, hoa
Lễ cưới của người Khơ mú (Ảnh sưu tầm)
tai 1 đôi, trâm cài 1 cái, khăn
quấn tóc 1 đôi, thắt lưng 1 chiếc, váy 1 cái, áo 1 chiếc.
Đến ngày cưới, nhà trai đem lễ vật đến nhà gái, nhà gái cử người ra nhận, đếm từng thứ
cho đủ. Họ phải làm như vậy đề phòng khi ly dị phải bồi thường còn có căn cứ. Khi bàn
giao lễ vật còn có sự chứng kiến của trưởng bản và hai họ. Sau đó nhà trai có trách nhiệm
làm thịt các con vật vừa bàn giao cho nhà gái, chế biến các món ăn theo phong tục để bày
cúng tổ tiên nhà gái. Lễ cúng tổ tiên được tiến hành tại gian thờ tổ tiên. Họ bày tất cả các
thứ đồ cúng trên một tấm phên, rồi tất cả thành viên nhà gái cùng con rể ngồi xung
quanh. Chủ nhà khấn gọi linh hồn tổ tiên về dự lễ cưới và thông báo cho ma tổ tiên biết
từ nay trong gia đình có thêm thành viên mới là rể của gia đình. Khấn xong, gia đình mời
tất cả họ hàng ăn cơm tiệc cưới. Tiệc cưới kéo dài cả ngày.
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 15 | 18
TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC KHƠ MÚ | Hoàng Trần
Cưới xong, chàng rể phải ở lại nhà vợ sinh sống và làm bổn phận người rể (rặt khươi làm rể)... Trước đây ở rể từ 3 đến 12 năm. Nay tục ở rể vẫn còn, nhưng chỉ ở 1 - 2 tháng
mang tính tượng trưng là có ở rể. Trước kia việc ở rể thường kèm theo việc đổi họ theo
họ vợ là rất phổ biển. Ngày nay tục lệ này không bắt buộc.
3.12.
Tập quán sinh đẻ nuôi con nhỏ
Trong thời gian mang thai, người
phụ nữ Khơ Mú vẫn làm việc bình
thường, tuy nhiên họ bớt dần các
việc nặng nhọc. Người Khơ Mú
mang thai phải kiêng đồ ngọt và
uống rượu nấu, nhưng rượu cần
vẫn được uống. Cả vợ, chồng đều
phải kiêng đánh, giết thịt các con
vật, thậm chí thấy người nào giết
các con vật thì phải tránh xa. Khi
vợ chửa, chồng còn phải kiêng
không xẻ cỗ. Người Khơ Mú không kiêng dự đám tang, nhưng có tục lạ là khi dự đám
tang rồi thì lấy mỗi thứ một ít: gồ áo quan, vải liệm, cuống chiếu, dây buộc khiêng áo
quan... để mang về tích trữ đến khi sinh con thì lấy những thứ đó ra nấu nước cho con
tắm trong ba ngày đầu. Họ quan niệm rằng, tắm bằng nước này trẻ sẽ không bị héo hon,
còi cọc.
Sản phụ đẻ trong gian hoong a con - gian dành riêng cho phụ nữ sinh nở. Bình thường
gian hoong a con dùng để chứa những thứ lặt vặt của gia đình. Sản phụ đẻ trong tư thế
ngồi. Giúp sản phụ đẻ thường là mẹ đẻ hoặc mẹ chồng, có nơi do chồng đỡ. Nhau của trẻ
sơ sinh được bỏ vào ống tre, lấy giẻ nút lại và 2 - 3 ngày sau, người ta đem treo lên cây
cao ở gần làng vào lúc sáng sớm. Sản phụ sau khi đẻ phải ăn kiêng nhiều thứ như: không
ăn thịt trâu trang vì sợ đau bụng, không ăn thịt chó vì sợ tanh hôi, đau bụng dễ gây ra hậu
sản, kiêng ăn cả thịt khỉ, thịt hoẵng. Thức ăn hàng ngày chỉ là rau ban luộc hoặc nấu canh
với đọt hoàng sung. Muốn ăn củ sản phụ cũng phải đem rang cho nổ hết. Gia đình giàu có
thì sản phụ được bồi dưỡng thịt gà, thịt lợn, thịt trâu nạc. Nước uống của sản phụ trong
vòng một tháng sau khi đẻ là thứ nước nấu từ cây tâng ngát. Nước có màu đỏ như máu.
Theo quan niệm của đồng bào, nước này có giá trị bổ máu, giúp chóng bình phục sức
khỏe, tránh được các bệnh hậu sản.
Lễ đặt tên - pân cơ con thường được tổ chức sau khi sinh ít ngày. Tùy từng nơi mà tổ
chức đặt tên cho con sớm hay muộn. Ở Sơn La, đặt tên cho con gái sau 2 ngày sinh, cho
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 16 | 18
TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC KHƠ MÚ | Hoàng Trần
con trai sau 3 ngày; trong khi đó ở Nghệ An phải 11 ngày sau mới đặt tên. Lễ vật làm lễ
pân cơ con gồm: 1 con gà, 1 vò rượu cần, 2 chai rượu nấu, 1 bộ quần áo cho trẻ, 6 sợi chỉ
để buộc tay (4 sợi buộc tay, chân con 1 sợi buộc tay bố, 1 sợi buộc tay mẹ). Lễ cúng được
tiến hành ở giữa nhà. Người mẹ trao đứa trẻ sơ sinh cho ông nội. Ông ẵm cháu và miệng
đọc tên mà ông đã định sẵn, tiếp đó ông bói chân gà. Các cụ trong dòng họ buộc chì vào
cổ tay, co chân cho trẻ và cổ tay bố, mẹ đứa trẻ. Lễ đặt tên cho trẻ đối với dân tộc Khơ
Mú có ý nghĩa quan trọng, vì chỉ sau lễ đặt tên cho trẻ, sản phụ và trẻ sơ sinh mới được
rời phòng hoong a con trở về chỗ ngủ trước đó và có thể bế trẻ đi thăm hàng xóm. Ngoài
một tháng tuổi, trẻ bắt đầu được mẹ địu lên nương, đi lấy nước...
3.13.
Tập quản tang ma
Từ quan niệm vạn vật hữu linh, người Khơ Mú cho rằng khi người ta chết là chết phần
xác, còn phần hồn sẽ lìa khỏi xác đi “sinh sống” ở thế giới của ma - khu vực nghĩa địa
của làng. Sự đảo lộn này được thể hiện ngay trong việc bày đồ đạc tại gian thờ cúng.
Thường ngày, các đồ đạc trong gian thờ được sắp xếp ncgn nắp, gọn gàng. Nhưng khi
nhà có người chết thì chúng được bày biện lung tung, biểu hiện sự rối loạn trong gia đình.
Khi gia đình có người chết, chủ nhà bắn súng để báo cho dân làng biết. Khi nghe tiếng
súng, dân bản đến nhà phát ra tiếng súng để thăm hỏi, giúp nhau việc tang ma. Theo tục
lệ do dân bản quy định, mỗi người dân phải góp cho tang chủ rượu, thóc gạo, vải, tiền
mặt. Đây là tập quán tốt, góp phần giải quyết khó khăn kinh tế cho tang chủ. Mỗi gia đình
trong bản phải cử một người đến giúp cho tang chủ những việc: lấy củi, lấy nước, giã
gạo, giết thịt gia súc, gia cầm, làm áo quan, đào huyệt... Khi khâm liệm người chết, thân
quyến lấy một đồng bạc trắng đặt trên trán, đập chết một con gà nhỏ kẹp vào nách thi thể.
Đồng bào quan niệm rằng, con gà nhỏ sẽ dẫn đường cho linh hồn người chết về thế giới
bên kia. Trước đây người chết được liệm băng vải trắng, quấn chăn đệm xung quanh và
bó chiếu bên ngoài, rồi đem chôn. Khi khiêng đi chôn, người ta dùng cáng. Con rể khiêng
phía chân đi trước, con trai khiêng phía đâu đi sau. Đám ma của người Khơ Mú không
kèn, không trống, chỉ có tiếng của người thân trong tang gia khóc than. Người
Khơ Mú làm nhà mồ ngay trên mộ. Nhà mồ là bốn cột gỗ hoặc tre cao chừng 1 mét, hai
mái lợp bằng tranh. Trong nhà mồ treo cái thủ lợn (hoặc trâu, nếu giết trâu) và đặt các đồ
chia cho người chết như: dao, gậy chọc lỗ, ống đựng nước, hòm đựng quần áo.
Sau khi đưa tang về, tang chủ giết hai con gà, lấy máu bôi cho những người đi đưa đám
với ý nghĩa trừ tà, trừ ma. Sau chôn được một ngày, sáng sớm tang chủ ra nương gọi hồn
người chết về ngự tại bàn thờ tổ tiên; rồi ra mộ gọi hồn về nhà ngụ ở bàn thờ. Thông
thường người con trai cả đi gọi hồn cha (hoặc mẹ). Khi đi gọi hồn, thường đội khăn tang
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 17 | 18
TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC KHƠ MÚ | Hoàng Trần
trắng, tay cầm dao. Kể từ khi gọi hồn người chết về, người Khơ Mú không bao giờ đến
mộ nữa. Ngày tết chỉ cúng ở bàn thờ.
3.14.
Văn nghệ dân gian
Dân tộc Khơ Mú có kho truyện kể truyền miệng khá phong phú. Trong dân tộc Khơ Mú
rất phổ biến truyện Quả bầu - rơ mưng, truyện Chương Han. Truyện Quả bầu nói về
nguồn gốc loài người, không chỉ nguồn gốc người Khơ Mú, mà các dân tộc: Thái, Lào,
Lự đều từ quả bầu “sinh” ra. Truyện Chương Han mô tả chiến công hào hùng của thủ lĩnh
người Khơ Mú mưu trí, gan dạ chống giặc ngoại xâm. Trong văn học dân gian người Khơ
Mú còn nhiều truyện kể về truyền thuyết các dòng họ. Truyện dòng họ Thràng lấy tên
chim đại bàng làm tên họ mình; truyện họ Tgoóc - chim Tgoóc; truyện họ Ôm lít - chim
chìa vôi; truyện họ Ric - chim én. Dân tộc Khơ Mú có một số nhạc cụ dân tộc độc đáo
như: Thăm đao đao chế tác từ một ống nứa; Mbring rơbang - đàn trống được chế tác từ
một gióng tre; Đàn môi được chế
tác từ một mảnh tre già cạo mỏng;
Pi tót - sáo dọc; Pi tót boi - sáo
thổi bằng mũi; Ho rơ - sáo nhiều
ống; Bring tơ nếch - đàn dây.
Đàn Trống (Ảnh minh họa)
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 18 | 18