Tải bản đầy đủ (.pdf) (23 trang)

Tổng quan dân tộc Khmer (PDF,Word)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.25 MB, 23 trang )

TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC KHMER | Hoàng Trần

TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC KHMER

MỤC LỤC:
1.

Vài Nét Về Dân Tộc Khmer .................................................................................................. 2

2.

Kinh Tế Truyền Thống ......................................................................................................... 2

3.

2.1.

Trồng trọt.......................................................................................................................... 2

2.2.

Chăn nuôi ......................................................................................................................... 4

2.3.

Khai thác tự nhiên ............................................................................................................ 4

2.4.

Ngành nghề thủ công........................................................................................................ 5


2.5.

Trao đổi, mua bán............................................................................................................. 6

Văn hóa truyền thống ............................................................................................................ 6
3.1.

Làng .................................................................................................................................. 6

3.2.

Nhà ở ................................................................................................................................ 8

3.3.

Gia đình ............................................................................................................................ 8

3.4.

Trang phục........................................................................................................................ 9

3.5.

Trang sức .......................................................................................................................... 9

3.6.

Ẩm thực ............................................................................................................................ 9

3.7.


Phương tiện vận chuyển ................................................................................................. 10

3.8.

Ngôn ngữ ........................................................................................................................ 11

3.9.

Tín ngưỡng tôn giáo ....................................................................................................... 11

3.10.

Lễ hội .......................................................................................................................... 15

3.11.

Tục lệ cưới xin ............................................................................................................ 17

3.12.

Tập quán tang ma ....................................................................................................... 19

3.13.

Văn nghệ dân gian ...................................................................................................... 20

N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 1 | 23



TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC KHMER | Hoàng Trần

1.

Vài Nét Về Dân Tộc Khmer
Dân số : 1.260.640 người (2009)
Ngôn Ngữ: thuộc nhóm ngôn ngữ
Môn - Khơ Me.
Tên gọi khác: Việt gốc Miên, Khmer
Krôm, Khơ-me Crộm, Khơ-me hạ,
Khơ-me dưới
Nhóm địa phương:
Địa bàn cư trú: Sóc Trăng, Trà Vinh,
Kiên Giang, An Giang, Bạc Liêu, Cà
Mau, Tp.Hồ Chí Minh, Vĩnh Long,
Cần Thơ, Hậu Giang, Bình Phước,
Bình Dương

Địa bàn cư trú:
Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, người Khmer ở Việt Nam có dân số
1.260.640 người, có mặt ở tất cả 63 tỉnh, thành phố. Người Khmer cư trú tập trung tại các
tỉnh: Sóc Trăng (397.014 người, chiếm 30,7 % dân số toàn tỉnh và 31,5 % tổng số người
Khmer tại Việt Nam), Trà Vinh (317.203 người, chiếm 31,6 % dân số toàn tỉnh và 25,2
% tổng số người Khmer tại Việt Nam), Kiên Giang (210.899 người, chiếm 12,5 % dân số
toàn tỉnh và 16,7 % tổng số người Khmer tại Việt Nam), An Giang (90.271 người), Bạc
Liêu (70.667 người), Cà Mau (29.845 người), thành phố Hồ Chí Minh (24.268 người),
Vĩnh Long (21.820 người), Cần Thơ (21.414 người), Hậu Giang (21.169 người), Bình
Phước (15.578 người), Bình Dương (15.435 người)

2. Kinh Tế Truyền Thống

2.1. Trồng trọt
Đồng bào Khmer trồng lúa nước ở đồng bằng sông Mêkông không đắp đê như trồng lúa
nước ở đồng bằng sông Hồng, mà để nước sông Mêkông tự do tràn bờ vào mùa mưa lũ.
Nước sông tràn qua các cánh đồng mang lại cho người nông dân vùng này hai nguồn lợi:
thứ nhất, nước lũ mang theo phù sa màu mỡ cho cây lúa, bồi đắp cho châu thổ mỗi năm
cao thêm khoảng 5cm và lấn thêm ra biển; thứ hai, hàng năm mùa nước lũ về cũng là
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 2 | 23


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC KHMER | Hoàng Trần

mùa nông dân thu bắt thủy hải sản,
ngồi trên nhà sàn vớt cá và nhiều thủy
hải sản khác. Nghề nông vùng này
cũng có nét khác lạ là họ sạ lúa và
gieo lúa nổi ở một số vùng trũng ngập
nước quanh năm.
Cư dân thành thạo nghề trồng trọt
phải thường quan tâm việc chọn đất,
chọn giống và việc cấp nước cho cây
lúa cùng một số biện pháp kỹ thuật
kèm theo. Đồng bào Khmer

Người Khmer trong lễ hội đồng (Ảnh sưu tầm)

Nam Bộ phân biệt nhiều loại ruộng đất gieo - trồng và các giống lúa. Loại ruộng gò - xrê
tuôl phù hợp với vụ lúa sớm - xrâu sêral và các giống lúa như: néang vok, néang khỉa loại
ruộng thấp - xrê tum nỉếp được cấu tạo từ phù sa cận sinh, chứa nhiều đất pha cát, có khả
năng lưu trữ nước mưa lâu năm, cho nên rất thích hợp với giống lúa mùa - xrâu ro'đâu;
loại ruộng rộc - xrê latíô nằm giữa hai giồng, tích tụ được nhiều chất hữu cơ, có nước

quanh năm thích họp với nhiều vụ lúa và hoa màu trong mùa khô; loại ruộng lúa nổi - xrê
lon tuk phổ biến ở vùng Tứ giác Long Xuyên, thích hợp kỹ thuật sạ lúa, với các giống:
nécing tây, néang dum... loại ruộng vùng bưng trung - xrê chomrơn giàu chất đạm, nên
nông dân Khmer cấy lúa hai vụ/năm. Ở các vùng đất bưng, bàu được cải tạo thành ruộng,
thường phát cỏ, đắp bờ, cho trâu giẫm đạp cỏ xuống bùn, cỏ biến thành phân rất tốt. Loại
ruộng này thích hợp với giống lúa có thời gian sinh trưởng dài ngày, cho năng suất cao.
Thủy lợi là giải pháp quan trọng liên quan đến sự sinh trưởng của cấy lúa, đến năng suất,
chất lượng của hạt lúa. Người Khmer đã có nhiều sáng kiến tạo ra nhiều biện pháp làm
thủy lợi phù hợp với vị trí ruộng, đất. Có hai giải pháp về thủy lợi được áp dụng tương
đối phố biến ở châu thổ sông Mêkông là: đào giếng ở vùng ruộng đất gò và đất cao gần
giồng; đắp những đập nhỏ để giữ nước xổ phèn với những vùng ruộng gần sông, rạch bị
nhiễm mặn, phèn.
Công cụ sản xuất nông nghiệp của người Khmer có nét độc đáo riêng. Ở những vùng đất
phù sa ven sông, ven biển hay ven rừng tràm, trước đây người Khmer thường phát cỏ
bằng loại phang, sau đó dùng loại bừa cào to để kéo cỏ gom lại thành vồng, rồi cấy với
cây nọc - “gậy chọc lỗ” khá to để xới đất. Ở những vùng đất dùng cày thì chiếc cày của
người Khmer chắc chắn và dài, lưỡi cày xới đất sâu, thích hợp với đất Nam Bộ. Chiếc
bừa của người Khmer có răng dài. Bên cạnh chiếc bừa người Khmer còn dùng trục lăn
đất - thlổc.
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 3 | 23


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC KHMER | Hoàng Trần

Ngoài cây lương thực, nông dân Khmer còn trồng nhiều cây hoa màu trên các đất chỗm đất rẫy. Có hai loại đất rẫy: rẫy chuyên dùng và rẫy von là ruộng ven làng. Trên đất rẫy,
đồng bào trồng các loại cây đậu đỗ, ngô, khoai, rau, mía, hành, ớt, ngò... Cũng có địa
phương chuyên trồng đặc sản như: dưa hấu ở cầu Ngang, Long Toàn, Trà Cú (nổi tiếng
ngọt nhờ bón phân cá biển), hành đỏ, nhãn, trầu vàng, xoài.
2.2. Chăn nuôi
Chăn nuôi ở người Khmer tuy vẫn phụ

thuộc vào nông nghiệp, nhưng đã có sự
phát triển đáng kể. Đồng bào nuôi
nhiều gia súc, gia cầm trong sân, trong
vườn. Ở vùng Bảy Núi, Tri Tôn việc
nuôi trâu, bò đàn khá phổ biến. Nơi đây
còn có nhiều trò chơi, tập tục khuyến
khích việc nuôi trâu, bò. Chợ phiên
trâu, bò ở núi Sam được đồng bào
Khmer tham gia đông đảo, đầy hứng
thú. Có nơi người Khmer nuôi hàng
ngàn con vịt tàu để lấy trứng và bán thịt. Từ sau những năm 1965, khi máy kéo, máy cày
du nhập vào nông thôn, việc sử dụng trâu, bò để kéo cày giảm dần, do đó việc chăn nuôi
đàn trâu, bò giảm đi đáng kể.
2.3. Khai thác tự nhiên
Do sinh sống ở vùng châu thổ sông Mêkông đầy sông nước, cho nên những sản vật tự
nhiên ở đây chủ yếu là sản vật từ sông, biển và từ rừng.
Khai thác sản vật biển: Những gia đình đồng bào Khmer sinh sống ở ven biển, ven sông,
trên đảo Phú Quốc lấy nghề đánh bắt thủy hải sản làm kế sinh nhai. Thủy hải sản ở đây
có nhiều loại: cá tôm, cua, ghẹ. mực... Cá biển có nhiều loại như: cá đối, cá lù đù, cá
trích, cá nhái, cá hường, cá liệt, cá xạo, cá nhòng, cá nhám, cá đuối, cá mòi, cá đục, cá
thu, cá ảo, cá chẻm, cá chốt, cá lưỡi trâu, cá cơm, cá rựa, cá phèn, cá chim, cá ba thú, cá
sòng, cá út, cá rún... Cua, ghẹ là những sản vật có nhiều ở biển. Cua sống trong hang, trên
bãi biển bùn nhưng thường bò xuống biển tìm thức ăn. Ghẹ chỉ sống ở biển. Mực sống ở
biển, có ba loại: mực ống, mực nang và mực tuột. Mực ống được đánh bắt nhiều nhất,
thân dài, không có nang. Ngoài ra thủy sản còn có sò, ốc, hào, hến, biên mai, cửu khiếu,
bào ngư, điệp, sò lông, sò huyết, nghêu, dòm. Loài sống dưới cát ven biển có cà xiểu,
móng tay, cua đá. Thực vật có nhiều loại rau câu: rau câu đá, rau câu sói, rau câu nhâm.

N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 4 | 23



TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC KHMER | Hoàng Trần

Khai thác sản vật rừng và sông: Sản vật trên rừng có cả động vật và thực vật. Động vật có
heo rừng, kỳ đà, càng cuốc, càng tôm, trăn, rùa, rắn, khỉ, các loài chim; sản vật ở sông có
nhiều loài cá như cá lóc, cá sặc rằn, cá trê, cá rô, lươn, rùa, rắn. Rừng U Minh có đặc sản
là mật ong hoa tràm mùi rất đặc trưng. Đặc sản thực vật có: đọt choại, hẹ nước, bồ bồn,
bông súng, trái giác, dưa leo rừng, rau đắng đất, kim thất, gạc nai.
Kỹ thuật đánh bắt cá đồng, cá sông của người Khmer ở trên sông Tiền, sông Hậu phần
nhiều dùng lưới và giăng câu, còn ở các sông nhỏ, kênh rạch, dùng vó, lờ, xiên. Có gia
đình Khmer chung lưng hùn vốn vào việc đóng đáy hay mua thuyền, mua lưới đánh cá
ven biển, nhưng những gia đình làm nghề này còn rất ít. Dân làm nghề đánh cá biển được
gọi là dân “hạ bạc”. Chỉ với những phương tiện đánh bắt cá thô sơ như ghe câu, ghe lưới
chạy bằng máy hoặc chèo tay chủ yếu làm việc theo lối: “tối ra biển, sáng về chợ”.
2.4. Ngành nghề thủ công
Trước đây ở người Khmer có một số ngành nghề thủ công khá nổi tiếng như: mây tre
đan, nuôi tằm dệt lụa, làm đồ gốm, nghề mộc.
Nghề đan mây, tre rất phổ biến ở nông thôn. Vào mùa nông nhàn, người Khmer đan đồ
đựng, đồ chứa, các loại giỏ, xách, quả, làn đựng hoa trái, trầu thuốc và đồ nghề đánh cá
như: lờ, đó, đăng, nơm, xa neng (ngư cụ dùng để xúc cá, tép của dân tộc Khmer).
Trước đây ở một số làng người
Khmer có nghề nuôi tằm dệt
lụa, dệt chăn nổi tiếng. Ở vùng
Tri Tôn, Tịnh Biên (tỉnh An
Giang), vì đồng bào mặc chăn
(sampot - một hình thức váy
quần của đàn ông), nên nghề dệt
rất phát triển. Ngoài các loại
sampốt, đồng bào còn dệt các
loại khăn tam, khăn đội. Đi đôi

với nghề dệt là nghề nhuộm
mặc nưa. Đồng bào lấy trái
Nghề đan mây tre của người Khmer (Ảnh minh họa)
mặc
nưa già đem giã nhỏ, quậy với nước lạnh để nhuộm đen hàng tơ lụa. Nhuộm kiểu này
chất lượng tơ lụa rất tốt vì càng ra nắng lại càng lên màu.

N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 5 | 23


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC KHMER | Hoàng Trần

Đồng bào Khmer có truyền thống làm đồ gốm từ lâu đời. Ở những di tích khảo cổ khối
lượng lớn hiện vật gốm, với nhiều loại hình đa dạng, nhiều mô típ hoa văn phong phú đã
được phát hiện. Hai trung tâm gốm lớn của đồng bào Khmer là Tri Tôn và Sóc Xoài (tỉnh
Kiên Giang). Gốm Sóc Xoài được sản xuất bằng đôi tay của phụ nữ, chưa có bàn xoay,
hoa văn trang trí là các hình kỷ hà và hình răng cưa. Sản phẩm chủ yếu là các cà om
(nồi), cà ràng - một loại bếp là có thể nấu nướng trên sàn nhà, hoặc trên ghe thuyền, các
loại trống cúng thần (xko arăc). Nghề thủ công mang tính đặc thù của người Khmer là
nghề làm đường thốt nốt. Ngoài ra ở nông thôn còn có một số nghề như mộc, nề, ăn ong
(lấy mật và sáp). Ở một số thị trấn còn có thợ bạc làm các vật dụng như ô trầu, hộp thuốc,
đồ nữ trang bằng bạc.
2.5. Trao đỏ i, mua bán
Việc trao đổi mua bán đã xuất hiện nhỏ lẻ ở nông thôn, còn ở thị trấn, thị xã đã hình
thành phường hội những người Khmer chuyên kiếm sống bằng nghề dịch vụ thương mại.
Một đặc điểm của chợ ở Nam Bộ là họp chợ ngay trên sông, kẻ mua người bán đều ngồi
trên thuyền hàng của mình, trao đổi, mua bán như trên đất liền.

3. Văn hóa truyền thống
3.1. Làng

Đơn vị cư trú nhỏ nhất của
người Khmer là Phum. Phum
của người Khmer có đặc
điểm là thường được dựng
trên các giồng đất. Càng về
sau này, do áp lực của dân số,
cũng do cả sự phát triển xã
hội, đã hình thành các làng
dọc theo đường quốc lộ, các
dòng sông hay kênh rạch.
Vào Nam Bộ, dọc đường xe
chạy ta thấy nhà cửa san sát,
cảm giác lúc nào cũng như đi
trên đường phố.

Một gốc làng dân tộc Khmer (Ảnh sưu tầm)

Phum, srổc Khmer thường được hiểu tưong tự như làng, xóm của người Kinh. Tuy nhiên
nó lại có những nét khác.

N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 6 | 23


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC KHMER | Hoàng Trần

Phum trong tiếng Khmer có nghĩa là đất thổ cư hay vườn tổng hợp của gia đình trên đất
đó. Phum có thể có ranh giới tự nhiên. Mức độ tập trung các nhà trên phum cũng không
cố định. Có phum nhỏ chỉ có một nóc nhà, có phum là nơi cộng cư của vài ba nóc nhà
cùng huyết tộc - thông thường là gia đình người cha, các con của ông ta và các gia đình
nhỏ của con gái ông ta (nếu có); song cũng có phum lớn, có cả trăm gia đình thuộc nhiều

dòng họ khác nhau. Phum tuy có quv mô khác nhau từ nhỏ đến lớn, nhưng không mấy
khi bằng quy mô một ấp và thành một đơn vị hành chính. Trong trường hợp cá biệt, một
xóm cư dân trở nên đông đúc, hình thành ở giữa đồng, xa các điểm dân cư khác, thì xóm
dân cư ấy lập thành một ấp. Trong một ấp (gồm nhiều phum) thường có cả người Kinh và
người Hoa cùng sống xen kẽ.
Srổc là đơn vị xã hội bao gồm nhiều phum. Theo nghĩa dân gian, srốc có nghĩa là một xứ,
là địa phương, là quê hương. Song với nghĩa là một đơn vị hành chính, thì srốc tương ứng
với huyện. Người Kinh ở đồng bàng châu thổ sông Mêkông gọi tên phum, srốc theo cách
phát âm của mình gọi là “phum”, “sóc”, để chỉ nơi cư trú của người Khmer.
Theo một số tư liệu hiện có, bộ máy quản lý cổ truyền của phum sóc thể hiện ở mê phum,
mê sóc - những người già cả có kinh nghiệm được dân chúng bầu lên để trông coi phum
sóc. Trong thực tế hiện nay các từ mê phum, mê sóc là các từ cũ, được chế độ cũ chụp lên
các chức vị ấp trưởng, xã trưởng. Còn các mê phum, mê sóc đích thực đã rút vào ban
quản trị chùa - kánă kamác waỉ với các chức nhôm wal, acha wal và các mê ween, là
những người hiện nay vẫn còn ảnh hưởng rõ rệt trong phum, sóc Khmer. Mỗi sóc hay
phum lớn đều có ít nhất một chùa. Trên thực tế chùa đã trở thành trung tâm của sóc. Như
vậy, sóc là đơn vị khá hoàn chỉnh của xã hội cổ truyền Khmer. Đó là nền tảng văn hóa xã hội mà mỗi người Khmer đều sinh ra, lớn lên, hoạt động và để lại những ảnh hưởng
nhất định.
Một vấn đề quan trọng là trong xã hội người Khmer, từ cuối thế kỉ XX đã có hiện tượng
tích tụ ruộng đất vào tay một số những gia đình giàu, có kinh nghiệm làm ruộng nước.
Những gia đình này không phải làm ruộng nước theo nhu cầu tự túc, tự cấp, mà họ tập
trung ruộng để kinh doanh trên nghề làm ruộng. Tích tụ ruộng đất là một hiện tượng tích
cực thúc đẩy sự phát triển xã hội theo hướng chuyên môn hóa nghề nghiệp, đồng thời tạo
ra hai sức ép: một sức ép đối với người chủ ruộng mới là phải tìm cách cải tiến cơ chế
quản lý và phát triển kỹ thuật, ứng dụng kỹ thuật sản xuất mới vào sản xuất, công nghiệp
hóa nông nghiệp, nhằm đạt được chất lượng và hiệu quả sản xuất ngày càng cao; một sức
ép khác đối với nông dân mất ruộng là phải tìm việc mới, dẫn đến phát triển ngành nghề
mới, thúc đẩy sự phát triển xã hội.

N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 7 | 23



TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC KHMER | Hoàng Trần

3.2. Nhà ở
Người Khmer trước đây chủ yếu ở
nhà sàn, vì đồng bào sinh sống ở
vùng sông nước, nhà sàn tránh
được ẩm thấp. Nhà sàn còn có tiện
lợi nữa là mùa nước lũ về, không
phải chạy lũ, đồng bào ngồi trên
nhà sàn có thể vớt lấy cá. Ngày
nay nhà sàn còn lưu giữ lại rất ít.
Dọc theo bờ sông Hậu và dọc biên
giới Campuchia, thỉnh thoảng gặp
ngôi nhà sàn, hoặc trong các chùa
Phật giáo Khmer, qua kiến trúc xa
la - nơi hội họp cho đông đảo sư sãi và các tín đồ, qua kiên trúc các cốt - nơi ở của sư sãi,
hay qua cách xây cất của các chòi “tu thiếp”,
Sau này dân số tăng nhanh, rừng cây cũng giảm sút mạnh, cây làm nhà ngày càng hiếm,
đồng bào Khmer đã dựng nhà đất để ở. Nhà đất có hai loại: nhà đất mái lá nhỏ và nhà đất
mái lá lớn. Nhà đất mái lá nhỏ là nhà chỉ có hai mái, mái trước ngắn, mái sau dài. Nhà đất
mái lá lớn là nhà đất gồm hai mái chính và hai mái phụ. Nhà đất mái lá lớn là kiểu nhà
thông dụng của nhiều gia đình trung, phú nông Khmer. Bài trí bên trong nhà đơn giản:
gian giữa phía trước là nơi tiếp khách, hai bên là chỗ ngủ của đàn ông; nửa phía sau chia
làm hai buồng nhỏ dành cho phụ nữ. Đặc biệt bên cạnh bàn tiếp khách, thường có các tủ
kính bày biện những chiếc gối thêu vừa để trang trí, vừa để tiện dùng khi có khách.
3.3. Gia đình
Gia đinh nhỏ phụ quyền là loại gia đình phổ biến ở người Khmer. Đứng đầu gia đình nhỏ
là người chồng hay người cha. Ông ta là người thay mặt gia đình trong công việc đối

ngoại; còn trong nội bộ gia đình, mọi việc ông ta đều bàn bạc với vợ, con. Người vợ
trong gia đình luôn chia sẻ với người chồng trong mọi việc gia đình. Gia đình người
Khmer trong quá khứ khá đông con, thường là từ 5-6 con. Quan hệ giữa cha mẹ và con
cái thường tỏ ra cởi mở, nhẹ nhàng. Việc ứng xử giữa các thành viên trong gia đình
không phân biệt trai hay gái. Trong nuôi dạy con cái, người Khmer thường chú ý dạy bảo
con gái nhiều hơn, còn con trai thường phó mặc cho nhà chùa rèn luyện thêm theo quan
điểm Phật giáo. Tài sản của cha mẹ để lại được chia đều cho các con, không phân biệt
con trai hay con gái; con trưởng hay con thứ.

N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 8 | 23


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC KHMER | Hoàng Trần

3.4. Trang phục
Trang phục cổ truyền của
người Khmer hiện ít thấy sử
dụng trong đời thường. Tuy
nhiên trong các dịp lễ hội,
đàn ông Khmer thường mặc
bộ đồ bà ba đen hoặc ở trần,
mặc quần cộc trong lao động
hay sinh hoạt thường ngày.
Phụ nữ Khmer “có tuổi”
cũng sử dụng bộ bà ba đen
trong sinh hoạt hàng ngày,
búi tóc gọn hay cắt tóc ngắn,
đôi lúc quấn khăn rằn kẻ ô
vuông. Trong các dịp lễ, phụ
nữ lớn tuổi thường mặc áo dài màu đen, kín tà (chỉ xẻ một quãng ngắn ở dưới hông) gọi

là áo “tầm vông” hay áo “cổ bà lai”, quần rộng ống, màu đen, quanh cổ quấn một khăn
trắng, vắt qua vai thành hai múi.
3.5. Trang sức

Trang sức của dân tộc Khmer
khá cầu kì với những khuyên tai,
vòng cổ, vòng tay… được chạm
trỗ tinh xảo và đặc sắc và làm từ
vàng hoặc bạc. Người Khmer
thường mang trang sức vào
những ngày lễ hội hoặc tết.

3.6. Ẩ m thực
Người Khmer ăn cơm gạo tẻ là chính. Vào các dịp lễ, người Khmer làm bánh tét, bánh ú,
bánh chưng, bánh chuối, bánh in. Thức ăn trong bữa cơm thường ngày là rau đậu, bầu bí
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 9 | 23


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC KHMER | Hoàng Trần

và các thứ tôm, cá đánh bắt được ở các kênh rạch, sông ngòi. Đồng bào thường chế biến
thức ăn bằng cách nấu, luộc, xào, kho.
Một số điểm đáng chú ý trong ẩm
thực người Khmer là: bún nước lèo,
nhiều thủy hải sản, nhiều loại mắm,
mắm bò hóc iprahổc). Bún nước
lèo - bún gạo tẻ và nước lèo bằng
cá lóc tán nhuyễn là món ăn được
đồng bào ưa thích, một món ăn
được dùng rất phổ biến trong ngày

mồng một tết ở chùa. Sinh sống ở
vùng sông nước cho nên đồng bào
Khmer có nhiều món ăn được chế
biến từ thủy hải sản: cá các loại,
Món bánh tét cốm dẹt (Ảnh sưu tầm)
mực, tôm, cua, rắn. Người Khmer
làm nhiều loại mắm tép - cá bé để nguyên con ướp làm mắm. Món mắm đặc trưng cho
người Khmer Nam Bộ là mắm bò hóc. Mắm bò hóc có mùi thơm, có thể ăn sống, cho vào
canh hoặc làm nước lèo ăn với bún. Gia vị và nước cốt dừa được sử dụng trong nhiều
món ăn, cho nên món ăn có vị ngọt lợ.
3.7. Phương tiện vận chuyể n
Môi trường tự nhiên ở châu thổ
sông Mêkông đã buộc người
Khmer phải sử dụng cả phương tiên
trên bộ và trên sông nước, kênh
rạch. Trên bộ, truyền thống của
đồng bào là sử dụng xe bò, xe trâu
và cộ trâu. Loại xe bò ở vùng Bảy
Núi có cán dài cong vút và được
chạm trổ như là một sản phẩm mỹ
nghệ. Trên sông ngòi và kênh rạch,
Đi lại bằng thuyền ở những vùng song nước
người Khmer sử dụng các phương (Ảnh sưu tầm)
tiện trên thủy như: xuồng ba lá, ghe
tam bản, thuyền tác rán, đuôi tôm. Nét đặc biệt của ghe thuyền người Khmer là chiếc ghe
ngo - loại ghe chỉ dùng trong các cuộc đua hội nước. Đua xong, ghe ngo được cất giữ
trong khuôn viên nhà chùa. Ghe ngo được làm bằng gỗ sao, dài 30m, có từ 20 đến 40 tay
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 10 | 23



TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC KHMER | Hoàng Trần

chèo. Mũi ghe thường trang trí nhiều mô típ có hình động vật như ó biển, voi, sư tử.
Ngoại trừ tỉnh Trà Vinh, các tỉnh khác như: Hậu Giang, An Giang, Kiên Giang, Cà Mau,
Bạc Liêu, Sóc Trăng đều có tục đua ghe ngo vào dịp lễ Ok ombóc. Hàng năm vào ngày
15/10 đồng bào thường tổ chức đua ghe ngo ở thị xã Sóc Trăng (tỉnh Sóc Trăng).
3.8. Ngôn ngữ
Tiếng nói: Tiếng nói của dân tộc Khmer thuộc ngữ hệ Nam Á, nhóm Môn - Khmer. Ở
nước ta có 21 dân tộc nói thứ tiếng thuộc nhóm ngôn ngữ này. Tuy nhiên cũng cần nói
thêm rằng, tiếng nói của 21 dân tộc trong nước ta đều gần tiếng Khmer.
Chữ viết: Chữ Khmer cùng nguồn gốc với chữ viết của người Khmer ở Cămpuchia. Đó là
chữ viết ghi âm tiết, có nguồn gốc từ chữ Brami (Brahmi) Ân Độ, xuất hiện vào thế kỉ
thứ 8-7 trước công nguyên. Chữ Khmer mượn ký hiệu của chữ Brami, nhưng sử dụng
theo một cách riêng, phù hợp với các đặc điểm hệ thống ngữ âm Khmer. Có hai loại ký
hiệu ghi phụ âm, cho phép biểu thị sự khác nhau về âm vực của nguyên âm. Chữ Khmer
có 33 ký hiệu ghi phụ âm, 12 ký hiệu ghi âm tiết và 16 ký hiệu ghi nguyên âm. Ký hiệu
ghi nguyên âm và phụ âm cuối được viết xung quanh (trên, dưới, trước, sau) ký hiệu ghi
âm tiết và phụ âm đầu.
Chữ viết của người Khmer
Nam Bộ có hai loại: chữ
cổ và chữ hiện nay. Chữ
cổ là chữ Paly, được sử
dụng trong kinh Phật. Khi
đi tu, người Khmer phải
học chữ cổ này (Pa ly) để
đọc được kinh Phật. Ở tỉnh
Sóc Trăng có mở trường
Pa Ly dạy chữ Pa ly cho
người đi tu. Chữ Khmer
Bảng chữ cái của người Khmer (Ảnh sưu tầm)

hiện nay được sử dụng
rộng rãi trong thông tin đại chúng, trong sách giáo khoa, trong văn học nghệ thuật. Có thể
nói rằng, cùng với văn hóa đạo Phật, chữ Khmer đã phát triển khá toàn diện và sử dụng
rộng rãi trong xã hội Khmer thời hiện đại.
3.9. Tín ngưỡng tôn giáo
Người Khmer làm ăn ở châu thổ sông Mêkông đã lâu đời. Hơn 90 % trong số họ là nông
dân trồng lúa nước, về tín ngưỡng tôn giáo, đồng bào Khmer theo đạo Phật, giáo phái tiểu
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 11 | 23


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC KHMER | Hoàng Trần

thừa (coi như tôn giáo toàn dân) và còn tin vào các lực lượng siêu nhiên thần bí khác mà
họ chưa có khả năng nhận thức và chế ngự. Như vậy phải chăng Phật mới chỉ giúp họ đạo
lý làm người, còn Phật chưa giúp họ khi gặp may rủi trong lao động sản xuất thường
ngày, nhất là trong nghề trồng lúa nước và cả nghề đánh bắt thủy hải sản trên biển. Vì
thế, họ sùng bái, thần linh hóa các thế lực siêu nhiên không phải vì lòng thành tín như đối
với Phật mà vì nhu cầu nhân sinh, chế ngự sự tác oai, tác quái của siêu nhiên, đồng thời
cầu mong thần linh ban phước lành cho người dân làm ăn được thuận hòa.
Tín ngưỡng dân gian: Chúng tôi dùng thuật ngữ “tín ngưỡng dân gian” để phân biệt với
thuật ngữ “tôn giáo”. Tín ngưỡng dân gian khác với tôn giáo là không có giáo lý, không
có giáo hội, không có đền chùa, không có thánh tượng. Tín ngưỡng dân gian có nguồn
gốc từ xa xưa lưu truyền cho đến ngày nay. Tín ngưỡng dân gian được thể hiện trong các
nghi lễ: nghi lễ cúng thần nông, nghi lê cúng Neak Ta, cúng Arak, cúng Rea Hu, lễ cúng
tổ nghề. Một số lễ cúng được người Khmer tổ chức hàng năm như sau:
Cúng Neak Ta - vị thần bảo hộ cho
con người, mùa màng. Lễ cúng
được thực hiện vào khoảng tháng 4
dương lịch. Hàng năm người dân
trong các sóc phạm vi thuộc Neak

Ta tổ chức cúng Neak Ta, với ý
nghĩa cầu an cho mọi người, cầu
mưa thuận gió hòa, cho vụ mùa bội
thu. Neak Ta còn là thần bảo hộ cho
tình yêu trai gái. Nhiều chùa người
Khmer ở châu thổ sông Mêkông có
dựng miếu thờ Neak Ta ngay trong
khuôn viên của chùa.

Thần Neak Ta (Ảnh sưu tầm)

Cúng Arak là vị thần bảo hộ cho
dòng họ,
một loại thần không có hình dáng, tính thiện, ác cũng khó phân biệt. Có thể một người
nào đó trong dòng họ chết từ lâu nhưng linh thiêng nên được tôn là thần và được các gia
đình trong dòng họ thờ cúng nhờ bảo hộ. Người ta cúng Arak mỗi khi gia đình có chuyện
chẳng lành, có người ốm đau, làm ăn xui xẻo hay gặp tai nạn bất ngờ... Nếu cúng Arak
mà có mời Kruteay (thầy bói) và Rup Arak (người nhập Arak), thì đó là gia đình thân chủ
muốn triệu linh hồn người chết mà mình nhờ bảo hộ để trực tiếp nghe nghe lời phán xét.
Cúng Rea Hu: Trong phum sóc không có tục thờ Rea Hu. Rea Hu chỉ được trang trí phổ
biến ở các chùa, tháp với khuôn mặt nhe nanh, trợn mắt, nuốt mặt trăng trông rất dữ tợn.
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 12 | 23


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC KHMER | Hoàng Trần

Khi có nhật thực, nguyệt thực, ở chùa và trong sóc, người ta gọi nhau đánh trống và
phèng la để cứu mặt trời, mặt trăng. Xem nhật thực, nguyệt thực, người Khmer đoán định
kết quả mùa màng. Nếu mặt trời và mặt trăng bị che khuất hoàn toàn, tức là Rea Hu nuốt
hết vào bụng và sau đó lại sáng ra dần từ phía bắt đầu che khuất, tức là Rea hu ói ra, thì

năm đó được mùa. Nuốt một nửa rồi nhả ra là năm đó mùa màng trung bình. Nếu nuốt rồi
thải ra phía sau tức là sáng dần ra phía sau, đó là hiện tượng không tốt, báo hiệu mất mùa.
Đương thời khi có nhật thực, nguyệt thực phụ nữ mang thai vẫn phải nhịn ăn; ngày xưa
còn phải để một bình vôi và một con dao bổ cau vào nếp váy, có lẽ để tự vệ.
Lễ cúng tổ: Hàng năm vào cuối tháng 3 âm lịch, các ngành nghề thủ công của người
Khmer đều tố chức lễ cúng ông tổ nghề - người đứng đầu khai sinh ra nghề nghiệp hay
người thầy trực tiếp dạy truyền nghề cho họ. Người Khmer rất tôn sùng thầy dạy cho họ
có một nghề trong tay để vào nghề kiếm sống. Họ tri ân người thầy của mình bằng lễ
cúng tổ. Tùy theo mỗi ông tổ nghề, người ta lập đàn cúng với những vật cúng và nghi lễ
tương ứng, được lưu truyền từ xưa để lại.
Tôn giáo: Nhìn vào lịch sử tôn giáo của người Khmer, chúng ta biết được, trước khi tiếp
nhận đạo Phật Tiêu thừa, người Khmer đã có một thời theo đạo Bàlamôn và Phật giáo
Đại thừa.
Đạo Bàlamôn: Đạo Bàlamôn tuy không tồn tại trong đời sống người Khmer, nhưng giá trị
của các thần vẫn còn in dấu đậm nét khắp vùng người Khmer cư trú, ẩn tàng trong tín
ngưỡng dân gian. Các vị thần của đạo Bàlamôn vẫn còn được bảo lưu, sùng kính trong xã
hội người Khmer ở châu thổ sông Mêkông gồm ba vị chính là: Prum - vị thần sáng tạo; Si
va - vị thần tàn phá thế gian; Vismt - vị thần cứu giúp thế gian. Ngày nay, đạo Bàlamôn
đối với người Khmer chỉ tồn tại như một tàn dư, vì không còn đền thờ, không còn nghi lễ
nào.
Phật giáo Đại thừa: Theo tư liệu khảo cổ học, tại vùng Basak: Nam Trà Vinh và Sóc
Trăng đã tìm thấy 10 tượng Phật thế kỉ VI - VIII, trong đó có 4 tượng Lôkêsvara (Bồ tát
Đại thừa). Điều này nói lên rằng Phật giáo Đại thừa đã từng tồn tại trong dân Khmer Nam
Bộ.
Phật giáo Tiểu thừa. Phật giáo Tiểu thừa là giáo phái chỉ tôn thờ Phật Thích Ca Mâu Ni.
Phật giáo Tiểu thừa thắng thế trước đạo Bàlamôn vào thế kỉ XII, khi xã hội Khmer có
nhiều biến động, chiến tranh loạn lạc liên miên... Phật giáo với đạo pháp nhân văn, hòa
bình phù hợp với lòng dân cho nên nó đã đẩy lùi đạo Bàlamôn. Sự thắng thế của đạo Phật
thể hiện qua cái chết của Kabil Ma Harum - vị thần bốn mặt, biểu tượng của đạo
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 13 | 23



TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC KHMER | Hoàng Trần

Bàlamôn già nua đã tự cắt đầu, vì thua cuộc chàng thiếu niên Thômabal, biểu tượng cho
Phật giáo trẻ trung.
Phật giáo là một trong ba
tôn giáo thế giới. Hiện
tượng Phật giáo toàn tòng
của người Khmer trong lịch
sử là bước phát triển từ tôn
giáo đa thần sang tôn giáo
độc thần. Bước phát triển
này cho đến nay được coi
như là một tất yếu lịch sử,
đã diễn ra ở nhiều nước phát
triển trên thế giới.
Trong sách dạy làm người

Phật giáo – Tôn giáo chính của người Khmer

của đồng bào Khmer có câu:
Rneak min ba buos tuk, chia tôs knong samay - nghĩa là người không được tu trong chùa
là người có nhiều tội lỗi trong đời sống. Chỉ bằng một câu viết trong sách, rồi sau đó
truyền miệng đã có sức mạnh định hướng cho cuộc sống làm người của con trai Khmer.
Người con trai được coi là đủ tư cách, phẩm chất trong xã hội đều phải trải qua một thời
gian đi tu học ở chùa. Dù có địa vị cao trong xã hội như ông vua, mà không qua một thời
gian tu học ở chùa, thì cũng bị
dân chúng xem thường.
Ngôi chùa: Ngôi chùa là nơi

cho con trai người Khmer đi
tu học. Người Khmer từ khi
sinh ra đến khi trưởng thành,
rồi về già, mọi nỗi buồn, niềm
vui đều diễn ra ở chùa...
Thông thường, mỗi sóc có
một ngôi chùa, toàn vùng
châu thổ sông Mêkông có
khoảng sáu trăm ngôi chùa.
Mỗi ngôi chùa có khoảng ba
chục sư sãi. Các vị sư sãi với

Chùa của người Khmer (Ảnh sưu tầm)

N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 14 | 23


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC KHMER | Hoàng Trần

triết lý sống làm phước, thường đến với dân chúng trong những lúc khó khăn nhất, mà
không cần bất cứ điều kiện gì, cho nên họ rất được lòng dân. Đến nông thôn người
Khmer, ta thấy kiến trúc ngôi chùa là nổi bật nhất. Đặc điểm của chùa là trồng nhiều cây
cao: cây dầu, cây dừa, cây thốt nốt... Người Khmer dù nghèo khó đến đâu, dù ở nhà
tranh, vách đất, nhưng vẫn dồn tiền của để xây dựng ngôi chùa thật khang trang, lộng lẫy.
Một ngôi chùa được gọi là hoàn chỉnh thường có 12 ngôi nhà trong khuôn viên. Khi xây
dựng chùa, ngôi sa la (nhà tăng) được xây trước. Quan trọng nhất trong khuôn viên chùa
là ngôi chính điện. Ngôi chính điện là nơi cử hành các lễ lớn và chính yếu của Phật giáo.
Cửa ngôi chính điện lúc nào cũng đóng kín, chỉ mở ra khi có cử hành lễ Phật. Ngoài ý
nghĩa là trung tâm thờ Phật, chính điện còn là nơi tiêu biểu của nghệ thuật kiến trúc.
Trong khuôn viên chùa còn có các ngôi nhà: trường học, tháp đựng hài cốt, miếu Neak

Ta, cổng chính. Chính điện luôn luôn quay về hướng đông. Chùa Khmer được xây dựng
như một công trình văn hóa. Trong chùa có: thư viện, nơi tàng trữ các loại thư tịch cổ,
bảo tàng mỹ thuật và lịch sử, nơi sinh hoạt văn hóa - nghệ thuật, trường học chữ... Chùa
của người Khmer chỉ thờ duy nhất Phật Thích Ca Mâu Ni với tám tư thế khác nhau:
đứng, nằm, ngồi... và được đúc, chạm, khắc bằng nhiều chất liệu: đồng, gỗ, đất, đá.
Tu hành: Hầu hết người Khmer đều theo Phật giáo Tiểu thừa. Dù tu ở nhà hay tu ở chùa,
người Khmer đều là tín đồ của Phật. Người Khmer tuy theo đạo Phật, nhưng đi tu không
phải để trở thành Phật, mà để tu làm người có nhân cách, có phẩm chất và đạo đức tốt
theo quan niệm của họ. Người con trai Khmer bất kì thuộc tầng lớp xã hội nào, từ 12 tuổi
trở lên, đều phải đi tu. Ngày hôm trước, khi còn ở nhà, người con trai với bổn phận làm
con, phải vâng lời cha mẹ. Nhưng hôm sau làm lễ “quy y” tại chùa, vị trí xã hội liền thay
đổi. Cha, mẹ gặp con lúc đó cũng phải quỳ lạy, sùng kính, vì đứa con đã là một trong
“tam bảo” (Phật, pháp, tăng) của nhà Phật. Nếu người con trai tu bậc sadi (từ 12 đến 20
tuổi) thì chỉ cần một nhà sư ngồi thượng tọa. Nhưng nếu tu bậc Tỳ khưu (từ 21 tuổi trở
lên) thì phải mời đủ từ mười đến hai mươi ông Tỳ khưu ngồi chứng giám.
Do tôn sùng Phật giáo, người Khmer quan niệm rằng, người con trai có đi tu, sau khi
hoàn tục mới là người có đức hạnh, có giáo dục và là người tốt. Đó cũng là tiêu chuẩn để
lấy vợ.
3.10.
Lễ hội
Tết năm mới - Pithỉ Choi chnam thmây: Tết này còn gọi là lễ chịu tuổi, vì tết đến là mỗi
người đều thêm một tuổi. Tết năm mới - Choi chnam thmây của người Khmer được tổ
chức trong ba ngày vào tháng “chét” (tháng 5 lịch Khmer) tức là vào các ngày 13, 14, và
15 tháng tư dương lịch - khi mùa mưa, mùa sản xuất nông nghiệp lúa nước bắt đầu. Biểu
hiện ước mơ trời mưa xuống lấy nước cày cấy trong ngày tết năm mới là tục té nước vào
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 15 | 23


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC KHMER | Hoàng Trần


người với ý nghĩa chúc tết năm mới. Tục té nước này còn thấy ở dân tộc Lào (nước Lào),
dân tộc Thái Lan. Người Khmer là tín đồ đạo Phật, cho nên gia đình nào cũng làm bánh
tét, bánh ngọt, hoa quả dâng vào chùa để cúng Phật và để sư sãi cùng khách dùng. Có nhà
còn đưa cả gia đình vào ở trong chùa trong những ngày tết vừa để làm công quả, vừa để
dự lễ, vì mọi nghi thức và các sinh hoạt vui chơi đều diễn ra ở chùa.
Trong đêm giao thừa, mọi nhà đốt đèn, thắp hương làm lễ đưa “Têvôđa” cũ và rước
“Têvôđa” mới. Họ tin ràng “Têvôđa” là vị tiên trời sai xuống đế chăm lo cho dân chúng
trong một năm, hết năm lại đưa vị khác xuống thay. Trước đây, trong đêm giao thừa,
người Khmer còn đưa con trai vào chùa tụng niệm làm lễ quy y, nhưng hiện nay tục này
đã giảm đi.
Lễ cúng ông bà - Pithi sen Đônta là lễ lớn thứ nhì của toàn thể dân tộc Khmer, được tổ
chức trong ba ngày, từ ngày 29 tháng 8 đến hết ngày 1 tháng 9 âm lịch, nhằm mục đích
tụng kinh cầu siêu, cầu phước cho linh hồn thân nhân quá vãng. Theo phong tục, người
Khmer không tổ chức làm giỗ cho người chết và đối với họ, việc thờ cúng tổ tiên không
quan trọng, bởi họ quan niệm không có sự liên hệ giữa người sống và người chết. Họ tổ
chức lễ Đôn ta chỉ nhằm cầu siêu cho linh hồn người chết, chứ không cầu mong người
chết phù hộ.
Lễ cúng trăng - Ók Om Bóc hay còn gọi
là lễ Đút cốm dẹt. Đây là lễ được tổ chức
hàng năm vào ngày 15 tháng 10 âm lịch,
nhằm tưởng nhớ và tạ ơn mặt trăng, vốn
được người Khmer coi như một vị thần
điều động mùa màng trong năm. Thức
cúng đặc biệt trong lễ này là cốm dẹt,
cho nên người ta còn gọi là lễ đút cốm
dẹt. Đúng đêm 15 tháng 10, trước khi
mặt trăng lên đỉnh đầu, mọi người tập
trung tại khuôn viên nhà chùa, tại từng
nhà, nơi không có bóng cây che khuất để Đua ghe ngo trong lễ hội Ók Om Bóc (Ảnh
làm lễ cúng mặt trăng. Lễ vật cúng gồm sưu tầm)

có cốm dẹt, các hoa màu nông sản khác:
dừa, chuối, khoai lang, khoai mì, khoai môn, bánh kẹo. Cúng xong, các cụ gọi trẻ em đến
gần, ngồi chắp tay hướng về mặt trăng, rồi lấy cốm dẹt cùng các thứ đồ cúng khác, mỗi
thứ một ít, đút vào miệng trẻ em, còn tay kia đấm lưng hỏi các em muốn gì. Những câu
trả lời của các em sẽ là niềm tin của người lớn vào kết quả tốt, xấu trong năm sau. Trước
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 16 | 23


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC KHMER | Hoàng Trần

lễ cúng trăng, vào chiều ngày 15 tháng 10 người Khmer tổ chức lễ đua ghe ngo ở trên
sông tại thị xã Sóc Trăng. Tục đua ghe ngo cũng mang màu sắc Phật giáo rõ rệt. Đồng
bào tổ chức đua ghe ngo để tưởng nhớ đến các dấu vết của Đức Phật đã để lại ở bờ cát
trên sông Nimôta thuộc xứ Yômol (nước Lào), hay nhằm tưởng nhớ đến một chiếc cầu
bằng thuyền do Phật lập ra để ngăn chặn cơn hạn ở vương quốc Vaicali, hoặc còn để
tưởng nhớ một cái răng của Phật được vua loài Naga giữ.
3.11.
Tục lệ cưới xin
Người Khmer thực hiện hôn nhân
một vợ một chồng bền vững. Là
tín đồ Phật giáo, trước khi đi đến
hôn nhân, tinh thần dân chủ của
Phật giáo cho phép nam nữ tự do
yêu đương, không bị cha mẹ hay
quy định của lễ tộc ràng buộc. Trừ
anh em ruột không được lấy
nhau,.còn ngoài ra có thể kết hôn
bình thường. Những gia đình giàu
có còn khuyển khích người trong
họ hàng lấy nhau, để người cùng

dòng họ sống gần gũi nhau, nhưng
cái chính là giữ cho của cải không bị
san sẻ ra ngoài. Sau khi cưới đôi vợ
chồng trẻ cư trú bên nhà chồng.

Đám cưới của người Khmer (Ảnh sưu tầm)

Mùa cưới của người Khmer Nam Bộ thường là mùa khô, từ tháng 10 năm trước cho đến
tháng 4 âm lịch năm sau. Tuyệt đối đám cưới không thể cử hành trong những tháng
“vassa”, tức là tháng “vào mưa” trong mùa nhập hạ của các sư sãi (từ ngày 15 tháng 6
đên ngày 15 tháng 9 âm lịch).
Các lễ nghi cưới chính thức được thực hiện tại bên nhà gái. Những lo liệu về vật chất
thường tùy hoàn cảnh kinh tế của gia đình, có thể một bên đứng ra lo, hoặc hai bên cùng
lo liệu. Việc sắp xếp, tổ chức, điều khiển mọi nghi lễ bên nhà trai phải đảm nhiệm. Một
đám cưới thường trải qua các tục lệ sau:
Lễ Sisla dak - ăn trầu cau: Đây là lễ dạm hỏi. Trước lễ sisla dak, đôi trai gái đã tự tìm
hiểu nhau, ưng nhau, sau đó ướm thử lời đôi bên cha mẹ. Nếu cha mẹ đồng ý sẽ tìm thầy
coi tuổi. Người Khmer quan niệm lấy vợ lấy chồng là chọn “giống” và việc dựng vợ, gả
chồng là chọn hạt “giống” mới đem về gieo tại vùng đất của mình. Cho nên giai đoạn tìm
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 17 | 23


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC KHMER | Hoàng Trần

hiểu nhau là vô cùng quan trọng. Giai đoạn tìm hiểu nhau thuận buồm xuôi gió thì mới
nhờ đến mai mối làm lễ sisla dak, cơi trầu đầu tiên của bên nhà trai chính thức đặt vấn đề
hôn nhân với bên nhà gái.
Lễ Sisỉa kân sèng - gói trầu cau ăn hỏi: Sau lễ dạm hỏi, bên nhà trai còn có thể bị bên nhà
gái từ chối, nhưng nhận lễ ăn hỏi, chắc chắn bên nhà gái đã thuận tình. Lễ ăn hỏi này là
nghi thức đầu tiên chính thức ghi nhận cuộc hôn nhân.

Lễ Sisla banh cheapeak - lễ xin cưới: Trong lễ này, nhà trai phải có lễ vật riêng tặng cho
người con gái - cô dâu tương lai, thể hiện sự vui mừng cho đôi trai gái trẻ được phép làm
lễ kết hôn. Kỷ vật cho người con gái thường là nhẫn, vòng vàng, vòng bạc. Theo phong
tục, người Khmer dù giàu hay nghèo cũng phải qua lễ dạm hỏi cho đủ ba lần thì mới
được coi là trai gái lấy nhau đúng đắn.
Đám cưới dù tổ chức to hay nhỏ cũng đều diễn ra trong ba ngày.
Ngày thứ nhất là ngày nhập gia: Bên nhà trai mang lễ vật sang bên nhà gái xin phép làm
đám cưới. Lễ vật thông thường gồm bánh, trầu cau, trái cây, thức ăn... Lễ vật nhiều hay ít
không quan trọng, nhưng mỗi thứ đều phải đủ đôi. Đám cưới người Khmer kiêng số lẻ.
Vào buổi chiều, chọn giờ tốt, đoàn người nhà trai đến nhà gái. Đoàn gồm có một số
người thân tộc, bạn bè chú rể, ông Maha - người mai mối, người hiểu biết hướng dẫn đám
cưới theo đúng phong tục cổ truyền - và dàn nhạc. Ngày xưa đoàn đi theo ông Maha gọi
là đoàn đi cướp con gái, bởi vì ngày xưa có tục cướp con gái về làm vợ. Tục cướp vợ có
nhiều lý do giải thích khác nhau: bên gái phản bội lời hẹn ước ban đầu, bên gái thách
cưới cao hoặc cô gái có nhiều chàng trai muốn chiếm... Tất cả các lý do trên đều có thể
có, nhưng đều nói lên sự cao giá của cô gái. Theo phong tục, hôm đó, nhà gái rào kín
cổng - tượng trưng cho sự tinh khiết của con gái, chưa hề giao tiếp với con trai bên ngoài.
Khi đến cổng nhà gái, ông Maha bày mâm lễ vật dâng lên nhà gái và nói lời cầu xin: xin
đất làm nhà, xin giếng múc nước, xin một số việc lặt vặt khác... Nếu nhà gái vẫn chưa mở
cửa thì ông Maha phải rút dao ra múa, tục gọi là “múa mở rào” (có bài múa quy định cho
tiệc cưới) cho đến khi nhà gái ra mở cửa mời nhà trai vào mới thôi.
Ngày thứ hai là ngày cưới:Đây là ngày làm lễ chính thức. Mở đầu cho lễ cưới, vào giờ tốt
buổi sáng, làm lễ cúng ông bà, tô tiên và ăn trầu kâm uất - trầu đính ước. Buổi chiều làm
lễ cắt tóc cho chàng trai và cô gái. Sau đó dẫn chàng trai đến trình diện Neakta - thần bảo
hộ của phum sóc, để Neakta công nhận thành viên mới của phum sóc. Buổi tối, mời sư
sãi đến tụng kinh, cầu phước cho đôi trai gái và cũng là buổi tối khoản đãi khách khứa
của hai họ.
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 18 | 23



TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC KHMER | Hoàng Trần

Khoảng 12 giờ đêm, người ta chọn 4 nam, 4 nữ, do hai ông Maha của hai gia đình hướng
dẫn gói bánh trái để cúng Phật và sau đó dâng cho cha mẹ bên nhà gái. Lễ này tượng
trưng cho sự đền ơn đáp nghĩa về công sinh thành, dưỡng dục cho cha mẹ. Cũng vào giờ
này, người ta làm lễ nhuộm răng đen cho cô gái bằng một thứ vỏ cây do người Khmer tự
pha chế. Tục nhuộm răng đen này vừa có ý nghĩa làm đẹp theo thẩm mỹ của người xưa,
vừa gắn với truyền thuyết Hoàng tử Thông lấy công chúa rắn - thearavantei. Vốn răng rắn
có nhiều nọc độc, nhuộm răng là phép dùng thuốc khử nọc độc của rắn. Ngay sau đó
người ta cắt buồng hoa cau còn là hoa, chưa thành quả cau) để chuẩn bị cho ông Maha
làm lễ “rắc hoa cau”- bach phkasla.
Ngày thứ ba là ngày lạy ông bà và họ hàng: Trời hửng sáng, ông Maha dẫn người con trai
đến trước “Bàn trời”- Rean Têvôđa. Đúng giờ tốt, người con trai được dân vào nhà lớn
cho ngồi xếp hàng vào nơi quy định (trên chõng tre, ghế băng, hay giường...), rồi dẫn
người con gái ra ngồi chung một bên. Ông Maha bắt đầu làm lễ: Lễ rắc hoa cau và lễ
“ĐơrpoopiP’ - lễ rút gươm ra khỏi bao. Lễ “rắc hoa cau” là lấy hoa cau rắc lên người đôi
trai gái và rắc từ đường đi chỗ ngồi đến buồng tân hôn. Còn lễ “rút sươm ra khỏi bao” là
lễ gắn với một truyền thuyết mà những ông bà người Khmer thường kể. Khi đó một
người bạn trai thân của chú rể lừa chú rể vào rừng lấy mật ong và sáp ong cho đám cưới,
để gấu xé xác chú rể, rồi chiếm đoạt cô dâu. Nhưng chú rể không bị gấu xé xác, mà đã
lấy được ong đưa về nhà. về đến nhà, chú rể thấy “bạn thân” đang làm thủ tục cưới bạn
gái của mình. Chú rể hiểu dã tâm của “bạn thân” và không ngần ngại rút dao ra trị tội kẻ
phản bạn. Trong đám cưới người Khmer có múa gươm là để tượng trưng cho sức mạnh
chính nghĩa thắng gian tà. Tiếp sau hai lễ: “rắc hoa cau” và lễ “rút gươm ra khỏi bao” là
các lễ: buộc chỉ cổ tay - Chăng đay, lễ nhập phòng - Phsâmđâm nêk, lễ quét chiếu - Bỏs
Kântêl, lễ chung mùng - Đêk Sâng Kât Cơng mung.
Sau lễ cưới: Sau ngày cưới, cô dâu, chú rể - những thành viên mới của cộng đồng hai bên
gia đình phải làm lễ vừa để làm quen, vừa để ra mắt: Hai vợ chồng mới đem buồng cau
đến chùa làm lễ ra mắt sư sãi và xin ban phước lành; cô dâu và chú rể đi thăm bà con thân
tộc hai họ.

Do tôn sùng Phật giáo, người Khmer quan niệm rằng, người con trai có đi tu, sau khi
hoàn tục mới là người cỏ đức hạnh, có giáo dục và là người tốt. Đó cũng là tiêu chuẩn để
lấy vợ. Ngày xưa con trai Khmer trước khi lấy vợ phải có một cơ nghiệp riêng, ít nhất
cũng đảm bảo sinh hoạt cho đôi vợ chồng khỏi phụ thuộc vào gia đình hai bên nữa.
3.12.
Tập quán tang ma
Người Khmer tin theo đạo Phật, chịu ảnh hưởng sâu sắc của Phật giáo trong quan niệm
về cái sống và cái chết. Họ quan niệm rằng, chết chưa phải là chấm dứt cuộc sống, mà là
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 19 | 23


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC KHMER | Hoàng Trần

tiếp tục sống ở một thế giới khác, không sống bằng thể xác, mà sống bằng linh hồn bất
diệt. Do đó họ chuẩn bị cho đám tang người chết thật sự chu đáo, chuẩn bị nhiều lễ vật
cho người chết mang theo để tiếp tục sống ở thế giới thần linh. Tập quán người Khmer là
hoả táng người chết. Trường hợp người chết vì bệnh dịch thì mới đem chôn.
Khi gia đình có người chết, trước tiên họ mời ông Acha Yuki - thầy cúng thông thạo việc
tang ma đến hướng dẫn tổ chức tang lễ. Việc đầu tiên là người nhà cho vào miệng tử thi
đồng tiền bằng bạc hay chì, sau đó họ lau chùi tử thi bằng nước ướp có mùi nhang thơm,
rồi mặc quần áo cho người chết. Xong họ quấn người chết bằng vải trắng - rum sáp. Tiếp
đến họ lấy chỉ buộc thân xác trên chỗ nằm cho cứng lại - châm nâng bram brâkar rồi thắt
nút ở năm điểm: ở cổ, ngang cánh tay, cổ tay, ngang đầu gối, cổ chân tượng trưng cho
cha, mẹ, vợ hay chồng, con và của cải, rồi lấy mền đắp lại.
Trên bụng xác chết đặt một nải chuối tươi còn xanh vỏ, trên ngực để hai lá trầu, ngọn về
hướng đầu và ghim ba cây nhang. Những vật cúng: nải chuối, ba lá trầu và cây nhang là
để cho linh hồn người chết mang đi làm lễ cúng tháp đựng hài cốt của Đức Phật. Phía
trên đầu xác chết còn đặt một cái thúng - chong thâung để đựng vật cúng cho người chết.
Trong thúng đựng từ ba đến bốn lít gạo, bốn chén ăn cơm, bốn đôi đũa một nồi đất, một
cây đèn, một trái dừa khô đã bóc vỏ, 2,2m vải trắng, một cái Sla chôm làm bằng lá dừa

cắm trên cây chuối dài chừng 15cm. Đó là tất cả đồ dùng cho người chết ở thế giới thần
linh. Dưới chân xác người chết, để một lon cát - chơng thup để cho người thân đốt nhang
cắm vào và treo một hình nhân người chết.
Lễ cầu siêu, cầu phước - oypôryuk: Trước khi liệm xác chết vào quan tài, người ta mời
hai ông lục (hai vị sư sãi) đến cầu siêu, cầu phước cho. Khi đóng nắp quan tài, người ta
xếp các vật cúng lên nắp quan tài ở các vị trí giống như xếp trên xác. Hai đầu quan tài đốt
hai cây nến, dưới quan tài đốt “lửa ướp”, mục đích giữ cho có hơi ấm thường xuyên. Phía
trên đầu quan tài có một cờ hình cá sấu bằng vải trắng cắm trên một cây, gọi là “cờ hiệu
của linh hồn”. Người Khmer cũng có “lễ lăn đường” khi đưa ma như người Hoa, người
Kinh.
3.13.
Văn nghệ dân gian
Dân tộc Khmer cũng như các dân tộc khác, từ buổi bình minh của lịch sử đã sáng tác
nhiều truyện để cắt nghĩa sự hình thành vũ trụ và giải thích các hiện tượng tự nhiên như:
mưa, gió, mặt trời, mặt trăng, nhật thực, nguyệt thực.
Truyện cổ tích: Phải chăng, thực tế ở châu thổ sông Mêkông có hai mùa mưa nắng rõ rệt mùa nắng hạn kéo dài làm vạn vật bị hủy hoại, cây cỏ bị tàn lụi; và tiếp đến là mùa mưa,
nước lũ nhấn chìm đồng ruộng, thôn xóm... đã được phản ánh trong thần thoại Nguồn gốc
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 20 | 23


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC KHMER | Hoàng Trần

vũ trụ và muôn loài... Thấy loài người ở trần gian ngày càng đông đúc, ngày càng trở nên
độc ác, các thần Têvôđa cầu xin thần Maha Prum làm phép cho bày mặt trời xuất hiện
thiêu đốt mọi vật và đất đai thành tro. Tiếp đó trời làm phép cho mưa đổ ập xuống, nước
dâng lênh láng hòa tan khối tro bụi ấy. Cả thế giới tối đen như mực, không còn một vật gì
sót lại ngoài một biển nước. Sau đó thần làm phép cho gió thổi. Khi gió thổi, trên biển
nước mênh mông, các bọt nước kết tinh lại thành từng bè khô cứng dần. Đó là những
vùng đất đầu tiên của mặt đất hiện nay. Một hôm, các thiên thần trên đỉnh núi Prắc Sôme
bay lượn dạo chơi trên biển nước mênh mông ấy, thấy các cù lao đất mới, họ hạ cánh

xuống đó. Mùi đất mới thơm ngon như mật ong đã làm cho các thần ngây ngất. Họ móc
đất lên nếm thử thấy ngon ngọt vô cùng. Các thần ăn mãi không biết chán. Rồi khi no
bụng, các thần trở nên nặng nề, không sao bay về núi Sômê được nữa. Từ đó, trên mảnh
đất mới, họ trở thành người trần gian đầu tiên.
Các truyền thuyết ở châu thổ sông Mêkông đề cao vai trò của phụ nữ qua các truyện: Sự
tích ao bà Om (Trà Vinh), Sự tích giếng Chi Riêng Anh (Hậu Giang), Sự tích núi Mê
Đeng (núi Bà Đen ở Tây Ninh). Ở những truyện kể trên, bóng dáng và tầm vóc của
những người phụ nữ trí tuệ và tài ba hiện ra oai hùng như những anh hùng dân tộc. Vùng
đất này còn nhiều truyện cổ giải thích về địa danh các giồng, phum, sóc... phê phán thói
lười biếng, bất nhân, bất nghĩa.
Tục ngữ: Kết quả việc sưu tầm tục ngữ cho thấy rằng, kho tàng tục ngữ của dân tộc
Khmer rất đồ sộ, đề cập đến hầu hết các khía cạnh của cuộc sống xã hội, gia đình và thân
tộc, cũng như kinh nghiệm lao động sản xuất và triết lý làm người. Một số thí dụ: Làm
ruộng khi đất còn nóng, Ghẹo gái khi lỏng đang nồng; Làm ngu hơn là thóc mách, Im
lặng hơn nói khoác; Cái biết của mình phải nể cái biết của người; Muốn ngon thì phải
kiếm rau, Muốn sung sướng thì phải chịu cực từ nhỏ; Nếu không giúp bơi chèo thì đừng
lấy chân cản nước...
Dân ca: Sinh hoạt ca hát dân gian của người Khmer rất phổ biến. Những người có tài
năng ca hát không phải là cá biệt, mà hầu như mọi người nam, nữ, già, trẻ, ai cũng có thể
tham gia vào sinh hoạt hát dân ca, và không chỉ trong thời gian hội hè vui chơi, mà hát cả
trong sinh hoạt nghi lễ - phong tục, trong lao động sản xuất, ngoài đồng ruộng, trên sông
rạch và cả trong gia đình đều có tiếng hát dân ca. Trong những bài ca nghi lễ, hiển nhiên
là tồn tại những yếu tố tín ngưỡng, nhưng những yếu tố đó không làm mờ nhạt được
những gì rất thế tục, những gì thuộc về nỗ lực của con người đối chọi với thiên nhiên
khắc nghiệt.
Âm nhạc: Âm nhạc người Khmer ở châu thổ sông Mêkông bám chặt vào cuộc sống hàng
ngày, có mặt trong mọi khía cạnh của sinh hoạt phum, sóc. Âm nhạc luôn song song hành
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 21 | 23



TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC KHMER | Hoàng Trần

với lao động sản xuất, với tình yêu nam nữ, với tín ngưỡng, tôn giáo, với đám cưới, đám
tang, với hội hè, cúng bái... Có thể nói không ngoa rằng, mỗi hoạt động của con người
đều có âm nhạc kèm theo.
Dân tộc Khmer có hai dàn nhạc: dàn nhạc dân gian và dàn nhạc nghi lễ. Dàn nhạc dân
gian còn gọi là nhạc dây - phleng khae. Loại dàn nhạc này rất phổ biến trong phum, sóc
người Khmer ở châu thổ sông Mêkông, được sử dụng rộng rãi trong tất cả các ngày lễ,
sinh hoạt tập thể vui chơi dân gian. Dàn nhạc nghi lễ - phlèngpưn pết còn gọi là dàn nhạc
ngũ âm. Ngũ âm ở đây được xác định cho năm âm của năm chất liệu, đó là đồng, sắt, gỗ,
da và hơi. Nó còn được gọi là nhạc gõ, bởi tất cả âm thanh của nhạc cụ chính trong dàn
nhạc phát ra đều do dùng cây gỗ để gõ. Đến tất cả các chùa, phum, sóc của người Khmer,
tiếng vui rộn ràng đầu tiên mà ta bắt gặp chắc chắn là tiếng nhạc sôi động và rất độc đáo
của dàn nhạc phlèng pưn pết. Có thể nói, phlèng pưn pết là dàn nhạc dân tộc duy nhất của
người Khmer được hoàn chỉnh về định âm trong từng nhạc cụ và cả trong hòa âm của cả
dàn nhạc.
Sân khấu: Dân tộc Khmer ở nước ta đã
khai sinh hai loại hình sân khấu độc đáo.
Đó là Rô băn và Dì kê. Rô băm là hình
thức sân khấu cổ nhất mà người Khmer
châu thổ sông Mêkông còn lưu giữ
được. Hình thức ngôn ngữ này lấy múa
làm ngôn ngữ chính, cho nên nhiều
người cho rằng nghệ thuật kịch hát này
là kịch múa. Mặc dù, ngôn ngữ múa
trong Rô băm được sử dụng nhiều và
một số bộ phận múa đã được khái quát
nghệ thuật cao như múa chằng - rômyat,

Múa rô băm (Ảnh sưu tầm)


múa nữ... nhưng kết cấu vở diễn không
phải là kết cấu nghệ thuật múa, mà là kết cấu của nghệ thuật hát truyền thống, theo lối kể
chuyện, tự sự. Vở diễn vẫn dùng lời nói, lời hát để giải nghĩa tình tiết, sự kiện chính của
kịch bắt nguồn từ hình thức hát cổ truyền rất phổ biển trong những đám lễ, đám rước
hàng năm. Cũng như Rô băm, Dì kê lấy truyện cổ dân gian, truyện Phật giáo, Bàlamôn
giáo làm đề tài khai thác, biểu diễn. Nghệ thuật Dì kê không gò bó về cấu trúc kịch bản,
không lệ thuộc vào lối diễn ước lệ. về nghệ thuật tạo hình và âm nhạc, thì không quá
nghiêm ngặt như kịch hát Rô băm và Dù kê.

N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 22 | 23


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC KHMER | Hoàng Trần

Kiến trúc nghệ thuật: Một loại hình kiến trúc của người Khmer được tất cả cộng đồng
chung tay góp sức xây dựng và luôn đạt đỉnh cao của nghệ thuật kiến trúc dân tộc Khmer
là chùa. Mỗi ngôi nhà đều là một công trình kiến trúc độc đáo khác nhau, nổi bật nhất là
ngôi chính điện. Ngôi chính điện là ngôi nhà lớn nhất trong chùa, tiêu biểu cho nghệ thuật
kiến trúc, điêu khắc, trang trí của người Khmer. Đây cũng là trung tâm thờ Đức Phật.
Ngôi chính điện lấy hướng phía đông (mở cửa ở đầu hồi phía đông), mái nhiều lớp, bao
giờ cũng có rắn Naga đắp trên mép mái, đuôi vươn lên cao, đầu ở góc đao. Ý nghĩa của
kiến trúc này là tượng trưng cho thuyền rồng đưa Phật đi giảng đạo. Chùa cao, rộng,
thoáng, bình diện hình chữ nhật, dựng trên nền cao. Xung quanh có sân bao để lập đàn
cúng và nơi các sóc tổ chức lễ hội. Trong chùa thường thờ năm dạng tượng của Thích Ca.
Trung tâm là “Tất chứng giám” (một tay ốp gối chỉ xuống đất), rồi các tượng “Thuyết”,
“Khất thực”, “Thiền Định” và “Niết Bàn”. Pho tượng cổ nhất bằng gỗ được tìm thấy ở
chùa Mã Tộc (Sóc Trăng), có niên đại từ 1593, dạng Thuyết Pháp. Xung quanh chùa là
nhà tăng, nhà ăn, nhà giảng đạo, đặc biệt là ngôi tháp đựng tro của các Phật tử. Các sư
chùa Khmer không ăn chay (trừ thịt voi, ngựa, khỉ, chó, thỏ), không tự sát sinh. Mỗi ngôi

chùa đều do các sư chủ trì. Họ là những tri thức của phum sóc và được người dân sùng
kính. Chùa Khmer là trung tâm văn hóa của làng.

N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 23 | 23



×