Tải bản đầy đủ (.pdf) (14 trang)

Tổng quan dân tộc Gié Triêng (PDF,Word)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (843.54 KB, 14 trang )

TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC GIÉ TRIÊNG | Hoàng Trần

TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC GIÉ TRIÊNG

MỤC LỤC:
1.

Vài Nét Về Dân Tộc Gié Triêng ........................................................................................... 2

2.

Kinh Tế Truyền Thống ......................................................................................................... 2

3.

2.1.

Trồng trọt.......................................................................................................................... 2

2.2.

Chăn nuôi ......................................................................................................................... 4

2.3.

Khai thác tự nhiên ............................................................................................................ 4

2.4.

Ngành nghề thủ công........................................................................................................ 6


2.5.

Trao đổi, mua bán............................................................................................................. 6

Văn hóa truyền thống ............................................................................................................ 7
3.1.

Làng (plây) ....................................................................................................................... 7

3.2.

Nhà ở ................................................................................................................................ 8

3.3.

Gia đình ............................................................................................................................ 9

3.4.

Trang phục........................................................................................................................ 9

3.5.

Trang sức .......................................................................................................................... 9

3.6.

Ẩm thực .......................................................................................................................... 10

3.7.


Phương tiện vận chuyến ................................................................................................. 10

3.8.

Ngôn ngữ ........................................................................................................................ 10

3.9.

Tín ngưỡng tôn giáo ....................................................................................................... 10

3.10.

Tục lệ cưới xin ............................................................................................................ 11

3.11.

Sinh đẻ ........................................................................................................................ 13

3.12.

Tập quán tang ma ....................................................................................................... 13

3.13.

Văn Hóa Nghệ Thuật .................................................................................................. 14

N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 1 | 14



TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC GIÉ TRIÊNG | Hoàng Trần

1. Vài Nét Về Dân Tộc Gié Triêng
Dân số : 50.962 người (2009)
Ngôn Ngữ: thuộc hệ ngôn ngừ Nam Á,
nhóm ngôn ngữ Môn - Khơmer.
Tên gọi khác: Cà Tang, Đgiéh, Ta Reh,
Giang Rẫy, Pin, Triêng, Treng, Ta
Liêng, Ve, La-Ve, Bnoong
Nhóm địa phương: Gié (Gié), Triêng
(T’riêng), Ve, Bnoong (Mnoong)
Địa bàn cư trú: Kon Tum, Quảng Nam,
Đắk Lắk

Địa bàn cư trú
Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, người Gié Triêng ở Việt Nam có
dân số 50.962 người, cư trú tại 29 trên tổng số 63 tỉnh, thành phố. Người Gié
Triêng cư trú tập trung tại các tỉnh: Kon Tum (32.644 người, chiếm 62,1% tổng
số người Gié Triêng tại Việt Nam), Quảng Nam (19.007 người, chiếm 37,3% tổng
số người Gié Triêng tại Việt Nam), ngoài ra còn có tại Đắk Lắk (78 người) và
một số ít ở các tỉnh khác.

2. Kinh Tế Truyền Thống
2.1. Trồng trọt
Người Gié - Triêng sinh sống bằng nghề
nương rẫy, với cây trồng chính là lúa,
ngô, sắn và một số loại cây có củ khác.
Rẫy chia thành hai loại: mir và pôh. Với
rẫy mir trên đất dốc đồng bào chỉ canh
tác 2 - 3 năm rồi bỏ hóa từ 8 - 10 năm, cho


Chăm sóc lúa trên rẫy

N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 2 | 14


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC GIÉ TRIÊNG | Hoàng Trần

rừng đủ thời gian tái sinh, sau đó lại canh tác. Còn đối với rẫy pôh trên đất bằng
phẳng, nằm ven các dòng sông, suối. Đây là loại nương rẫy canh tác ổn định.
Trên rẫy pôh đồng bào trồng luân phiên nhiều loại cây khác nhau trong năm: lúa,
ngô, khoai và một số loại cây trồng ngắn ngày khác.
Để sản xuất, công việc chọn đất làm nương rẫy là khâu đầu tiên quan trọng. Cũng
như nhiều dân tộc phát rừng làm nương khác, người Gié - Triêng thường chọn
rừng rậm lâu năm (rừng già), độ dốc thấp để phát nương. Trong rừng rậm lâu năm
thường đất tơi, xốp, có nhiều mùn do lá cây mục nát để lại. Loại đất này có thể
trồng nhiều loại cây khác nhau. Mảnh rừng đã chọn thuộc địa phận đất của làng,
được phát quang một đám nhỏ, cắm một cành cây ở đỏ để đánh dấu quyền sở hữu
của người đã chọn. Theo tập quán, khi đất đã đánh dấu quyền sở hữu thì người
khác không được tranh giành. Nểu có người vi phạm tập quán này th ì dân làng lên
án người vi phạm đó. Lên án vi phạm bằng dư luận, nhưng rất hiệu quả, vì vậy
hầu như không có sự tranh chấp quyền sớ hữu đất làm rẫy.
Công cụ sản xuất chủ yểu là chiếc xà gạc, rìu, cuôc. Những công cụ này đều được
làm bằng sắt. Người Gié - Triêng không tự làm được công cụ sản xuất, mà họ
phải mua công cụ do người Xơ Đăng sản xuất.
Đồng bào Gié - Triêng có nhiều kinh nghiệm chọn cây trồng cho phù hợp với loại
đất. Rẫy mới phát đất còn nhiều màu mỡ, thường được chọn để trồng lúa. Khi đất
đã bạc màu thì người ta hay trồng ngô và sắn.
Lúa rẫy của người Gié - Triêng có nhiều loại: lúa tẻ và lúa nếp. Đồng bào trồng
chủ yếu là loại lúa tẻ. Lúa tẻ có các loại phổ biến là: măng nay, măng cha, măng

mắt, măng luông xó, măng che, măng chook, măng hook. Lú a nếp ngày nay ít
trồng bởi vì năng suất thấp, đòi hỏi đất nhiều màu mỡ, tốn nhiều công chăm sóc.
Lúa nếp được sử dụng làm rượu cần và làm bánh đook (bánh gói không nhân, có
hình như con ốc vặn) để ăn tết. Đồng bào th ường trồng ngô trên những đám rẫy
hẹp, chạy dọc theo bờ suối. Ngô có nhiều loại, phổ biến nhất là hai loại: ngô trắng
(bo book) và ngô đỏ (bo nhoong). sắn được trồng trên những mảnh nương dốc;
khoai được trồng trên những đám pôh sau khi thu hoạch lúa. Khoai lang có hai
loại: m 'lang book và m 'lang doan. M‘lang book là loại khoai được trồng có
truyền thống ở trong vùng, khoai vỏ trắng, cho củ to; ăn không ngon, nhưng cho
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 3 | 14


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC GIÉ TRIÊNG | Hoàng Trần

năng suất cao. Người Gié - Triêng dùng loại khoai này chủ yếu để chăn nuôi gia
súc, gia cầm. Khoai m 'lang doan vỏ tím, củ nhỏ, ăn ngon được đồng bào ưa
thích. Loại khoai này mới được du nhập từ vùng khác đến. Theo tiếng Gié Triêng, doan có nghĩa là người Kinh. Khoai nr lang doan có nghĩa đen là khoai
lang Kinh. Khoai môn cũng được trồng khá phổ biến trong vùng, có khoai củ
tròn, có khoai củ dài, có loại củ rất to. Những loại khoai được đồng bào Gié Triêng trồng đều cho sản lượng khá cao, có gốc được 15 -20 kilôgam củ.
Quế là cây trồng đặc thù của dân tộc Gié - Triêng ở tỉnh Ọuảng Nam (huyện
Phước Sơn). Đồng bào trồng quế nhằm mục đích trao đổi buôn bán chứ không
phải do nhu cầu tự túc tự cấp.
Đồng bào Gié - Triêng trồng bông trên những đám rẫy gần nhà. Mùa trồng bông
là tháng 5 và thu hoạch vào tháng 10. Người Gié - Triêng hầu như ít trồng rau ăn.
2.2. Chăn nuôi
Chăn nuôi gia súc, gia cầm như:
trâu, bò, lợn, gà ở đồng bào Gié Triêng chưa được chú ý lắm. Mục
đích chính của chăn nuôi là phục
vụ cho việc cúng bái, nghi lễ cúng
giàng theo phong tục, chứ sản

phẩm của chăn nuôi chưa được
tính vào phục vụ đời sống, vào
bữa ăn hàng ngày của người dân.
Trước đây người Gié - Triêng có
phong tục người chủ chăn nuôi có toàn quyền bán cả con vật nuôi của mình, hoặc
đem đổi lấy hàng cần thiết cho gia đình, không cần hỏi chủ làng và không có lệ
phí gì cho dân làng, chủ làng. Nhưng nếu giết thịt con vật nuôi lớn (trâu, bò, lợn,
dê) thì phải chia đều cho dân trong làng.
2.3. Khai thác tự nhiên
Sinh sống trong môi trường rừng núi rậm rạp, nhiều cây rừng, nhiều động vật
hoang dã, đồng bào dân tộc Gié - Triêng đã tận dụng khai thác các nguồn lâm, thổ
sản và săn bắn thú rừng lấy thịt bổ sung cho nguồn sống. Đối tượng khai thác
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 4 | 14


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC GIÉ TRIÊNG | Hoàng Trần

chính là các loại rau rừng, măng tre (băn% le), măng nứa (băng doi), măng lồ ô
(băng ớ); các loại nấm (sek ta, sếk kế, sếk kria, sếk su/, sếk so), các loại trái ngọt
(pay tát), trái đẳng (pay mi lung), chuối, mật ong và các loại cây có củ, có bột
khác. Một số trường hợp, vào rừng gặp cây có củ, có bột chưa đến độ khai thác,
đồng bào đánh dấu khẳng định quyền sở hữu, rồi tiếp tục theo dõi chờ đến lúc thu
hoạch được thì lấy về.
Đồng bào Gié - Triêng còn tổ chức săn bắn muông thú để bảo vệ mùa màng, kết
hợp kiếm thịt cải thiện bừa ăn. Nương rẫy được khai phá ở trong rừng, khi mới
gieo hạt và lúc sắp thu hoạch, có rất nhiều chim muông, thú rừng đến ăn hạt, cho
nên việc canh giữ nương lúa, nương ngô là một nhu cầu khách quan, bắt buộc
phải Làm. Vào thời điểm khi lúa trổ bông, khoai ra củ, ngô có bắp, đồng bào phải
làm lều ở trên nương. Suốt ngày đêm, có người ngồi trên lều để tạo ra tiếng ồn
ào: gõ mõ, hò hét khi có dấu hiệu có thú đến phá hoại cây trồng trên nương.

Người gác nương thông thường là đàn ông - thanh niên, có trang bị vũ khí thô sơ
(chiếc nỏ) để diệt thú. Nỏ được làm bằng một loại gỗ tốt, tên làm bằng tre già, có
tẩm thuốc độc và không tẩm thuốc độc. Đồng bào Gié - Triêng cho rằng, làm một
nương mà canh giữ được còn hơn làm nhiều nương mà không canh giữ được, bị
muông thú phá hoại. Ngoài việc làm lều canh nương, đồng bào Gié - Triêng có
hai hình thức săn thú rừng: săn cá nhân và săn tập thể. Săn cá nhân được thực
hiện vào ban đêm. Người đi săn thường trang bị súng, đèn ló, đi đến những nơi
thường có nhiều thú để soi. Nếu gặp con thú thì dùng súng hạ gục. Khi đi săn cá
nhân, những người đi săn ngồi chờ ở chỗ con thú hay đi qua. Khi con thú đi qua,
người đi săn nhanh chóng dùng súng bắn hạ nó. Săn tập thể là cách săn nhiều
người. Khi có dấu hiệu con thú xuất hiện ở một khu rừng nào đó gần làng, thanh
niên trai tráng trong làng cùng một số nam trung niên tổ chức đi săn tập thể. Dân
làng bao vây cánh rừng có con thú, hò reo, gõ mõ, tạo tiếng ồn ào, ầm ĩ, đuổi dồn
con thú, con thú đuối sức không chạy đâu thoát được, bị người săn đâm chết.
Những cuộc săn tập thể thường nhằm mục tiêu giết được một con thú, nhưng
nhiều thú rừng sợ, chạy thoát khỏi vòng vây, sau này không dám quay trở lại cánh
rừng đó nữa. Thành quả thu được chia đều cho mọi người tham gia đi săn. Những
người Gié - Triêng sinh sống ở ven sông, suối cũng thường xuyên đánh bắt cá ở
sông, suối để ăn.
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 5 | 14


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC GIÉ TRIÊNG | Hoàng Trần

Nhìn chung khai thác tự nhiên gắn với môi trường rừng núi, sông suối và giữ vai
trò quan trọng trong đời sống của đồng bào.
2.4. Ngành nghề thủ công
Đồng bào Gié - Triêng thưòng
làm các nghề thủ công vào mùa
nông nhàn. Có nghề mang tính

tự túc tự cấp như nghề dệt, đan
lát; nhưng cũng có nghề mang
tính buôn bán như nghề đãi
vàng trên sông Đắc Pét. Đại bộ
phận cư dân sinh sống ở ven
sông Đắc Pét (Dục Nông, Đắc
Long, Đắc Pét) có truyền thống
làm nghề đãi vàng và nghề này

Làm gốm (Ảnh minh họa)

mang lại nguồn thu nhập khá lớn cho
đồng bào. Dụng cụ đãi vàng là cái vanẹ - một cái đĩa mỏng bằng gỗ, có đường
kính từ 18 - 25cm, lòng đĩa sâu dần từ vành ngoài vào trong, tạo thành hố nhỏ để
hạt vàng lắng xuống. Vàng đãi được đựng vào một cái hộp. Trước đây, trung bình
mỗi ngày mỗi người đãi được từ 3 đến 10 hạt vàng. Đồng bào dùng vàng đãi được
để trao đổi với các thương lái từ xa đến, chủ yếu là thương lái từ Lào sang.
Người Gié - Triêng có truyền thuyết nói về nghề gốm như sau: ngày xưa người
Gié - Triêng không biêt nấu nướng. Thú vật săn bắn được, sản phẩm thu hái được
đều ăn sống, do vậy con người mắc bệnh chết dần, chết mòn. Jàng thấ y vậy
thương xót mới bày cho người Gié - Triêng lấy đất nặn và phơi khô làm nồi nấu
nướng, làm ché đựng rượu, về sau thần lại bày tiếp cho họ lấy lửa nung nồi, ché.
Bà Y Đông ở làng Đăc Moóc, là người được thần bày cho cách làm nồi, làm ché,
cho nên ngày nay bà Y Đông được dân tộc Gié - Triêng tôn thờ là bà tổ của nghề
gốm. Ở dân tộc Gié - Triêng, nghề gốm khá phổ biến. Sản phẩm gốm của người
Gié - Triêng ở Đăc Pét đã cung câp hầu hết cho nhu cầu của cư dân trong vùng.
2.5. Trao đổi, mua bán
Kinh tế của dân tộc Gié - Triêng là kinh tế tự túc, tự cấp. Tuy nhiên bên cạnh đó
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 6 | 14



TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC GIÉ TRIÊNG | Hoàng Trần

đã xuất hiện một số nông sản làm ra với mục đích để bán. Những sản phẩm đó là:
sản phẩm quế, đồ gốm, vàng sa khoáng.
Cây quế được trồng nhiều ở huyện Phước Sơn. Đồng bào trồng quế hoàn toàn
theo nhu cầu thị trường quế. Nghề làm gốm cũng được sản xuất do đòi hỏi của thị
trường. Vàng sa khoáng thu nhặt được qua các mùa đãi vàng đều được đem bá n
cho khách hàng. Ngoài ra người Gié - Triêng có quyền bán nương rẫy của mình
cho người khác.

3. Văn hóa truyền thống
3.1. Làng (plây)
Người Gié - Triêng chọn đất dựng
làng trên khu đất rộng rãi, cao ráo,
sẵn đất sản xuất, gần nguồn nước.
Làng của dân tộc Gié - Triêng nhỏ,
mỗi làng có chừng 10-15 nóc nhà.
Làng tuy nhỏ, nhưng cũng được quy
định rõ ràng về ranh giới đất đai của
làng. Trong đất thuộc phạm vi làng
cũng có đất công và đất tư. Đất công
là đất thuộc phạm vi làng nhưng

Đồng bào tập trung ở làng để tham gia
một lễ hội

chưa được khai phá thành nương rẫy của gia đình nào, dòng sông chảy qua địa
phận làng. Đất công được sử dụng chung vào việc chăn thả đại gia súc, thu hái
lâm thổ sản, lấy gỗ làm nhà, lấy củi đun, con gái lấy củi để dự trữ khi lấy chồng.

Đất công cũng là đất dự trữ dành cho sự phát triển của làng. Khi dân làng đông
lên có nhu cầu làm thêm rẫy, có nhu cầu làm thêm nhà thì sử dụng đất công đó.
Tuy nhiên cũng chỉ những người sinh sống ở trong làng mới có quyền sử dụng đất
công của làng. Đất tư là đất đã được người trong làng khai thác sử dụng: đất làm
nhà, đất làm rẫy trồng lúa, trồng bông, trồng quế...
Làng của dân tộc Gié - Triêng thường chỉ có riêng dân tộc Gié - Triêng cư trú.
Các ngôi nhà trong làng được xây dựng theo kiểu thành hàng (ró). Các hàng có
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 7 | 14


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC GIÉ TRIÊNG | Hoàng Trần

thể song song, đối diện nhau theo kiểu đường phố, hoặc tạo thành vòng tròn bao
quanh ngôi nhà rông. Nhà rông là trung tâm sinh hoạt văn hóa tinh thần của làng,
được dựng ở giữa làng. Những nam thanh niên đến tuổi trưởng thành, đáng tuổi
lấy vợ mà chưa có vợ thì buổi tối ra ngủ ở nhà rông, ở nhà rông họ được nghe kể
truyện cổ tích, truyện lịch sử dân tộc và học nghề đan lát... Có thể nói nhà rông,
sinh hoạt nhà rông là môi trường góp phần hình thành nhân cách của con trai Gié
- Triêng cả khía cạnh lao động và khía cạnh xã hội.
Mỗi làng của người Gié - Triêng gồm nhiều nhà lớn (khui) họp thành. Thông
thường người đứng đầu khui cũng là người đứng đầu dòng họ (choong). Những
choong này tập hợp lại thành một tổ chức gọi là welmi (hội đồng) đê giải quyết
công việc của làng. Những thành viên khác của welmi thường là các cụ già có uy
tín (krạ). Krạ là người đại diện các gia đình lớn, do các gia đình đó cử ra. N gười
Gié - Triêng rất tôn trọng ý kiến của những người hiếu biết phong tục tập quán,
có kinh nghiệm sản xuất và có tài ngoại giao, tài ứng xử bênh vự c cho dân làng.
Welmi còn là toà án luật tục, thay mặt dân làng xử lý các vi phạm luật tụ c. Biện
pháp phạt thường tính bằng hiện vật. Những hiện vật hay phải nộp phạt là chiêng,
ché để bù cho người bị hại, một số gia súc và rượu để tạ lỗi thần linh, sau đó khao
dân làng.

3.2. Nhà ở
Nhà ở của người Gié - Triêng trước
đây là ngôi nhà lớn (khui). Mồi
khui lại ngăn thành từng gian cho
từng gia đình nhỏ (mủi). Dân tộc
Gié - Triêng có hai loại nhà: nhà
sàn và nhà đất. Nhà sàn thường chỉ
cao hơn mặt đất khoảng 0,8 đến lm.
Trên sàn nhà là người ở, còn dưới
gầm sàn thường để củi. Nhà nào
dưới gầm sàn nhiều củi là nhà đó có con gái chăm chỉ làm ăn. Loại nhà này phân
bố ở vùng Đắc Choong, Mương Hoong (xung quanh núi Ngọc Linh). Nhà đất
được dựng nhiều ở phía nam huyện Đắc Giây. Nhà đất thường có chiều dài
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 8 | 14


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC GIÉ TRIÊNG | Hoàng Trần

khoảng 30 - 40m. Cách bố trí bên trong hai loại nhà không có sự khác nhau: chia
thành các ngăn cho các gia đình nhỏ sử dụng làm buồng ngủ và bếp. Một số công
cụ lao động như: rìu, xà gạc để ở ngay trong bếp.
Trước kia, ở vùng Xóp Nghét, Mường Hoong, có loại nhà rất dài. Mỗi ngôi nhà
đồng thời là một làng, trong đó có gian chung dành cho khách mọi thành viên và
các gian nhỏ dành cho từng gia đình nhỏ. Hiện nay loại gia đình này không còn
tồn tại nữa.
3.3. Gia đình
Gia đình người Gié - Triêng là gia đình phụ quyền, nhưng không hoàn toàn phụ
hệ. Ở đây có điều khác với các dân tộc xung quanh là các con trai và con gái của
dân tộc Gié - Triêng lại mang hai họ khác nhau: con trai mang họ bố, con gái theo
họ mẹ.

3.4. Trang phục
Người Gié - Triêng tự túc trang phục
từ khâu trồng bông dệt vải đến khâu
may thành trang phục. Đồng bào ăn
mặc đơn giản: nam giới đóng khố, phụ
nữ mặc váy. Họ ở trần là chính. Khi
thời tiết trở lạnh, đồng bào khoác thêm
tấm mền mỏng.

3.5. Trang sức
Trang sức của người Gié Triêng khá cầu kì với
những khuyên tai và vòng tay được chế tác từ
bạc với những nét chạm khắc kết hợp với những
hoa văn được tạo nên từ những sợi tơ lụa.

N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 9 | 14


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC GIÉ TRIÊNG | Hoàng Trần

3.6. Ẩm thực
Người Gié - Triêng ăn cơm rau rừng là
chính. Thịt cá cũng chủ yếu là sản phẩm
săn bắn. Thú rừng hay đến nương phá hoại
lúa, đồng bào săn bắt được đem về làm thịt
ăn. Gia súc, gia cầm chủ yếu nuôi để phục
vụ cho các nghi lễ tâm linh, sau đó ăn thịt.
Cá bắt ở dòng sông Đắc
Pét. Rau rừng thông thường có rau xanh,
Láp- món đặc sản của người Gié Triêng


măng các loại, nấm hương, mộc nhĩ.

3.7. Phương tiện vận chuyến
Sống ở miền rừng núi, người Gié - Triêng cũng như
bao dân tộc khác sinh sống ở Tây Nguyên thường dùng
chiếc gùi để làm phương tiện vận chuyển những vật
cần chuyển: lúa, ngô, khoai, các loại lâm thổ sản..

3.8. Ngôn ngữ
Tiếng nói: Tiếng nói dân tộc Gié - Triêng thuộc hệ ngôn ngữ

Chiếc gùi

Nam Á, nhóm Môn - Khmer.
Chữ viết: Trong lịch sử dân tộc Gié - Triêng chưa có chữ viết riêng của dân tộc
mình. Hiện nay, trong sự phát triển chung của kinh tế xã hội đất nước, nhiều con
em người Gié - Triêng được đi học, tiếp thu và sử dụng chữ quốc ngữ.
3.9. Tín ngưỡng tôn giáo
Người Gié - Triêng tin vào vạn vật hữu linh. Mọi vật tồn tại trên thế gian này đều
có xác và hồn - linh hồn. Trời đất, sông núi, cây cỏ đều có linh hồn - Jàng (thần
linh), do vậy bất cứ khi bắt đầu việc gì cũng phải nghĩ đến jàng, cúng jàng, cầu
mong thần linh phù hộ độ trì. Là cư dân nông nghiệp, đồng bào tin là có thần đất
đai, thần núi, thần sông, thần cây lúa... do đó đồng bà o có nhiều nghi lễ cúng
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 10 | 14


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC GIÉ TRIÊNG | Hoàng Trần

jàng. Lễ vật cúng jàng có nhiều loại khác nhau, tùy thuộc vào mục tiêu cầu cúng

jàng. Lễ vật sử dụng để cúng jàng có thể là con gà, con heo; lễ vật cao nhất trong
cúng Jàng là con trâu - đâm trâu cúng jàng trở thành lễ hội của dân làng.
Lễ đâm trâu được tổ chức trước nhà rông. Trước ngày lễ, dân làng đều bắt tay vào
chuẩn bị. Nam giới đi chặt gồ, tre, lồ ô, nứa... làm cột buộc trâu; nữ giới chuẩn bị
rượu, thực phẩm, lấy nước... Người già điều khiển buổi lễ. Cúng jàng xong, dân
làng tổ chức ăn, uống rượu cần suốt ngày.
3.10.

Tục lệ cưới xin

Trước đây người dàn tộc Gié - Triêng kết hôn sớm. Nam từ 16 - 18 tuổi, nữ từ 13
- 14 tuổi đã kết hôn. Sau lễ cưới, đồng bào Gié - Triêng có tục cư trú luân phiên.
Lúc đầu cư trú bên nhà vợ, khoảng 3 - 4 năm tới lúc sinh con đầu lòng. Sau đó,
hai vợ chồng cùng đứa con chuyển sang cư trú bên nhà chồng với thời gian tương
tự như đã cư trú bên nhà vơ. Việc cư trú luân phiên được thực hiện cho đến khi
một trong hai bên cha mẹ chết hết thì sẽ về cư trú ổn định tại bên còn cha mẹ.
Phần chủ động trong hôn nhân thuộc về con gái. Thường thì khi cô gái đến tuổi
trưởng thành được bố, mẹ dựng cho chiếc chòi nhỏ ở rìa làng. Chiếc chòi là nơi
để cô gái hò
hẹn với bạn tình. Khi cô gái yêu anh
chàng nào thì tìm cách đánh tiếng
cho chàng trai biết trước. Trường hợp
con trai đồng ý thì đến chòi ngủ cùng
cô gái. Theo tập quán, chàng trai chỉ
có quyền đến ngủ với cô gái không
quá 5 tối. Nếu quá thời gian đó mà
nhà trai chưa ngỏ lời với nhà gái thì
làng có quyền phạt vạ. Lễ vật phải
nộp phạt là 1 con heo và 10 ché rượu.
Đám cưới người Gié Triêng


Trường hợp con trai ưng thuận lấy cô
gái, thì theo tập quán cô gái đó có thể

nhờ bạn bắt cóc chàng trai về làm chồng.
Thông thường đôi trai gái yêu nhau thì được cha mẹ chấp nhận. Khi đó hai bên
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 11 | 14


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC GIÉ TRIÊNG | Hoàng Trần

gia đình chuẩn bị lễ cưới mà không tiết lộ thông tin cho người ngoài biết. Theo
quan niệm của đồng bào, lễ cưới được tổ chức bất ngờ bao nhiêu thì càng hạnh
phúc bấy nhiêu. Hôm cưới, cô dâu bí mật “trốn” vào rừng để dân làng phải đi tìm
kiếm bắt về. Lễ cưới là một hệ thống gồm 5 lễ nghi khác nhau: lễ bìa, lễ tava, lễ
ta ỉu, lễ loon, lễ cheo yêng.
Đầu tiên, người ta tiến hành lễ bla. Trong buổi lễ, dân làng vây quanh những ché
rượu cần. Cô dâu và chú rể được bố trí ngồi đối diện nhau trước mặt người chủ
hôn. Chủ hôn cầm tay đôi tân hôn đặt lên con gà. Sau đó những người có mặ t đều
chạm tay vào con gà đó. Nếu ai không chạm tay vào con gà thì không có quyền
dự tiệc. Con gà đó được siết thịt và đem nấu lẫn với cơm. Đôi tân hôn, mỗi người
được một nắm cơm và một miếng gan gà. Cô dâu và chú rể ăn mỗi người một ít,
rồi đổi cho nhau ăn tiếp, sau đó đôi tân hôn uống chung một bát rượu cần và nghi
lễ bla kết thúc.
Nghi lễ bla được tổ chức có sự khác nhau ở một số nơi: Ở Xóp Nghét, lễ này
được gọi là lễ tuôm xa boóc xa xế(lễ ăn cơm canh). Hôm đó cô dâu và chú rể ngồi
đối diện với nhau trên một chõng tre, trước mặt ông mối. Đôi tân hôn thay nhau
dùng cơm, canh bằng một chiếc thìa gồ. Ở vùng sôn g Xê Ca Máng, lễ bla được tổ
chức theo hình thức đơn giản hơn. Bước vào buối lễ, người chủ trì đánh chiêng
tập trung dân làng tại nhà gái, rồi cử một số thanh niên đi bắt cô dâu, chú rể về.

Theo tục lệ, đôi tân hôn phải cùng nằm trên một chiếc chõng tre đặ t ở giữa nhà và
đắp chung một chiếc chăn mỏng. Người chủ lễ bứt mấy sợi tóc của đôi tân hôn bỏ
lẫn lên đầu nhau.
Thứ hai là nghi lễ tava. Để tiến hành nghi lễ này, người ta làm thịt một con lợn,
thịt con lợn đó được chia đôi cho hai gia đình nhà gái, nhà t rai để làm tiệc mời
dân làng. Dân làng đến dự tiệc đều mang quà, rượu mừng gia chủ.
Thứ ba là lễ talu. Lễ này được tiến hành trong nội bộ hai gia đình. Thực chất của
nghi lễ này là bữa cơm thân mật, nhận họ hàng, nhận thành viên mới của gia đình.
Thứ tư là lễ loong - lễ đưa củi. Sau nhiều tuần lễ, nhà gái mang củi sang nhà trai
xếp thành đống lớn. Người ta vấy rượu lên đống củi đó và khấn thần linh phù hộ
cho đôi vợ chồng sinh được nhiều con cái, khỏe mạnh. Trong lễ này, nhà trai tặng
nhà gái một số đồ mây tre đan; nhà gái tặng nhà trai những sản phẩm của nghề
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 12 | 14


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC GIÉ TRIÊNG | Hoàng Trần

dệt, ở vùng Đắc Pét là sản phẩm nghề gốm. Những sản phẩm dệt và gốm đều do
phụ nữ làm ra.
Thứ năm là nghi lễ cheo yêng - từ bỏ nhà rông. Dân tộc Gié - Triêng có tập quán,
trai đến tuổi trưởng thành thường ra ngủ ở nhà rông. Thực chất lễ này là lễ tạm
biệt những bạn bè mà trước đây cùng nhau sinh hoạt và ngủ đêm tại nhà rông khi
chưa lấy vợ. Sau nghi lễ cheo yêng, chàng re từ bỏ nhà rông và đôi tân hôn về
sống với cha mẹ vợ. Sau nghi lễ này, người chủ hôn dẫn đôi tân hôn về nhà, đặt
tay họ lên con lợn sẽ hiến sinh. Khi giết lợn, người ta lấy tiết bôi lên giường cưới,
với ngụ ý là cầu cho đôi vợ chồng sau này sinh được nhiều con cái.
3.11.

Sinh đẻ


Thông thường phụ nữ Gié - Triêng không đẻ ở nhà, mà đẻ ở rừng. Người chồng
làm cho vợ một chiếc lều ở tạm trong những ngày cừ chưa được vào làng. Đứa trẻ
sinh ra được tắm nước ấm và quấn tã lót đầy đủ, nhau được treo lên cây trong
rừng sâu.
Trước đây, người Gié - Triêng có tục lệ, nếu chẳng may người sản phụ bị chết thì
đứa trẻ sơ sinh cũng buộc phải chôn theo; nếu sinh đôi mà cùng giới tính thì
người ta giết ngay hai đứa trẻ đó, còn nếu sinh đôi mà khác giới thì người ta nuôi
bình thường, nhưng khi đến tuổi trưởng thành thì chúng phải lấy nhau. Đồng bào
Gié - Triêng cho rằng đó là ý trời đã định từ trước. Trường hợp lấy nhau chưa
được một năm đã sinh con thì bị dư luận cộng đồng lên án, cặp vợ chồng phải vào
rừng ở và giết trâu làm lễ cúng thần mới được về làng. Sau đẻ 10 ngày, người mẹ
mang con về nhà qua một cửa nhỏ mới trổ. Đồng bào cho rằng, lúc đó đứa trẻ và
người mẹ còn ô uế, nên không được vào nhà bằng cửa chính. Gia đình lớn tổ chức
lễ kết nạp đứa bé vào niên cấp với các chị em của nó.
Khi còn nhỏ, đứa trẻ luôn ở trên lưng mẹ khi mẹ làm lụng trên nương rẫy cũng
như khi làm các công việc ở nhà. Lớn lên con trai theo bố, theo anh đi lên rẫy, đi
săn bắn; con gái theo mẹ, theo chị đi lên rẫy, đ i hái lượm rau rừng, hái củi. Đến
tuổi trưởng thành, con trai ra ngủ ở nhà rông, con gái cà răng làm duyên.
3.12.

Tập quán tang ma

Theo quan niệm vạn vật hữu linh, người Gié - Triêng cho rằng, người sống có xác
và có hồn (huaỉ), khi chết biến thành ma (năm). Đồng bào quan niệm có hai loại
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 13 | 14


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC GIÉ TRIÊNG | Hoàng Trần

chểt là chết bình thường (chết tuổi già, bị bệnh) và chết không bình thường (chết

tai nạn ngã cây, rắn cắn, hổ vồ...). Người chết bình thường làm tang ma tại nhà.
Nghi lễ tang ma thể hiện lòng thương tiếc của người sống đối với người chết, là
nghi lễ đưa hồn - ma về với tổ tiên và đưa xác đi chôn. Hồn ma sẽ hóa thành con
chim tec bay về với tổ tiên. Người Gié - Triêng quan niệm tổ tiên của họ từ thời
xa xưa cư trú ở hai hang phía tây của tỉnh Quảng Nam. Hồ n ma sau vài lần hóa
kiếp sẽ trở lại kiếp người. Người Gié - Triêng chỉ trông nom mộ trong một thời
gian ngắn, rồi bỏ hẳn. Đồng bào không có tục làm lễ bỏ mã.
3.13.

Văn Hóa Nghệ Thuật

Người Gié-Triêng cũng như các tộc khác có kho tàng văn học dân gian phong phú với
những làn điệu dân ca cổ truyền, ca dao, tục ngữ, truyện cổ, âm nhạc truyền thống khá
đặc sắc. Bộ nhạc cụ phong phú, quý giá và quan trọng nhất là cồng chiêng, có khi cồng
chiêng tấu cùng với trống hoặc
ống nứa. Nguyên ống nứa cũng
là loại nhạc cụ để thổi, vỗ, gõ.
Các loại đàn sáo, khèn đều đơn
giản và thông dụng trong đời
sống âm nhạc như: sáo nhỏ
(Đinh Bbăm), sáo dọc (Đinh
Bul), đàn bầu (Đinh Đươl), đàn
Ót Groong... Đó là những nhạc
cụ không thể thiếu trong đời
sống tinh thần, trong các dịp lễ
hội lớn nhỏ, các dịp vui chơi ca
hát, cưới hỏi… của đồng bào GiéTriêng.

Sáo dọc của người Gié Triêng


N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 14 | 14



×