TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC Ê ĐÊ | Hoàng Trần
TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC Ê ĐÊ
MỤC LỤC:
1.
Dân Tộc Ê Đê ......................................................................................................................... 2
2.
Kinh Tế Truyền Thống ......................................................................................................... 2
3.
2.1.
Trồng trọt.......................................................................................................................... 2
2.2.
Chăn nuôi ......................................................................................................................... 4
2.3.
Khai thác tự nhiên ............................................................................................................ 5
2.4.
Ngành nghề thủ công........................................................................................................ 6
2.5.
Trao đổi, mua bán............................................................................................................. 6
Văn hoá truyền thống ............................................................................................................ 7
3.1.
Làng (buôn) ...................................................................................................................... 7
3.2.
Nhà ở ................................................................................................................................ 8
3.3.
Gia đình .......................................................................................................................... 10
3.4.
Trang phục...................................................................................................................... 11
3.5.
Ẩm thực .......................................................................................................................... 12
3.6.
Phương tiện vận chuyển ................................................................................................. 13
3.7.
Ngôn ngữ ........................................................................................................................ 14
3.8.
Tín ngưỡng tôn giáo ....................................................................................................... 14
3.9.
Tục lệ cưới xin ............................................................................................................... 16
3.10.
Tang ma ...................................................................................................................... 18
3.11.
Văn học nghệ thuật ..................................................................................................... 22
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 1 | 25
TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC Ê ĐÊ | Hoàng Trần
1. Dân Tộc Ê Đê
Dân số : 331.194 người (2009)
Ngôn Ngữ: thuộc hệ ngôn ngữ Nam Đảo,
nhóm ngôn ngữ Malayo - Polinesia
Tên gọi khác:
Anăk Ea Ðê, Ra Ðê (hay
Rhađê), ê Ðê - êgar, Ðê.
Nhóm địa phương:
Ra đê, Đê, Kpa, A
dham, Krung, Ktul, Dliê ruê, Blố, Epan,
Mthur, Bih
Địa bàn cư trú:Đắk Lắk,Phú Yên, Đắc
Nông, Khánh Hòa
Địa bàn cư trú:
Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, người Ê Đê ở Việt Nam có dân số
331.194 người, cư trú tại 59 trên tổng số 63 tỉnh, thành phố. Người Ê Đê cư trú
tập trung tại tỉnh: Đắc Lắc (298.534 người, chiếm 17,2% dân số toàn tỉnh và
90,1% tổng số người Ê Đê tại Việt Nam),Phú Yên (20.905 người),Đắc Nông
(5.271 người),Khánh Hòa (3.396 người).
2. Kinh Tế Truyền Thống
2.1. Trồng trọt
Dân tộc Ê Đê cũng như các dân tộc khác ở nước ta, có nghề sinh sổng chính là
nông nghiệp: trồng trọt và chăn nuôi. Trong trồng trọt cùa người Ê Đê, rẫy (hma)
có vị trí quan trọng hàng đầu, còn ruộng nước chiếm tỉ lệ không lớn lắm. Ruộng
chỉ có ở một số nơi ven các sông, hô; còn rẫy thì có ở khắp nơi.
Dân tộc Ê Đê thường chọn bãi đất bằng, gần nước để làm rẫy, đồng thời quan tâm
đến việc bảo vệ rừng, không khai thác đất, rừng quá đáng để rừng trở thành
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 2 | 25
TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC Ê ĐÊ | Hoàng Trần
những đồi trọc, bị
xói mòn quá mức
không còn khả năng
phục hôi trong vài ba
năm. Để xử lý, đồng
bào Ê Đê thực hiện
sản xuất trên rẫy
theo hai cách: làm
rẫy luân khoảnh và
để các khoảnh rừng
giữa các rẫy.
Rẫy của người Ê Đê (Ảnh minh họa)
Với thói quen canh tác trên rẫy là chính, đồng bào sản xuất tại một đám rẫy trong
chu kỳ vài năm, sau đó bỏ hóa rẫy một thời gian đế cỏ cây tự nhiên tự mọc lại,
đất tự phục hồi, đồng bào trở lại canh tác theo chu kỳ. Chu kỳ luân kh oanh phụ
thuộc vào chất đất từng rẫy, có rẫy một chu kỳ sản xuất là 5 - 10 năm, hoặc 10 15 năm, cũng có chu kỳ kéo dài từ 15 đến 20, 30 năm. Do đất Tây Nguyên màu
mỡ, độ dốc không cao, cho nên chu kỳ sản xuất thường dài. Mỗi gia đình thường
có nhiều mảnh đất làm rẫy, cho nên chu kỳ quay vòng rẫy thưòng kéo dà i 20 - 30
năm. Ở vùng đồng bào Ê Đê, việc sử dụng giống lúa gieo trồng trên các rẫy mới
và rẫy cũ có khác nhau. Rẫy khai phá năm đầu thường gieo trồng các giống mđiê
blăng. Rẫy đã sử dụng từ 3 đến 5 năm kpuh thì gieo trồng, các loại giông mdiê
săn, mdiê kê, còn rẫy đà canh tác lâu hơn thì trông mdiê răng. Khi lúa trên rẫy
cho năng suất thấp, thì người ta cho hóa (ksor). Các giống lúa khác nhau có thời
gian sinh trưởng khác nhau. Có giống lúa n gắn ngày, có giống lúa dài ngày. Việc
gieo trồng các giống lúa khác nhau còn liên quan đến lúc thu hoạch: thu hoạch lúa
ngắn ngày xong, lúa dài ngày chín rộ, đồng bào thu hoạch tiếp.
Khi phát rẫy ở những vùng đất đai rộng đồng bào thường để lại những khoảnh
rừng có cây cối rậm rạp khá rộng, giữ cây kơ nia trên rẫy để có bóng mát, trồng
các cây ăn quả nhưng đồng thời cũng là cây đánh dấu quyền sở hữu. Đồng bào có
ý thức coi những cây đó là hình thức bảo vệ rừng.
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 3 | 25
TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC Ê ĐÊ | Hoàng Trần
Việc chọn đất làm rẫy thuộc về trách nhiệm của chủ nhà. Đồng bào chọn đất mới
khai phá bằng cách bổ nhát cuốc đầu tiên xuống vùng đất định chọn. Nhát cuốc
đó được coi là dấu hiệu xác định đất đã có chủ sở hữu. Trên rẫy, lúa là cây trồng
chính, ngoài ra đồng bào còn trồng ngô, khoai lang, bí, dưa, ớt, thuốc lá, bông.
Trên rẫy đất bằng, để bảo vệ mùa màng, đồng bào đặt một số bẫy xung quanh trên
những lối đi quen thuộc của chúng; trong rẫy thì đặt một số bù nhìn và mõ để xua
đuổi muông thú. Công cụ làm rẫy thường là rìu, cuốc, xà gạc. Thu hoạch bằng
cách dùng tay tuốt hoặc bằng liềm và vận chuyển thóc về nhà bằng chiếc gùi nan
tre.
Bên cạnh việc canh tác trên rẫy, ở vùng ven hồ Lak, ven sông Krông Nô, Krông
Ana, đồng bào Ê Đê làm ruộng nước. Nhóm người Bih sinh sống ở vùng này làm
ruộng vào mùa mưa khi nước dâng lên. Mùa cấy lúa từ tháng 4, tháng 5 đến tháng
9, thu hoạch vào tháng 11, tháng 12. Trước kia đồng bào cấy khi mạ được một
tháng tuổi và để nguyên cả ngọn... Việc làm đất cho ruộng mạ cũng như ruộng
cấy đều thực hiện theo phương pháp dùng trâu quần - một phương pháp làm đất
xuất hiện trong, nông nghiệp thời cổ đại, gọi là thủy nậu. Trâu quần làm nát cỏ,
nhuyễn đất tạo thành lớp bùn trên mặt ruộng, khi đó người ta xuống cấy. Đồng
bào Ê Đê làm ruộng ở vùng này thường cấy mau và nhỏ dảnh, mục đích là hạn
chế cỏ dại mọc lên ở ruộng lúa.
Mặc dù phương pháp canh tác đơn giản, nông cụ thô sơ, nhưng nhờ đất đai màu
mỡ và có kinh nghiệm chọn đúng thời vụ, nên thu hoạch ở rẫy cũng như ở ruộng
thường đạt năng suất từ một đến hai tấn lúa trên một ha.
2.2. Chăn nuôi
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 4 | 25
TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC Ê ĐÊ | Hoàng Trần
Dân tộc Ê Đê chú ý phát
triển chăn nuôi gia đình,
đồng bào nuôi trâu, bò, dê,
lợn gà, vịt, ngan, ngỗng.
Một số nhà giàu còn nuôi
voi. Gia đình có voi được
coi là có “số” làm ăn.
Thông thường con vật
nuôi được chú ý trong
chăn nuôi gia đình là con
trâu, con bò. Bởi con trâu,
con bò là biểu hiện của sự
giàu có, là con vật định giá, có thể đem ra trao đổi lấy cồng, chiêng, ché, nồi
đồng và các đồ trang sức quý giá khác, đồng thời là con vật hiến sinh trong nghi
lễ cúng giàng. Các loại gia súc, gia cầm khác được đồng bào Ê Đê chăn nuôi để
có nguồn thực phẩm dùng trong các dịp cưới xin, ma chay, cúng bái. Theo quan
niệm
Chống rét cho vật nuôi vào những ngày rét
truyền thống của đồng bào, trong các dịp cưới xin, ma chay, cúng bái, hiến sinh
nhiều gia súc, gia cầm là thể hiện sự giàu sang, quyền uy và địa vị xã hội của
người chủ.
2.3. Khai thác tự nhiên
Hái lượm và săn bắt luôn có vị trí quan trọng trong đời sống của cư dân với nền
kinh tế tự túc, tự cấp. Đi làm rẫy, đi vào rừng, đồng bào Ê Đê luôn có ý thức hái
lưọm, săn bắt những thứ ăn được mang về. Người Ê Đê lấy rau rừng, hoa quả dại
măng rừng, nấm hương, mộc nhĩ trên rừng về ăn; lấy tre, gỗ về làm nhà ở, làm
dụng cụ gia đình, lấy củi đun hàng ngày. Săn bắt muông thú rừng cũng được nam
thanh niên chú ý và sản phẩm thu được từ săn bắt trở thành nguồn lợi đáng kể.
Săn thú rừng được thực hiện ở rừng của làng. Khi săn được thú, đồng bào có thói
quen chia cho các gia đình, mời bà con ăn uống chung mừng cho cái may đã đến.
Theo truyền thống, nhiều nơi đồng bào cỏ lâm thổ sản và thịt thú rừng dùng
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 5 | 25
TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC Ê ĐÊ | Hoàng Trần
quanh năm. Đánh cá cũng là nguồn lợi đáng kể đối với cư dân sinh sổng ở ven hồ,
ven sông. Có nơi người ta tổ chức đánh cá chung vài ngày. Ở vùng này, nhiều gia
đình không chỉ có cá ăn thường xuyên, mà còn có cá sấy khô để đổi lấy muối, vải,
lụa... Săn bắt và đánh bắt cá là những hoạt động có tính phiêu lưu, may rủi, không
chỉ được nam thanh niên ưa thích, mà người tài giỏi trong việc này còn được dân
làng đánh giá cao về khả năng kiếm sống.
2.4. Ngành nghề thủ công
Với nền kinh tế tự cấp tự
túc, đồng bào Ê Đê có
ngành nghề thủ công khá
phát triển. Một số ngành
nghề thực sự đã có giá trị
góp phần tự cung cấp sản
phẩm cần thiết cho đời sống
của người Ê Đê: nghề mộc,
nghề rèn, đan lát, nghê gốm,
nghề dệt. Với nghề mộc làm
Nghề mộc của người Ê Đê khá phát triển
nhà, tạc tượng gỗ, khẳc phù điêu đã giúp dân tộc Ê Đê làm ra những sản phẩm rất
đặc thù: trên ngôi nhà dài, trên cầu than g; lên nhà, quá giang trong nhà có nhiều
phù điêu như vú phụ nữ, hình những con vật như con voi, hình n gười, hình quả
bầu... Nghề mộc còn làm ra các sản phẩm điêu khắc xung quanh nhà mồ. Ở n gười
Ê Đê, nghề rèn khá phát triển, đồng bào tự làm lưỡi rìu, lười cuốc, chà gạc, mũi
lao dùng trong săn bắt; tự làm những đồ trang sức bằng đồng. Nghề đan lát đồ
mây tre được từng gia đình quan tâm. Những sản phẩm của nghề đan lát gồm có:
gùi đeo vai, chiếu. Những sản phẩm của nghề gốm là nôi nấu cơm, những chiếc
âu đựng thức ăn; sản phẩm của nghề dệt là vải mặc trong gia đình.
2.5. Trao đổi, mua bán
Do nền kinh tế tụ túc nên việc trao đối buôn bán chưa phát triển nhiều, tuy nhiên
có một sô đồ dùng người Ê Đê cần nhưng chưa tự sản xuất được do vậy việc trao
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 6 | 25
TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC Ê ĐÊ | Hoàng Trần
đổi hàng là nhu cầu tất yếu. Để đổi lấy hàng theo nhu cầu như cồng, chiêng, ché,
những đồ trang sức bằng bạc... đồng bào Ê Đê thường dùng trâu, bò đê làm vật
định giá. Thông thường có hai cách tiến hành trao đổi hàng là người Ê Đê đưa
trâu, bò đi xuống vùng đồng bằng miền nam Trung Bộ. sang Campuchia để đổi
lấy hàng, hoặc có những đoàn thương lái người Kinh hoặc người Campuchia chở
những hàng mà người Ê Đê cần như công chiêng, ché, đô trang sức bàng bạc đến
tận làng Ê Đê sinh sổng để trao đổi lấy trâu, bò, voi, đôi khi thương lái lấy cả lợn.
Một năm có thể có một đôi lần đồng bào tổ chức đi trao đôi buôn bán như vậy vào
mùa nông nhàn, thời tiết khô.
Có tư liệu nói đến việc buôn bán nô lệ sang Campuchia, Lào, Thái Lan. Tuy nhiên
đây vẫn là những hiện tượng rất hi hữu.
3. Văn hoá truyền thống
3.1. Làng (buôn)
Buôn là đơn vị xã hội cơ sở của
dân tộc Ê Đê. Mồi buôn có một
phạm vi địa vực khá rộng, có
thể là vài kilômét vuông. Phạm
vi đó được xác định bằng đường
ranh giới tự nhiên, do dân làng
quy ước với nhau, được dân
làng đó cũng như người làng
khác thừa nhận và tôn trọng.
Trong buôn có đất tư và đất
công. Đất tư là đất được từng gia
đình khai thác làm nhà ở, nhà kho
Làng Ê Đê với những ngôi nhà dài gần nhau
lúa, làm rẫy; còn đất công là đẩt chưa được khai phá, là đất để dự trừ cho dân làng khai
phá làm rẫy mới, để cho dân làng thả rông trâu, bò; để cho mọi người trong làng có thể
khai thác lâm thổ sản: gỗ, lồ ô, măng, nấm hương, mộc nhĩ, các loại rau rừng, săn bắn
muông thú....
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 7 | 25
TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC Ê ĐÊ | Hoàng Trần
Dân tộc Ê Đê theo chế độ mẫu hệ (hệ mẹ). Trong một buôn thường chỉ có những người
cùng dòng tộc bên mẹ hoặc những người có quan hệ hôn nhân cùng cư trú. Họ cùng nhau
khai phá đất đai làm ăn. Do vậy quan hệ cộng đồng buôn được duy trì khá bền vững.
Trước đây, trong các buôn, những gia đình cùng dòng tộc thường cư trú bên nhau, có
người đứng đầu, có lai lịch dòng họ và đôi khi còn có những tập quán sinh hoạt riêng của
buôn.
Quản lý truyền thống buôn làng của dân tộc Ê Đê có hai chức danh là Pô lăn (người chủ
đất) và Pô pin ea chủ bến nước. Với chức danh là người chủ đất, Pô lăn đại diện cho dòng
họ. Người Ê Đê cho rằng tất cả các dòng họ đều sinh ra từ hai dòng họ gốc: Niê và Mlô,
trong đó dòng họ Niê Kdăm là họ làm chủ đất. Pô lăn quản lý đất đai và đồng thời là
người đại diện quyền sở hữu đất đai của dòng họ. Phạm vi đất đai một Pô lăn quản lý có
thể là một hay nhiều làng. Ngược lại có khi một làng lại có nhiều Pô lăn. Chức danh Pô
lăn do một người phụ nữ đảm nhiệm. Người phụ nữ này cũng giữ vật thiêng của dòng họ,
được coi là do thần ban cho.
Chức danh là chủ bển nước, nhưng trên thực tế, Pô pin ea không chỉ trông nom bến nước
mà còn quản lý, điều hành mọi công việc của buôn làng về các mặt dân chính, quân sự,
an ninh, thần quyền và quan hệ với bên ngoài. Pô pin ea tồn tại cho đến đầu thế kỉ XX.
Sau này khi người Pháp lên cai trị trên Tây Nguyên đã đặt ra bộ máy cai trị mới với chức
danh khoa buôn.
Giúp việc cho Pô lăn về quân sự có K’eng, về toà án có Pô phát kải, về cúng bái có Pô riu
yang (người tế tự) và mjào (thầy cúng).
Trong xã hội cổ truyền người Ê Đê có sự phân hóa giàu nghèo: người đi làm thuê, làm
mướn, có người làm nô lệ cho chủ gia đình. Tuy nhiên chủ gia đình vẫn luôn là người
trực tiếp lao động.
3.2. Nhà ở
Dân tộc Ê Đê ở nhà sàn, trước đây có nhiều nhà dài. Khi nói đến chiều dài ngôi nhà, đồng
bào hay nói đến số lượng dầm ngang (đê) tương ứng với một đôi cột. Nhà có bao nhiêu
dầm ngang là có bấy nhiêu gian. Nhà của các dân tộc Tây Nguyên nói chung và nhà của
đồng bào Ê Đê nói riêng không có các vì kèo, mà chỉ có cột và dầm ngang (quá giang).
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 8 | 25
TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC Ê ĐÊ | Hoàng Trần
Bộ xương mái nhà gồm một lớp kèo giả, những hàng đòn tay, rui, mè. Mái được lợp bằng
cỏ gianh. Do vậy, khung cột và mái nhà là hai bộ phận tách rời nhau, nhưng được ghép
lại với nhau khi dựng nhà.
Nhà ở của người Ê Đê được
dựng theo hướng bắc nam, khác
với nhà mồ dựng theo hướng
đông - tây, mái nhô ở hai đầu
hồi. Phên dựng ở hai đầu hồi
thẳng đứng, còn phiến dựng dọc
theo chiều dài của nhà thì ngả ra
hai bên. Nhìn từ xa, ngôi nhà có
dáng một chiếc thuyền. Ngôi
nhà có hai cửa đi lại. Cửa phía
trước dành cho nam giới và khách nam; còn cửa phía sau dành cho phụ nừ đi lại. Cửa
trước thường hướng đông, trước cửa có sàn, cầu thang lên sàn đổi với nhà dân thường là
một khúc gỗ tròn đẽo bậc; còn đối với nhà giàu là một tấm ván to cũng đẽo bậc, đầu trên
đẽo uốn về phía trước trông có dáng đầu con thuyền với những hình chạm nổi như trăng
khuyết, đôi vú đàn bà. Có gia đình làm thêm sàn ở cửa phía tây, dành cho trai gái ngồi trò
chuyện.
Không gian trong nhà theo chiều dọc được bố trí gồm hai phần theo một trật tự ổn định.
Từ cửa chính đi vào là một không gian rộng, chiếm khoảng 1/3 hay 2/5 của ngôi nhà.
Khoảng không gian này được gọi là gah, phần không gian còn lại gọi 1 ôk. Gah là nơi
tiếp khách, nơi đây có bếp nấu ăn khi có khách, đồng thời đây cũng là nơi sinh hoạt
chung của gia đình, nơi cúng thần linh, chỗ ngủ cho con trai chưa vợ, nơi để nhiều đồ vật
quý. Giữa gah và ôk được ngăn bởi cột kilômeie kpăng. Trong gah, có cột phía đông và
cột phía tây. Cột phía đông là cột chủ, bên cạnh cột kê một phản độc mộc để người đứng
đầu gia đình ngồi khi có hội họp. Sát vách sau cột phía đông là nơi để một hàng ché. Bên
cạnh bếp khách còn có một bếp dùng nấu ăn khi có nghi lễ. Xưa kia ở gian gah nhiều gia
đình còn có bếp cho trai gái trò chuyện. Cột phía tây là cột trống, nơi đặt trống. Tại đây
có chiếc ghế kpan cao khoảng 0,5m, dài từ 10 - 20m là ghế của nhạc công đánh cồng,
chiêng, đánh trống. Gầm ghế thường để chiêng, cồng. Phần ôk theo chiều dọc phía đông
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 9 | 25
TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC Ê ĐÊ | Hoàng Trần
là buồng ngủ của từng cặp vợ chồng, mồi buồng ngủ là một gian trong ngôi nhà dài. Giữa
các buồng ngủ được ngăn bằng phên tre. Các buồng ngủ được sẳp xếp theo thứ tự: buồng
thứ nhất từ cửa sau vào là buồng của vợ chồng người đứng đầu gia đình, tiếp đến là
buồng để đồ dùng gia đình, cũng là buồng dành cho con gái út - người thừa kể gia đình,
khi lấy chồng thì sử dụng. Tiếp theo nữa là buồng của các cô con gái cả, con gái thứ. Phía
trước buồng ngủ mỗi cặp vợ chồng đều có bếp riêng. Người Ê Đê chỉ ngủ quay đầu về
phía đông.
Kho lúa thường dựng cao hơn nhà ở. Sau nhà dài là nhà kho chứa lúa. Nhà kho lúa được
dựng với yêu cầu tuyệt đối là chim muông, chuột không vào ăn lúa được. Mặt sàn kho lúa
hình vuông, có thể chứa được 2 - 3 tấn thóc trở lên.
Người Ê Đê còn dựng nhà cúng cơm (sang êsêi), nhà mô (puk msat). Nhà cúng cơm dựng
ở nghĩa địa, trên cột gỗ có chạm trổ đẹp, vách thượng thu, hạ thách. Nhà mồ dựng ngay
trên mồ, xung quanh mồ có các cột, trên đó có hình người đội nón duôn bai, hình bầu
đựng nước, cối giã gạo, voi, rùa, kỳ đà.
3.3. Gia đình
Gia đình người Ê Đê trước đây là gia đình lớn, theo chế độ mẫu hệ, mẫu quyền. Trong
gia đình có thể có 3 - 4 thế hệ cùng sinh sống trong một ngôi nhà dài hàng chục mét. Con
cái tính theo dòng mẹ. Con gái là người kế thừa tài sản, chăm sóc phần mộ của gia đình,
dòng tộc. Trong gia đình, mọi người cùng lao động, cùng hưởng thụ theo nguyên tắc dân
chủ, bình đẳng, công bằng và nhường nhịn nhau. Điều hành gia đình lớn là một bà chủ đàn bà lớn tuổi, bậc trên {khoa sang). Trong nhà dài tuy có nhiều đôi vợ chồng cùng sinh
sổng, nhưng chỉ có một bếp nấu ăn. Bà chủ là người duy nhất được vào kho thóc lấy thóc
ra nấu cơm. Sau này, tuy có nhiều bếp để các đôi vợ chồng tự nấu ăn riêng trong các căn
nhà dài, nhưng bà chủ vẫn có vai trò hướng dẫn con cháu làm ăn và giúp đỡ nhau trong
cuộc sổng.
Gia đình Ê Đê đã phản ánh sự phân hóa xã hội. Đen làng Ê Đê ta có thể nhận biết những
nhà giàu có. Đó là những ngôi nhà dài, có khi đến 200 mét, sàn hiên rộng, cầu thang to
bản, được trang trí hình chạm nổi. Phía đầu sàn thấy có hai cột nhô lên là dấu hiệu chỉ gia
đình đó nuôi voi. Trong nhà người giàu có nhiều hiện vật có giá trị: có ghế dài kpan, ghế
pưng độc mộc. Ngoài thóc dư thừa, nhà giàu còn có nhiều đồ vật quý như: đồ trang sức,
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 10 | 25
TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC Ê ĐÊ | Hoàng Trần
bát đĩa bang sứ; có nhiều cồng, chiêng, ché, nồi đồng; có nhiều chăn, váy, áo; có nhiều
trâu, bò...
Để có vị trí trong xã hội và được thừa nhận là lớp người giàu của địa phương, ngoài của
cải trên còn phải tổ chức khao làng. Nghi lễ phong tục này cũng có nhiều thang bậc, theo
thứ tự từ nhỏ đến lớn, có 7 bậc như sau: bậc 1, Mnu tlâo, kpiê tlâo, phải hiển sinh 3 con
gà, 3 ché rượu, cúng 1 lần; bậc 2, ưn bong, kpiê tlăo, phải hiển sinh 3 con lợn chưa thiến,
3 ché rượu, cúng 3 lần; bậc 3, Un kreo, kpiê êna, phải hiến sinh 1 con lợn thiến và 5 ché
rượu, cúng 2 lần; bậc 4, Un keo kpiê ljuh, phải hiến sinh 1 con lợn thiến và 7 ché rượu,
cúng 1 lần; bậc 5, Èmô knô, kpỉê êma phải hiến sinh 1 con bò đực và 5 ché rượu, cúng 2
lần; bậc 6, khao knô kpiê êma phải hiến sinh 1 con trâu đực và 5 ché rượu, cúng 2 lân;
bậc 7, Khao knô kpiê kjuh, phải hiến sinh 1 con trâu đực và 7 ché rượu, cúng 2 lần.
Người giàu trong xã hội Ê Đê vẫn tham gia lao động, nhưng họ cũng có một số hành vi
thể hiện là người chủ như sử dụng nô lệ gia đình, nhận của biếu xén, cho vay nặng lãi,
thuê mướn nhân công. Nô lệ gia đình thường là những tù binh, những kẻ góa bụa, người
nghèo không nơi nương tựa hoặc những người mắc tội không có của nộp phạt. Tuy là nô
lệ gia đình, nhưng họ có thể có bếp ăn ngay trong gia đình nhà chủ. Những người được
chủ nhà đánh giá là tốt, có thể được giải phóng, trở thành người tự do (êngiê).
3.4. Trang phục
Tuy hình thành nhiều nhóm địa phương, nhưng y
phục Ê Đê lại tương đối thống nhất. Phụ nữ Ê Đê
mặc váy dài và áo chui đầu. Nam giới mặc áo
cánh, xẻ trước ngực, chiều dài quá mông và đóng
khố.
Váy (myêng lang) của người Ề Đê là váy quấn, cạp
váy và gấu váy dệt hoa văn. Căn cứ vào các dải
hoa văn được gia công nhiều hay ít, người ta chia
váy ra làm nhiều loại. Loại tốt là myêng đếch, rồi
đến myêng drai, myêng piêk. Váy thường ngày
mặc đi làm trên rẫy là bơng. Ngày nay thanh niên
thường mặc váy ổng (khâu kín thành hình ống),
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 11 | 25
TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC Ê ĐÊ | Hoàng Trần
bàng lụa (myêng mút), nhiều khi không thêu. Áo chui đầu của phụ nữ có thêu hoa văn ở
vai, nách, cổ tay, gấu áo (ao đếch). Phụ nữ còn có áo lót cộc tay. Phụ nữ Ê Đê để tóc dài,
búi tó, xưa kia còn đội nón duôn bai. Khố của đàn ông Ê Đê có hoa văn ở hai mép vải và
hai đầu khố. Hai đầu khố còn có nhiều tua vải màu thâm. Khố cũng có nhiều loại, được
phân loại theo chiều dài và chất lượng các dải hoa văn trên khố. Khố đẹp nhất là khổ
ktêh, tiếp là drai, kdruêch piêk. Khố bong và băl là loại khố thường, dùng đi làm rẫy hàng
ngày. Áo nam giới có hoa văn dệt dọc hai bên nách, ở
gấu, vai và cổ tay. Màu vải may váy, áo truyền thống là
màu chàm. Chiếc áo đàn ông có giá trị nhất cua những
người quyền quý còn có dải hoa văn ở dọc hai bên nách
và gấu áo, thân sau có đính hạt cườm. Trên ngực áo có
đính những sợi chỉ đỏ làm chân khuyết và khuy tạo
thành một mảng hình thang cân, đáy lớn ở trên giống
như đôi cánh chim, tượng trưng cho “đại bàng dang
cánh” tung bay giữa rừng núi Tây Nguyên bạt ngàn đầy
nắng gió.
Trang sức: Nam nữ dân tộc Ê Đê đều mang đồ trang
sức bằng bạc hay đồng. Các đồ trang sức như khuyên
tai, vòng tay, chuỗi hạt cườm đeo cổ thường được ưa dùng.
3.5. Ẩm thực
Bữa ăn thường ngày của người Ê Đê có cơm tẻ, rau xanh, bát muối ớt. Cơm nếp được
dùng khi có khách hoặc trong các dịp tết. Ngô, khoai, sắn cũng là nguồn lương thực quan
trọng, nhất là những lúc giáp hạt, mùa màng thất bát. Ngoài cơm nâu, xôi đổ, đồng bào
còn làm nhiều loại bánh trong các dịp lễ tết. Thức ăn trong các dịp lễ tết thường có thêm
cá, thịt gia súc hay thịt thú rừng. Con trâu, con gà, con vịt sau khi bị giết chết, người ta
đem thui qua lửa cho cháy cơ bản hết lông rồi mới vặt những lông còn sót lại. Cách chế
biến thức ăn cũng rất đa dạng. Thịt gà thường luộc cả con hoặc chặt nhỏ nấu canh. Các
loại thịt gia súc thường được chế biến thành nhiều món khác nhau như: thịt nướng (ăm),
thịt nướng bằng cặp tre có gia vị (ghangj), thịt luộc (tuk), thịt nấu với rau quả (tnk djam),
thịt kho hay ninh nhừ, thịt nhồi trong ống tre có ướp gia vị (chim brông). Riêng món tiết
của các con vật cũng được chế biến thành nhiều món: tiết canh lợn được chế biến từ thịt
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 12 | 25
TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC Ê ĐÊ | Hoàng Trần
chín băm nhỏ hay thịt tươi băm nhỏ trộn với huyết tươi (priêng láp), còn tiết tươi của
trâu, bò, dê trộn với thịt sống băm nhỏ ăn liền (mtah). Cá thường nướng (ăm và ghang),
luộc (tukdjam), gói lá nướng (kơum). Người Ê Đê còn làm mắm (lih) tôm, cua, cá với gia
vị để trong các vò, sành ăn dần. Ăn trầu và
hút thuốc lá bằng điếu khan là khá phổ biến.
Canh cà đắng đầu cá
trích của người Ê Đê
(Ảnh sưu tầm)
Trong bừa ăn của đại gia đình, bà chủ (khoa
sang) là người đơm cơm canh cho các thành viên của gia đình. Mỗi người trong gia đình
đều có bầu nước uống riêng không dùng lẫn của nhau. Trước đây đồng bào uống nước lã
lấy từ sông, suối, cho nên ý thức giữ sạch nguồn nước từ trước rất được đề cao. Đồng bào
có tập quán uổng rượu cần trong những ngày lễ tết, khi có khách đển chơi nhà.
3.6. Phương tiện vận chuyển
Chiếc Gùi
Cư dân miền núi nói chung và người dân
tộc Ba Na nói riêng chọn cách vận chuyển
hàng bàng cách dùng chiếc gùi đeo trên
lưng. Gùi có nhiều loại to nhỏ khác nhau,
loại to dùng cho người lớn, loại nhỏ dùng
cho trẻ nhỏ. Người đi làm, ra khỏi cửa lúc
nào cũng đeo chiếc gùi sau lưng. Tính hợp
lý của chiếc gùi là thích hợp với việc đi lại
nơi miền núi có nhiều cây hoang dại có thể
thu hái về làm rau ăn được.
Chiếc Gùi
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 13 | 25
TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC Ê ĐÊ | Hoàng Trần
3.7. Ngôn ngữ
Tiếng nói: Tiếng nói dân tộc Ê Đê thuộc ngữ hệ Nam Đảo nhóm Malayo - Polinesia. Ở
nước ta hiện có 5 dân tộc có tiếng nói thuộc hệ ngôn ngữ này. Các dân tộc này đều sinh
sống chủ yếu ở các tỉnh Nam Trung Bộ.
Chữ viết
Trước đây người Ê Đê chưa có
chữ viết riêng của dân tộc mình.
Thời Pháp thuộc, thực dân Pháp
đã xây dựng chữ viết cho một số
dân tộc ở Tây Nguyên, trong đó
có chữ cho dân tộc Ê Đê (năm
1923). Bộ chữ viết Ê Đê do Pháp
xây dựng được dựa trên bộ chữ
cái La tinh. Người Pháp cũng
đưa vào bộ chữ này những dấu
hiệu mang nét đặc trưng của chữ Pháp (chữ “H” câm, dấu phẩy). Sau cách mạng tháng
Tám năm 1945, nhà nước ta đã xây dựng chữ cho dân tộc Ê Đê. Bộ chữ này cũng được
xây dựng trên cơ sở bộ chữ cái La tinh. Hiện nay được sử dụng rộng rãi trong dân tộc Ê
Đê để ghi chép thơ ca dân gian, làm phương tiện giảng dạy trong giáo dục tiểu học...
3.8. Tín ngưỡng tôn giáo
Dân tộc Ê Đê tin vào vạn vật hữu linh, mọi vật xung quanh ta đều có linh hồn - thần linh.
Linh hồn của vạn vật tồn tại ngay trong vạn vật đó. Người Ê Đê quan niệm đất và nước
đều do các thần Aê Điê và Aê Đu sáng tạo ra.
Sau khi được sáng tạo ra đất và nước lại có thần riêng của mình, song giữa chúng vẫn có
quan hệ chặt chẽ với nhau, cùng nhau chi phối cuộc sống của dân làng. Các chức sắc
trong làng như Pô lăn, Pô Pin ea là những con người trần, mắt thịt, nhưng lại là những sứ
giả của thần linh, đại diện cho thần linh quản lý đất và quản lý nước của làng theo ý thần
linh.
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 14 | 25
TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC Ê ĐÊ | Hoàng Trần
Pô lăn trông nom đất đai, bảo vệ đất đai luôn màu mỡ để nuôi sổng cây cối, nuôi sống
người. Con người khi khai phá đất đai phải tuân theo tập tục, thực hiện những kiêng kỵ
và các nghi lễ cần thiết đối với thần đất để mùa màng được tươi tốt, dòng họ và bản làng
phát triển. Hàng năm vào đầu mùa sản xuất (có khi vài ba năm) dân làng phải làm lễ cúng
thần đất Vong lăn. Lễ cúng thần đất do Pô lăn chủ trì và được tổ chức trọng thể, nghiêm
túc.
Pô Pin ea trông nom nguồn nước để
nguồn nước luôn không bị huỷ hoại,
không bị uế tạp. Vào cuối mùa khô
(tháng 2, tháng 3) hàng năm dân làng
tổ chức cúng thần nước tuk ea hay tring
ea tại bến nước. Cũng có thể tổ chức
cúng ngay trong nhà hay sau nhà khoa
pin ea. Vật hiến sinh là trâu hoặc lợn.
Khi cúng thần nước, dân làng khấn cầu mong cho
mọi người được yên lành, mùa màng tốt tươi, đàn
Lễ cúng thần nước Tuk ea
gia súc mau lớn đẻ nhiều con.
Ngoài thần đất và thần nước, đồng bào Ê Đê còn cúng một số vị thần khác liên quan đến
mùa màng, sản xuất. Đầu mùa rẫy, trong các tháng 2, tháng 3 đồng bào Ê Đê tổ chức
cúng thần gió Kăm Angin, cầu mong tránh được những cơn bão lớn gây hại mùa màng,
lúa và hoa màu phát triển thuận hòa. Đầu tháng 4, khi chuẩn bị gieo hạt, đồng bào làm lễ
kăm va ở cạnh nguồn nước cầu mong cho mưa gió thuận hòa, rẫy nương ít cỏ. Lúc bắt
đầu vào mùa trỉa lúa, các buôn lại làm lễ kăm buh, cầu mong cho lúa mọc đều, thần Aê
Điê (thần thiện) phù hộ, không bị JangLiê (thần ác) và thú rừng, sâu bọ, chim chuột tàn
phá, đem lại thóc đầy kho. Sau lễ Kãm buh chung của cả làng, mỗi gia đình còn làm lễ
cúng giống - trốc mđiê để hôm sau bắt đầu tra hạt. Tháng 7 các gia đình Ê Đê làm lễ tưới
gốc lúa - tuk phum mđiê mong cho lúa mọc khỏe, trổ bông to, hạt mẩy. Tháng chạp, sau
khi gặt xong, đồng bào làm lễ ăn cơm mới - hma ngắt, sau đó lần lượt làm lễ ăn mừng vụ
mùa, ăn tết mnăm thun. Mnăm thun là tết lớn của đồng bào Ê Đê, được tổ chức ăn uống
linh đình, đông vui, mừng vụ mùa thắng lợi. Những người thu hoạch được nhiều lúa
trong dịp tết này thường mổ trâu, bò, mời bà con dân làng đến dự.
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 15 | 25
TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC Ê ĐÊ | Hoàng Trần
Ngoài các nghi lễ liên quan đến sản xuất nông nghiệp, đồng bào Ê Đê còn có nhiều nghi
lễ tôn giáo liên quan đến các ngành nghề thủ công. Họ cúng khi làm thuyền độc mộc, làm
gốm, đan chài lưới.
3.9. Tục lệ cưới xin
Dân tộc Ê Đê thực hiện chế độ
hôn nhân ngoại hôn dòng tộc;
hôn nhân một vợ một chồng và
sau hôn nhân cư trú bên nhà
vợ.
Con trai, con gái lớn lên được
tự do tìm hiểu người bạn đời
của mình, nhưng phần chủ
động hôn nhân thuộc về phía
con gái, con gái lớn lên đến
tuổi trưởng thành phải chủ động “bắt
Lễ cưới với cô dâu Ê Đê và chú rễ Ba Na
chồng”. Vừa ý anh con trai nào, cô gái
phải lên tiếng báo cho gia đình, cho bố, mẹ biết. Nếu được gia đình đồng ý và không có
bất cứ sự ngăn cản từ bất cứ người nào trong dòng họ, gia đình cô ta sẽ nhờ ông mối sang
nhà trai ướm hỏi. Cùng đi với ông mối bao giờ cũng có người cậu (anh, hoặc em của mẹ
cô gái, gọi là đăm deỉ). Trước khi lên đường đi hỏi chồng cho cô gái, nhà gái dọn một lễ
nhỏ cúng Jàng, cầu mong Jàng phù hộ cho mọi việc được thuận lợi, để đôi trai gái nên vợ
nên chồng. Lễ vật cúng chỉ có một ché rượu và một chiếc vòng đồng. Vòng đồng là vòng
đính hôn. Đến nhà trai, ông mối và đăm dei nhà gái bày tỏ ý kiến lựa chọn của cháu
mình. Sau khi nghe ý kiến bên nhà gái, đăm dei nhà trai phải hỏi ý kiến tất cả mọi người
trong dòng họ (nếu thiếu một người, buổi lễ có thể bị hoãn lại ngày khác), nếu mọi người
đều ưng thuận, đôi bên sẽ trao đổi chiếc vòng đồng. Lễ dạm hỏi coi như thành công, nhà
trai đãi một bữa gà, rượu và bàn những điều kiện thách cưới cụ thể. Vòng đồng đã trao,
đã nhận coi như là lời thề giữa hai bên đã được định. Nếu bên nào sau đó bội ước sẽ phải
chịu xử phạt (như hình thức bồi hoàn danh dự), số tiền xử phạt sẽ căn cứ vào mức độ vi
phạm mà quy định. Mức xử phạt thấp nhất cũng phải một con heo và một khoản tiền.
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 16 | 25
TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC Ê ĐÊ | Hoàng Trần
Từ một đến ba tháng sau lễ dạm hỏi, nhà gái tổ chức lễ thỏa thuận. Trong lễ này, chủ yếu
nhà trai nhắc lại những lễ vật mà họ đòi hỏi, thường là chiêng, ché, trâu, bò, chăn áo;
đồng thời cũng thống nhất thời gian cô gái đến ở làm dâu tại nhà trai. Đây là sự thử thách
phẩm chất, đạo đức cô gái trong lao động, trong ứng xử với gia đình nhà chồng; đồng
thời cũng để bù đắp lại cho nhà trai sự thiệt thòi do mất đi một thành viên của gia đình
sau này (chàng trai sẽ đi ở rể).
Sau lễ thỏa thuận, cô gái đến ở nhà chồng làm dâu từ 1 đển 3 năm. Thời gian làm dâu dài
hay ngắn do nhà trai yêu cầu hoặc cô gái chuẩn bị của hồi môn và đền bù cho công nuôi
dưỡng của cha mẹ chồng. Nếu trong thời gian làm dâu, cô gái không đáp ứng được những
điều mà nhà trai mong đợi, nhà trai có quyền từ chổi hôn nhân và trả cô gái về cho gia
đình. Trường hợp cô gái có sơ suất nặng nề, nhà gái sẽ phải bồi thường gấp đôi khoản chi
phí cho cô gái trong thời gian làm dâu. Hết thời gian thỏa thuận làm dâu, nhà gái tổ chức
lễ cưới chính thức đón rể về ở hẳn bên nhà vợ. Thông thường lễ cưới diễn ra trong hai
ngày: ngày đầu nhà gái đưa lễ vật sang nhà trai. Với nhà giàu thì lễ vật có hai trâu, một
bò, một heo, ba chiếc chiêng; còn với nhà nghèo thì chỉ cần sắm đủ 7 lễ vật: chăn, áo,
khổ, mâm. Bát, vòng đồng..., tất nhiên phải được sự đồng ý của nhà trai. Có thể nhà trai
cho nhà gái nợ lễ vật cưới, sẽ trả sau. Mọi chi phí cho lễ cưới tại nhà trai và nhà gái đều
do bên nhà gái chịu. Ở bên nhà trai, để tiễn con cháu của mình đi ở rể, mỗi gia đình trong
dòng tộc cũng phai góp một ché rượu, một con gà. số ché ruợu có thể lên tới 20 - 30
chiếc.
Sau lễ cưới ở nhà trai, người ta tiễn rể về nhà vợ. Đoàn tiễn và rước bao gồm mỗi bên 3
người: ông cậu (đăm dei), chị và anh hoặc em, ngoài ra còn những người trong họ hàng
đi theo. Trên đường từ nhà trai sang nhà gái có một số chướng ngại vật, do nhà trai bày
ra. Mồi khi gặp chướng ngại vật trên đường (cửa ra vào, cầu thang, cổng làng), ba người
nhà gái lại trao cho những người nhà trai một chiêc vòng đồng. Chiếc vòng nàv vừa như
vật ký niệm, vừa như lời cam kết lại vừa như mua sự thông suốt cua cuộc đón rước.
Đoàn rước rể về đến nhà gái, nghi lễ cưới chính thức được bắt đầu: đôi vợ chồng trẻ ngồi
trước ché rượu, mỗi người đặt một chân lên chiếc rìu nhỏ. tượng trưng cho sự găn bó và
thịnh vượng trong gia đình mới, bên cạnh cô dâu và chú rể có ông mối, đăm dei và thầy
cúng, trước mặt là cha mẹ vợ và cha mẹ chồng. Thầy cúng đọc lời khấn xong, lấy máu
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 17 | 25
TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC Ê ĐÊ | Hoàng Trần
của con vật hiển sinh bôi lên chân của hai vợ chồng 3 lần. Tiếp đó, đăm dei bón cơm cho
cô dâu và chú rể mỗi người hai miếng cơm và ba hớp rượu. Hai vợ chồng cùng cầm tay
vào chiếc vòng đính hôn, cam kết chung sống thủy chung. Nếu trong gia đình, bạn bè có
quà thì tặng vào lúc này. Dù ở bên nhà gái hay bên nhà trai, sau đó thầy cúng phải khấn
nguyện trên lừng ché rượu (đặc biệt chỉ trong lễ cưới mỗi ché mới có hai cần rượu). Ché
đầu dâng cho tổ tiên, ché thứ hai cho cha mẹ hai bên, ché thứ ba cho hai vợ chồng trẻ,
những ché tiếp theo cho họ hàng cầu phúc cho vợ chồng trẻ. Làm lễ xong ché nào mới
được cúng ché đó. Đến đây kết thúc phần nghi lễ. Mọi người cùng nhau uống rượu.
Người uống đầu tiên là cha mẹ, tiếp đến là đôi vợ chồng trẻ, sau mới đến họ hàng, bè
bạn. Phụ nữ uổng trước, nam giới uống sau, uống xen kẽ một người bên vợ, một người
bên chồng. Từ đây trở đi có thể ca hát, nhảy múa, vui chơi.
Trong luật tục của dân tộc Ê Đê có một số quy định về hôn nhân như sau: cấm hôn nhân
trong cùng một dòng tộc. Cụ thể, người thuộc dòng Niê (gồm 12 nhánh) không được kểt
hôn với người dòng Niê, mà chỉ được kểt hôn với người thuộc dòng Mlô (12 nhánh). Tục
cuê nuê (nối dây) bắt nguồn từ sự quy định này . Khi người chồng (hoặc vợ) chết, gia
đình chồng (hoặc vợ) phải thay bằng người khác, nhưng cấm không được lấy chị hay anh
ruột của người đã mất. Riêng người chồng góa nếu không muốn nối dây phải trở về nhà
mình với hai bàn tay trắng (kể cả con cái cũng không được mang theo). Phải chờ bỏ mả
xong mới được kết hôn với người khác.
Tục cưới ngày nay chỉ còn tồn tại ở những vùng xa và cũng không quá khắt khe như
trước. Tục cưới xin cũng đơn giản hơn. Chi phí cho cưới xin có thể do hai gia đình cùng
đóng góp.
3.10.
Tang ma
Xuất phát từ tín ngưỡng vạn vật hữu linh, người Ê Đê quan niệm rằng con người khi sống
có xác và hồn. Khi người chết thì phần xác ngưng hoạt động, bị huỷ hoại, nhưng hồn vẫn
tồn tại. Do đó làm ma là đưa xác đi chôn, nhưng sau đó phải đưa hồn về thế giới tồ tiên,
để hồn có cơ hội đầu thai, trở lại kiếp người.
Người Ê Đê quan niệm có hai loại chết khác nhau là chết bình thường và chết không bình
thường. Chết bình thường (djiê noa) là chểt già, chết bệnh ở trong nhà. Với cái chết bình
thường, linh hồn sẽ ở lại với tổ tiên và lại nhập vào đứa trẻ sơ sinh; còn chết rủi (djiê
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 18 | 25
TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC Ê ĐÊ | Hoàng Trần
mdriêng) là chết đường, chết ngoài sông, khe suối, rắn cắn, hổ vồ, ngã cây, leo núi...
Đồng bào quan niệm rằng chết như vậy thì hồn bị ác thần bắt giữ, không thể đầu thai vào
kiếp khác được. Từ quan niệm có hai loại chết làm nảy sinh các nghi lễ làm ma khác
nhau.
Làm ma cho cái chết bình thường. Khi trong gia đình có người chết, người ta đánh một
hồi trống báo cho dân làng biết. Nghe tiếng trống, cả làng kéo đến giúp tang gia lo liệu
việc tang ma. Các bếp trong làng đều mang đến gói cơm, quả trứng là “quà tặng cho
người chết”. Người ta còn mang gạo, rượu, gà, có khi cả heo, trâu để điếu phúng. Nhân
dịp này, các gia đình có người chết trước còn giữ mả (dja msát) mang đồ ăn, thức uống
đến nhà tang chủ để gửi người vừa tắt thở mang sang thế giới bên kia cho người thân.
Người vừa chết được coi là sợi dây liên lạc giữa thế giới người sống và thế giới người
chết. Và cũng chỉ những dịp này thân quyến lại kéo đến mộ địa khóc gọi vong hồn của
người đã khuất. Trong những ngày có tang, dân làng ngừng việc sản xuất, không mua bán
trao đổi, không đi xa làng. Họ tập trung vào giúp tang chủ. Thi thể được lau chùi sạch sẽ,
mặc quần áo ngày lễ và đeo các đồ trang sức quý giá. Tang chủ lấy một ché rượu cột ở
phòng khách và giết một con gà nhỏ làm lễ cúng linh hồn người chết.
Dân tộc Ê Đê kiêng làm sẵn quan
tài. Khi có người chết họ mới vào
rừng chọn cây gỗ làm áo quan.
Chiếc quan tài người Ê Đê giống
như dáng nhà sàn, đầu thường to
hơn cuối từ 10 - 15cm. Trên đỉnh
nóc, phía đầu áo quan gắn mô hình
con diều hâu, tượng trưng cho linh
hồn người chết, xung quanh áo
quan vẽ các hoa văn hình hà và hoa
êrơng bằng máu con vật hiến sinh
hoặc bàng nhựa cây nhao. Trong quá
trình làm áo quan, những người ruột thịt
Ngôi nhà mồ của người Ê Đê
của kẻ quá cố phải ăn uống và ngủ quanh quan tài để tỏ lòng đau buồn, thương tiếc. Buổi
tối, người ta gõ chiêng, đánh trống và múa hát suốt đêm để tiễn linh hồn người thân sang
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 19 | 25
TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC Ê ĐÊ | Hoàng Trần
thể giới khác. Làm xong áo quan, người ta liệm thi hài vào ngay. Một người trong đăm
dei đưa thi hài vào áo quan. Những vật dụng cỡ nhỏ như nhạc cụ, đồ trang sức cũng được
bỏ vào áo quan theo thi hài. Khâm liệm xong, đăm dei hai họ họp lại để tìm ngưòi thay
thế cho người chểt. Thông thường sau khi nhập quan một ngày là đưa đi chôn, nhưng với
các gia đình giàu có thì để lâu hơn.
Khi đưa ma, người ta thường đem theo hai con gà: một gà mẹ và một gà con. Lúc hạ
huyệt, gà mẹ được thả xuống để làm tài sản cho người chết về thế giới bên kia. Sau khi
chôn cất người chết xong, người ta sẽ thả cho nó chạy vào rừng để làm lễ Biktlah tượng
trưng cho sự giải thoát của linh hồn(l). Đầu người chết quay về phía đông.
Trong tang lễ, bà chủ nhà đóng vai trò chủ tang, lo việc giao thiệp với khách đến viếng
thăm và nhận đồ điếu phúng. Người chồng bà chủ nhà là người giúp việc cho bà khi tổ
chức tang lễ. Khi đưa ma, tang chủ đi trước, tiếp theo là những người đàn ông khiêng áo
quan, phần lớn họ là những người thân thích với người chết. Những người phụ nữ cùng
dòng họ với người chết đi theo sát áo quan than khóc và mang của cải ra mộ. Đi sau cùng
là 3 phụ nữ đánh chiêng và những người đàn ông trong làng mang theo dụng cụ chôn cất.
Đối với đám tang của thủ lĩnh thì phần nghi thức có khác. Khi đưa ma có voi và ngựa
tống tiễn, theo sau áo quan có 6 người đánh chiêng nhỏ và 3 người đánh chiêng lớn, một
người đàn bà thổi sáo và một người thổi tù và. Cháu trai lớn gọi thủ lĩnh bằng cậu, mặc
theo kiểu chiến binh, tay cầm gươm, ngồi trên nóc quan tài. Sau khi mai táng, voi và nsựa
đi xung quanh mộ để vĩnh biệt chủ cũ. Trước ngày giải phóng, người Ê Đê còn đem súc
vật lên mộ địa làm lễ hiển sinh và ăn uống khi chôn cất xong. Phía đầu quan tài đặt một
gùi cơm, một ché rượu để hàng ngày thân quyến mang cơm, rượu đến đó đổ vào qua ống
cơm (băng êsei). Các tài sản của người chết như chiêng, ché, nỏ... được bỏ luôn dưới mộ.
Trên mộ chỉ để một cái vò sành, chổi cùn, tay nải, gùi. Miệng huyệt gác những cây gỗ rồi
trải lá lên mới nấp thành nấm cao khoảng lm. Họ gieo những hạt giống ngũ cốc lên nấm
mộ và trồng một cây chuối ở phía đầu mộ để làm nguồn lương thực cho người chết ở thể
giới bên kia. Trên đỉnh mộ người ta dựng một nhà minh khí để cơm.
Sau khi mai táng xong, chiếc cầu thang lên xuống hàng ngày được thay thế bàng một
chiếc cầu thang mới làm sơ sài, tạm cất đi chiếc cầu thang cũ. Hết hạn tang, chiếc cầu
thang cũ lại được đem ra dùng. Thầy cúng làm lễ tẩy uể cho tất cả thành viên trong nhà
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 20 | 25
TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC Ê ĐÊ | Hoàng Trần
dài. Ông ta lấy rượu hòa máu con vật hiển sinh rồi thoa vào chân từng người để ngăn
chặn thần chết làm phiền hà người sống. Ba ngày sau khi mai táng, tang gia lấy một ché
rượu làm lễ xoá cữ (woa kpih ây), sau đó các thành viên trong nhà dài trở lại sinh hoạt
bình thường. Nếu liền đó ít ngày, trong gia đình lại có người lâm bệnh nặng, hoặc có
người chết nữa thì người ta có thế khai quật ngôi mộ vừa chôn lên, vì cho rằng người chết
không bằng lòng với nơi chôn cất. Phong tục này ngày nay hầu như không còn tồn tại
nữa.
Với người nhỏm Bih, tập quán tang ma có khác. Lần đâu họ phong táng trong một cái
chòi làm tạm trên cây, khi thi the thối rữa thì lấy xương cho vào một chiếc nồi đồng thật
lớn rồi thổ táng. Và chỉ khi làm lễ thổ táng hài cốt mới là giai đoạn mở đầu tang lễ. Mọi
nghi lễ tiếp theo giống như các nhóm Ê Đê khác.
Đối với cái chết không bình thường (chết ở ngoài nhà), đồng bào không đưa xác chết về
nhà, mà chôn ngay tại nơi xảy ra tai nạn. Trường hợp này không có quan tài và để đầu thi
thể quay về phía tây. Phía trước mộ trồng một cây tre mlây tui. Cây tre báo hiệu cho
người sống biết không nên tới gần; mặt khác còn là dấu hiệu đoạn tuyệt mọi tai họa xảy
ra với gia đình xấu số. Chôn cất xong họ bỏ mả luôn. Những người tham dự tang lễ phải
dùng lá xoan nhúng vào rượu quét lên cơ thể để ngăn ngừa thần ác làm hại. Sau đó họ ăn
uống ngoài nghĩa địa rồi mới về nhà. Người Ê Đê rất sợ khi nhắc đến tên người bất đắc
kỳ tử.
Trước đây, những gia đình giàu có thường có tục giữ mả. Trong thời gian đó, thân nhân
phải đem cơm, rượu đô vào ống cơm ở mộ. Mồi tháng một lần, họ lại cúng vong hồn
người chết. Đi đâu xa hoặc làm việc đại sự họ đều cúng để cầu mong được phù hộ, đến
khi làm lễ bỏ mả mới thôi.
Lễ bỏ mả: Lễ bỏ mả được tổ chức long trọng như lễ tang. Làm lễ bỏ mả là để tiễn hồn
người chết hoàn toàn về với thế giới tổ tiên, để linh hồn có cơ hội được đầu thai trở lại
kiếp làm người. Theo quan niệm của người Ê Đê, linh hồn người sau bảy lần đầu thai,
qua những kiếp con chó, con bướm... và giọt sương mới trở lại kiếp người. Trong lễ này,
người ta thả một con gà nhỏ vào rừng để tượng trưng cho linh hồn đã thoát khỏi nhà và
linh hồn đó không bị các thần giam hãm nữa. Đe kết thúc buổi lễ, các bà, các cô lại gieo
lên mộ những hạt giống ngũ cốc. Người Ê Đê quan niệm, nếu phá hoại những cây này là
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 21 | 25
TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC Ê ĐÊ | Hoàng Trần
xúc phạm nghiêm trọng tới người chết. Sau đó, mọi người cùng uống rượu và ăn thịt con
vật hiến sinh.
3.11.
Văn học nghệ thuật
Văn học dân gian Ê Đê chủ yểu là văn học truyền miệng. Cỏ nhiều thế loại văn học như:
truyện thần thoại, truyện cổ tích, anh hùng ca, truyện cười. Nhiều truyện tồn tại rất lâu
đời trong dân, bởi nó có giá trị nghệ thuật và có tính giáo dục cao.
Theo truyện thần thoại người Ê Đê quan niệm rằng, thế giới có hai tầng: tầng đất và tầng
trời.
Trên tầng trời có các vị thần thiện và thần ác. Aê Điê là những vị thần thiện. Những vị
thần này được người Ê Đê mường tượng như là những con người khổng lồ, có hơi thở
quật ngã được những người xung quanh, có chân to gấp nhiều lần chân người, là những
vị thần toàn thiện toàn mỹ làm chồ dựa cho cuộc sổng con người. Dưới Aê Điê là những
vị thần nông nghiệp: thần Mtao Kla trông coi việc đồng áng, thần Hbia Klu, vợ của Mtao
Kla trông nom cây lương thực; thần Sri Mlỉ Luk và vợ là Hbia Bao giúp các thần lớn làm
cho cây lúa, cây kê nảy mầm; thần Aê Mghăn là thần bảo vệ cây lúa. Jang Liê là vị thần
đứng đầu thần ác, chuyên gây mưa bão, cho nên trong một số nghi lễ nông nghiệp, đồng
bào làm tượng gỗ thần này có lưỡi gươm bổ lên đâu. Thần gió Jàng Briêng chuyên gây
tai vạ cho người, nhất là trẻ sơ sinh; thần sấm Jang Grăm, thần mưa Aê Jut là những thần
chuyên gây ra tai hại cho mùa màng và đời sống con người.
Ở tầng đất cũng có thần thiện và thần ác. Thần thiện Jang Tlua và em là Kbuơ lăn chuyên
cai quản mặt đất, tạo nên dòng nước và thảo mộc, giúp cho cây lúa lớn nhanh, không bị
sâu bọ phá hoại. Thần Aê Mghi và em là thân Aê Mghăn là những vị thần đem đến cho
người Ê Đê nhiều của cải thời nguyên sơ, nuôi dưỡng người Ê Đê theo quan niệm cổ
truyền. Hai vợ chồng thần hộ mệnh JangAma Bơ, Jang Ami Ba ở tầng trời, nhưng thường
trú ngụ ở cây đa. Thần Jang Bung Sôk là thần số mệnh. Thần Jang Mnut Hra... thần cây
đa, cây sung chuyên trông nom nguồn nước, săn sóc dân làng, mang đến cho trẻ sơ sinh
những điều tốt lành.
Truyện cổ người Ê Đê có nhiều chủ đề khác nhau, phản ánh cuộc sống muôn màu, đa
dạng của con người, nhưng đều tập trung theo một ý tưởng là bênh vực người lao động,
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 22 | 25
TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC Ê ĐÊ | Hoàng Trần
người có vị thế yếu kém trong xã hội (trẻ mô côi, chàng rể); ca ngợi sự khiêm tốn, thật
thà, thông minh, công bằng xã hội; đề cao sự mưu trí, lòng dũng cảm trong đấu tranh với
kẻ thù, bảo vệ cuộc sống. Trong truyện ngụ ngôn thường nói về những con vật nhỏ, hiền
lành, chăm chỉ thường làm nên sự nghiệp lớn, chiến thắng mọi hiểm nguy. Những truyện
về sự tích núi, sông, hồ, cây đàn, tục cưa răng, căng tai... cũng là những truyện rất phổ
biên trong đồng bào Ê Đê.
Những truyện về sự tích anh hùng thường được các già làng truyền lại cho con cháu dưới
dạng kể khan. Khan là hình thức biểu diễn độc tấu thơ và âm nhạc. Thơ ở đây là những
bài văn vần, câu dài ngắn không nhất định, diễn đạt sự tích anh hùng quân sự và anh hùng
văn hóa. Phần lớn khan nói về giao tranh giữa các tù trưởng và cuộc sống con người
trong thời đại đó. Khan còn mô tả những cuộc tình duyên theo phong tục, mô tả về làng
mạc, nhà cửa, y phục, lễ nghi và sinh hoạt nhân dân làm nổi lên phẩm chất, nhân cách mà
người Ê Đê đề cao. Đọc khan người ta thấy nhiều hình tượng, nhiều màu sắc, nhiều âm
điệu, cảm xúc, lôi cuổn. Hiện nay một sổ khan đã được sưu tầm, xuất bản nhằm lưu giữ
lâu dài, tuy nhiên còn nhiều khan vẫn tồn tại trong trí nhớ của các cụ già làng.
Trong văn học các dân tộc thiểu số nói chung và dân tộc Ê Đê nói riêng có thể loại văn
vần là rất phổ biến. Trước khi có chữ viết để ghi chép, thì văn vần là giải pháp được dân
gian các dân tộc lựa chọn để truyền những bài học kinh nghiệm về sản xuất, về phong
tục, tập quán, về những bài học trong ứng xử tự nhiên, ứng xử xã hội cho hậu thế. Nói
đến những câu văn vần về quan hệ xã hội cần phải nói đến Luật tục ca (hay Tập quản
pháp ca) - Klei duê bhiănkdi do L. Sabatier sưu tầm. Đây là một tác phẩm gồm một hệ
thống những câu văn vần nói về các quy ước của xã hội truyền thống như: vi phạm trật tự
công cộng, trộm cắp tài sản, chiếm hừu đất đai, quan hệ dòng họ, loạn luân, quy chế hôn
nhân... Kèm theo nhừng quy ước này là chế tài xử lý khi có vi phạm.
Dân tộc Ê Đê có hai làn điệu dân ca chủ yếu là mmuỉnh và kick kdja. Hai làn điệu dân ca
này được phổ biến rộng rãi trong dân gian. Dân ca Ê Đê sử dụng nhiều hình tượng văn
học tinh tế, nhiều hình ảnh đẹp, có sức thu hút. Trong dân ca có nhiều bài là bài ca nghi
lễ. Nét hay của dân ca ở đây là một bài dân ca đời thường (đời) có thể được sử dụng trong
nghi lễ (đạo). Đạo và đời là hai mặt của cuộc sống, đan xen và hòa quyện vào nhau trong
cuộc sống.
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 23 | 25
TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC Ê ĐÊ | Hoàng Trần
Âm nhạc: Nhạc cụ truyền thống của người Ê Đê nhìn từ góc độ chất liệu chế tác, có hai
loại: loại nhạc cụ chế tác từ chất liệu đồng và loại nhạc cụ được chế tác từ tre, nứa.
Nhạc cụ bằng đồng có cồng (knah) và chiêng (ching). Bộ cồng cỡ nhỏ, không núm, gồm
6 cái, từ nhỏ đến lớn bỏ lọt vào nhau, mỗi cái đều có tên riêng và có chức năng riêng.
Tên cồng theo thứ tự từ lớn đến nhỏ: 1
.Knah, 2.1shiang (ana lhiang), 3.Mđu Khơk
(knah khơk), 4.Hluê Khơk (mong), 5.Hluê
lhiang, 6-Hluê khơk diêt (k’khiêk). Cồng
được đánh bàng dùi gồ. Bộ chiêng có núm,
gồm 3 chiếc với kích thước to, nhỏ khác
nhau, to nhất ỉà ana, thứ đến là mdu, nhỏ
nhất là mong. Người cử nhạc dùng dùi gỗ
đầu bọc vải đánh vào núm. Bên cạnh dàn
cồng, chiêng, còn có char là nhạc cụ lớn
nhất, không núm, dùng để cầm nhịp. Dàn
nhạc Ẻ Đê còn có trống cái hgar có vai trò
mở đầu và kết thúc một bản hòa tấu.
Bộ Chiêng của người Ê Đê
Ảnh sưu tầm
Nhạc cụ tre nứa gồm có nhiều loai khác nhau như
sáo trúc (gọi chung là đing), tù và (thường làm bàng
sừng trâu hoặc gỗ cứng); loại nhạc cụ gõ kok giống
như đàn tơ rưng; loại nhạc cụ có dây như brô, giống
như cái nhị nhưng dùng tay gẩy, đàn kni - đàn độc
huyền giống như chiếc đàn bầu nhưng dùng dây
nứa để kéo, gông dùng ống nứa cắm vào trái bầu
khô (có 6,8 hay 10 dây, căng theo chiều dài ổng
nứa). Sáo trúc thường là nhạc cụ của nữ giới.
Nghệ thuật tạo hình: Nghệ thuật tạo hình trong đời
sống của người Ê Đê có những nét độc đáo riêng.
Hoa văn trên vải của người Ê Đê
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 24 | 25
TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC Ê ĐÊ | Hoàng Trần
Những sản phẩm của nghệ thuật tạo hình tiêu biểu như hoa văn trên vải, chạm khẳc trên
gồ, hoa văn trên đồ đan mây, tre... Hoa văn trên vải có nhiều mô típ liên quan đến động
vật và thực vật như: chim (đại bàng) dang cánh, bọ cạp ấp con, trứng thằn lằn, trứng chim
đại bàng, tổ ong bám cành cây, hoa ngô, hạt dưa, cần uống rượu, quả mtak (một loại bánh
răng bàng gỗ, hình vặn vỏ đỗ trong guồng quay sợi của đồng bào), đuôi mũi tên. Ngoài ra
cũng có những hoa văn liên quan đến tín ngưỡng tôn giáo như dây đeo chiêng, cột nhà
mồ, mặt trăng.
Phần còn lại của hoa văn trên vải là những đường hình học. Ngoài sự đa dạng về mô típ,
hoa văn trên vải cũng có nhiều màu. Nổi bật nhất là màu đỏ trên nền chàm; thứ đến là
màu trắng đục, nâu tươi, vàng óng, vàng úa, xanh lá cây, xanh nước biển.
Nhũng hình chạm khắc trên gỗ rất đặc trưng được trang trí ở nhà dài, trên khu nghĩa địa,
trên một vài công cụ. Mô típ quen thuộc của nghệ thuật chạm khẳc gỗ trong nhà dài là đôi
bầu vú của phụ nữ, vành trăng non, con rùa, nồi bung, con kỳ đà, ngà voi. Đôi bầu vú
khắc nổi, còn vành trăng khuyết khắc chim. Ở nghĩa địa, những hình khẳc gồ chủ yểu là
trang trí trên hai đầu nóc nhà mồ và trên thân các cây cột với các tượng gỗ: tượng chim
diều hâu, trái bầu, tượng người đội nón, voi, khỉ, cối giã gạo. Trên thân cột còn có hình
bắp chuối, những cái kning hình thuyền. Đổi với ngôi mộ không có nhà mồ thì trên đỉnh
cây cột ở giữa mộ được gắn mô hình một nóc nhà trên thuyền, gọi là nhà cơm (sang êsci).
Những hình khắc gồ nói trên, tuy còn thô sơ, nhưng được trang trí khá công phu, sinh
động, ổn định, mô tả hiện thực một cách tự nhiên, để lại cho người xem ấn tượng mạnh
mẽ, sâu sắc...
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 25 | 25