TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC DAO | Hoàng Trần
TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC DAO
MỤC LỤC:
1.
Vài Nét Về Dân tộc Dao ........................................................................................................ 2
2.
Kinh Tế Truyền Thống ......................................................................................................... 2
3.
2.1.
Trồng trọt.......................................................................................................................... 2
2.2.
Chăn nuôi ......................................................................................................................... 4
2.3.
Khai thác tự nhiên ............................................................................................................ 4
2.4.
Ngành nghề thủ công........................................................................................................ 5
2.5.
Trao đổi, mua bán............................................................................................................. 6
Văn hoá truyền thống ............................................................................................................ 7
3.1.
Làng .................................................................................................................................. 7
3.2.
Nhà ở ................................................................................................................................ 8
3.3.
Trang phục........................................................................................................................ 8
3.4.
Ẩm thực .......................................................................................................................... 12
3.5.
Phương tiện vận chuyển ................................................................................................. 13
3.6.
Ngôn ngữ ........................................................................................................................ 13
3.7.
Chữ viết .......................................................................................................................... 14
3.8.
Tín ngưỡng tôn giáo ....................................................................................................... 14
3.9.
Tục lệ cưới xin ............................................................................................................... 20
3.10.
Sinh đẻ ........................................................................................................................ 23
3.11.
Tang ma ...................................................................................................................... 24
3.12.
Văn học dân tộc .......................................................................................................... 25
3.13.
Văn nghệ thuật dân gian ............................................................................................. 26
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 1 | 29
TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC DAO | Hoàng Trần
1. Vài Nét Về Dân tộc Dao
Dân số : 751.067 người (2009)
Ngôn Ngữ: thuộc hệ ngôn ngữ Mông - Dao
Tên gọi khác: Mán, Đông, Trại, Dìu Miền, Kim Miền
Nhóm địa phương: Dao Đỏ (Dao Cóc Ngáng, Dao Sừng, Dao
Dụ lạy, Dao Đại Bản), Da Quần chẹt (Dao Sơn Đầu, Dao Tam
Đảo, Dao Nga Hoàng, Dụ Cùn), Dao Lô gang (Dao Thanh
Phán, Dao Cóc Mùn), Dao Tiền (Dao Đeo Tiền, Dao Tiểu
Bản), Dao Quần trắng (Dao Họ), Dao Thanh Y, Dao Làn Tẻn
(Dao Tuyền, Dao áo dài).
Địa bàn cư trú:Cao Bằng, Hà Giang, Lào Cai, Yên Bái, Lai
Châu, Tuyên Quang,Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Hòa Bình
Địa bàn cư trú:
Ở Việt Nam, người Dao tuy có dân số không đông nhưng các bản làng của họ trải
rộng tại các miền rừng núi phía Bắc (Cao Bằng, Hà Giang, Lào Cai, Yên Bái, Lai
Châu, Tuyên Quang,...) đến một số tỉnh trung du như: Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Hòa
Bình và miền biển Quảng Ninh (người Dao Thanh Y).
2. Kinh Tế Truyền Thống
2.1. Trồng trọt
Nguồn sống chính của dân tộc Dao cũng như các dân tộc khác ở nước ta là nông
nghiệp. Do cư trú ở nhiều tỉnh, lại có địa hình: vùng núi cao (núi đá, núi đất),
vùng núi giữa, vùng núi thấp và khí hậu ở các vùng đó cũng khác nhau, cho nên
canh tác nông nghiệp của người Dao rất đa dạng. Đồng bào làm nương di canh,
nương định canh và làm ruộng nước.
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 2 | 29
TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC DAO | Hoàng Trần
Ở vùng núi giữa là địa bàn
sinh sống chủ yếu của người
Dao.Đây là
vùng núi đất,
người Dao thường làm nương
di canh, sống di cư. Nương
khai phá ra chỉ làm được vài
vụ, sau đó nương cằn đất
không còn màu mỡ cho cây
trồng nữa, đồng bào lại bỏ hóa
nương đi tìm rừng để khai phá
nương mới và chuyển cả nhà
Người Dao trên nương rẫy
di cư theo nương. Chưa có tập
quán dùng phân bón trong trồng trọt.Cây trồng chính là cây lúa nươn g. Công cụ
lao động chính là rìu, dao, gậy chọc lỗ, nạo và hái nhắt.
Ở vùng cao núi đá (tỉnh Hà Giang) đồng bào Dao làm nương định canh, sống định
cư hoặc luân canh định cư.Họ trồng trọt trên những thửa nương nhỏ, hẹp, trên
nương có nhiều đá to, nhỏ, cao, thấp lởm chởm.Việc trồng trọt ở đây rất khó
khăn, đôi khi phải trồng trọt trên các miếng đất nhỏ giữa các khối đá, cho nên còn
gọi là thổ canh hốc đá.Cây trồng chủ yếu ở vùng này là cây ngô.Ngoài ra có thể
trồng kê, cao lương, tam giác mạch.Công cụ sản xuất cũng tương tự như sản xuất
ở vùng núi thấp.Chỉ một số nơi (huyện Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng; huyện Đồng
Văn, tỉnh Hà Giang) đồng bào có tập quán bón phân cho cây trồng.Tuy nhiên độ
nghiêng của mặt nương khá cao, cho nên đất bị xói mòn nhanh, vả lại ở vù ng này
thường thiếu nước nghiêm trọng, nhất là vào mùa khô, cho nên năng suất cây
trồng không cao.
Đồng bào Dao dù canh tác trên nương di canh hay trên nương định canh đều có
kinh nghiệm trồng xen canh gối vụ. Lên nương ngô hay nương lúa của người Dao
vào vụ hè thu, ta thường thấy dưới gốc cây lúa, cây ngô đều có các cây được
trồng xen canh như cây khoai lang, cây đậu tương, cây dưa chuột; quanh nương
có các cây rau xanh như cây rau dền, cây bí đỏ, bí xanh...
ở vùng núi thấp, đồng bào Dao làm ruộng nước là chính. Đồng bào khai phá
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 3 | 29
TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC DAO | Hoàng Trần
ruộng bậc thang ở chân núi, ven sông, suối và cấy lúa.Mùa vụ trồng, cấy cù ng
như các dân tộc trong vùng.Để làm ruộng, người Dao sử dụng sức kéo là con trâu,
bò.Các công cụ sản xuất có cày, bừa, cuốc, dao, liềm.Người Dao cũng có n hiều
giải pháp đế giải quyết vấn đề thủy lợi cho cây lúa như đắp đập, đào mương, đào
ao, làm con nước.
Ngoài cây lương thực, cây rau xanh, đồng bào Dao còn trồng các loại cây công
nghiệp như: cây chè, cây trẩu, cây lai., và một số cây khác có giá trị kinh tế cao
như cây trúc, cây vầu, cây bồ đề. Đặc biệt người Dao có cây công nghiệp truyền
thống là cây quế. Cây quế được trồng nhiều tỉnh Yên Bái... Sản phẩm quế có quế
thanh và quế chỉ.
2.2. Chăn nuôi
Vùng đồng bào Dao cư trú là
vùng núi giữa, sẵn rừng, đồi cỏ,
thung lũng cho nên khá thuận
lợi cho phát triển chăn nuôi gia
súc, gia cầm. Những nơi đồng
bào sống định canh, định cư
chăn nuôi có điều kiện phát
triển tốt, mỗi gia đình có hàng
chục con trâu, con bò, nhiều hộ
còn nuôi cả ngựa, dê. Lợn là con
vật nuôi phổ biến nhất trong dân tộc Dao.
Nhà nào cũng nuôi vài con, có nhà nuôi
Chăn nuôi lợn
vài ba chục con. Nhà nuôi nhiều lợn thường phân loại lợn để cho ăn theo từng
khẩu phần riêng. Đồng bào Dao cũng nuôi nhiều gà, vịt, ngỗng.Ngoài ra còn có
tập quán nuôi cá ở ao, ở ruộng. Người Dao nuôi gia súc, gia cầm vừa để phục vụ
cho sản xuất, vừa phục vụ cho cúng bái và ăn thịt.
2.3. Khai thác tự nhiên
Sống ở vùng rừng núi, đồng bào Dao không chỉ khai phá rừng để trồng lúa nương,
trồng ngô mà còn hết sức tận dụng thường xuyên khai thác lâm thổ sản phục vụ
cho đời sống hàng ngày của mình. Đồng bào hái các loại nấm hương, mộc nhĩ, sa
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 4 | 29
TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC DAO | Hoàng Trần
nhân, cánh kiến và các loại hạt có dầu...; khai thác gỗ, tre, nứa, song, mây, cây
dó...; các loại dược liệu quý khác. Những năm mùa màng thất bát thì củ nâu, củ
bấu, củ mài, bột nhúc, các thứ măng rừng, rau rừng đã giúp đồng bào vượt qua
những ngày đói kém.
Đồng bào Dao hay đi săn thú rừng. Việc săn thú vừa có ý nghĩa cải thiện đời
sống, vừa là giải pháp bảo vệ mùa màng, nhất là những lúc cây lúa, cây ngô bước
vào vụ thu hoạch.Đôi khi đi săn còn là cách giải trí, giúp xoá bỏ những căng
thẳng trong công việc. Vũ khí săn của người Dao có súng hoả mai, súng kíp, tên
thường, tên tẩm thuổc độc. Người Dao có hai hình thức tổ chức săn là să n cá nhân
và săn tập thể. Săn cá nhân thường thực hiện vào các buổi chiều sau khi lao động
ở trên nương. Lúc trên đường về nhà, tranh thủ lúc nhập nhoạng tối, các chàng
trai thường
đi vào rừng mò gà rừng, sóc, chồn, đôi khi còn gặp cả gấu, lợn rừng. Khi g ặp con
thú, người đi săn tìm cách bắn hạ thủ chúng, nhưng phải đảm bảo tính an toàn cho
bản thân, nhất là trường hợp gặp gấu hoặc lợn rừng. Lối đi săn cá nhân đôi khi
được thực hiện vào đêm khuya vào những ngày trời tối trăng. Người đi săn đêm
thường phải có đèn để soi vào mắt con thú. Săn tập thế là hình thức săn có nhiều
người tham gia và có chó.Khi phát hiện có con thú phá hoại mùa màng, cả làng tổ
chức dùng chó đi săn đuổi con thú. Ngoài hai cách săn trên, đồng bào Dao còn
dùng nhiều loại bẫy: bẫy đè, bẫy nỏ, bẫy súng, bẫy chọc (chuyên để bắt gấu), bẫy
chuồng (chuyên để bắt khỉ), bẫy thòng lọng, bẫy hố, bẫy sạt...
2.4. Ngành nghề thủ công
Người Dao có một số nghề thủ công như nghề dệt vải, nghề đan lát, nghề rèn,
nghề kim hoàn, nghề làm giấy dó. Nghề dệt vải được coi là nghề phát triển nhất,
chị em phụ nữ Dao tự làm ra quần áo mặc từ khâu trồng bông, cán bông, kéo sợi,
dệt thành vải, nhuộm, cắt khâu thành quần áo, thêu thùa hoa văn trên y phục. Đan
lát là công việc của đàn ông, được thực hiện vào mùa nông nhàn . Mùa nông nhàn
cũng là mùa khô, cây tre, nứa, giang, mây không ngậm nước, sản phẩm đan từ tre,
nứa chắc bền hơn, ít bị mối mọt... Sản phấm đan lát chủ yếu phục vụ cho nhu cầu
gia đình. Nghề rèn cũng đã xuất hiện từ lâu trong dân tộc Dao, đồng bào không
chỉ rèn các công cụ sản xuất như cuốc, cào, lưỡi cày, các loại dao, mà còn làm
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 5 | 29
TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC DAO | Hoàng Trần
được súng kíp, súng hoả mai và
làm đạn bàng gang. Nghề kim
hoàn cũng xuất hiện từ lâu đời,
nhưng được coi là nghề gia
truyền nên không mang tính phổ
biến. Dân tộc Dao có nghề thủ
công độc đáo là nghề làm giấy
dó. Nguyên liệu chính để làm
giấy là rơm rạ, vỏ cây dướng,
cây dó, các
loại tre, nứa. Giấy có nhiều ưu
Nghề rèn của dân tộc Dao
điểm: mỏng, mịn, dai, bền lâu, tương
đối trắng, ăn mực, không nhoè. Nhiều sách cúng, gia phả được ghi chép từ lâu
nay vẫn còn giữ được là nhờ loại giấy này.
2.5. Trao đổi, mua bán
Kinh tế dân tộc Dao là kinh tế tự túc, tự cấp, tuy nhiên đồng bào có một số sản
phẩm đem bán ở chợ địa
phương.Đó là sản phẩm quế
và các loại lâm thổ sản.
Chợ Sín Hồ - nơi người
Dao trao đổi mua bán
(Ảnh sưu tầm)
Thị trường quế chủ yếu là Trung Quốc.Vào mùa quế, người Trung Quốc đến tận
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 6 | 29
TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC DAO | Hoàng Trần
gốc quế ăn hàng. Các loại lâm thổ sản có măng khô, mộc nhĩ, nấm hương, mật
ong, sa nhân, cánh kiến... Các loại lâm thồ sản này chủ yếu tiêu thụ tại thị trường
địa phương.
3. Văn hoá truyền thống
3.1. Làng
Làng của người Dao có thể chia thành hai loại chính: loại làng cư trú phân tán di canh di
cư và loại làng tập trung định canh định cư.
Loại làng phân tán thường phổ biển trong những nhóm Dao chuyên sinh sống bằng nghề
làm nương rẫy. Do nương rẫy không ổn định nên làng là sự tập trung những gia đình
không có tính ổn định lâu dài, mà chỉ là sự kết hợp tạm thời
giữa các gia đình trong cùng một vùng đất sản xuất. Trong làng cư trú phân tán các gia
đình có thể cách xa nhau hàng kilômét, thậm chí có nơi nhà cách nhà đến 2-3 kilômét.
Tuy sinh sổng xa nhau, nhưng vẫn hình thành làng, vì họ cần sự giúp đỡ nhau trong cuộc
sổng, nhất là cuộc sống tinh thần nhất (khi cưới xin, tang ma và trong quan hệ dòng
họ...).
Làng cư trú tập trung là
làng của những người có
đất sản xuất ổn định, không
di canh theo đất sản xuất,
mà họ định canh hoặc luân
canh, định cư. Loại làng
này thường được xây dựng
trên các sườn đồi núi, gần
nguồn nước để có điều kiện
dẫn nước theo máng về
nhà, hoặc gần sông suối
Bản Hồ - Làng cư trú tập trung của người Dao
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 7 | 29
TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC DAO | Hoàng Trần
có điều kiện sản xuất ổn định. Mỗi làng có vài ba chục nóc nhà gần nhau.
3.2. Nhà ở
Dân tộc Dao cũng như tất cả các
dân tộc khác ở nước ta đều lấy
nguyên vật liệu tại chỗ để làm
nhà. Đó là gỗ, tre, nứa, lá cỏ
gianh, lá gồi, dây rừng, về mặt
hình thức, nhà ở của dân tộc Dao
chia thành 3 loại: nhà đất, nhà
nửa sàn, nửa đất và nhà sàn. Nhà
đất có thể là nhà lâu đời của
người Dao.Người Dao quan niệm rằng có ở nhà đất mới có chỗ cúng Bàn Vương. Nhà
thường có 3 hoặc 5 gian đứng (không có chái).Loại nhà đất thường được làm ở vùng núi
cao, ít rừng, ít cây cối.Nhà nửa sàn, nửa đất thường gặp ở vùng giữa nơi còn khá nhiều
rừng.Sinh sống ở vùng này vẫn chịu tác động của sự ẩm thấp của rừng. Do vậy họ làm
nhà nửa sàn nửa đất. Điều đáng chú ý là với loại nhà này, đồng bào luôn đặt bàn thờ Bàn
Vương ở phần nhà đất.Nhà sàn là loại hình nhà phổ biển ở người Dao sinh sống ở vùng
thấp, làm ruộng hoặc làm nương định cư.Đa số họ sống xen kẽ với người Tày, người
Nùng.
Mặc dù về hình thức, nhà ở của dân tộc Dao chia thành ba loại hình, nhưng về nội dung
bố trí bên trong vẫn có nét đặc trưng của dân tộc Dao.Đó là trong nhà có một gian nhỏ
được ngăn ra ở ngay giữa nhà dùng làm chỗ Bàn Vương.
Những người sống di canh, di cư đôi khi phải chuyển nhà ở theo nương. Người Dao có
tục chuyển nhà là chuyển đồ vật trong nhà chứ không chuyển nguyên vật liệu của cả ngôi
nhà cũ đến địa điểm làm nhà mới. Tuy nhiên vẫn phải chuyển theo một chiếc cột nhà.
3.3. Trang phục
Dân tộc Dao có nhiều nhóm địa phương, giữa các nhóm đó có sự khác nhau nhất định
trong trang phục. Nhìn chung phụ nữ Dao mặc áo không cúc và mặc quần. Tuy nhiên phụ
nữ nhóm Dao Tiền lại mặc váy. Cụ thể sự khác nhau cơ bản trong trang phục ở các nhóm
Dao như sau:
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 8 | 29
TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC DAO | Hoàng Trần
Dao Đỏ: Phụ nừ Dao Đỏ mặc áo màu chàm dài đến
ngang bắp chân. Kiểu áo xẻ trước ngực và yếm. cổ
áo và nẹp áo trước ngực là một miếng vải liền, được
thêu thùa rất đẹp. Trên nẹp áo có gắn những miếng
bạc hình chữ nhật to gần bàng bao diêm, có chạm
hoa văn trang trí, hoặc gắn những “bông” hoa đỏ rực
rỡ.Gấu áo trước và sau đều thêu hoa văn chỉ màu đỏ.
Trên thân áo sau và trên bả vai đều thêu hình ấn của
Bàn Vương. Phụ nữ Dao Đỏ mặc quần chân què,
cạp lá toạ, nay họ mặc quần có dây rút. Quần tương
đối ngắn, ống hơi hẹp, thêu nhiều hoa văn ở gấu
quần.Phụ nữ Dao Đỏ để tóc dài, vấn xung quanh
đầu, bên ngoài đội khăn bằng vải nỉ đỏ. Nam giới
Dao Đỏ có hai loại áo: áo ngắn và áo dài. Áo
Thiếu nữ Dao Đỏ
ngắn được mặc thường ngày, còn áo dài chỉ mặc
vào những dịp lễ tết, cưới xin, đi chơi xa. Quần nam
giới được làm từ vải nhuộm chàm, cắt kiểu chân
què, cạp lá toạ.Nay thanh niên mặc kiểu âu phục.Đồ
trang sức chủ yếu bằng bạc hoặc bằng đồng thau.
Dao Quần Chẹt: Phụ nữ Dao quần chẹt mặc áo dài
tương tự như Dao Đỏ nhưng ít thêu hơn. Phụ nữ
Dao Quần Chẹt cũng dùng yếm. Yếm của họ bằng
vải nhuộm chàm, thêu nhiều hoa văn bằng chỉ màu
ở phần cổ, đính thêm hai bán cầu hoặc hai ngôi sao
bằng bạc, có đường kính 5 - 6cm. Phụ nữ nhóm Dao
Trang phục người Dao Quần
này mặc quần chẹt theo một câu truyện cổ.
Chẹt
Truyện kể rằng, ngày xưa phụ nữ Dao mặc váy dài và rộng loè xoè, đi lại hay bị vướng,
khó khăn. Một hôm, mẹ ốm, con gái đi vào rừng hái thuốc, nhưng vì mặc váy, đi lại trên
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 9 | 29
TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC DAO | Hoàng Trần
rừng rất khó khăn, chậm chạp cho nên đi hái thuốc rất lâu mới về. về đến nhà thấy mẹ đã
chết. Từ đó người Dao thề độc là bỏ mặc váy, mà chỉ mặc quần, hơn nữa chỉ mặc quần
ngắn, ống hẹp (quần chẹt) để đi lại dễ dàng, làm việc thuận tiện hơn, nhanh nhẹn hơn. Do
ống quần nhỏ hẹp, cho nên đũng quần có độ dãn rộng đến 120°. Phụ nữ Dao Quần Chẹt
cắt tóc ngắn, chải sáp ong, đội khăn màu chàm.Cách đội khăn tương tự như người Dao
Đỏ, nhưng cũng có người quấn khăn thành hình cái sừng ở trên đầu, sừng hơi nghiêng về
phía bên phải hoặc bên trái.Vì vậy có nơi còn gọi họ là Dao Sừng.
Dao Lô Gang (Dao vào sau): Áo của phụ
nữ Dao Lô Gang tương tự như Dao Quần
Chẹt, chỉ khác là nẹp áo thêu nhiều mô
típ hoa văn khác nhau. Quần của phụ nữ
Dao Lô Gang cắt ống rộng hơn Dao
Quần Chẹt nhiều.Chị em Dao Lô Gang
có đôi xà cạp thêu rất đẹp. Phụ nữ Dao
Lô Gang cũng cắt tóc ngắn, chải sáp ong
và đội khăn, nhưng cách đội khăn có
Người Dao Lô Gang
khác nhau chút ít theo địa phương. Ở tỉnh Lạng Sơn, chị em
Dao Lô Gang đội khăn hình vuông (khoảng 20 X 20cm) với
nhiều lớp chồng khít lên nhau.Ở tỉnh Tuyên Quang, chị em
lại đội khăn dài, quấn lại và độn thêm một que nhỏ vào
trong khăn ở phía trước, làm thành hai góc nhọn chĩa ra hai
phía thái dương.
Dao Tiền: Trong các nhóm thuộc dân tộc Dao, duy nhất chỉ
có phụ nữ nhóm Dao Tiền mặc váy. Váy không thêu hoa
văn mà in sáp ong hình sóng nước mờ nhạt trên nền chàm.
Áo của phụ nữ Dao Tiền tương tự như áo của phụ nữ Dao
Đỏ, nhưng thêu hoa văn ít hơn và nẹp ngực nhỏ hơn,
trên đó có gắn các nửa đồng tiền bằng kim loại đối diện
Thiếu nữ Dao Tiền
với nhau. Chính vì vậy mà họ được gọi là Dao Tiền. Phụ nữ Dao Tiền cắt tóc ngắn, chải
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 10 | 29
TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC DAO | Hoàng Trần
sáp ong, bên ngoài tóc được đội khăn che phủ khác nhau... Ở tỉnh Hòa Bình, tỉnh Phú
Thọ chị em đội khăn màu chàm; nhưng ở tỉnh Lạng Sơn, Tuyên Quang chị em lại đội
khăn màu trắng. Mũ đội đầu của chị em phụ nữ Dao có nét đặc trưng.Trong lễ cưới và
khi có đám chay người ta đội một chiếc mũ nhỏ hơn và khung mũ được làm bằng tóc rồi
phết sáp ong.Ngoài khung mũ được phủ một chiếc khăn thêu, xung quanh thành mũ được
đính nhiều mảnh bạc nhỏ hình tròn và những ngôi sao nhỏ cũng bằng bạc.Phụ nữ Dao
Tiền dùng nhiều đồ trang sức bằng bạc. Chị em hay đeo nhẫn, có người đeo đến 10 cái
nhẫn. Ngoài ra, chị em còn đeo nhiều vòng cổ, đeo túi đựng trầu chủ yếu để làm dáng
như một đồ trang sức.
Dao Quần Trắng: Trước đây phụ nữ Dao Quần Trắng để tóc dài, cuốn lên đỉnh đầu và đội
mũ. Nay chị em vẫn để tóc dài, nhưng không cuốn lên đỉnh đầu nừa mà rẽ ngôi ở giữa,
búi sau gáy, bên ngoài đội khăn thêu.Ngày cưới cô dâu không đội khăn, mà đội mũ. Mũ
cô dâu có hình một cái ống chụp lên đầu, cao khoảng 25cm. cốt mũ làm bằng xơ mướp,
bên ngoài phủ lớp vải đen và đính trên đó nhiều hình ngôi sao bằng bạc. Áo của chị em
Dao Quần Trắng cùng kiểu cắt với các nhóm Dao trên, nhưng ít thêu hơn, nẹp ngực nhỏ,
viền bằng vải trắng và vải đỏ, hai bên đổi màu nhau (nẹp bên phải trắng, thì nẹp bên trái
đỏ).Trong bộ y phục nữ của Dao Quần Trắng có chiếc yếm đặc trưng. Yếm của chị em
rất to, rộng khoảng 40 cm, dài khoảng 60 cm, che hết cả phần ngực và bụng. Yếm có
phần trên là một hình thang cân, phần dưới là hình chữ nhật, cả chiếc yếm được dệt với
nhiều hoa văn trang trí bằng chỉ màu. Theo các cụ kể lại, ngày xưa chị em phụ nữ Dao
Quần Trắng mặc váy màu chàm, thêu hoa văn.Họ mới mặc quần cách đây gần thế
kỉ.Quần có màu chàm, ngấn ngang ống chân.Ống quần tương đối hẹp, gấu to, cạp
rộng.Trong ngày cưới, cô dâu phải mặc quần trắng.Hiện nay trang phục thường ngày của
cả nam và nữ người Dao Quần Trắng ở tỉnh Quảng Tây (Trung Quốc) đều vẫn mặc quần
trắng.
Dao Thanh Y: Phụ nữ Dao Thanh Y để tóc dài, chải mượt, rẽ ngôi giữa, tóc sau gáy và
xung quanh đầu được vuốt ngược lên đỉnh đầu rồi cuốn thành bốn búi tóc nhỏ. Những búi
tóc nhỏ này lại được cột với nhau bằng một sợi dây gai.Bên ngoài tóc là một cái mũ hình
ống.cốt mũ được làm bàng xơ mướp, bên ngoài mũ lợp chỉ đen, đỉnh mũ gắn một ngôi
sao bằng bạc mười cánh, xung quanh thành mũ đính nhiều mảnh bạc nhỏ, tròn như đồng
xu. Bên ngoài mũ phủ vải đỏ. Phụ nữ Dao Thanh Y mặc áo màu chàm, dài, ống tay áo
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 11 | 29
TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC DAO | Hoàng Trần
rộng, cửa tay đáp một khoanh vải đỏ. Cổ áo thấp, không liền với nẹp áo trước ngực.Nẹp
áo bằng vải đỏ.Thân áo trước bên phải ngắn, bên trái dài.Khi mặc hai thân bắt chéo nhau
rồi dùng dây buộc qua ngoài.Chị em phụ nữ Dao Thanh Y mặc quần màu chàm, không
thêu hoa văn.
Dao Làn Tẻn\ Phụ nữ Làn Tẻn để tóc dài, búi sau gáy, thanh niên đội một cái mũ bẹt như
cái đĩa, với đường kính khoảng 12 - 15cm. Mũ làm bằng tóc rối, trên đỉnh mũ đính ngôi
sao bằng bạc, chạm trổ rất công phu. Khi đội mũ, chị em dùng hai cái châm bằng xương
cài mũ vào tóc đê giữ mũ chắc ở trên đầu. Ngoài mũ phủ một chiếc khăn nhỏ hình chữ
nhật (10 X 20cm) bằng vải trắng, thêu chỉ đen, hai đầu khăn để tua dài. Áo màu đen cổ
thấp, xẻ trước ngực chéo sang bên phải, cài khuy vải... Chị em Dao Làn Tẻn mặc quần
rộng đũng, dùng dây lưng, chân quấn xà cạp bằng vải trắng.
3.4. Ẩm thực
Dân tộc Dao làm nghề trồng trọt lúa nương là chính (chỉ một số ít trồng ngô), cho nên
thường ngày đồng bào Dao ăn cơm với rau xanh, măng rừng. Như chúng ta biết, người
Dao có chăn nuôi gia súc và gia
cầm, nhưng bữa ăn hàng ngày
không mấy khi có thịt. Các món ăn
chua của người Dao độc đáo nhất.
Trong món ăn chua có cháo chua
và thịt chua. Để làm món thịt
chua, người Dao nấu cơm nếp, ủ
với men rượu, rau răm, lá trầu
không, riềng, muối trộn đều, ủ
khoảng 10 ngày. Lợn mổ xong pha
thịt ra từng miếng nhỏ khoảng nửa
Thịt lợn chua của người Dao
kilôgam, không rửa, cho thịt vùi vào trong đó. Thịt lợn chua có thể dành hàng năm trời
mà chất lượng
vần tốt. Người Dao cũng rất thích ăn canh lá đắng. Trong bữa ăn, người Dao có tập quán,
con dâu, em dâu không nsồi chung mâm với bố chồng, anh chồng. Người Dao mến
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 12 | 29
TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC DAO | Hoàng Trần
khách, có khách đến nhà thường mổ gà mời cơm.Khi vào mâm cơm, chủ nhà thường gắp
đầu gà cho khách để thể hiện sự quý mến đối với khách. Cũng theo tập quán, đê tỏ lòng
kính trọng chủ nhà, khách nhận lấy đầu gà, sau đó chuyển cho vị trưởng lão trong mâm.
Hành động đó của khách được người Dao coi là biết đối nhân xử thế, được đồng bào kính
nể. Khi ăn cơm, người Dao kiêng để đũa ngang miệng bát. Theo quan niệm của đồng
bào, khi trong nhà có tang ma mới đặt đũa ngang miệng bát. Đồng bào Dao hay uống
rượu. Nhóm Dao Thanh Y, Dao Tiền hay uống rượu hoẵng. Loại rượu này vừa có vị cay,
vừa có vị hơi chua, hơi ngọt ngọt, dễ uống. Tuy nhiên uống nhiều cũng say.
3.5. Phương tiện vận chuyển
Người Dao không dùng chiếc gùi nan tre làm phương tiện vận chuyển như các dân tộc
khác cùng sinh sống ở miền núi, mà đồng bào dùng chiếc thung - chiếc túi lưới đan bằng
sợi dây gai. Chiếc thung khi chứa hàng căng phồng như chiếc gùi nan tre, đeo bằng hai
dây qua vai như chiếc gùi nan tre, nhưng khi không có hàng thì có thể xếp lại một nắm
trong tay. Người Dao cũng dùng ngựa thồ khi cần di chuyển với lượng hàng lớn để thồ
ngô, lúa trong mùa thu hoạch, hoặc khi di chuyển nhà ở.
3.6. Ngôn ngữ
Dân tộc Dao thuộc hệ ngôn ngữ Mông Dao
Tiếng nói của dân tộc Dao xét về mặt ngôn ngữ có thể chia thành hai phương ngữ. Thuộc
nhóm phương ngữ thứ nhất (phương ngữ kiềm miền) có hai nhóm Dao lớn là nhóm Dao
Đại Bản và nhóm Dao Tiểu Bản; thuộc nhóm phương ngữ thứ hai (phương ngữ kìm mùn)
có hai nhóm Dao lớn khác là nhóm Dao Quần Trắng và nhóm Dao Làn Tẻn. Nếu chia
theo nhóm nhỏ thì phương ngữ thứ nhất có các nhóm Dao sau: nhóm Dao Đại Bản, nhóm
Dao Lô Gang, nhóm Dao Quần Chẹt, nhóm Dao Tiền; còn phương ngữ thứ hai có các
nhóm: nhóm Dao Quần Trắng, nhóm Dao Làn Tẻn, nhóm Dao Áo Dài. Tuy nhiên về cơ
bản người Dao giao tiếp với nhau, hiểu nhau bình thường.
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 13 | 29
TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC DAO | Hoàng Trần
3.7. Chữ viết
Dân tộc Dao không có chữ viết riêng của dân tộc mình.Trước đây họ dùng chữ Hán để
ghi chép văn tự liên quan đến cưới xin, sinh đẻ.Chữ Hán được dùng nhiều trong sách
cúng.Chữ Hán là chữ tượng hình, không ghép vần như chữ Latinh, người học phải nhớ
từng con chữ một. Do vậy ít người biết chữ Hán. Sau này người Dao đã Nôm hóa chữ
Hán
thành
chữ
Nôm
Dao.Chữ Nôm Dao cũng là
loại chữ gốc Hán nên vẫn
khó học, ít người biết. Chữ
Nôm Dao ngày nay vẫn được
sử dụng chủ yếu trong sách
cúng, do vậy chỉ có thầy
cúng và những người muốn
làm thầy cúng mới tích cực
học loại chữ này.
Chữ Nôm của Người Dao
3.8. Tín ngưỡng tôn giáo
Đặc điểm tín ngưỡng của dân tộc Dao là tin vào vạn vật hữu linh (tôn giáo nguyên thủy)
và chịu nhiều ảnh hưởng của tam giáo (Đạo giáo, Phật giáo và Khổng giáo).
Tin vào vạn vật hữu linh, người Dao tin rằng mọi vật từ vật vô tri, vô giác đến các sinh
vật đều có linh hồn, có thân và những linh hồn đó, những thần đó có quan hệ tương tác
với con người, có thể mang lại điều tốt lành cho con người, cho mùa màng bội thu, cho
gia súc gia cầm đầy sân, đầy chuồng, nhưng cũng có thể làm hại cho con người, mùa
màng, gia súc và gia cầm. Muốn được thần linh phù hộ phải cúng bái các thần linh khi có
việc. Con người có 12 hồn hoặc 3 hồn, 7 vía. Con người đau ốm, bệnh tật là do không có
đủ hồn ở trong thân thể. Nguyên nhân là do ma quái bắt hoặc hồn đi chơi, mải mê với
cảnh đẹp mà quên đường về. Lúc đó người ta phải nhờ thầy cúng bói tìm hồn và cúng
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 14 | 29
TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC DAO | Hoàng Trần
đưa hồn về với thân thể của người ốm. Người Dao tin một số người có ma ngọ hải - là
loại ma người sống cỏ thể làm đau, làm chết người và gia súc.
Ảnh hưởng của tam giáo đối với người Dao thể hiện khá rõ nét. Các thầy cúng của dân
tộc Dao, những bức họa, những bức tranh trong cúng bái, những hình mặt nạ hóa trang
trong khi múa, những phù phép khi cúng chữa bệnh, bói toán chẩn đoán bệnh cho người
ốm... tồn tại trong các nghi lễ tôn giáo của người Dao đều là sản phẩm của Đạo giáo.
Biểu hiện của Phật giáo trong tín ngưỡng dân tộc Dao là quan niệm về hóa kiếp luân hồi,
uống nước thiêng chữa bệnh, ăn chay niệm Phật, tu nhân tích đức, ở hiền gặp lành...
Người Dao Áo Dài, người Dao Quần Trắng ở tỉnh Hà Giang (huyện Bắc Quang) có thói
quen thờ Phật. Người Dao tin vào số mệnh con người, mỗi người có một số riêng. Người
sống lâu, người chết trẻ, người học giỏi, người học không giỏi, người đẹp trai, xinh gái,
người cao, người thấp... là số do trời quyết - thiên mệnh (Khổng giáo).
Người Dao quan niệm thế giới có ba tầng: tầng trên trời, tầng trên mặt đất và tầng dưới
đất, dưới nước. Tầng trên trời là nơi sinh sống làm ăn của các vị thần linh và người khổng
lồ; tầng trên mặt đất là nơi con người cùng các loại sinh vật sinh sống; tầng dưới đất,
dưới nước là thế giới của những người lùn (co còng). Người trên trời đeo dao ở cổ; người
trên mặt đất đeo dao ở vùng thắt lưng; người dưới đất, dưới nước đeo dao ở bắp chân. Tất
cả sự sống trên thế giới ba tầng này đều do Cạp pò (tiếng Dao Tiền) tạo ra. Ngoài các vị
thần, trong quan niệm người Dao còn có ma quỷ.Ma quỷ được phân chia thành ma lành
và ma ác. Trên cơ sở quan niệm về tín ngưỡng tôn giáo như trình bày ở trên, người Dao
có những hoạt động tôn giáo như sau:
Thờ cúng tổ tiên: Dân tộc Dao thờ cúng tổ tiên. Khi có việc lớn, người Dao cúng tổ tiên 9
đời, nhưng hàng ngày chỉ cúng 3 đời. Người Dao gọi bàn thờ là Hùng lầu miến (tiếng
Dao Đại Bản). Bàn thờ dân tộc Dao có nét độc đáo, thường là một khám nhỏ, có mái như
một ngôi nhà nhỏ đặt trong nhà ở, bưng kín ba mặt, mặt còn lại để đặt đồ cúng vào và
thắp hương.
Người Dao quan niệm, khi ông bà, cha mẹ chết thì linh hồn được đưa về nơi quê cha đất
tổ ở Dương Châu (Trung Quốc), nhưng linh hồn vẫn đi lại thăm con cháu và vẫn làm ăn,
hoạt động như người sống, cho nên con cháu cần tổ chức cúng bái và cầu mong tổ tiên
phù hộ cho con cháu sức khỏe và làm ăn được tấn tới.
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 15 | 29
TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC DAO | Hoàng Trần
Ngoài thờ cúng tổ tiên là các cụ, ông bà, cha mẹ, dân tộc Dao còn có khái niệm về tổ tiên
gốc và tổ tiên từ Trung Quốc di cư sang Việt Nam. Tổ tiên gốc có tên Dao là Piền hùng;
còn tổ tiên từ Trung Quốc sang được đồng bào Dao gọi là chà phin qua khỏi hoặc pua
mỉu miến . Thông thường cả hai tổ tiên này được người Dao gọi bàng một tên chung là
tom miến và cùng cúng chung với bàn thờ tổ tiên gia đình trong các dịp cấp sắc, đám
chay.
Lễ cúng Bàn Vương (chẩu đàng): Bàn Vương là nhân vật trong truyện huyền thoại Piền
hùng cấu (truyện kể về Bàn Vương), là ông tổ của các dòng họ người Dao. Trong Piền
hùng cấu có ghi lại rằng con cháu Dao Vương phải cúng âm hồn của Bàn Vương thường
kì, cứ 2 năm thì cúng nhỏ, 5 năm thì cúng to. Việc thờ cúng Bàn Vương thường được kết
hợp với các dịp cúng tổ tiên, vào các dịp lễ, tết, ngày rằm, mùng một hàng tháng tại hùng
lầu trong nhà tộc trưởng. Tuy nhiên, cũng có trường hợp cúng riêng, khi Bàn Vương
đòi.Dấu hiệu của Bàn Vương
đòi là trường hợp, con lợn nái
trong gia đình thành viên dòng
tộc chỉ đẻ hai con lợn đực. Gia
đình sẽ nuôi con lợn đó khoảng
một năm sau, nếu một trong hai
con lợn đó chết, hoặc cả hai con
cùng chết thì không phải làm lễ
cúng Bàn Vương (còn gọi là
Chẩu đàng) nữa. Nếu hai con
lợn đó sống bình thường thì
người ta làm lễ thông báo cho
Lễ cúng Bàn Vương
Bàn Vương biết về hai con lợn thần tại nhà trưởng tộc. Thầy cúng khấn thông báo cho
Bàn Vương và các đời tổ tiên biết đã có hai lợn thần đế làm lễ cúng trả ơn Bàn Vương.
Sau lễ cúng thông báo về lợn thần, hai con lợn đó sẽ được đưa về gia đình tộc trưởng
nuôi đến khi lợn lớn khoảng 50 kilôgam thì làm lễ châu đàng.
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 16 | 29
TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC DAO | Hoàng Trần
Lễ châu đàng thường được tổ chức vào tháng 12 âm lịch.Lễ này cần sử dụng nhiều thứ đồ
phục vụ cho nghi lễ như rượu, giấy bản, hương, thịt, rau.Những thứ này đều được chuẩn
bị trước.Để tổ chức lễ, người ta mời 3 thầy cúng một số người chuẩn bị đàn cúng và nấu
nướng, phục vụ cho thầy cúng khi thực hiện các nghi lễ. Ba thầy cúng có các nhiệm vụ
như sau: thầy thứ nhất (vin nhủng vai) có nhiệm vụ cúng trả hai con lợn cho Bàn Vương
và các đời tổ tiên; thầy thứ hai (sài pành piế) cúng cầu khấn sức khỏe và các thần lúa,
thần chăn nuôi; thầy thứ ba (cu sai) làm nhiệm vụ cúng trả các lễ vật, vàng mã cho thần
chăn nuôi, thần lúa gạo, các bậc tổ tiên gần.
Bước vào lễ, khi trên đàn cúng đã có thịt lợn luộc, rượu, vàng mã, thầy thứ nhất và thầy
thứ hai làm lễ trấn an, dán các bùa phép ghi bằng chữ Nôm lên đàn thờ, cầu mời ma tổ
tiên, Bàn Vương và các âm binh, thần thánh của hai thầy đến dự lễ chẩu đàng. Các thầy
mời gần xong các ma thì 3 chàng trai (biào ton) và 3 cô gái (biào xía) đứng xếp hàng
ngang sau các thầy vái lạy để đón chào các bậc tổ tiên và Bàn Vương. Khi vái lạy, một
biào ton dùng hai tay cầm một ống tre nhỏ, dài khoảng 30cm, biào ton thứ hai cầm kiếm,
biào ton thứ ba cầm quẻ. Sau đó người ta mổ hai con lợn thần và lấy một con để tế lễ.
Việc tế lễ giao nộp lợn thần do thầy thứ nhất đảm nhiệm và trong thời gian đó các biào
ton, biào xía phải hát khoảng 37 bài hát với nhiều nội dung khác nhau.
Người Dao quan niệm Piền hùng là ma nhà (piáo mánh miến), cai quản số phận của từng
người trong gia đình và cả dòng tộc. Do vậy nếu cúng Piền hùng thông qua làm lễ chẩu
đàng tốt thì mọi người mạnh khỏe, sống hòa thuận, làm ăn phát đạt.
Cúng lễ: Xuất phát từ tín ngưỡng đa thần, vạn vật hữu linh và sinh sống bằng nghề nông,
dân tộc Dao có nhiêu nghi lễ cúng liên quan đến nghề trồng trọt và chăn nuôi.
Người ta tin rằng cây lúa và hoa màu cùng mọi con vật nuôi đều có linh hồn, có sống, có
chết, biết đau và biết tức giận. Người ta cũng tin rằng có thần mưa, thần gió, thần trông
coi lúa gạo và thần chăn nuôi. Các vị thần đó có quan hệ tương tác với cuộc sống con
người, cho nên phải tổ chức nghi lễ thờ cúng.
Nghi lễ cúng của dân tộc Dao gồm có nghi lễ của cộng đồng làng, nghi lễ của dòng họ và
nghi lễ gia đình.
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 17 | 29
TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC DAO | Hoàng Trần
Nghi lễ cúng cộng đồng làng có nghi lễ cúng diệt trừ sâu bọ và nghi lễ cúng miểu làng;
nghi lễ cúng dòng họ có nghi lễ cúng lập thu, lễ cúng hồn lúa, lễ cúng mùa gieo cấy.
Lễ cúng diệt trừ sâu bọ là nghi lễ của làng cầu các thần ma không mang sâu bọ về phá hại
mùa màng của dân làng. Như chúng ta biết, làng người Dao có hai loại: làng định canh
định cư và làng di canh di cư. Người sống di canh di cư thỉnh thoảng phải chuyển làng đi
theo nương - đất sản xuất. Khi di chuyển làng đi, một số trường hợp, thầy cúng xấu tính
do không muốn người khác đến làm ăn canh tác tại đất làng cũ của mình, cho nên đã
dùng phép thuật để đón các loại sâu bọ về phá hại mùa màng. Việc cúng diệt trừ ma sâu
bọ chỉ được tổ chức thực hiện khi các nương trong làng bị nhiều sâu bọ phá hại và thầy
bói cho rằng do con ma xấu đón sâu bọ về làm hại. Làng có sâu bọ phá hại mùa màng thì
hàng năm hoặc vài ba năm phải cúng một lần để diệt trừ.Các làng không có ma xấu đón
sâu bọ về làm hại mùa màng thì không cần tổ chức lễ cúng diệt trừ sâu bọ.Lễ cúng diệt
trừ sâu bọ có thể tổ chức cúng to (khoi kềm) hay cúng nhỏ (pháo kềm).Lễ vật cúng
thường có gạo, rượu, gà, lợn, hương, vàng mã. Những vật cúng này do các gia đình trong
làng đóng góp, không đòi hỏi phần đóng góp phải bằng nhau. Lễ cúng thường được tổ
chức vào tháng 6, tháng 7 âm lịch - thời gian ngô lúa và hoa màu đang phát triển. Ngày
cúng được dân làng tính kĩ sao cho không trùng với ngày hạ chí, không trùng với ngày 77 ngày ngô lúa giao hòa, ngày 20 - 7, ngày bình yên (pềnh tênh)... Thường chọn ngày
cúng là ngày psó ho là ngày đi không về, hay ngày thỏ hoi là ngày huỷ diệt.Lễ cúng diệt
trừ sâu bọ thường được tổ chức ở trong rừng. Sau lễ cúng, người ta tổ chức bữa ăn cho cả
làng. Trong bữa ăn đó dân làng bàn bạc về phát triển kinh tế, giữ gìn đoàn kết và bảo vệ
an ninh trong làng.
Lễ cúng miếu làng: Một số nhóm Dao cúng miếu làng theo lịch cúng định sẵn. Người ta
cúng miếu làng theo định kỳ vào các ngày mùng 1 tết, ngày 3-3, ngày 15 - 7 âm lịch và
cúng cuối năm từ ngày 25 đến 30 tháng 12 âm lịch. Lễ vật cúng do dân làng đóng góp
gồm rượu, gạo, lợn, gà, hương, vàng mã. Miếu được dựng ở trong rừng cấm, cột gỗ, mái
lợp tranh hoặc ngói. Trên đàn cúng đặt 3 bát hương: bát đặt giữa cúng thần hộ mệnh
(canh man) cho từng người dân làng; bát đặt bên trái cúng thần hộ mệnh gia súc (tạy
man), còn bát đặt bên phải cúng ma trời phù hộ thân lúa gạo và hoa màu (cong man).
Ngoài lễ cúng định kỳ hàng năm, có khi cùng phải cúng miếu làng theo nhu cầu thực tế.
Đó là trường hợp ngô lúa, hoa màu và gia súc của nhiều gia đình bị bệnh dịch không rõ
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 18 | 29
TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC DAO | Hoàng Trần
nguyên nhân thì dân làng tổ chức cúng miếu làng, nhưng chỉ cúng đúng vào bát tạy man
và cong man.
Nghi lễ cúng lập thu: Đây là lễ cúng của dòng tộc cho nên thường được tổ chức tại nhà
trưởng tộc vào ngày lập thu. Lễ vật cúng do các gia đình trong dòng tộc đóng góp theo
tấm lòng. Mỗi gia đình phải cử một người đến dự lễ.Người cúng là ông trưởng tộc. Lễ
cúng chia thành hai phần, phần thứ nhất, cúng ma tổ tiên của dòng tộc và thần nông; phần
thứ hai cúng ma mùa thu. Cúng xong người ta tổ chức ăn uống chung tại nhà tộc trưởng.
Trong lúc ăn uổng, bà con dòng tộc bàn bạc công việc sản xuất và giúp nhau trong dòng
tộc.
Lễ cúng cơm mới: Lễ cúng cơm mới được một sổ nhóm Dao (Dao Đỏ, Dao Áo Dài, Dao
Tiền) tổ chức. Có gia đình tổ
chức vào tháng 8 - mùa lúa bắt
đầu chín; có gia đình tô chức vào
tháng 9.Người ta gặt lấy ít lúa
đầu mùa đem về phơi khô, giã
thành gạo nấu cơm xới ra bát bày
lên bàn thờ tổ tiên.Ngoài ra còn
có các món rau, cua, cá, khoai sọ,
đậu đũa, gà luộc và nhộng ong.
Lễ cúng “cơm mới” của người Dao
Lễ cúng hồn lúa (síp biào vần): Ngày củng hồn lúa được chọn kĩ, sao cho không trùng
với ngày sinh của chủ nhà, không trùng với ngày mất của ông bà, không chọn ngày mệnh
lợn, mệnh gà. Thông thường đồng bào hay chọn cúng hồn lúa vào các ngày con rồng,
ngày con trâu hoặc ngày con hổ.Mâm cúng được bày trước bàn thờ tổ tiên.Trên mâm
cúng có gà luộc, một chén nước, một ngọn đèn, ba bát hương, ba chén rượu, ba hoặc năm
bát cơm nếp và tiền vàng âm phủ.Bên cạnh mâm cúng nhất thiết đặt một cái sọt, trong đó
có một gói bánh giầy, một cụm lúa nếp tượng trưng cho mẹ lúa và ba nén hương.Sau khi
cúng xong, cái sọt cùng lễ vật trong sọt được đặt vào trong kho hoặc bồ thóc.Đúng 5
ngày sau lấy bánh trong sọt ra ăn.Bánh này không chia cho người khác, chỉ để cho người
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 19 | 29
TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC DAO | Hoàng Trần
trong gia đình ăn. Đồng bào quan niệm ăn bánh này nguời sẽ khỏe và có khả năng chống
các bệnh tật vì trong bánh tập trung nhiều hồn lúa.
Cúng sau khi gieo trồng thường tổ chức vào tháng 5, tháng 6 hàng năm sau khi vụ gieo
trồng kết thúc.Có nhóm Dao bày vật cúng và cúng trước bàn thờ tổ tiên, nhưng cũng có
nhóm Dao lập bàn cúng trước cửa chính, nếu ruộng, nương ở gần nhà.Nếu ruộng, nương
xa nhà thì phải mang lễ vật cúng lên nương.Lễ vật thường có gà luộc, nhà giàu còn có
lợn, dê.Nếu cúng lợn, hoặc dê thì phải cúng cả buồng gan, một miếng thịt, bốn chân và cả
cái đầu.
Ngoài các nghi lễ liên quan đến nông nghiệp nêu trên, dân tộc Dao còn tổ chức nhiều lễ
tiết như: Tết Nguyên đán, Tết Thanh minh 3 - 3, tết 5 - 5, tết 15 -7, tết 15 - 8, tết Đông
chí... Trong các lễ tiết này đáng chú ý là lễ tết 3-3.Đây là tết đi tảo mộ. Người Dao sống
di canh, di cư cho nên không có điều kiện trực tiếp chăm sóc mộ hàng năm, vì vậy, vào
dịp 3-3 đồng bào lập mộ giả gần nhà trưởng họ và cúng vọng mộ tổ tiên của dòng tộc
mình.
3.9. Tục lệ cưới xin
Dân tộc Dao thực hiện hôn nhân theo nguyên tắc ngọai hôn dòng tộc. Cho đến nay chưa
thấy có gia đình người Dao nào mà hai vợ chồng cùng một họ, và không chấp thuận hai
anh em trai của gia đình họ này lấy hai chị em gái của gia đình họ kia. Người Dao cũng
thực hiện nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng, sau hôn nhân cư trú bên nhà chồng.
Trai gái dân tộc Dao thường chủ động trong việc tìm bạn đời của mình. Do bản làng
người Dao sống xa nhau, ít khi gặp nhau, vì vậy người Dao thường tận dụng các cơ hội đi
chợ, đi lễ hội, đi chơi làng bạn bè, làng họ hàng, các dịp cưới xin... để làm quen nhau.
Khi đôi trai gái có tình ý với nhau, chàng trai tặng cô gái vật kỷ niệm như khăn mùi xoa,
nhẫn hoặc vài đồng tiền và cô gái cũng kỷ niệm lại chàng trai vòng tay, nhẫn, đèn pin...
Những vật kỷ niệm này chỉ là những thứ quà tặng làm quen không có ý nghĩa phải dẫn
đến hôn nhân. Nếu sau này hai người không thành vợ chồng thì họ cùng không đòi lại vật
kỷ niệm đó nữa. Nam nữ thanh niên Dao cũng không quá khắt khe trong quan hệ tiền hôn
nhân.Tuy nhiên đôi trai gái sẽ phải kết hôn với nhau nếu đê có bầu. Trường hợp có bầu
mà không lấy nhau, con trai sẽ phải chịu phạt, bồi thường danh dự cho con gái khoảng 5
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 20 | 29
TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC DAO | Hoàng Trần
đồng bạc trắng. Sau này nếu cô gái được người con trai nào đó lấy làm vợ thì tiền thách
cưới được giảm đi 5 đồng bạc trắng.
Nhìn chung, để tiến tới hôn nhân trong dân tộc Dao thường có 4 bước: Bước thứ nhất (nại
nham hay nịnh nại), nhà trai đến nhà gái xin số mệnh để so tuổi cô gái với tuổi chàng trai;
bước thứ hai (ghịa tịnhhay qủngpiêu),
nhà trai sang nhà gái báo tin kết quả so
tuổi. Nếu so tuổi thuật và nhà gái ưng
thuận thì xin thách cưới và viết hôn thư;
bước thứ ba (quyế lẩy hay thúng
thâu),nhà trai đưa cho nhà gái một nửa
số tiền mặt và các đồ sính lễ khác; bước
thứ tư (chíp nham hay quái trà), là tổ
chức cưới.
Cô dâu Dao đang trên đường về nhà chồng
Có hai cách tổ chức đám cưới:
Cách tổ chức cưới thứ nhất: Ớ người Dao Đỏ, khi đôi trai gái đồng ý se duyên với nhau
thì chàng trai thưa chuyện với bố mẹ mình. Nếu bố mẹ chàng trai chấp nhận thì nhà trai
cử một người sang nhà gái ăn hỏi, lấy sô mệnh của cô gái về để so tuổi với chàng trai.
Nếu hợp tuổi nhau thì mọi công việc chuẩn bị cho đám cưới, cho tiệc cưới được tiến
hành.Người Dao Đỏ ở Yên Bái khi tổ chức lễ cưới, nhà trai không phải đến nhà gái đón
dâu, mà cô dâu được cha mẹ, anh chị em họ hàng đưa đến nhà trai.Nhà trai chỉ đón dâu ở
một bãi đất rộng giữa đường trước khi đến nhà trai. Trên đường đi về nhà trai, đoàn đưa
dâu phải kiêng, nếu gặp máng nước bắc ngang qua đường thì không được đi qua dưới
máng nước, mà phải đi qua trên. Nêu máng nước bắc cao quá, không bước qua được thì
phải tháo máng nước. Người Dao quan niệm, đi qua dưới máng nước sau này sẽ gặp hạn,
làm ăn không may mắn. Khi từ nhà mình đi sang nhà chồng, cô dâu không mặc quần áo
cưới ngay mà khi đến cách nhà trai khoảng non kilômét, cô dâu dừng chân thay quần áo,
mặc quần áo cưới, đội mũ cưới. Tục dừng chân thay quần áo, đội mũ cưới này là một tục
lệ mang tính bắt buộc, dù nhà xa nhau hay gần nhau cô dâu cũng phải dừng chân nghỉ để
thay quần áo giữa đường.Sau khi đón dâu ở giữa đường, đoàn nhà trai dẫn đoàn đưa dâu
về nhà trai.Đến trước cửa nhà, cô dâu đứng trước cửa chính và đoàn đưa dâu đứng chờ
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 21 | 29
TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC DAO | Hoàng Trần
ngoài hiên để thầy cúng
cúng giải hạn cho cô
dâu. Để cúng giải hạn
cho cô dâu, nhà trai
chuẩn bị một con gà
sổng, thầy cúng đứng ở
trong nhà nhìn ra ngoài
cửa chính, một tay cầm
một bát nước, trong bát
nước có bạc trắng, một
tay cầm thanh kiếm nhỏ
Vợ Chồng mới cưới mời rượu dòng tộc, bạn bè
có chuông. Miệng thầy lẩm
(Ảnh : sưu tầm)
bẩm cúng một hồi. Sau đó lấy
ngụm nước ở bát phun mạnh về phía cô dâu, rồi bước nhanh ra cửa chính, gần chỗ cô dâu
đang đứng, lấy dao chặt đứt cổ con gà và quăng đi thật xa với ngụ ý tất cả các loại hạn
của cô dâu đã bị xua đuổi đi
theo con gà. Chỉ khi nào con gà sống lại được thì hạn của cô dâu mới quay lại được.
Trong đám cưới của người Dao có tục thổi kèn.Tục này thể hiện sự long trọng, vui tươi
trong đám cưới. Người ta thổi nhiều bài với các nội dung khác nhau: bài đón nhà gái và
vòng đan kết thông gia (vuồi thình cha), bài mừng lễ gia tiên, bài mời cơm, bài tiễn đoàn
đưa dâu. Sau tan cuộc cưới, người thổi kèn, đánh trống, chiêng được chủ nhà cảm tạ bằng
thịt lợn mang về làm bữa cơm cùng gia đình. Lễ lại mặt sau lễ cưới của cô dâu, chú rể chỉ
được thực hiện sau 3 đến 7 ngày.-Cách tổ chức cưới thứ hai: có đặc điểm là trước khi làm
lễ cưới, người con trai phải qua bước trâu công (nghĩa là làm công tại nhà gái). Tục này
chỉ có ở người Dao Tiền. Theo tục lệ này, khi con trai đến tuổi trưởng thành, cha mẹ anh
ta tìm nơi nào đó có con trai vừa ý thì nhờ người đánh tiếng và xin lá số để so tuổi. Nếu
nhà gái đồng ý và so tuổi không có gì trở ngại, nhà trai xin cho con trai đến làm công
(trẩu công).Lần đầu tiên đến nhà gái làm công, người con trai thường đi với một người bà
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 22 | 29
TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC DAO | Hoàng Trần
con nữa. Người bà con này chỉ ở nhà cô gái một đêm, sáng hôm sau về ngay. Người con
trai ở lại nhà cô gái làm công 3-4 ngày, sau đó trở về nhà mình. Khoảng 1 - 2 tháng sau,
anh ta lại đến nhà cô gái để làm công. Lần này anh ta được phép chung chăn gối với cô
gái - vợ tương lai. Nếu gia đình nhiều con gái và cùng một thời gian có hai chàng trai xin
đến làm công thì bố mẹ các cô gái sẽ bố trí mỗi đôi một giường. Sau vài ngày làm việc,
người con trai phải trở về nhà.Sau lần này, anh ta có thể được nhà gái (bố mẹ cô gái) cho
phép làm lễ cưới, hoặc yêu cầu tiếp tục làm công thêm thời gian nữa. Cho phép cưới hay
chưa cho phép cưới là quyền của bố mẹ cô gái trên cơ sở đánh giá nhân cách của chàng
trai (khả năng lao động, thái độ ứng xử). Do vậy có chàng trai đi ở làm công nhiều lần mà
chưa cưới được vợ. Không cưới được vợ, nhưng vẫn có thể có con rồi.
Trường hợp như vậy, chàng trai ra về, trở lại nhà bố mẹ đẻ với tay không. Con để lại cho
vợ, chàng trai tiếp tục tìm chỗ “làm công”.
Lễ cưới của người Dao Tiền cũng được tổ chức nghiêm túc, mời bà con họ hàng đến dự
đông đủ. Thông thường lễ vật cưới chính thức mà nhà trai mang sang nhà gái gồm 3 lợn
(khoảng 200 kilôgam), 15 kilôgam muối, 20 lít rượu, 1 nén (10 lạng ta) bạc trắng, 40
vuông vải, 12 con chỉ đỏ. Trường hợp gia đình chưa chuẩn bị đủ lễ vật thì có thể “cưới
tạm”. Cưới tạm chỉ cần một con lợn và thịt ướp chua. Đôi vợ chồng nào cưới tạm rồi, đến
khi có con gái đi lấy chồng mà vẫn chưa cưới chính thức thì phải mổ một con lợn cúng tổ
tiên và mời bà con bên mẹ đến dự để xin giả (tức là hỏi ông bà ngoại trước đây đã thách
cưới cho mẹ người con gái những thứ gì, thì nay người con gái cũng thách những thử đó
và số của thách cưới này phải trao cho ông bà ngoại).
3.10.
Sinh đẻ
Người Dao đẻ ở nhà trong buồng ngủ của mẹ, đẻ ngồi, tay bám vào sợi dây buộc từ trên
đòn tay nhà thả xuống. Ngưòi đỡ đẻ là mẹ chồng, hoặc chồng.Đứa trẻ lọt lòng, chờ khi
nào cất tiếng khóc mới bế lên và tắm rửa bằng nước nóng. Chờ lâu mà đứa bé chưa khóc,
người ta dùng sách cúng quạt vào mặt nó, tin rằng làm như vậy đứa bé sẽ khóc. Những
đứa trẻ phải quạt mới khóc sau này thường; đặt tên là s/âu có nghĩa là Sách. Sản phụ
không kiêng khem quá kham khổ, mà thường ăn cơm nếp với thịt gà hoặc chân giò nấu
với thuốc bổ (thuốc nam). Nhà có người đẻ, trước nhà cắm cành lá xanh, hoặc hoa chuối
rừng làm dấu hiệu kiêng cử.
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 23 | 29
TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC DAO | Hoàng Trần
Tục cấp sắc: cấp sắc hay lập tịch
là một tục lệ rất phổ biến của
người Dao. Tất cả đàn ông Dao
đều phải qua lệ này. Tên cấp sắc
được căn cứ vào đặc điểm là sau
khi trải qua nghi lễ này, người
thu lễ được thầy cúng cấp cho
một bản sắc ghi bằng chữ Nôm
Dao với nội dung nói về lai lịch
người thụ lễ, nguyên do thụ lễ và
các điều khuyên răn. Còn tên lập
tịch có nghĩa là làm trong sạch, bởi khi
làm lễ, người ta thắp đèn đặt trên vai,
Lễ Cấp Sắc của Người Dao
trên đầu người thụ lễ, với quan niệm ánh sáng sẽ xua đuổi, làm tiêu tan mọi chất bận và
tội lỗi trong người. Tục cấp sắc có thể thực hiện trước hoặc sau khi lấy vợ, tùy thuộc vào
quan niệm của từng nhóm Dao.Người đàn ông chưa qua cấp sắc thì cộng đông dân tộc
Dao chưa coi là người trưởng thành, cho nên cộng đồng ứng xử với người chưa cấp sắc
như đổi với trẻ con. Cấp sắc có nhiều bậc: bậc 3 đèn, 7 đèn... cao nhất là 12 đèn.
Sau khi thụ lễ cấp sắc, về cuộc sống đời thường, người được cấp sắc được cộng đồng
người Dao tôn trọng, do quan niệm rằng, qua cấp sắc con người mới có tâm, có đạo đức,
biết phân biệt phải trái; còn về đời sống tâm linh, sau cấp sắc, người thụ lễ được câp tên
âm - tên đăng ký với tổ tiên để khi chết tổ tiên mới nhận là con cháu Bàn Vương và cho
tiễn hồn về Dương Châu (Trung Quốc), người thụ lễ được cấp âm binh và phù phép để có
thể làm thầy cúng nếu thích.. Nếu gạt bỏ khía cạnh tín ngưỡng, tục lễ cấp sắc có giá trị
giáo dục đạo đức rất cao.
3.11.
Tang ma
Từ quan niệm vạn vật hữu linh, người Dao cũng như nhiều dân tộc khác tin rằng con
người có hồn và xác. Khi người chết xác người sẽ bị huỷ hoại, còn hồn vẫn tiếp tục sống
ở thế giới bên kia - một thế giới tương tự như thế giới trần gian mà chúng ta đang sống.
Do vậy khi có người chết, người sống phải lo làm các thủ tục đưa xác đi chôn và đưa hồn
về thế giới bên kia... Khi gia đình có người chết (người đã cấp sắc), chủ nhà ra sân bắn
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 24 | 29
TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC DAO | Hoàng Trần
chỉ thiên ba phát súng để báo cho Ngọc Hoàng biết. Nếu người chết là người đứng đầu
làng thì người ta phải chọc thủng nóc nhà và giương ô đặt ngay tại lỗ thủng đó rồi mới
bắn súng. Khi gia đình có người chết, mọi người không được khóc ngay. Tang chủ phải
đeo dao và buộc dây ngang thắt lưng, đem theo hai gói muối, một chai rượu và vàng
hương tới đặt trước cửa nhà thầy tào và lạy ba lạy. Thầy tào nhận lễ và đem lễ đó đặt lên
bàn thờ Tam thanh làm lễ cúng, sau đó tang chủ mới được vào nhà thầy tào để báo tang
và mời thầy tào đến “cầm đầu ma” (chủ trì đám tang). Tang chủ còn phải đến trước cửa
từng nhà trong xóm để báo tang và xin hộ tang. Khi khâm liệm, người Dao rất kiêng giờ
khâm liệm người chết trùng với giờ sinh của những người trong gia đình, vì như vậy hồn
người chết sẽ bắt hồn người sống cùng đi.Nếu không nhớ giờ sinh thì lúc khâm liệm phải
lánh mặt. Ngày nay dân tộc Dao theo tục thổ táng, nhưng trước đây, có lẽ tất cả các nhóm
Dao đều có tục hoả táng, nay tục này chỉ còn tồn tại ở người Dao Áo Dài và người Dao
Quần Trắng. Người chết được nhập quan tài rồi mới đem thiêu (chỉ thiêu người chết từ 12
tuổi trở lên). Thầy tào tìm địa điểm hoả táng rồi cho chất củi tại đó. Củi được xếp theo
kiểu cũi lợn, gồm 9 lớp chồng lên nhau. Áo quan được đặt lên đống củi, thầy tào báo cho
mọi người ra về mới châm lửa thiêu. Sáng hôm sau gia đình có người chết ra bới đống tro
tàn nhặt lấy một ít xương vụn cho vào lọ và đem đặt ở nơi khác. Những xương còn lại
được chôn tại chỗ thiêu.Ngoài hình thức thổ táng, hoả táng, người Dao còn có tục phong
táng. Theo phong tục dân tộc Dao, người chết vào giờ xấu, không được đưa chôn ngay,
mà cho vào một áo quan tài ghép bằng tre, nứa nguyên cây theo kiểu xếp cũi lợn, đặt
quan tài trên sàn cao khoảng 2 mét. Bốn cột sàn được làm thật nhẵn để thú rừng không
leo lên được. Sau một năm người ta nhặt xương cho vào lọ đem chôn.
Dân tộc Dao đưa hồn người chết về Dương Châu (Trung Quốc).Người Dao có quần áo
tang, nhưng ngày nay nhiều nhóm chỉ có khăn tang.Khi mãn tang, người Dao mời thầy
cúng về làm lễ đoạn tang và lập bát hương thờ vọng người chết trong 3 năm.
3.12.
Văn học dân tộc
Dân tộc Dao nổi tiếng ở nước ta là dân tộc biết nhiều thuốc thảo dược nhất. Thuốc đồng
bào Dao có thế chia thành 3 loại: thuốc bổ, thuốc độc và thuốc chữa bệnh. Thuốc bổ chủ
yếu dùng để hồi sức.giúp ăn ngon, ngủ khỏe, giúp cơ thể tăng sức đề kháng chống lại
bệnh tật. Thuốc độc là thuốc dùng để diệt trừ muông thú, sâu bọ làm hại lúa, ngô hoặc bã
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 25 | 29