TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC CHU RU | Hoàng Trần
TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC CHU RU
MỤC LỤC:
1.
Vài Nét Về Dân Tộc Chu Ru................................................................................................. 2
2.
Kinh Tế Truyền Thống ......................................................................................................... 2
3.
2.1.
Trồng trọt.......................................................................................................................... 2
2.2.
Chăn nuôi ......................................................................................................................... 3
2.3.
Khai thác tự nhiên ............................................................................................................ 3
2.4.
Ngành nghề thủ công........................................................................................................ 4
2.5.
Trao đổi mua bán.............................................................................................................. 5
Văn hoá truyền thống ............................................................................................................ 6
3.1.
Làng .................................................................................................................................. 6
3.2.
Nhà ở ................................................................................................................................ 7
3.3.
Y phục .............................................................................................................................. 8
3.4.
Ẩm Thực .......................................................................................................................... 8
3.5.
Phương tiện vận chuyển. .................................................................................................. 9
3.6.
Ngôn ngữ .......................................................................................................................... 9
3.7.
Tín ngưỡng tôn giáo ......................................................................................................... 9
3.8.
Lễ hội.............................................................................................................................. 10
3.9.
Tục lệ cưới xin ............................................................................................................... 11
3.10.
Tập quán tang ma ....................................................................................................... 12
3.11.
Văn nghệ dân gian. ..................................................................................................... 12
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 1 | 13
TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC CHU RU | Hoàng Trần
1. Vài Nét Về Dân Tộc Chu Ru
Dân số : 19.314 người (2009)
Ngôn Ngữ: thuộc ngữ hệ Nam Đảo,
nhóm ngôn ngữ Malayo - Polinesia.
Tên gọi khác: Chơ Ru, Kru, Thượng
Địa bàn cư trú: Lâm Đồng, Ninh
Thuận, Hồ Chí Minh
Địa bàn cư trú
Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, người Chu Ru ở Việt Nam có dân
số 19.314 người, cư trú tại 27 trên tổng số 63 tỉnh, thành phố. Người Chu Ru cư
trú tập trung tại các tỉnh: Lâm Đồng (18.631 người, chiếm 96,5% tổng số người
Chu Ru tại Việt Nam), Ninh Thuận (521 người), thành phố Hồ Chí Minh (58
người)
2. Kinh Tế Truyền Thống
2.1. Trồng trọt
Dân tộc Chu Ru sống định canh với ruộng
nước từ lâu đời. Nghề nông chiếm vị trí
hàng đầu. Cây lương thực chính là cây lúa.
Ngoài ra đồng bào còn trồng thêm ngô,
khoai, sắn và một số loại rau, đậu trên rẫy
hoặc trong vườn. Đồng bào chia ruộng
thành hai loại: ruộng sình và ruộng khô.
Đối với ruộng sình việc canh tác
Đồng bào Chu Ru thăm ruộng rẫy
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 2 | 13
TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC CHU RU | Hoàng Trần
được thực hiện theo một quy trình kỹ thuật: cho trâu quần nát cỏ, nhuyễn đất, rồi
gieo hạt (sạ), bỏ qua các công đoạn gieo mạ, nhổ mạ, cấy. Đổi với ruộng khô, quy
trình kỳ thuật phức tạp hơn: cày vỡ - lơ oa kĩ thuật lật đất lên, phơi đất cho khô,
độ một tháng sau thì bừa, rồi cày trở, bừa lần thứ hai, bang đất cho b ằng rồi sạ
giống.
Công cụ sản xuất còn thô sơ, bao gồm chiếc cày - rơn ga!, chiếc bừa - sơ căm, cái
bang đất - slih. Đồng bào Chu Ru dùng hai trâu kéo cày.
Đông bào Chu Ru khai phá các sườn đồi làm thành ruộng bậc thang. Làm ruộng
nước thì phải tính toán nguồn nước cho mùa màng. Người Chu Ru có nhiều kinh
nghiệm làm thủy lợi nhỏ để điều tiết nước phục vụ nhu cầu sinh trưởng của cây
lúa theo từng thời kỳ. Đồng bào thường đăp đập, làm mươ ng dẫn nước từ các
dòng suối vào ruộng. Công trình thủy lợi luôn là của chung của làng, cho nên mỗi
khi làm thủy lợi, người Chu Ru huy động nhân lực của cả làng. Mỗi làng thường
cử một người phụ trách thủy lợi - pô ea hay bơ nua bơ nữ.
Ngoài lúa nước đồng bào Chu Ru còn làm nương rẫy, vườn. Trên nương thường
trồng ngô, khoai, sắn; ở vườn thì trồng đậu đỗ, bầu bí các loại và các loại rau
xanh.
2.2. Chăn nuôi
Đồng bào Chu Ru chăn nuôi gia súc: trâu, bò, ngựa, dê, heo và gia cầm các loại:
gà, vịt, ngan, ngỗng. Con trâu, con bò được dùng vào việc kéo cày, dùng trong
các nghi lễ tôn giáo cổ truyền, trong các dịp cưới xin, ma chay hoặc làm vật
ngang giá để mua bán, trao đổi. Con ngựa dùng để chuyên chở hàng hóa đi xa, ra
các thị trấn hoặc đến các vùng dân tộc láng giền g. Các loại gia cầm thường được
sử dụng làm vật hiến sinh trong các dịp tế lễ, cúng bái trong các ngày lễ tiết.
Gia súc, gia cầm đều được nuôi theo hình thức chăn thả, tự vào rừng kiếm cỏ ăn,
tối đến lùa chúng về chuồng.
2.3. Khai thác tự nhiên
Đồng bào Chu Ru khai thác rừng lấy gỗ làm nhà, làm chuồng trại phục vụ chăn
nuôi gia súc, gia cầm, rào vườn, làm củi đun hàng ngày. Trong rừng có nhiều loại
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 3 | 13
TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC CHU RU | Hoàng Trần
cây giá trị khác nhau. Có loại gỗ chắc, tốt, không bị mối mọt ăn, có loại gỗ mềm
dễ bị mối mọt phá hại. Khi khai thác rừng, đồng bào chú ý dành những cây gỗ tốt
dùng cho việc làm nhà, những cây gỗ dễ hỏng thường dùng vào việc làm củi đun,
rào vườn.
Trong rừng thường có nhiều lâm sản: nấm hương, mộc nhĩ, sa nhân, mật ong,
cùng các hoa, quả, rau củ khác. Đồng bào thường khai thác lâm sản để ăn và trao
đổi buôn bán với các dân tộc khác, sinh sống ở các thị trấn. Ngoài thu hái lâm thổ
sản, người Chu Ru còn đi vào rừng săn bắt thú rừng và đi xuống sông đánh bắt
cá. Săn bắt thú rừng là hoạt động thường xuyên, là thú vui của n gười nam giới
Chu Ru. Đồng bào quan tâm đến săn bắn. Hình thức săn cũng rất đa dạng, có tổ
chức săn đuổi tập thể, có săn rình cá nhân và đặt bẫy bắt cầy, cáo, gà rừng, v.v...
Việc săn bắt không chỉ là tăng nguồn thức ăn thịt cho gia đình, mà điều quan
trọng hơn là nhằm bảo vệ mùa màng trước sự phá hại của thú rừng. Với nam
thanh niên trong làng đôi khi đi săn là một thú vui giải trí cho nên mọi nam giới
đều biết đi săn, gia đình nào cũng có lao - ta và nỏ - sơ ráo để dùng vào việc săn
bắn.
Đánh bẳt cá là nghề tương đối phổ biến đối với cư dân sinh sống trên lưu vực ven
sông Đa Nhim và ven các sông, suối khác. Hầu như tất cả nam giới Chu Ru đều
biết đánh bắt cá thành thạo. Công cụ đánh bắt cá là chài, lưới như mọi dân tộc
khác.
2.4.
Ngành nghề thủ công
Với nền kinh tể tự túc, tự cấp, đồng bào
Chu Ru tự làm ra nhiều sản phẩm thủ công
truyền thống, như: đan lát, rèn, gốm, kim
hoàn. Đồng bào đan đồ gia dụng bằng
nguyên liệu mây, tre. Sản phẩm đồ đan
chủ yếu là chiếc gùi, sau đó là những đồ
đựng như chiếc bồ.
Nghề Gốm (Ảnh: sưu tầm)
Sản phẩm nghề rèn là dao, liềm, cuốc,
nạo cỏ.
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 4 | 13
TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC CHU RU | Hoàng Trần
Nghề gốm của người Chu Ru cũng được
chú ý nhiều làng làm nghề gốm nổi tiếng trong vùng. Làm gốm có nhiều công
đoạn như: đào đất, nhào đất, khuân đất, di chuyển sản phẩm gốm... cho nên cần
nhiều nhân lực. Tất cả mọi người đều có thể tham gia vào các công đoạn khác
nhau. Tuy nhiên việc mang tính kỹ thuật cao như nặn gốm, sửa gốm là công đoạn
cần sự khéo tay tinh tế thì do phụ nữ đàm nhiệm hoàn toàn. Sản phẩm gốm có:
chum, vại, vò, nồi. Những thứ này được sản xuất ra vừa để dùng, vừa để trao đổi
với các dân tộc láng giềng.
Dân tộc Chu Ru có nghề kim hoàn truyền thống khá phát triển, nhưng nay đã bị
mai một.
2.5. Trao đổi mua bán
Kinh tế phát triển thấp, tính tự túc tự cấp trong hoạt động sản xuất cao, lại sinh
sống ở vùng núi cao, giao thông cách trở, cho nên việc trao đổi buôn bán ít phát
triển. Cũng như nhiều dân tộc sống ở miền núi khác, người Chu Ru chủ yếu bán
các loại lâm thổ sản thu hái được như nấm hương, mộc nhĩ, mật ong và mua các
đồ dùng thiết yếu trong gia dinh như: muối, dầu, kim khâu, vải mặc. Những gia
đình làm ăn khá giả thì bán trâu, bò, ngà voi và mua chiêng, ché, đồ trang sức quý
giá. Việc trao đổi, mua bán được thực hiện ở các thị trấn, thị xã miền xuôi.
Dồng bào dân tộc Chu Ru có tục mua bán ruộng giữa người cùng địa phương với
nhau. Theo thể thức cố truyền, việc chuyển nhượng, mua bán ruộng cần làm giấy
tờ hợp pháp, nhưng điều có ý nghĩa lớn là phải công khai và có người chứng kiến.
Người chứng kiến là những người thuộc thế hệ trẻ. Cuộc mua bán ruộng thường
diễn ra như sau: người bán ruộng, người mua ruộng cùng dân làng thuộc hai t hế
hệ già và trẻ cùng tập trung tại thửa ruộng bán. Quan trọng là thể hệ trẻ, vì chúng
sẽ là những người làm chứng việc mua bán ruộng này cả trong tương lai. Người
đứng ra mua ruộng phải chịu mọi chi phí: rượu cần để thểt đãi người lớn và có gà
để làm quà cho trẻ con. Người mua còn phải mổ gà để tế lễ sau khi đã trả đủ tiền
cho người bán. Gọi là tiền, nhưng theo tục lệ có thể lấy trâu, bò làm vật ngang
giá. Để kết thúc việc mua bán ruộng người ta chôn một tảng đá lớn, xuống bờ
ruộng. Trên tảng đá đó có được phết máu con vật hiến sinh.
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 5 | 13
TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC CHU RU | Hoàng Trần
Người Chu Ru còn bán một số nông sản do họ sản xuất được như: su su, cải bắp,
khoai tây, hành tây, tỏi, a ti sô. Những sản phẩm này được đồng bào đem bán ở
Nha Trang, Phan Rang, các thị trấn ở miền núi.
3. Văn hoá truyền thống
3.1. Làng
Làng còn là đơn vị xã hội của người Chu Ru. Trong một làng có người chủ làng.
Chủ làng là người được dân làng suy tôn từ người cao tuổi nhất, có kinh nghiệ m
sản xuất, chiến đấu, hiểu biết lịch sử, phong tục tập quán dân tộc mình. Chức
năng của chủ làng là quản lý việc đời thường của làng với các nhiệm vụ cụ thể
như: hướng dẫn dàn làng trong sản xuất, tổ chức đời sống,, cùng các già làng bàn
bạc giải quyết mọi công việc đối nội, đối ngoại của làng. Do có kinh nghiệm
trong sản xuất, cho nên chủ làng thường có nhà cửa khang trang, có đời sông kinh
tế khá giả ở trong làng.
Trong xã hội người Chu
Ru, chủ làng vẫn là người
tự lao động kiếm sống,
nhưng về cuộc sống tinh
thần thì chủ làng là người
có uy tín tuyệt đổi. Chức
vụ chủ làng chưa mang
tính cha truyền con nối,
nhưng nếu con chủ làng
sống có đạo đức, ứng xử
với dân làng tốt: tôn
trọng mọi người, giúp đỡ anh em trong làng, có thái độ khách quan khi có sự
tranh chấp trong dân làng... thì có thể được dân làng suy tôn giữ chức trưởng làng
kể tiếp chức vụ trưởng làng của người bổ. Trường họp trong làng có nhiều dòng
họ thì chức trưởng làng thường do trưởng họ lớn nhất làng đảm nhiệm. Trưởng
làng điều hành việc làng theo luật tục.
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 6 | 13
TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC CHU RU | Hoàng Trần
Ngoài việc đời thường do chủ làng đảm nhiệm, trong làng còn có người quản lý
đời sống tâm linh. Đó là thầy cúng - yuh, pơ đô. Thầy cúng là chủ các buổi tế lễ
trong làng cũng như trong từng gia đình và từng dòng họ. Thường ngày, thầy
cúng vẫn là người lao động, khi có việc, có người đến đón họ mới đi làm thầy
cúng. Sau mỗi buổi cúng, thầy cúng được người nhà có lễ cho một số hiện vật gọi
là quà cảm ơn. Thông thường hiện vật đó là: gà, rượu, bánh, xôi... và có thể có
một ít tiền.
Nét đặc trưng trong cơ chể quản lý làng của dân tộc Chu Ru là có thêm hai chức
vụ mà các dân tộc khác không có. Đó là chức trưởng thủy và chức bảo sinh.
Trưởng thủy là người do dân làng bầu ra. Giúp việc cho trưởng thủy còn có 2 - 3
người nữa cùng trưởng thủy phụ trách nước tưới ruộng. Trưởng thủy phụ trách
nước tưới, tiêu cho ruộng của cả làng, chịu trách nhiệm phân phối đ ều lượng nước
từ mương máng chung đến từng thửa ruộng của các gia đình. Khi cần thiết tu sửa
mương máng, trưởng thùy đề xuất với chủ làng để chủ làng huy động nhân lực đế
tu sửa. Bảo sinh - mọ boại có nhiệm vụ trông coi việc sinh nở. Mỗi làng có 2 - 3
người được dân làng tín nhiệm để làm việc bảo sinh.
3.2. Nhà ở
Nhà ở cùa Chu Ru được làm từ
nguyên vật liệu làm nhà là gỗ, tranh,
bương, mái lợp bằng cỏ gianh. Ngôi
nhà thường nhỏ và thấp, cách mặt
đất khoảng 0,8m - lm. Nhìn vào ngôi
nhà nhỏ, các nhà nghiên cứu cho
rằng, đó là hình ảnh của ngôi nhà dài
được tách ra từ ngôi nhà mẫu hệ.
Gia đình dân tộc Chu Ru là gia đình
nhỏ, theo mẫu hệ, biểu hiện tập trung ở vai trò người vợ và ông cậu. Người phụ nữ giữ
vai trò quan trọng hơn nam giới trong gia đình, con gái kể thừa dòng họ, kế thừa tài sản
gia đình, cưới chồng về nhà. Sau khi xây dựng gia đình, người vợ là chủ gia đình. Người
chồng có sức khỏe tốt hơn làm nhiều việc nặng nhọc nhưng chủ yểu là làm theo ý kiên
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 7 | 13
TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC CHU RU | Hoàng Trần
chỉ đạo của người vợ. Ông cậu là người có trách nhiệm tham gia vào việc hôn nhân của
cháu. Mọi thành viên sinh sống trong gia đình đều bình đẳng, cùng lao động, cùng hưởng
thụ thành quả lao động.
3.3. Y phục
Trang phục của dân tộc Chu Ru cũng như
nhiều dân tộc khác ở Tây Nguyên, bộ
trang phục gồm có váy, áo, khố, mền, địu.
Do không phát triển nghề dệt, cho nên
đồng bào trao đổi hàng lâm sản với các
dân tộc láng giềng như: Chăm, Cờ Ho,
Ragiai, Mạ lấy trang phục mặc.
Trang phục truyền thống của nam giới là
quần trắng, áo dài đen, đầu vấn khăn trắng.
Bộ trang phục này đồng bào mua lại của
người Chăm và được sử dụng trong các
dịp lễ hội, cưới xin, ma chay. Trang phục
phụ nữ truyền thống mà chị em Chu Ru dùng trong các lễ hội, cưới xin là váy và tấm
choàng để hở một bên vai, đầu để trần. Bộ trang phục này do người Cơ Ho sản xuất.
3.4. Ẩm Thực
Nguồn lương thực chính của dân tộc
Chu Ru là lúa gạo. Hàng ngày đồng
bào ăn gạo tẻ, nấu trong nồi đất. Bữa
ăn thường ngày có cơm, rau, đậu, bầu
bí, măng rừng, cá suối, thịt thú rừng
săn được. Trong các dịp lễ tết đồng
bào thường giết mổ gia súc, gia cầm
để cúng bái các vị thần linh. Rồi sau
đó dùng làm thức ăn luôn. Cả năm, thường có nhiều dịp cúng bái thần linh với lễ nhỏ.
Trong những dịp đó, đồng bào hay mổ gia cầm. Sau cúng bái, sử dụng làm thức ăn cho
gia đình.
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 8 | 13
TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC CHU RU | Hoàng Trần
3.5. Phương tiện vận chuyển.
Phương tiện vận chuyển của người Chu Ru là chiếc
gùi nan tre. Trong gia đình thường có nhiều gùi, mỗi
người có vài ba chiếc sử dụng vào việc vận chuyên
ngô, lúa, khoai, sắn.
Chiếc gùi
3.6. Ngôn ngữ
Tiếng nói của dân tộc Chu Ru thuộc hệ ngôn ngữ Nam Đảo, nhóm ngôn ngữ Malayo polinesia, gần với tiếng các dân tộc Chăm, Ragiai... về mặt ngữ âm cũng như ngữ pháp.
Một bộ phận nhỏ người Chu Ru sống gần với người Cơ Ho, nói cả tiếng Cơ Ho (nhóm
ngôn ngữ Môn - Khmer, thuộc hệ ngôn ngữ Nam Á).
Chữ viết: Dân tộc Chu Ru chưa có chữ viết riêng của dân tộc mình.
3.7. Tín ngưỡng tôn giáo
Đồng bào dân tộc Chu Ru theo tín ngưỡng đa thần: thờ cúng tổ tiên và các thần linh.
Thờ cúng tổ tiên - pơ khi mô cay, nhưng không đặt bàn thờ ở trong nhà, mà chỉ lập bàn
thờ ở ngoài nghĩa địa - cốt a tau. Khi tổ chức nghi lễ thờ cúng; việc thờ cúng tổ tiên
không theo định kỳ hàng tháng (ngày 01 và 15 hàng tháng) như các dân tộc ở Đông Bắc,
mà có thể hai, ba năm hoặc thậm chí hai mươi, ba mươi năm mới tổ chức cúng một lần,
Việc cách quãng thời gian này tùy thuộc vào hoàn cảnh kinh tế của từng gia đình và dòng
tộc.
Đồng bào Chu Ru cúng nhiều thần linh khác nhau: thần đập nước - bơ mung, thần
mương nước - rơ bông, thần lúa khi gieo hạt, thần lúa khi ăn mừng lúa mới. Đáng chú ý
nhất là lễ cúng thần đập nước - bơ mung. Trong mỗi làng dân tộc Chu Ru đều có một địa
điểm dành riêng để cúng vị thần này. Hàng năm, vào khoảng tháng 2-3 dân làng tập trung
tại nơi này để làm lễ cúng. Dân thường cúng bằng dê, còn chủ làng phải cúng bằng ngựa
giấy, có thắng yên cương và lễ phục.
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 9 | 13
TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC CHU RU | Hoàng Trần
Lễ cúng thần Bơ-Mung
của dân tộc Chu-ru
(Ảnh: sưu tầm)
Cũng vào dịp tháng 2 hàng năm, dân làng Chu Ru còn cúng vị thần Jang wer - một cây cổ
thụ gần làng mà đồng bào tin là rất thiêng, có nhiều quyền pháp. Thần Jang wer được dân
làng cúng bằng hình nộm đầu voi, đầu trâu, đầu cọp, đầu dê; bằng gỗ hoặc bằng củ chuối;
đồng thời có cả đồ ăn thức uống cùng mang đến cúng. Cúng xong họ đặt một phần đồ
cúng lên võng, khiêng võng đỏ theo đường chính đi xa khoảng 100m cách cây cổ thụ.
Rồi hạ võng xuống, lấy đồ cúng bày ra vệ đường. Việc làm này được giải thích là cho
thần đi chơi. Sau đó tất cả mọi người tham gia hành lễ trở lại gốc cây cổ thụ cùng ăn
uống vui vẻ. Khi đi về, mỗi người hái một cành cây nhỏ mang về cắm trước cửa nhà.
Nhân dịp này, cả làng kiêng cử 15 ngày, không ai được vào làng.
3.8. Lễ hội
Là cư dân sinh sống bằng nghề làm ruộng nước là chính, đồng bào Chu Ru có nhiều lễ
hội liên quan đến sản xuất nông nghiệp cấy trồng lúa nước và thờ cúng thần thổ địa, thần
cây cô thụ. Lễ hội luôn gắn với tôn giáo. Chính tư tưởng tôn giáo đã định hướng cho các
trình tự thủ tục nghi lễ của lễ hội. Đối tượng thờ cúng của đồng bào là thần đập nước,
thần mương nước.
Lễ hội mừng lúa mới của dân
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 10 | 13
TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC CHU RU | Hoàng Trần
tộc Chu-ru
(Ảnh: sưu tầm)
3.9.
Tục lệ cưới xin
Tục lệ cưới xin của người Chu Ru
là ngoại hôn dòng tộc. Những người có quan hệ huyết thống với nhau không được kết
hôn với nhau. Ai vi phạm điều này là phạm tội loạn luân, sẽ bị trừng phạt nặng. Người
Chu Ru cũng thực hiện hôn nhân một vợ một chồng bền vững. ít gặp các trường hợp đa
thê, có chăng chỉ là những người có quyền thế trong cộng đồng, coi thường quy định, coi
thường dư luận của cộng đồng, lấy gái trẻ đẹp làm vợ lẽ. Tuy nhiên trước khi cưới vợ lẽ,
người chồng phải được sự thỏa thuận của vợ cả. Việc ngoại tình được khép vào trọng tội
và bị luật tục trừng phạt. Những trường hợp ly hôn ít khi xây ra. Nếu muốn ly hôn thì
phải được sự chấp nhận của chủ làng.
Một nét đặc trưng trong tục lệ cưới xin của người Chu Ru là, người con gái giữ vai trò
chủ động trong hôn nhân và sau hôn nhân, đôi vợ chồng mới cưới về cư trú bên nhà vợ.
Lễ bắt rễ trong đám cưới của
người dân tộc Chu – ru
( Ảnh: sưu tầm )
Điều này được quy định bởi chế độ xã hội của người Chu Ru là theo chế độ mẫu hệ.Con
gái từ 15 - 16 tuổi, khi ưng một chàng trai nào đó, thì thưa chuyện với mẹ, bố, nhờ người
mai mối, cùng với ông cậu hoặc người chị cả, đem lễ vật đến nhà trai làm lễ xem mặt.
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 11 | 13
TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC CHU RU | Hoàng Trần
Nếu nhà trai bằng lòng thì hai bên định ngày ăn hỏi. Đến ngày ăn hỏi như đã hẹn, gia
đình bên nhà gái mang lễ vật đến nhà trai, tổ chức gặp gỡ đại diện hai họ.
Sau bữa tiệc rượu giữa đại diện hai bên nhà gái và nhà trai, người mai mối nhà gái đeo
nhẫn và vòng cườm cho chàng rể tương lai. Việc làm này có vị trí quan trọng trong tục lệ
cưới xin, coi như hai người đã đính hôn với nhau. Cũng trong ngày ăn hỏi đó, đại diện hai
họ tiếp tục bàn bạc, thỏa thuận những nghi thức và ngày tổ chức lễ thành hôn.
Tiệc cưới, trước đây thường được tổ chức trong ba, bốn ngày tại bên nhà trai, tùy theo
khả năng kinh tế của nhà gái. Sau lễ cưới, người con gái ở lại bên nhà chồng khoảng
mười lăm ngày để chờ đợi rước rể về nhà. Gần đây, xuất hiện những trường hợp, gia đình
hiếm con hoặc giàu có, bên nhà trai chủ động đi hỏi vợ và cưới dâu về nhà chồng cư trú
lâu dài, nhưng con cháu và mồ mả của họ vẫn thuộc về dòng họ mẹ.
3.10.
Tập quán tang ma
Dân tộc Chu Ru khi có người chết, họ thông báo chị em họ hàng biết. Nghi lễ tang ma
được tổ chức linh đình, thường giết nhiều trâu, bò để làm lễ cúng đưa người chết đi chôn
và đưa hồn về trời. Điều đáng chú ý là trong gia đình, khi ngưòi đàn ông chết thì xác
người đàn ông đó không được chôn ở nghĩa địa bên nhà vợ, mà phải đưa về chôn ở nghĩa
địa bên mẹ đẻ; còn vợ ông ta chết thì cũng chôn ở nghĩa địa bên mẹ đẻ. Như vậy, khi
sống thì chung một nhà ở bên vợ, nhưng khi chết rồi thì vợ chôn ở nghĩa địa mẹ vợ, còn
chồng thì đưa trở lại chôn ở nghĩa địa mẹ đẻ ra ông ta.
3.11.
Văn nghệ dân gian.
Văn học của người Chu Ru khá phong phú về
thể loại như truyện cổ, ca dao, tục ngữ. Nội dung
của văn học Chu Ru phản ánh quan hệ xã hội
Chu Ru một cách rõ nét. Dân tộc Chu Ru theo
chế độ mẫu hệ, cho nên văn học (ca dao, tục ngữ)
đề cao vai trò cùa phụ nữ, ca ngợi gia đình mẫu
hệ, chế độ mẫu hệ. Các truyện cổ lại phản ánh
Chiêng –nhạc cụ thông dụng của
chủ đề khác, ca ngợi tinh thần đấu tranh bất
dân tộc Chu Ru (Ảnh: Minh Họa)
khuất của người lao động với tự nhiên và xã hội
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 12 | 13
TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC CHU RU | Hoàng Trần
để giành lấy cuộc sống ấm no, hạnh phúc.
Nhạc cụ đáng chú ý của người Chu Ru là trống, kèn, chiêng. R 'tông, kwao, terlia là
những nhạc cụ đặc săc mang nét đặc trưng của người Chu Ru. Trong những ngày vui hội
hè lễ tết, tiếng nhạc cổ truyền của người Chu Ru được cất lên cùng vũ điệu tam ga mang
dấu ấn dân tộc rõ nét.
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 13 | 13