Mục lục
Phần 1: Tổng quan về rủi ro trong thị trường chứng khoán .............................. 1
Các loại rủi ro trong thị trường chứng khoán: .............................................. 1
I.
1.
2.
Rủi ro hệ thống .......................................................................................... 1
1.1
Rủi ro thị trường .................................................................................. 1
1.2
Rủi ro lãi suất ...................................................................................... 1
1.3
Rủi ro sức mua .................................................................................... 2
1.4
Rủi ro tỷ giá ......................................................................................... 2
Rủi ro phi hệ thống .................................................................................... 2
2.1
Rủi ro kinh doanh ................................................................................ 2
2.2
Rủi ro tỷ giá ......................................................................................... 2
2.3
Rủi ro tài chính .................................................................................... 2
2.4
Rủi ro quản lý: ..................................................................................... 3
2.5
Rủi ro thanh khoản .............................................................................. 3
Nguồn Gốc Của rủi ro chứng khoán ............................................................. 3
II.
1.
Nguồn gốc tự nhiên: .................................................................................. 3
2.
Nguồn gốc kinh tế - xã hội: ....................................................................... 3
3. Ngoài các nguồn gốc rủi ro chính ảnh hưởng đến tất cả các hoạt động ra
thì CK còn có những nguồn gốc rủi ro cụ thể hơn : .......................................... 3
III. Nguyên Nhân Của rủi ro chứng khoán ......................................................... 3
1.
Rủi ro từ “tâm lý bầy đàn”......................................................................... 4
2.
Rủi ro do tính thanh khoản thấp ................................................................ 4
3.
Rủi ro từ thông tin ..................................................................................... 5
4. Rủi ro từ các quy định và chất lượng của sàn giao dịch, trung tâm giao
dịch và công ty chứng khoán............................................................................. 6
5.
Rủi ro từ các chấn động thị trường ............................................................ 7
6.
Sự thiếu hiểu biết của các nhà đầu tư ........................................................ 8
IV. Đối tượng chịu ảnh hưởng từ rủi ro thị trường chứng khoán ....................... 9
1.
Nhà phát hành ............................................................................................ 9
2.
Nhà đầu tư.................................................................................................. 9
3.
Các tổ chức kinh doanh trên thị trường chứng khoán ............................. 10
Hạn chế các rủi ro trong thị trường chứng khoán....................................... 10
V.
1.
Đa dạng hóa danh mục đầu tư ................................................................. 10
2.
Đầu tư dài hạn.......................................................................................... 10
3.
Chứng khoán phái sinh ............................................................................ 11
Phần 2: LƯỢNG HÓA RỦI RO .......................................................................... 18
Mô hình đánh giá rủi ro CAPM ................................................................. 18
I.
1.
Giới thiệu khái quát về mô hình định giá tài sản vốn CAPM : ............... 18
2.
Một số giả định cơ bản trong mô hình CAPM : ...................................... 18
3.
Nội dung của mô hình CAPM : ............................................................... 19
4.
Quan hệ giữa rủi ro và lợi nhuận , đường SML : .................................... 21
ĐÁNH GIÁ RỦI RO TRONG ĐẦU TƯ CHỨNG KHOÁN .................... 24
II.
III. XẾP HẠNG RỦI RO .................................................................................. 26
Phần 3: CÁC CÔNG CỤ ĐỀ PHÒNG RỦI RO TRONG CHỨNG KHOÁN 26
Khái niệm.................................................................................................... 30
I.
1.
Sự cần thiết của công cụ phái sinh trên thị trường chứng khoán. ........... 30
2.
Thực trạng sử dụng công cụ phái sinh ở Việt Nam................................. 30
Các loại công cụ phái sinh. ......................................................................... 32
II.
1.
2.
Quyền chọn (Option) ............................................................................... 32
1.1
Khái niệm: ......................................................................................... 32
1.2
Những yếu tố cấu thành một quyền lựa chọn ................................... 33
1.3
Lợi nhuận và rủi ro trong quyền chọn............................................... 34
Hợp đồng kỳ hạn. .................................................................................... 34
2.1
Hợp đồng giao sau............................................................................. 35
2.2
Hợp đồng tương lai ........................................................................... 35
III. Phân biệt giữa hợp đồng quyền chọn và hợp đồng kì hạn ......................... 37
Phần 1: Tổng quan về rủi ro trong thị trường chứng
khoán
Đánh giá hoạt động của doanh nghiệp
Tạo môi trường giúp Chính phủ thực hiện các chính sách vĩ mô
I. Các loại rủi ro trong thị trường chứng khoán:
1. Rủi ro hệ thống
1.1 Rủi ro thị trường
Rủi ro thị trường là sự thay đổi mức sinh lời do sự đánh giá và ra quyết định của
các nhà đầu tư trên thị trường. Trên thị trường, giá cả các loại chứng khoán có thể dao
động mạnh mặc dù thu nhập của công ty vẫn không thay đổi. Nguyên nhân là do cách
nhìn nhận, phản ứng của các nhà đầu tư có thể khác nhau về từng loại hoặc nhóm cổ
phiếu. Các nhà đầu tư thường quyết định việc mua bán chứng khoán dựa vào 2 nhóm sự
kiện: Một là nhóm các sự kiện hữu hình như các sự kiện kinh tế, chính trị, xã hội; Hai
là nhóm các sự kiện vô hình do yếu tố tâm lý của thị trường
1.2 Rủi ro lãi suất
Rủi ro lãi suất là khả năng biến động của mức sinh lời do những thay đổi của lãi
suất trên thị trường gây ra. Trong thực tế các nhà đầu tư thường coi tín phiếu kho bạc là
không có rủi ro, vì vậy lãi suất của tín phiếu thường dùng làm mức chuẩn để xác định
lãi suất của các loại trái phiếu công ty có kỳ hạn khác nhau. Quan hệ giữa lãi suất với
giá của trái phiếu và cổ phiếu –u đãi là mối quan hệ tỷ lệ nghịch. Tuy nhiên, mối quan
hệ giữa lãi suất và giá cổ phiếu thường (cổ phiếu phổ thông) là gián tiếp và luôn thay
đổi. Nguyên nhân là luồng thu nhập từ cổ phiếu thường có thể thay đổi theo lãi suất,
nhưng ta không thể chắc chắn được sự thay đổi đó là cùng chiều hay ngược chiều với
sự thay đổi của lãi suất. Phân tích mối quan hệ giữa lạm phát, lãi suất và giá cổ phiếu
~1~
thường là một vấn đề đòi hỏi nhà đầu tư phải có kinh nghiệm và cần được xem xét theo
từng thời kỳ
1.3 Rủi ro sức mua
Rủi ro sức mua là rủi ro do tác động của lạm phát đối với khoản đầu tư.
Yếu tố lạm phát hay giảm phát sẽ làm thay đổi mức lãi suất danh nghĩa và từ đó sẽ
tác động đến giá của các chứng khoán trên thị trường.
1.4
Rủi ro tỷ giá
Rủi ro tỷ giá là rủi ro do tác động của tỷ giá đối với khoản đầu tư. Khi nhà đầu tư
cho rằng đồng nội tệ có thể bị giảm giá trong tương lai thì nhà đầu tư đó sẽ quyết định
không đầu tư vào chứng khoán hoặc sẽ tìm cách thay thế chứng khoán bằng tài sản ngoại
tệ vì khi đó giá trị chứng khoán sẽ bị giảm.
2. Rủi ro phi hệ thống
2.1
Rủi ro kinh doanh
Rủi ro kinh doanh là sự biến động giá chứng khoán do những thay đổi trong hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp. Nó chính là sự bất ổn về thu nhập mà nguyên nhân cơ
bản xuất phát từ lĩnh vực ngành mà công ty đó trực thuộc
Rủi ro kinh doanh thường được tính bằng mức độ biến động của thu nhập phát sinh từ
hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty
Rủi ro kinh doanh =
Độ 𝑙ệ𝑐ℎ 𝑐ℎ𝑢ẩ𝑛 𝑐ủ𝑎 𝑡ℎ𝑢 𝑛ℎậ𝑝 ℎ𝑜ạ𝑡 độ𝑛𝑔
𝑇ℎ𝑢 𝑛ℎậ𝑝 ℎ𝑜ạ𝑡 độ𝑛𝑔 𝑏ì𝑛ℎ 𝑞𝑢â𝑛
2.2 Rủi ro tỷ giá
Liên quan đến sự thay đổi tỷ giá. Ví dụ: Nếu trái phiếu được thanh toán bằng đồng
Việt Nam, mà đồng Việt Nam lại giảm so với đồng USD thì nhà đầu tư sẽ nhận được ít
USD hơn.
2.3
Rủi ro tài chính
Rủi ro tài chính là sự biến động về lợi nhuận của các cổ đông khi công ty vay nợ. Nó
liên quan đến việc sử dụng đòn bẩy tài chính.
Để xác định rủi ro tài chính của một công ty, người ta thường sử dụng hai loại hệ số:
~2~
+ Các hệ số của bảng cân đối kế toán: Cơ cấu vốn (Nợ/vốn cổ phần)
+ Nhóm các hệ số về dòng tiền: Khả năng thanh toán ( ngắn hạn và dài hạn)
2.4
Rủi ro quản lý:
Là rủi ro do tác động của các quyết định từ nhà quản lý doanh nghiệp.
2.5
Rủi ro thanh khoản
Liên quan đến các điều kiện giao dịch
II. Nguồn Gốc Của rủi ro chứng khoán
1.
Nguồn gốc tự nhiên:
Do con người chưa nhận thức hết các quy luật của tự nhiên hoặc không đủ khả năng
chế ngự hết những tác động của tự nhiên dù đã nhận biết được quy luật. Ví dụ: Rủi ro
động đất, rủi ro núi lửa phun...
2.
Nguồn gốc kinh tế - xã hội:
Tiến bộ khoa học kỹ thuật, một mặt, thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển với việc
phát minh ra các máy móc, các phương tiện tinh vi, hiện đại. Mặt khác, chính các thành
tựu đó lại làm nảy sinh các rủi ro đe dọa đời sống con người khi có sự mất khả năng
kiểm soát, chế ngự nhất thời. Ví dụ: Nổ, đổ vỡ máy móc, điện giật...
Bên cạnh đó, xã hội phát triển cùng với các mối quan hệ này sinh càng ngày càng
nhiều, càng phức tạp và không phải lúc nào cũng diễn một cách thuận lợi. Các mâu
thuẫn tất yếu sẽ phát sinh dẫn đến phá vỡ các mối quan hệ xã hội, trở thành một trong
những nguyên nhân của các tổn thất.
3. Ngoài các nguồn gốc rủi ro chính ảnh hưởng đến tất cả các hoạt động
ra thì CK còn có những nguồn gốc rủi ro cụ thể hơn :
+ Việc nhận dạng những tác nhân kinh tế có thể gây ra rủi ro như lãi suất, lạm phát, tỷ
giá hối đoái, tăng trưởng kinh tế,
+ Rủi ro trong kinh doanh chứng khoán cũng nguồn gốc rất sâu đậm từ số lượng và chất
lượng thông tin mà nhà đầu tư cần để làm cơ sở đưa ra các quyết định đầu tư
III. Nguyên Nhân Của rủi ro chứng khoán
~3~
1. Rủi ro từ “tâm lý bầy đàn”
Các trào lưu mua, bán chứng khoán theo tâm lý đám đông làm phá vỡ các quy luật
vận động bình thường của thị trường.
Đặc biệt, diễn biến của thị trường chứng khoán Việt Nam (TTCK VN) trở nên vô cùng
phức tạp khi mức dao động của chỉ số VN-Index ở những phiên giao dịch kế tiếp nhau
khá cao, trong khi giá trị giao dịch giảm dần. Điều này trở thành yếu tố kích thích nhiều
nhà đầu tư (N ĐT) trong nước đầu tư ngắn hạn, đặc biệt là khi diễn biến tăng, giảm giá
cổ phiếu phụ thuộc nhiều vào động thái đầu tư của nhà đầu tư nước ngoài.
Thông thường khi đầu tư theo “bầy đàn”, nhà đầu tư trong nước hiểu rất ít về cổ
phiếu đang nắm giữ, nên khi có những thông tin bất thường, họ thường phản ứng ngay
bằng cách bán ra.
2.
Rủi ro do tính thanh khoản thấp
Tính thanh khoản thấp của chứng khoán mà nhà đầu tư đang sở hữu có thể do chứng
khoán đó khó và thậm chí không thể bán được, hoặc không được phép bán hay chuyển
nhượng nhằm thu hồi vốn đầu tư. Đối với chứng khoán, tính thanh khoản của nó thấp
do một số nguyên nhân sau:
Tình trạng tài chính và triển vọng thị trường của công ty, tổ chức phát hành chứng
khoán không tốt.
Thật không may cho nhà đầu tư chứng khoán, khi vì một lý do nào đó, chứng khoán
đã mua là của một công ty có tình trạng tài chính thiếu lành mạnh và triển vọng cung
cấp các yếu tố đầu vào, cũng như khả năng tiêu thụ sản phẩm thiếu hiệu quả vững chắc.
Thậm chí, chỉ cần một sự thay đổi nhân sự cấp cao trong công ty cũng có thể khiến
giá chứng khoán đó sụt giảm. Và rủi ro đối với nhà đầu tư sẽ là tối đa khi công ty phát
hành chứng khoán bị phá sản và biến mất trên thương trường sau những “pha” “tự đánh
bóng” khá chuyên nghiệp, giật gân nhằm thu hút, dẫn dụ những nhà đầu tư. Trên thị
trường chứng khoán hiện nay, vẫn đang tiếp tục diễn ra tình trạng công khai và nô nức
đấu giá mua cổ phiếu của cả những công ty trên thực tế đã bị phá sản vì trình trạng tài
chính âm, không thể trả nợ, hoặc của những công ty, quỹ đầu tư thậm chí mới có quyết
định thành lập, chưa hề triển khai hoạt động trên thực tế…
Lựa chọn không đúng cơ cấu chứng khoán đầu tư
~4~
Nhà đầu tư chứng khoán cũng có thể chịu rủi ro do “bỏ hết trứng vào một giỏ”.
Thậm chí, việc sở hữu thuần túy các cổ phiếu ưu đãi mà không được chuyển nhượng
trong thời hạn nhất định (thường từ 3-5 năm) cũng có thể khiến nhà đầu tư gặp rủi ro,
nhất là khi cần tiền để trả lãi vay ngân hàng hoặc muốn rút vốn về để đầu tư vào chỗ
khác.
Sự cạnh tranh khốc liệt và biến động khôn lường của thị trường
Ngay cả những chứng khoán tốt nhất cũng có thể không giữ vững được vị thế lâu
dài trước sự biến động của thị trường. Điều này cũng đồng nghĩa với việc các nhà đầu
tư chứng khoán này có thể phải hứng chịu cả hai thiệt hại dạng “khấu hao hữu hình” và
“khấu hao vô hình” giá trị và tính thanh khoản của các chứng khoán đang nắm giữ.
3. Rủi ro từ thông tin
Thật hiếm có hoạt động kinh doanh nào mà sự thành bại của nhà đầu tư lại đòi hỏi
và gắn liền với yêu cầu về tính đa dạng, tính hệ thống, toàn diện, cập nhật và chính xác
của các thông tin có liên quan trực tiếp và gián tiếp như đầu tư chứng khoán.
Nói cách khác, rủi ro trong kinh doanh chứng khoán có nguồn gốc rất sâu đậm từ số
lượng và chất lượng thông tin mà nhà đầu tư cần để làm cơ sở đưa ra các quyết định đầu
tư. Rủi ro luôn rình rập ở mọi nơi và nhà đầu tư sẽ phải trả giá sớm hay muộn, đắt hay
rẻ, khi không nắm được các thông tin chính xác nhất, đầy đủ và kịp thời nhất liên quan
đến môi trường đầu tư, chất lượng chứng khoán và tình hình thị trường...
Các hoạt động đầu cơ, tung tin đồn thất thiệt, gây nhiễu thông tin và tự đánh bóng,
thổi giá hoặc thậm chí lừa đảo và thông đồng có tổ chức của các nhà đầu tư chuyên
nghiệp đủ sức gây biến động thị trường hòng trục lợi.
Một báo cáo tài chính hoặc cáo bạch chưa được kiểm toán, thẩm định bởi các tổ
chức độc lập, chuyên nghiệp, có uy tín và trình độ chuyên môn cao; một thông tin đến
chậm hoặc bị cắt xén, không chính xác về hoạt động kinh doanh của công ty phát hành
cổ phiếu, về môi trường pháp lý và về các nhà đầu tư khác trên cùng “sân chơi”, hoặc
đơn giản là về tình hình thời tiết hay dịch bệnh nào đó... đều có thể gây ra thiệt hại khôn
lường cho nhà đầu tư chứng khoán.
~5~
4. Rủi ro từ các quy định và chất lượng của sàn giao dịch, trung tâm giao
dịch và công ty chứng khoán
Vì yêu cầu đặc thù đòi hỏi bắt buộc kinh doanh chứng khoán phải thông qua các tổ
chức trung gian, môi giới, nên các nhà đầu tư có thể phải chịu nhiều rủi ro liên quan đến
các quy định, quy trình nghiệp vụ và chất lượng dịch vụ của các tổ chức trung gian. Điển
hình là các rủi ro liên quan đến việc tổ chức khớp lệnh và phân lô giao dịch cổ phiếu
trên thị trường chứng khoán có tổ chức.
Việc khớp lệnh định kỳ gây rủi ro cho nhà đầu tư vì họ không thể hủy ngang lệnh
đã đặt trước khi kết thúc phiên khớp lệnh, bất chấp những biến động mới bất lợi trên thị
trường, nếu họ không muốn chịu phạt về sự thay đổi quyết định này. Khớp lệnh định kỳ
có thể gây rủi ro cho nhà đầu tư vì dễ gây tình trạng cung - cầu ảo trên thị trường và cả
tình trạng nghẽn mạch, quá tải hoặc phân biệt đối xử theo kiểu bỏ rơi nhà đầu tư nhỏ ở
các sàn giao dịch.
Tuy vậy, việc khớp lệnh định kỳ này cũng có thể tạo cơ hội để nhà đầu tư giảm bớt
thiệt hại khi hủy lệnh đã đặt sau khi khớp lệnh đối với các chứng khoán còn dư chưa xử
lý hết trong phiên giao dịch gần nhất mà họ tham dự.
Trong khi đó, việc khớp lệnh liên tục, mặc dù cho phép các nhà đầu tư đặt lệnh thận
trọng, chính xác hơn, được giải quyết nhu cầu mua - bán nhiều hơn, nhanh chóng, bình
đẳng hơn và giảm thiểu tình trạng cung - cầu ảo trên thị trường chứng khoán, song có
thể gây rủi ro cho nhà đầu tư ở chỗ: khớp lệnh liên tục là giao dịch trên cơ sở khớp liên
tục các lệnh mua-bán chứng khoán ngay khi lệnh được nhập vào hệ thống giao dịch,
không phải chờ đến thời điểm định kỳ như kiểu khớp lệnh định kỳ.
Trong nguyên tắc xử lý khớp lệnh liên tục này thì quyền ưu tiên luôn dành cho các
lệnh mua có mức giá cao hơn và các lệnh bán có mức giá thấp hơn. Trường hợp các lệnh
mua và bán có đồng mức giá thì quyền ưu tiên sẽ dành cho lệnh nhập vào hệ thống giao
dịch trước.
Đến đây, rủi ro cho nhà đầu tư có thể xuất hiện theo hai cách: hoặc rủi ro vì lệnh
mua - bán của họ bị nhập vào hệ thống chậm hơn so với các nhà đầu tư khác có lệnh
tương tự nên không thực hiện được sớm hoặc hết các lệnh đã đặt; hoặc rủi ro vì họ buộc
phải mua - bán bằng hết các chứng khoán đã đặt lệnh theo mức giá thị trường thời điểm
hiện hành cao (khi mua vào) hoặc thấp hơn (khi bán ra) so với mức lệnh đã đặt. Sở dĩ
~6~
có sự rủi ro này là vì trong quy trình khớp lệnh liên tục sử dụng loại “lệnh thị trường” –
gọi tắt là MP. Lệnh này có nghĩa là lệnh mua tại mức giá thấp nhất (sàn) hoặc lệnh bán
tại mức giá cao nhất (trần) trên thị trường. Nếu sau khi so khớp lệnh theo nguyên tắc
trên mà khối lượng đặt lệnh của lệnh MP vẫn chưa thực hiện hết, thì MP sẽ được xem
là lệnh bán tại mức giá thấp hơn tiếp theo hiện hành trên thị trường. Do thực hiện nguyên
tắc ưu tiên khi khớp lệnh là: bán ở mức giá thấp, mua ở mức giá cao, nên thiệt hại cho
nhà đầu tư đặt lệnh bán sẽ càng lớn nếu giá bán được ngày một giảm trong quá trình
khớp lệnh này vì lệnh mua sẽ khớp số lượng bán với bất kỳ giá nào cho đến khi đủ số
lượng. Khi đó, nhà đầu tư dễ bị lâm vào tình trạng mua vào ở giá trần và bán ra ở giá
sàn.
5. Rủi ro từ các chấn động thị trường
Các nhà đầu tư chứng khoán, nhất là các nhà đầu tư nhỏ, có thể phải gánh chịu nhiều
rủi ro liên quan đến các chấn động thị trường trong nước hoặc nước ngoài như cuộc
khủng hoảng tài chính - tiền tệ châu Á hồi năm 1997 là một ví dụ điển hình.
Nhưng quan trọng hơn, đối với một thị trường mới nổi như Việt Nam, các nhà đầu
tư còn chịu các rủi ro liên quan đến các chính sách của Chính phủ. TTCK VN còn đang
trong giai đoạn đầu phát triển, mức độ thị trường hóa chưa đủ và luôn chịu ảnh hưởng
bởi chính sách của chính phủ. Có thể nói TTCK VN còn đang ở dạng "thị trường chính
sách", v í d ụ như: chính sách hai giá trong phát hành cổ phiếu (giảm giá từ 20-40% cho
các nhà đầu tư chiến lược hoặc cán bộ, công nhân viên của công ty cổ phần hóa lần đầu);
những thay đổi trong chính sách tỷ giá, lạm phát, tỷ lệ nắm giữ cổ phần trong công ty
cổ phần của các nhà đầu tư chiến lược, các nhà đầu tư nước ngoài; chính sách xuất nhập
khẩu, độc quyền hoặc các quan hệ quốc tế song phương, đa phương...
Ngoài ra, còn có rủi ro từ đầu cơ của vốn nước ngoài. Đây là vấn đề VN cần hết sức
cảnh giác. Mục tiêu cuối cùng của chủ đầu tư nước ngoài là thực hiện thu lãi từ đầu tư
theo dự kiến, khi biện pháp quản lý giám sát, cơ chế quản lý ngoại hối, chế độ TTCK
của nước chủ nhà xuất hiện lỗ hổng, nhà đầu tư nước ngoài sẽ lợi dụng những lỗ hổng
này tiến hành các hoạt động mang tính đầu cơ. Hiện tượng mở tài khoản phi tên thực
này làm gia tăng mức độ khó khăn cho các cơ cấu quản lý, giám sát của VN. Một khi
thị trường tụt dốc, những khoản tiền nóng của chủ đầu tư nước ngoài chắc chắn sẽ nhanh
chóng được rút ra hết.
~7~
6. Sự thiếu hiểu biết của các nhà đầu tư
Cuối cùng, rủi ro lớn nhất và cũng là nguồn cội của mọi rủi ro trong đầu tư chứng
khoán chính là rủi ro từ sự sai lầm do thiếu hiểu biết, thiếu kỹ năng tổng hợp, phân tích
và phản ứng thị trường nhạy bén, chính xác của bản thân nhà đầu tư...
Không hiểu biết bằng thua lỗ :
Thực tế đã chứng minh, một trong những nguyên nhân đặc biệt quan trọng khiến
NĐT thua lỗ trên TTCK chính là sự thiếu hụt kiến thức về lĩnh vực này. Không phải
ngẫu nhiên mà các nhà kinh tế xem TTCK là "thị trường cao cấp nhất trong các thị
trường", ở các nước phát triển, TTCK chính là "hàn thử biểu" đo lường "sức khỏe" của
nền kinh tế. Đó là nơi đầu tư, kinh doanh đòi hỏi sự hiểu biết, tính toán của các NĐT
chứ hoàn toàn không có chỗ cho những ai nghĩ rằng đầu tư chứng khoán cũng giống như
"đánh bạc". NĐT không có kiến thức, không biết cách sàng lọc thông tin, không nắm rõ
quy luật thị trường thì "khó có thể kiếm được tiền" ở thị trường này
Đầu cơ cũng không phải là "đánh bạc"
TTCK VN hiện nay có rất nhiều đối tượng đầu tư. Vì vậy, trong một chừng mực
nào đó, không loại trừ một số người đi gần đến dạng đánh bạc. Tuy nhiên, 2 đối tượng
chính trên TTCK là NĐT và nhà đầu cơ đều không thể liệt vào dạng này. Các NĐT
thường mua cổ phần của các công ty và được lên sàn khi công ty niêm yết. Họ có chủ
trương rõ ràng nên không bị dao động, hốt hoảng trong việc chứng khoán tăng giảm đột
biến vì mục tiêu của họ là dài hạn. Những điều chỉnh ngắn hạn không ảnh hưởng đến
tâm lý và quyết định của họ. Thực tế cho thấy, những NĐT tại VN đã đầu tư trên 1 năm
hầu như không có ai thua lỗ.
Với các nhà đầu cơ, những người thường bị hiểu lầm là "đánh bạc" nhưng trên thực
tế, họ là những người đầu tư ngắn hạn và TTCK không thể thiếu họ. Tuy nhiên, một nhà
đầu cơ chuyên nghiệp phải là người thực sự giỏi, thực sự nhạy bén, hiểu biết thị trường
và khả năng trường vốn tốt. Họ có thể đã thành công ở các lĩnh vực khác và "nhảy" vào
lĩnh vực này với khả năng phân tích kinh tế, phân tích thị trường cũng như những hiểu
biết rất rõ về tình hình hoạt động của các doanh nghiệp. Vì vậy, họ "đánh nhanh, rút
gọn" bằng năng lực và sự hiểu biết của mình chứ không phải là đầu tư theo kiểu may rủi
hay đánh bạc. Những nhà đầu cơ không hiểu biết nhưng bị cám dỗ bởi sự tăng trưởng
nóng cứ "nhào vô, rút ra" chính là những người bị thua thiệt.
~8~
Hiện vẫn đang còn không ít người tham gia TTCK theo kiểu "đánh bạc" dù đợt điều
chỉnh của TTCK trong thời gian qua đã thanh lọc một lượng không nhỏ. Các chuyên gia
chứng khoán khuyến cáo những ai đang chuẩn bị tham gia thị trường với tâm lý như vậy
cần cân nhắc. Trong một vài thời điểm nhất định nào đó, may mắn gặp được vài cơ hội
nào đó, những người đang chơi kiểu "đánh bạc" có thể lãi nhưng trong dài hạn, cách đầu
tư này chắc chắn khiến họ thua lỗ. Thực sự TTCK là một thị trường tài chính cao cấp
đòi hỏi những người có kiến thức chuyên môn và gặp may mới có thể thành công và
tham gia lâu dài được nhưng thử hỏi với TTCK Việt Nam hiện nay, liệu không có đa
phần là các nhà đầu tư nhỏ lẻ
IV. Đối tượng chịu ảnh hưởng từ rủi ro thị trường chứng khoán
1.
-
Nhà phát hành
Chính phủ và chính quyền địa phương là nhà phát hành các trái phiếu Chính phủ
và trái phiếu địa phương.
-
Công ty là nhà phát hành các cổ phiếu và trái phiếu công ty.
-
Các tổ chức tài chính là nhà phát hành các công cụ tài chính như các trái phiếu,
chứng chỉ thụ hưởng... phục vụ cho hoạt động của họ.
Khi thị trường chứng khoán ảm đạm, việc phát hành cổ phiếu hay trái phiếu là điều
hết sức khó khăn, do đó việc huy động vốn cho nhu cầu chi dùng của chính phủ hay là
vốn đầu tư cho phát triển của tổ chức, doanh nghiệp cũng gặp khó khăn khi khó tìm
kiếm người mua các loại chứng khoán. Việc phát hành chứng khoán ra bên ngoài có thể
mang tới những bất lợi cho công ty hay doanh nghiệp nếu gặp phải đối thủ có mong
muốn thâu tóm kiểm soát công ty, doanh nghiệp bằng cách thu mua các cổ phiếu của
công ty đó
2.
Nhà đầu tư
-
Các nhà đầu tư cá nhân
-
Các nhà đầu tư có tổ chức
Đối với các nhà đầu tư là những người trực tiếp bỏ tiền để mua các loại chứng khoán
thì gặp khá nhiều rủi ro và hậu quả lớn nhất đó chính là mất tiền khi chịu bán lỗ các
~9~
loại chứng khoán do đầu tư sai lầm, công ty phá sản hay khi mua phải các loại chứng
khoán khó bán. Nhưng cũng không ít các nhà đầu tư lạc quan khi thị trường chứng
khoán đi xuống đã bắt được đáy của các cổ phiếu có triển vọng phát triển tốt hay là thời
điểm thuận lợi để các nhà đầu tư có cơ hội thâu tóm các doanh nghiệp với mức giá bỏ
ra khá hợp lí
3.
Các tổ chức kinh doanh trên thị trường chứng khoán
-
Công ty chứng khoán
-
Quỹ đầu tư chứng khoán
-
Các trung gian tài chính
Là đối tượng trung gian giữa nhóm nhà phát hành và nhóm nhà đầu tư nên nhóm
nhóm này cũng chịu tác động trực tiếp từ thị trường chứng khoán, khi thị trường chứng
khoán hoạt động kém hiệu quả thì hiệu quả kinh doanh cũng như tỉ suất lợi nhuận của
nhóm này cũng sẽ giảm một cách rõ rệt
Ngoài ra còn có các tổ chức có liên quan đến thị trường chứng khoán khác như cơ
quan quản lí nhà nước, sở giao dịch chứng khoán, hiệp hội các nhà kinh doanh chứng
khoán, công ty dịch vụ máy tính chứng khoán, công ty đánh giá hệ số tín nhiệm…. cũng
chịu những tác động từ rủi ro của thị trường chứng khoán.
V. Hạn chế các rủi ro trong thị trường chứng khoán
1.
Đa dạng hóa danh mục đầu tư
Tránh tình trạng bỏ chung trứng vào một giỏ sẽ mang lại nhiều rủi ro khi thị trường
có biến động. Việc chia ra đầu tư nhiều loại chứng khoán sẽ giảm thiểu rủi ro và có khả
năng tăng thêm lợi nhuận. Việc đa dạng hóa này được thể hiện ở chỗ mua nhiều loại
chứng khoán khác nhau trong nhiều lĩnh vực nghành nghề khác nhau. Nhưng tránh đầu
tư quá dàn trải, khi đó sẽ khó kiểm soát được các loại cổ phiểu mình đã đầu tư
2.
Đầu tư dài hạn
Trong dài hạn thị trường luôn có xu hường đi lên, do đó việc đầu tư dài hạn sẽ giúp
các nhà đầu tư giảm thiểu rủi ro về giá trong thời gian ngắn. Việc các nhà đầu tư quá
chú trọng vào đầu tư ngắn hạn sẽ mang đến những ảnh hưởng xấu như hiện tượng đầu
cơ, thao túng thị trường làm lợi cho một số người có tiềm lực tài chính mạnh trên thị
~ 10 ~
trường, do đó khôn ngoan hơn hết là tìm danh mục chứng khoán có khả năng phát triển
bền vững và đầu tư chúng một cách dài hạn
3.
Chứng khoán phái sinh
Mặc dù phương pháp ‘ đẩy chứng vào nhiều giỏ’ được khá nhiều nhà đầu tư áp dụng
và hạn chế được rất nhiều rủi ro nhưng lại không hoàn toàn có tác dụng nếu như toàn bộ
thị trường tụt dốc. Tại một số nước có TTCK phát triển đã áp dụng một số công cụ hạn
chế rủi ro và khá hiệu quả, đó là các loại chứng khoán phái sinh :
-
Quyền chọn mua : là hợp đồng giữa hai bên trong đó một bên cho bên kia
được quyền chọn mua một khối lượng hàng hóa nhất định tại một mức giá xác định
trong một thời hạn nhất định, người mua quền chọn mua sẽ phải trả cho người bán một
khoản tiền gọi là tiền cược hay giá trị quyền chọn mua
-
Quyền chọn bán là hợp đồng giưa 2 bên trong đó một bên cho bên kia
được quyền bán một khối lượng hàng hóa nhất định tại một mức giá xác định trong một
thời hạn nhất định, người mua quền chọn bán sẽ phải trả cho người bán một khoản tiền
gọi là giá quyền hoặc phí quyền
-
Hợp đồng tương lai : là cam kết mua hoặc bán các loại chứng khoán, nhóm
chứng khoán hoặc chỉ số chứng khoán nhất định với một số lượng và mức giá nhất định
vào ngày xác định trong tương lai
-
Hợp đồng kì hạn : là thỏa thuận giữa người mua và người bán chấp thuận
thực hiện một giao dịch hàng hóa với khối lượng nhất định, tại một thời điểm xác định
trong tương lai với mức giá được ấn định vào ngày hôm nay.
Các loại chứng khoán phái sinh giúp giảm thiểu đáng kể rủi ro của nhà đầu tư khi thị
trường lên cao hoặc xuống thấp trong tương lai, ở các nước phát triển thì các loại chứng
khoán phái sinh đã giúp rất nhiều nhà đầu tư hạn chế cũng như thoát khỏi tình trạng
thua lỗ lớn.
Bổ sung câu hỏi
Câu 1 : Cách xác định rủi ro kinh doanh và công thức cụ thể. Định nghĩa thu nhập bình
quân?
Trả lời :
~ 11 ~
Cách xác định rủi ro kinh doanh:
Rủi ro kinh doanh có thể được chia làm hai loại cơ bản: Bên ngoài và nội tại
+ Rủi ro kinh doanh nội tại phát sinh trong quá trình vận hành hoạt động của công ty.
Mỗi công ty có một loại rủi ro nội tại riêng và mức độ thành công của mỗi công ty thể
hiện qua hiệu quả hoạt động. rủi ro nội tại được giảm xuống do sự trải rộng về sản phẩm
hay loại sản phẩm. Phạm vi của những thay đổi lên xuống trong tổng thu nhập dẫn đến
sự thay đổi trong lợi nhuận có thể được gọi là rủi ro nội tại. Nếu có một sự sụt giảm
trong thu nhập từ một loại sản phẩm có thể được bù đắp bằng một loại sản phẩm khác,
làm cho tổng thu nhập không thay đổi thì có thể coi là công ty đã sử dụng việc đa dạng
hoá sản phẩm để bảo vệ mình chống lại rủi ro kinh doanh. Sự sút giảm về thu nhập có
thể giảm thiểu trong tác động vào lợi nhuận thông qua sự cắt giảm chi phí và sản xuất.
+ Mỗi công ty có một kiểu rủi ro bên ngoài riêng, phụ thuộc vào các yếu tố môi trường
kinh doanh cụ thể của công ty. Các yếu tố bên ngoài, từ chi phí tiền vay đến sự cắt giảm
ngân sách, từ mức thuế nhập khẩu tăng đến sự suy thoái của chu kỳ kinh doanh. .., và
có lẽ yếu tố quan trọng nhất là chu kỳ kinh doanh. Doanh số của một số ngành công
nghiệp thép, ô tô có xu hướng bám sát chu kỳ kinh doanh trong khi doanh số của một
số ngành khác lại có xu hướng đi ngược lại. Các chính sách chính trị cũng là một phần
của rủi ro bên ngoài, các chính sách tiền tệ và tài khoá có thể làm ảnh hưởng đến thu
nhập thông qua tác động về chi phí và nguồn vốn
1.Xác định rủi ro kinh doanh qua phương sai, độ lệch chuẩn và hệ số biến thiên
1.1 Phương sai và độ lệch chuẩn
* Phương sai
Rủi ro kinh doanh có thể được hiểu là rủi ro gắn liền với sự biến thiên của kết quả và
hiệu quả kinh doanh. Vì vậy theo quan điểm phân tích thống kê, để đo lường rủi ro kinh
doanh ngưởi ta sử dụng chỉ tiêu phương sai đại lượng kết quả kinh doanh như doanh
thu, lợi nhuận…hay hiệu quả kinh doanh như khả năng sinh lời tổng tài sản để đánh giá
mức đọ biến thiên của các đại lượng đó.
n
Var(k)=
( k i k ) 2 * pi
i 1
Trong đó:
~ 12 ~
k i là giá trị thứ i của chỉ tiêu nghiên cứu ( đó có thể là kết quả kinh doanh hay chỉ tiêu
hiệu quả kinh doanh nào đó được chọn để phân tích như: doanh thu, lợi nhuận, hiệu suất
sinh lời…)
k là giá trị kỳ vọng hay giá trị trung bình của chỉ tiêu phân tích trên, được tính bằng:
n
k k i * pi
i 1
p i là xác suất để có được giá trị k i
* Độ lệch chuẩn
Khi phân tích rủi ro kinh doanh thì nó có ý nghĩa là ở mức hoạt động và quy mô
tương tự nhau, doanh nghiệp hay phương án nào có phương sai và độ lệch chuẩn của
cùng một chỉ tiêu nhỏ hơn phương sai và độ lêch chuẩn của doanh nghiệp hya phương
án kia thì doanh nghiệp hay phương án đó cỏ rủi ro thấp hơn do mức độ biến thiên kết
quả kinh doanh của doanh nghiệp là thâó hơn. Nghĩa là dianh nghiệp hoạt động ổn định
hơn.
Công thức:
Var (k ) =
n
(k i k ) 2 pi
i 1
1.2 Hệ số biến thiên
Trong quá trình phân tích chỉ tiêu phương sai và độ lệch chuẩn có nhược điểm là các
chỉ tiêu có thước đo khác nhay, giá trị kỳ vọng giữa các phương án so sánh khác nahu
thì sử dụng phương sai và độ lệch chuẩn để so sánh là không có ý nghĩa. Do đó, người
ta sử dụng thêm chỉ tiêu hệ số biên thiên, hệ số biến thiên được dùng để đánh giá rủi ro
kinh doanh giữa các phương án với nhau một cách chính xác hơn khi các phương án đó
có thước đo khác nhau, có giá trị kỳ vọng khác nhau.
Công thức:
H bt
k
1.3 Xác định rủi ro kinh doanh qua đòn bẩy kinh doanh
~ 13 ~
Hệ số đòn bẩy kinh doanh hay còn gọi là độ lớn đòn bẩy kinh doanh là chỉ tiêu phản
ánh ảnh hưởng của những thay đổi về doanh thu đối với lợi nhuận của doanh nghiệp.
Nó phản ánh mức độ rủi ro trong kinh doanh.
K=
𝛥𝐿𝑁/𝐿𝑁
𝛥𝐷𝑇/𝐷𝑇
Trong đó:
LN là lợi nhuận kinh doanh của doanh nghiệp.
DT là doanh thu hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Hệ số đòn bẩy kinh doanh cho thấy ứng với một mức hoạt động, hệ số này càng cao
thì doanh nghiệp có thể đạt được hiệu quả kinh doanh lớn nhưng hiệu quả kinh doanh
biến thiên lớn do đó rủi ro kinh doanh của doanh nghiệp cũng cao. Lý do là một sự thay
đổi nhỏ về doanh thu cũng dẫn đến một sự thay đổi lớn hơn về lợi nhuận kinh doanh.
Lợi nhuận kinh doanh sẽ tăng rất nhanh trong trường hợ mở rộng thị trường, tăng doanh
thu nhưng cũng sẽ giảm rất mạnh nếu têu thụ của doanh nghiệp giảm.
1.4 Xác định rủi ro kinh doanh qua mức độ phân bổ giữa chi phí biến đổi và chi
phí cố định
Rủi ro gắn liến với sự không chắc chắn của hiệu quả kinh doanh phụ thuộc chủ yếu
vào sự phân bổ giữa định phí và biến phí.
Công thức:
K=ĐBKD=
Q( P BPđv )
Q( P BPđv ) ĐP
Trong đó:
Q: số lượng sản phẩm tiêu thụ
P: đơn giá bán sản phẩm
BPđv : biến phí đơn vị
ĐP: tổng chi phí
Nếu tỉ trọng chi phí cố định trong tổng chi phí cao và tỉ trọng này không giảm khi
nhu cầu cắt giảm thì rủi ro doanh nghiệp càng gia tăng.
Điều này cũng được giải thích như sau, chi phí cố định phụ thuộc vào mức độ đầu tư và
công nghệ của doanh nghiệp, doanh nghiệp nào có nhiều tài sản cố định sẽ có đòn bẩy
kinh doanh lớn nhưng lại rất khó khăn trong việc chuyển đổi hình thức hoạt động kinh
~ 14 ~
doanh. Do đó, doanh nghiệp sẽ thiếu tính năng động trong việc thích ứng với sự phát
triển của thị trường và rủi ro kinh doanh của doanh nghiệp sẽ lớn.
Các doanh nghiệp sản xuất thường có tỉ trọng tài sản cố định lớn nên đòn bẩy kinh
doanh cao, trong khi đó các doanh nghiệp thương mại có độ lơins đòn bẩy kinh doanh
thấp. Vì vậy, các doanh nghiệp sản xuất thưởng rủi ro hơn các doanh nghiệp thương
mại.
Chứng minh công thức tính rủi ro kinh doanh:
n
RRKD=
i 1
(OEi OE ) 2 / n
n
OE
i 1
i
/n
Trong đó:
OEi là thu nhập từ hoạt động kinh doanh của công ty i
N là số năm
Câu 2 : Nêu khái niệm đòn bẩy tài chính,xác đinh đòn bẩy tài chính như thế nào, công
thức và ảnh hưởng đến lợi ích của doanh nghiệp như thế nào?
Trả lời:
1. Khái niệm đòn bẩy tài chính
DFL là tỷ số đòn bẩy cho thấy ảnh hưởng của một khoản nợ vay xác định đối với thu
nhập trên mỗi cổ phần của công ty. Đòn bẩy tài chính liên quan đến việc sử dụng chi
phí cố định để tài trợ cho công ty và bao gồm cả những chi phí tăng thêm trước thuế và
lãi vay. Trong điều kiện các yếu tố khác không đổi, một mức độ đòn bẩy tài chính cao
hơn đồng nghĩa là sự dao động trong EPS cũng tăng tương ứng.
Công thức xác định tỷ lệ đòn bẩy tài chính như sau:
DFL= (% thay đổi trong EPS) / (% thay đổi trong EBIT)
Trong đó : EPS là thu nhập trên mỗi cổ phần thường
EBIT là thu nhập trước lãi vay và thuế
2. Ảnh hưởng của đòn bẩy tài chính đến doanh nghiệp
Đòn bẩy tài chính xuất hiện khi công ty giải quyết tài trợ cho phần lớn tài sản của mình
bằng vay nợ.Các công ty chỉ làm điều này khi nhu cầu vốn cho đầu tư của doanh nghiệp
~ 15 ~
khá cao mà vốn chủ sở hữu không đủ để tài trợ. Khoản nợ vay của công ty sẽ trở thành
khoản nợ phải trả, lãi vay được tính dựa trên số gốc này. Một doanh nghiệp chỉ sử dụng
nợ khi nó có thể tin chắc rằng tỉ suất sinh lợi trên tài sản cao hơn lãi suất vay nợ.
Xét về bản chất, hoạt động sử dụng đòn bẩy tài chính có thể hiểu là việc sửdụng vốn vay
(thay vì vốn tự có) để đầu tư sinh lời và được tính trên số vốn vay/ tổng tài sản. Đứng
trên quan điểm như vậy, đòn bẩy tài chính có thể được thực hiện tên cả góc độ đầu tư
vào các tài sản ( chứng khoán, vàng, bất động sản) và góc độ doanh nghiệp (sử dụng
vốn vay để tăng cường hiệu quả hoạt động của mình ).
Tác động của đòn bẩy tài chính đến chi phí sử dụng vốn và giá cổ phần
Khi sử dụng vốn vay, tức là doanh nghiệp đã sử dụng đòn bẩy tài chính, lãi vay phải trả
được coi là một khoản chi phí hợp lí và được trừ vào phần thu nhập chịu thuế của doanh
nghiệp. Khoản tiết kiệm thuế đã khiến cho chi phí sử dụng vốn vay thấp hơn so với các
nguông tài trợ khác. Dường như việc sử dụng đòn bẩy tài chính sẽ làm cho chi phí sử
dụng vốn bình quân của doanh nghiệp giảm đi. Tuy nhiên, tác động của đòn bẩy tài
chính đến chi phí sử dụng vốn bình quân của doanh nghiệp không hoàn toàn đơn giản
như vậy.
Khi bắt đầu sử dụng đòn bẩy, do tác động của việc tiết kiệm thuế từ sử dụng vốn vay đã
làm cho chi phí sử dụng vốn bình quân của công ty giảm. Nếu như cácyếu tố khác như
nhau, một sự gia tăng sử dụng đòn bẩy tài chính sẽ kéo theo rủi ro tài chính tăng thêm.
Các nhà đầu tư cung cấp vốn cho công ty sẽ xem xét mức độ rủi ro này để ấn định tỷ
suất sinh lời mà họ đòi hỏi.
Khi doanh nghiệp gia tăng sử dụng nợ thì rủi ro tài chính cũng tăng cao, do đó các nhà
đầu tư sẽ gia tăng tỷ suất sinh lời đòi hỏi. Mặc dù vậy, trong giai đoạn đầu gia tăng sử
dụng nợ, hiệu ứng tiết kiệm do sử dụng vốn vay vẫn lớn hơn sự gia tăng tỷ suất sinh lời
đòi hỏi của nhà đầu tư, kết quả là chi phí sử dụng vốn bình quân của công ty vẫn tiếp
tục giảm xuống. Tuy nhiên, khi sử dụng đòn bẩy tài chính vượt qua giới hạn nào đó,
nguy cơ mất khả năng thanh toán của công ty tăng cao, rủi ro tài chính tăng mạnh, các
nhà cho vay sẽ đòi hỏi một lãi suất cao hơn, các nhà đầu tư khác cũng cung cấp vốn dưới
hình thức cổ phần phổ thông, vốn cổphần ưu đãi cũng yêu cầu một tỷ suất sinh lời cao
vọt lên, và khi đó, chi phí sử dụng vốn bình quân của công ty sẽ tăng.
~ 16 ~
Đòn bẩy tài chính cũng tắc động rất lớn tới giá cổ phiếu của công ty trên thị trường. Việc
tác động đó cũng không đơn giản, một chiều.
Sử dụng đòn bẩy tài chính trong một mức nhất định sẽ làm cho chi phí sửdụng vốn bình
quân của doanh nghiệp giảm thấp, đồng thời gia tăng được thu nhập trên một cổ phần,
với các điều kiện khác không thay đổi, khi đó các nhà đầu tư sẽlạc quan trước triển vọng
của công ty và xu hướng giá cổ phiếu của công ty sẽ tăng lên. Tuy nhiên nếu sử dụng
đòn bẩy tài chính qua một giới hạn nhất định sẽ làm cho chi phí sử dụng vốn bình quân
của công ty tăng lên đồng thời rủi ro tài chính cũng tăng cao, khi đó giá cổ phiếu của
công ty cũng sẽ giảm đi. Ngay cả khi EBIT của công ty trước triển vọng lạc quan với
EBIT dự kiến đạt được qua điểm hòa vốn EBIT nhưng nếu sử dụng đòn bẩy tài chính
quá mức, rủi ro tài chính sẽ tăng cao, kho đó các nhà đầu tư trên thị trường sẽ nhận biết
được mặc dù tỷ suất sinh lời của công ty tăng lên nhưng không đủ bù đắp được rủi ro tài
chính tăng lên và các nhà đầu tư sẽ phản ứng lại bằng cách ấn định một hệ số P/E thấp
và sẽ dẫn đến giá cổ phiếu của công ty sẽ sụt giảm dù cho thu nhập trên cổ phần của
công ty có tăng lên.
~ 17 ~
Phần 2: LƯỢNG HÓA RỦI RO
I.
Mô hình đánh giá rủi ro CAPM
1. Giới thiệu khái quát về mô hình định giá tài sản vốn CAPM :
Mô hình định giá tài sản vốn ( Capital aset pricing model, CAPM) là mô hình
mô tả mối quan hệ giữa rủi ro và tỷ suất lợi nhuận.
Theo mô hình CAPM lợi nhuận kỳ vọng bằng lợi nhuận không rủi ro cộng với
một khoản bù đắp rủi ro nhân với hệ số rủi ro hệ thống của chứng khoán đó ( hệ số β )
Như vậy theo mô hình rủi ro phi hệ thống không được xem xét trong mô hình
này do nhà đầu tư có thể xây dựng danh mục đầu tư đa dạng hóa loại bỏ rủi ro đó.
Mô hình CAPM được đưa ra vào những năm 1960 do 3 nhà kinh tế học là
William Sharpe, John Lintner và Jack Treynor. Mặc dù hiện này còn có rất nhiều mô
hình khác cũng nỗ lực tìm kiếm cách giải thích các động thái của thị trường , mối quan
hệ rủi ro và lợi nhuận kỳ vọng nhưng mô hình CAPM là mô hình đơn giản về mặt khái
niệm và khả năng ứng dụng thực tiễn nhất .
2. Một số giả định cơ bản trong mô hình CAPM :
Các nhà đầu tư khi đưa ra quyết định của đều dựa trên việc phân tích 2
yếu tố: thu nhập kỳ vọng và độ sai lệch của thu nhập.
Các nhà đầu tư sẽ tìm cách giảm thiểu rủi ro bằng cách kết hợp nhiều
chứng khoán khác nhau trong tập hợp danh mục đầu tư của mình. Tức là làm
giảm rủi ro phi hệ thống nhằm mục đích loại bỏ rủi ro phi hệ thống ra khỏi mô
hình
Các quyết định đầu tư được đưa ra và kết thúc trong khoảng thời gian nhất
định .Thông thường trong mô hình các khoang thời gian này là 3 tháng , 1 năm
và 2 năm.
Các nhà đầu tư có chung các kỳ vọng về các thông số đầu vào sử dụng để
tạo lập danh mục đầu tư hữu hiệu
Thị trường vốn là thị trường cạnh tranh hoàn hảo.Nhà đầu tư được cung
cấp thông tin đầy đủ , không có những hạn chế đầu tư và không có nhà đầu tư
nào đủ lớn để ảnh hưởng đến giá cả của một loại cổ phiếu nhất định
~ 18 ~
Không tồn tại các loại phí giao dịch trên thị trường hay bất kỳ một sự cản
trở nào trong môi trường cung và cầu của một loại tài sản.
Trên thị trường tồn tại loại tài sản không có rủi ro ( Risk- free- Asset) mà
nhà đầu tư có thể đầu tư lãi suất vay và lãi suất cho vay cùng bằng nhau và bằng
lãi suất không rủi ro.
3. Nội dung của mô hình CAPM :
Theo mô hình CAPM mối quan hệ giữa rủi ro và lợi nhuận kỳ vọng
Rj = Rf +( Rm – Rf )βj
Trong đó :
Rj là lợi nhuận kỳ vọng của chứng khoán j.
Rf là lợi nhuận không rủi ro , lợi nhuận này có tỷ suất bằng lãi suất của trái phiếu
chính phủ
Rm là lợi nhuận kỳ vọng của thị trường.
Βj là hệ số beta , hệ số đo lường rủi ro của chứng khoán j
3.1
Quan hệ giữa lợi nhuận cá biệt và lợi nhuận thị trường :
Trước tiên ta phải hiểu lợi nhuận thị trường là lợi nhuận của các doanh mục đầu
tư thị trường. Danh mục đầu tư thị trường được lựa chọn theo từng loại thị trường.
Để tìm hiểu mối quan hệ giữa lợi nhuận cá biệt và lợi nhuận thị trường ta xét ví
dụ về lợi nhuận cổ phiếu của công ty A với sự biến động của nền kinh tế.
Tình huống
Nền kinh tế
Lợi nhuận thị trường
Lợi nhuận cổ phiếu
công ty A(%)
1
Tăng trưởng
15
25
2
Tăng trưởng
15
15
3
Suy thoái
-5
-5
4
Suy thoái
-5
-15
Như vậy ứng với 2 trạng thái của nền kinh tế tăng trưởng và suy thoái lợi nhuận
cua thị trường có 2 sự thay đổi là 15% và -5% nhưng khi đó lợi nhuận của A có 4 sự
thay đổi 25%,15%, -5%, -15%.
~ 19 ~
Nếu xét khả năng xảy ra suy thoái và tăng trưởng là bằng nhau ( xác suất là 50/50).
Khi đó ta có :
Tình trạng nền kinh tế
Lợi nhuận thị trường(%)
Lợi nhuận kỳ vọng của A(%)
Tăng trưởng
15
15*0.5 + 25*0.5=20
Tăng trưởng
15
15*0.5 + 15*0.5=15
Suy thoái
-5
(-5*0.5) +(-5*0.5)= -5
Suy thoái
-5
(-5*0.5) +(-15*0.5)= -10
Biểu diễn trên trục tọa độ mối quan hệ giữa lợi nhuận cổ phiếu và lợi nhuận thị
trường .Khi đó ta có đường đặc thù chứng khoán với hệ số góc chính là hệ số beta.
3.2
Hệ số beta β
* Hệ số beta được định nghĩa là hệ số đo lường mức độ biến động lợi nhuận cổ
phiếu cá biệt so với mức biến động lợi nhuận danh mục thị thị trường.
Theo đó :
β=
Mặt khác, hệ số
Rj
Rm
cũng có thể được viết bằng cách khác, đó là quan hệ tỷ lệ
giữa rủi ro của vốn chủ sở hữu so với rủi ro thị trường.
β=
Rj
Rm
Theo ví dụ trên chúng ta xem xét hệ số beta bằng tỷ số giữa mức đọ biến động lợi
nhuận cua A , ứng với tình trạng tăng trưởng và suy thoái của nền kinh tế và mức độ
biến động lợi nhuận thị trường .
Do đó :
3.3
β= [ 20-(-10)]/[15-(-5)] =1.5
Cách tính hệ số beta :
Để tính hệ số beta là hệ số đo lường rủi ro chứng khoán trên thực tế các nhà kinh
tế học sử dụng phương pháp hồi quy, từ đó ước lượng hệ số beta dựa trên các số liệu
trong lịch sử.
~ 20 ~
Ta xây dựng một hàm hồi quy trong đó biến độc lập là suất sinh lợi của danh mục
đại diện cho toàn bộ thị trường, còn biến phụ thuộc là suất sinh lợi của chứng khoán i.
Tại các nước, vì thị trường chứng khoán bao gồm rất nhiều chứng khoán khác nhau nên
người ta coi danh mục thị trường đồng nghĩa với danh mục cổ phiếu lập chỉ số chính
của thị trường cổ phiếu, ở Mỹ là S&P 500, ở Pháp là CAC 40, ở Nhật là Nikkei 225, ở
Việt Nam tất nhiên sẽ phải là VN-Index. Công thức của mô hình thị trường như sau :
Rjt = ai + βi RMt + eit
Trong đó :
Rit: suất sinh lợi của chứng khoán i tại kỳ t;
ai: hằng số. Hằng số này là suất sinh lợi của chứng khoán i khi suất sinh lợi của thị
trường bằng 0 ;
βi : Độ dốc của đường hồi quy. Hệ số này cho thấy mức độ nhạy cảm của chứng
khoán i đối với chỉ số của thị trường chứng khoán;
RMt : suất sinh lợi của “danh mục thị trường” hay của chỉ số chứng khoán trong kỳ
t; ở Việt nam là Vn-INDEX
eit: Phần suất sinh lợi dư của chứng khoán i trong kỳ t, được quan niệm là đại diện
cho rủi ro phi hệ thống của chứng khoán i trong kỳ t.
eit Độc lập với thị trường không ảnh hưởng đến .Trung bình các phần dư này là
băng 0.
Ở các nước phát triển luôn có một số công ty phụ trách chuyên xác định và cung
cấp thông tin về hệ số beta. Ở Mỹ có thể tìm thấy thông tin vê hệ số beta từ các nhà cung
cấp dịch vụ là Value line invesment survey , Market guide và Standard & poor’s stock
Report. Ở Canada thì có Burns Fry limited cung cấp.
4. Quan hệ giữa rủi ro và lợi nhuận , đường SML :
Lợi nhuận kỳ vọng của một chứng khoán có quan hệ đồng biến với rủi ro của
chứng khoán đó , nghĩa là nhà đầu tư kỳ vọng vào chứng khoán có rủi ro cao thì sẽ có
lợi nhuận cao và ngược lại. Nói 1 cách khác nhà đầu tư chỉ giữ những chứng khoán có
rủi ro cao khi lợi nhuận kỳ vọng của nó đủ lớn để bù đắp rủi ro .Như ta đã biết hệ số
beta là hệ số đo lường rủi ro của một chứng khoán .Như vậy lợi nhuận kỳ vọng của một
chứng khoán có quan hệ đồng biến với hệ số của nó.
~ 21 ~
Bây giờ ta giả sử rằng thị trường tài chính hiệu quả và nhà đầu tư đa dạng hóa danh
mục đầu tư sao cho rủi ro phi hệ thống được loại bỏ. Khi đó, chỉ còn rủi ro hệ thống ảnh
hưởng đến lợi nhuận của cổ phiếu . Cổ phiếu có beta càng cao thì độ rủi ro càng cao vì
vậy cần một lợi nhuận kỳ vọng đủ lớn để bù đắp.
Như đã nói ở trên , theo mô hình CAPM mối quan hệ giữa lợi nhuận và rủi ro được
diễn tả bới công thức :
Rj = Rf +( Rm – Rf ) βj
Phương trình trên biểu diễn nội dung mô hình CAPM , có dạng hàm số bậc nhất y
= ax + b với biến phụ thuộc ở đây là Rj, biến độc lập là βj và hệ số góc là ( Rm – Rf ).
Xét về mặt hình học , mối quan hệ giữa lợi nhuận kỳ vọng cổ phiếu và hệ số rủi ro
beta được biểu diễn bằng đường thẳng : đường thị trường chứng khoán
SML ( security market line )
ĐƯỜNG SML
~ 22 ~
Từ công thức và đồ thị ở trên ta có thể thấy :
Beta = 0 : Lợi nhuận kỳ vọng của chứng khoán có beta = 0 chính là lợi
nhuận không rủi ro và bằng Rf , Tại đây tỷ suất lợi nhuận của nó bằng lãi suất
trái phiếu chính phủ .
Beta =1 : Lợi nhuận kỳ vọng của chứng khoán khi đó bằng lợi nhuận của
thị trường do mức biến động của giá chứng khoán này sẽ bằng với mức biến động
của thị trường.
Quan hệ tuyến tính giũa lợi nhuận kỳ vọng và beta được biễu diễn bằng
đường SML với hệ số góc là Rm – Rf.
Mô hình CAPM vẫn đúng với trường hợp danh mục đầu tư nhiều cổ phiếu
. Để có thể hiểu rõ vấn đề này ta giả sử có 2 loại cổ phiếu là A và Z có hệ số beta
lần lượt là 1,5 và 0,7. Lãi suất trái phiếu chính phủ là 13,4. Áp dụng mô hình
CAPM chúng ta có lợi nhuận kỳ vọng của các cổ phiếu như sau :
Cổ phiếu A : Rj = Rf + (Rm – Rf)βj = 7+(13,4 – 7)1,5=16.6%
Cổ phiếu Z :Rj = 11,48%
Ta cho rằng nhà đầu tư này kết hợp 2 loại cổ phiếu với tỷ trọng bằng nhau
trong danh mục đầu tư .Khi đó lợi nhuận kỳ vọng của danh mục đầu tư là
R = 0,5*16,6 + 0,5* 11,48 = 14,04%
Nếu áp dụng mô hình CAPM để xác định lợi nhuận kỳ vọng của danh mục đầu tư
, chúng ta có hệ số beta của danh mục đầu tư :Β =∑Wjβj
trong đó Wj và βj lần lượt là tỷ trọng và beta của cổ phiếu j trong danh mục đầu tư
. Như vậy theo ví dụ hệ số beta của danh mục đầu tư sẽ là
β =0,5*1,5 + 0,5*0,7 = 1,1
Áp dụng mô hình ta tính được lợi nhuận kỳ vọng của danh mục đầu tư là
R = Rf + ( Rm – Rf)β =14,04
Như vậy ta thấy 2 cách tính khác nhau nhưng cung 1 kết quả như nhau chứng tỏ
rằng mô hình CAPM vẫn có thể áp dụng cho 1 danh mục đầu tư nhiều cổ phiếu 5. Một
số phát hiện bất thường khi sử dụng mô hình CAPM
~ 23 ~