ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA VĂN HỌC
-----o0o-----
NGÔ THỊ THANH TÂM
NGHIÊN CỨU VĂN BIA HUYỆN ĐƠNG SƠN
TỈNH THANH HỐ
LUẬN VĂN THẠC SĨ HÁN NÔM
MÃ SỐ: 602240
Người hướng dẫn khoa học:
PGS.TS TRỊNH KHẮC MẠNH
Hà Nội - 2008
PHẦN MỞ ĐẦU
1.
Lí do lựa chọn đề tài
Huyện Đơng Sơn tỉnh Thanh Hố là một trong những địa phương cịn lưu giữ được
bia đá tương đối dồi dào về số lượng, phong phú về nội dung và nghệ thuật. Văn bia huyện
Đơng Sơn có một lịch sử lâu dài vào loại nhất nước. Bia sớm nhất được đặt tại xã Đông
Minh huyện Đông Sơn là Đại Tuỳ Cửu Chân quận Bảo An đạo tràng chi bi văn 大 隨 九 真
郡 寶 安 道 場 之 碑 文, khắc năm Đại Nghiệp thứ 14 (618) nhà Tuỳ. Qua đó, góp phần
quan trọng trong việc tìm hiểu niên đại và nghiên cứu các vấn đề văn học, lịch sử, địa lý, tơn
giáo tín ngưỡng của Việt Nam nói chung và huyện Đơng Sơn tỉnh Thanh Hố nói riêng.
Hơn nữa, văn bia huyện Đơng Sơn tỉnh Thanh Hố cho đến nay vẫn chưa thấy có một cơng
trình nghiên cứu nào mang tính chất bao quát, tổng hợp. Vì vậy, việc nghiên cứu văn bia
huyện Đơng Sơn tỉnh Thanh Hố là việc cần thiết và có ý nghĩa.
Do đó, chúng tơi chọn đề tài: Nghiên cứu văn bia huyện Đơng Sơn tỉnh Thanh
Hố làm đề tài Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn - chuyên ngành Hán Nôm.
2.
Lịch sử vấn đề nghiên cứu.
Từ lâu, có một số cuốn sách và bài tạp chí viết về văn bia huyện Đơng Sơn tỉnh
Thanh Hố. Tuy nhiên, những bài viết này chỉ nghiên cứu, giới thiệu mang tính độc lập cho
từng di tích lịch sử văn hố; hoặc là chỉ hướng tới mục đích cơng bố một số văn bia tiêu biểu
của huyện Đơng Sơn mà hồn tồn chưa có một cơng trình nào trình bày về văn bia huyện
Đơng Sơn tỉnh Thanh Hố một cách hệ thống.
3. Đối tượng nghiên cứu - Phạm vi nghiên cứu - Phương pháp nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu.
Là các thác bản văn bia của huyện Đơng Sơn tính theo địa lý hành chính hiện nay,
cụ thể là tất cả những bài văn, bài thơ được viết bằng chữ Hán, chữ Nơm chuyển tải đầy đủ
một nội dung hồn chỉnh được khắc trên bia đá.
Phạm vi nghiên cứu
Trong khuôn khổ của luận văn, chúng tôi tập trung tiến hành khảo sát 180 thác bản
văn bia, có đối chiếu với địa điểm đặt bia tại địa phương theo đơn vị hành chính hiện nay.
Nghiên cứu đặc điểm về phân bố không gian và thời gian; bước đầu tìm hiểu giá trị nội dung
về lịch sử, văn hoá xã hội của văn bia huyện Đơng Sơn tỉnh Thanh Hố,v.v...
Phương pháp nghiên cứu: Để hoàn thành Luận văn, chúng tôi vận dụng một số phương
pháp nghiên cứu cơ bản sau:
Phương pháp văn bản học.
Phương pháp thống kê định lượng.
Phương pháp tổng hợp.
Ngồi những phương pháp trên, chúng tơi cịn tiến hành phương pháp nghiên cứu
điền dã để khảo chứng, xác minh, và bổ sung tư liệu mới về văn bia huyện Đơng Sơn.
4.
Đóng mới của luận văn
- Bước đầu thống kê, khảo sát tương đối đầy đủ về mặt số lượng văn bia huyện
Đơng Sơn tỉnh Thanh Hố được sưu tầm trong những năm qua.
- Lần đầu tiên văn bia huyện Đơng Sơn được trình bày một cách có hệ thống và
tương đối đầy đủ về tình trạng và đặc điểm. Đồng thời, đưa ra một số nhận xét về giá trị cơ
bản của văn bia huyện Đông Sơn.
- Phần Phụ lục: lập Danh mục văn bia huyện Đông Sơn theo 8 tiêu chí; giới thiệu
một số bài văn bia tiêu biểu của huyện Đông Sơn.
5.
Bố cục của luận văn: Luận văn gồm có 4 phần:
Phần mở đầu
Phần nội dung: - Chương 1:Giới thiệu khái quát về huyện Đông Sơn.
- Chương 2: Đặc điểm văn bia huyện Đông Sơn.
- Chương 3: Tìm hiểu giá trị của văn bia huyện Đơng Sơn.
Phần kết luận và Phần Phục lục.
6.
Quy ước trình bày
PHẦN NỘI DUNG
Chương 1
GIỚI THIỆU KHÁI QUÁT VỀ HUYỆN ĐÔNG SƠN
1.1. Địa lý
1.1.1. Địa lý tự nhiên
Đông Sơn là một huyện đồng bằng của châu thổ Sông Mã, nằm ở trung tâm của
tỉnh Thanh Hố, cách 5 km về phía Tây thành phố. Đông Sơn là một vùng đất được kiến tạo
trên một địa hình tương đối ổn định; có đồng bằng mầu mỡ phì nhiêu; có hệ thống núi đồi
gị bãi phong phú; có nguồn tài ngun dồi dào nhất là núi đá vôi, đáp ứng cho nhu cầu xây
dựng các cơng trình vĩnh cửu, làm đá mỹ nghệ, đặc biệt là dùng làm bia, khánh, v.v…
1.1.2. Địa lý hành chính
1.1.2.1. Tên huyện và Lỵ sở huyện Đơng Sơn.
Trải qua các thời kỳ thay đổi về tên địa danh hành chính, đến năm 1928, huyện
Đơng Sơn được chính thức đổi gọi là phủ Đông Sơn. Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945,
tên huyện Đông Sơn vẫn giữ nguyên. Huyện lỵ Đơng Sơn đóng ở Rừng Thơng (nay là thị
trấn Rừng Thông).
1.1.2.2. Địa danh làng xã.
Huyện Đông Sơn là một trong những vùng đất cổ nhất của Thanh Hoá và cương
vực lúc đó rộng gấp nhiều lần hiện nay. “Kẻ” - một từ chỉ địa danh cổ nhất nước ta, cịn lưu
danh ở nhiều vùng ở Đơng Sơn, như: Kẻ Trổ, Kẻ Dậu, Kẻ Mơi, v.v... Tuy nhiên, theo tiến
trình phát triển của xã hội, những từ chỉ địa danh hành chính đó đã sự thay đổi. Sau khá
nhiều lần thay đổi tên huyện và các cuộc tách nhập giữa các xã của huyện Đông Sơn với các
xã ở cấp huyện khác, huyện Đông Sơn hiện bao gồm 19 xã và 2 thị trấn.
1.1.3. Dân cư và các ngành nghề truyền thống
1.1.3.1. Dân cư
Theo nghiên cứu khảo cổ, vùng đất Đơng Sơn là nơi phát hiện được nhiều dấu tích
cư trú, hoạt động vật chất của chủ nhân văn hoá Đơng Sơn. Qua đó, người ta cho rằng vùng
đất này khơng những chỉ là địa bàn gốc, mà cịn là một trung tâm kinh tế-chính trị quan
trọng của cư dân Đông Sơn trong buổi đầu dựng nước. Hiện nay, dân số của các xã trong
huyện khá đông đúc và tỉ lệ tăng nhanh.
1.1.3.2.Các ngành nghề truyền thống
- Nghề chế tác đồ đá, là một trong những nghề cổ truyền được bảo lưu và phát triển
lâu đời nhất ở Đông Sơn, nó được hình thành và phát triển trên cơ sở của một nguồn nguyên
liệu địa phương sẵn có (núi đá An Hoạch, thơn Nhuệ), và tiếp thu truyền thống kỹ thuật từ
xưa. Hiện nay, nghề đục đá ở Đông Sơn mà chủ yếu là ở làng Nhồi vẫn tiếp tục phát triển.
- Nghề gốm ở Đông Sơn phát triển dựa vào nguồn nguyên liệu đất sét tốt. Trung
tâm sản xuất đồ gốm là vùng Đức Thọ và một số nơi ven sông Chu, sông Mã. Các sản phẩm
gốm chủ yếu là đồ dân dụng. Ngày nay, nghề sản xuất đồ gốm - sành vẫn phát triển, nhất là
khu gốm Lò Chum được nhân dân khắp nơi biết đến.
- Nghề đúc đồng được tập trung chủ yếu ở làng Trà Đông, xã Thiệu Trung, Đơng
Sơn (này thuộc huyện Thiệu Hố tỉnh Thanh Hố). Sản phẩm ở Trà Đông không chỉ chủ yếu
là các đồ dùng dân dụng mà còn tạo ra những sản phẩm mang tính nghệ thuật cao, như các
loại: tượng, chng, con rồng; v.v….
1.2. Văn hoá - Xã hội.
1.2.1. Những phong tục tập qn, tín ngưỡng.
Người dân Đơng Sơn rất coi trọng phong tục thờ cúng tổ tiên. Ở Đông Sơn hiện có
khoảng hơn 60 nhà thờ họ và từ đường. Ngồi ra, cịn có tục bầu Hậu thần, Hậu Phật cho
một số người khơng có con kế nối đã cúng tiền cho làng xã để sửa chữa, xây dựng đình chùa
và các cơng trình cơng cộng của làng. Tín ngưỡng thờ thành hồng cũng là một phong tục
khơng thể thiếu trong các làng xã Đông Sơn. Tất cả phản ánh truyền thống đạo đức dân tộc
“uống nước nhớ nguồn” của con người Đơng Sơn nói riêng và của người Việt Nam nói
chung. Ngồi ra, ở Đơng Sơn cịn có một số tục lệ như: Tục kết chạ, tục khảo thí, tục khảo
rể, tục gánh nước đầu năm, tục đi chợ Chuộng (cịn có tên gọi là chợ Hồng), tục săn
Cuốc,v.v…tất cả đã tạo nên nét đặc trưng làm phong phú thêm văn hố Đơng Sơn.
1.2.2. Di tích lịch sử văn hố và lễ hội truyền thống.
Về di tích lịch sử văn hố, huyện Đơng Sơn hiện có 125 di tích lịch sử văn hố các
loại. Về lễ hội truyền thống, ngồi những lễ tiết giống như các miền quê khác ở Việt Nam, ở
huyện Đơng Sơn cịn có các lễ hội cổ truyền khá sôi nổi, tiêu biểu nhất là lễ hội Nghè Sâm
và lễ hội Cổ Bơn. Nhìn chung, Lễ hội truyền thống Đơng Sơn cùng với các trị diễn phán
ánh nhiều mặt trong cuộc sống hàng ngày cũng như tâm tư nguyện vọng của quần chúng
nhân dân. Có thể nói, lễ hội Nghè Sâm và Cổ Bơn là một nét đặc sắc trong lễ hội dân gian
vùng Đông Sơn.
1.3. Văn học - Giáo dục
1.3.1. Văn học dân gian và văn học viết.
1.3.1.1. Văn học dân gian.
Có thể thấy các thể loại văn học dân gian được lưu hành trong cả nước đều được
bắt gặp ở Đơng Sơn, đó là:
- Thơ ca dân gian: Phương ngơn, ngạn ngữ, tục ngữ là những nhận thức, kinh
nghiệm của cư dân Đông Sơn về thiên nhiên, lịch sử, xã hội và con người đã được sàng lọc
qua thời gian, là những câu tiêu biểu chỉ địa danh, sản vật và danh nhân q hương: Gió
đơng là chồng lúa chiêm, Hiu hiu gió bắc là duyên lúa mùa…..; Ca dao nơi đây không chỉ
đề cập đến tên đất, tên làng của vùng đất này mà còn cho ta thấy thấp thống trong đó đời
sống kinh tế, các hoạt động văn hố-xã hội của cư dân Đơng Sơn:“Làng Nhồi đục đá, nung
vôi, Hương Bào trồng cải cho người ta mua.”…..; Dân ca cũng là một hình thức sinh hoạt
“văn nghệ” phổ biến trong các làng xã, trong các lễ hội ở Đơng Sơn: “Phượng hồng chắp
cánh bay qua, Thấy cây tươi tốt liền xà xuống chơi”,v.v...
- Văn xuôi dân gian: truyện kể dân gian, bao gồm các loại chủ yếu như: thần thoại,
cổ tích, truyện cười, truyện ngụ ngơn,…mà tiêu biểu là truyện: Núi Quảy, sơng Cày; Sự tích
núi Vọng phu; Trương Ba đánh cờ; v.v…
- Trò diễn dân gian: Là nét đặc sắc trong kho tàng văn hoá dân gian truyền thống
Đơng Sơn. Trung tâm trị diễn nổi tiếng là Lễ hội Nghè Sâm và lễ hội Cổ Bôn, gồm có các
trị diễn tiêu biểu sau: trị Xiêm Thành, trị múa đèn, trị Tơ Vũ (cịn gọi là trị Tơ tượng đúc
chng), trị Đấu cờ người, v.v…
1.3.1.2. Văn học viết.
Về sử học. Ở Đơng Sơn có sử gia Lê Hy, là một trong những người có nhiều đóng
góp quan trọng cho Quốc sử quán Việt Nam. Về văn bia, theo thống kê hiện có, Đơng Sơn
có 180 văn bia. Văn bia huyện Đông Sơn phong phú về số lượng, đa dạng về nội dung và
nghệ thuật. Đây còn là nơi có nhiều tấm cổ vào loại nhất nước, góp phần tìm hiểu các vấn đề
về lịch sử, địa lý, phong tục tập qn, tín ngưỡng,… của huyện Đơng Sơn tỉnh Thanh Hố.
Về thơ, huyện Đơng Sơn cũng những tác phẩm thơ đề vịnh thiên nhiên của thi nhân Đông
Sơn, như Nguyễn Mộng Tuân vịnh mai lan cúc trúc,…nhưng nhìn chung là không nhiều
lắm.
Văn học Đông Sơn tuy không phát triển đều đặn, liên tục và đồ sộ nhưng với
những gì đã tạo dựng được, văn học Đông Sơn cũng đã đóng góp phần nào làm phong phú
thêm cho nền văn học nước nhà.
1.3.2. Giáo dục thời phong kiến.
Nền giáo dục ở Đơng Sơn được hình thành khá sớm và khơng ngừng phát triển, trở
thành một trong những trung tâm giáo dục và có truyền thống hiếu học nổi tiếng của Thanh
Hoá. Về tổ chức trường lớp và chế độ học tập cũng giống như các địa phương khác trong cả
nước thời bấy giờ. Tuy nhiên, để cổ vũ cho việc học tập, hầu hết các làng xã trong huyện
Đơng Sơn đều có Văn chỉ, có hội Tư văn, có ruộng khuyến học… và hầu hết các Hương ước
của các làng đều có mục quy định về việc học. Số lượng người thi đỗ đại khoa và đỗ Hương
cống trong các kỳ thi dưới triều Trần, Hồ, Lê và Nguyễn ở huyện Đơng Sơn có khá nhiều.
Trong đó, xã có số người đỗ đạt nhiều nhất là xã Đơng Thanh, xã Đơng Ninh,v.v…
“Thi Hoằng Hố, khố Đơng Sơn” là sự thừa nhận của nhiều thế hệ trong cả nước
nói chung và Thanh Hố nói riêng về thành tích học hành khoa bảng của huyện Đơng Sơn
và Hoằng Hố trong thời phong kiến.
1.3.3. Một số danh nhân tiêu biểu
- Nguyễn Mộng Tuân (? - ?).
- Nguyễn Chích (1383 - 1448).
- Nguyễn Nhữ Soạn (?-1448).
- Nguyễn Văn Nghi (1525 - 1595).
- Nguyễn Khải (? - 1632).
- Lê Hy (1646 - 1702).
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1
Trong chương 1 này, chúng tôi đã giới thiệu khái quát về huyện Đông Sơn trên các
phương diện địa lý, văn hoá - xã hội, văn học, giáo dục. Từ đó, chúng ta sẽ có một cái nhìn
tổng quát về đặc điểm, sự phát triển và tầm ảnh hưởng của huyện Đơng Sơn trong tiến trình
vận động chung tỉnh Thanh Hoá và của cả đất nước. Từ cái nhìn tổng qt đó, chúng ta có
thể rút ra một số đặc điểm về huyện Đông Sơn như sau:
Về mặt địa lý. Đông Sơn là một huyện đồng bằng của châu thổ Sông Mã, nằm ở
trung tâm của tỉnh Thanh Hố, cách 5 km về phía Tây thành phố, là vùng đất được kiến tạo
trên một địa hình tương đối ổn định, đất đai mầu mỡ phì nhiêu, hệ thống núi đồi phong phú.
Huyện Đơng Sơn hiện gồm có 19 xã và 2 Thị trấn, huyện lỵ Đông Sơn đóng ở Thị trấn
Rừng Thơng. Đơng Sơn có nhiều ngành nghề truyền thống được nhiều nơi biết đến, như các
nghề chế tác đá, gốm, đúc đồng,…
Về mặt Văn hoá - Xã hội. Đông Sơn là một vùng đất cổ nên có nhiều di tích lịch sử
văn hố, với 125 di tích. Nơi đây cịn lưu truyền và bảo lưu được nhiều phong tục tập quán,
tín ngưỡng, lễ hội truyền thống cổ mang yếu tố tích cực, thể hiện các thuần phong mỹ tục.
Về mặt Văn học - Giáo dục. Đông Sơn là có một kho tàng Văn học dân gian phong
phú với nhiều thể loại, Văn học viết có nhiều thành tựu. Giáo dục Đông Sơn luôn được
chăm lo, đề cao và là một trong những vùng đất học nổi tiếng của xứ Thanh với nhiều bậc
danh nho, khoa bảng đỗ đạt.
CHƯƠNG 2
ĐẶC ĐIỂM VĂN BIA HUYỆN ĐÔNG SƠN
2.1
Vài nét về văn bia
Truyền thống dựng bia ở các nước Phương Đông có từ rất sớm, khởi đầu từ Trung
Quốc, sau đó lan rộng ra những nước xung quanh như Nhật Bản, Triều Tiên và Việt Nam.
Theo những ghi chép của các nhà nghiên cứu kim thạch, văn bia ở Trung Quốc xuất hiện từ
thời Hậu Hán. Ở các nước lân cận Trung Quốc như Triều Tiên, Nhật Bản cũng có những
phát hiện ra một số bi văn có niên đại khá sớm, vào khoảng thế kỷ thứ V, VI. Ở Việt Nam,
tấm bia cổ nhất hiện được biết đến có niên đại vào thế kỷ thứ VII. Có thể thấy, tuy văn bia
Việt Nam xuất hiện muộn hơn các nước đồng văn trong khu vực, nhưng ngay từ thời kỳ độc
lập trở đi, văn bia Việt Nam đã bắt nhịp vào khung cảnh văn hoá Việt Nam và ngày càng
phát triển nở rộ.
2.1.1. Quá trình phát triển của văn bia Việt Nam
Cho đến nay, tấm bia được biết có niên đại sớm nhất ở Việt Nam là Đại Tuỳ Cửu
Chân quận Bảo An đạo tràng chi bi văn 大 隨 九 真 郡 寶 安 道 場 之 碑 文, niên hiệu Đại
Nghiệp thứ 14 (618), thuộc xã Đông Minh, huyện Đơng Sơn tỉnh Thanh Hố. Tiếp đó là
những cột đá khắc kinh phật ở Hoa Lư (tỉnh Ninh Bình) thời nhà Đinh (968-979). Từ thời
Lý-Trần trở đi, lệ dựng bia đã được phổ biến, tuy nhiên cho đến nay, số lượng văn bia tìm
được cịn khá khiêm tốn. Đến thời Lê sơ (1428-1527), hiện còn hơn 70 văn bia(1). Riêng từ
triều Lê Trung hưng đến triều Nguyễn, số lượng bia hiện cịn đến ngày nay là khá lớn. Về
mặt khơng gian, văn bia Việt Nam có mặt từ Bắc vào Nam, mà tập trung với mật độ dày đặc
là ở các tỉnh thuộc đồng bằng Bắc Bộ.
Có thể nói, văn bia Việt Nam hình thành cùng với sự ảnh hưởng của văn hoá Hán.
Tuy nhiên, văn bia Việt Nam càng về sau, càng đi theo con đường phát triển riêng và bám rễ
vào trong đời sống văn hoá Việt, đồng hành với văn hoá bản địa và ngày một gắn bó mật
thiết với đời sống văn hố ở các làng Việt cổ truyền.
2.1.2. Hiện trạng văn bia Đông Sơn.
Qua quá trình đi điền dã tại các xã thơn thuộc huyện Đông Sơn, chúng tôi nhận
thấy, văn bia huyện Đông Sơn, bên cạnh những tấm bia được bảo quản tốt còn có khá nhiều
tấm bia hiện đang đứng trước thực trạng xuống cấp nghiêm trọng và không mấy được quan
tâm chú ý ở một số nơi trong các xã thôn của huyện Đơng Sơn. Có nhiều tấm bia bị vùi lấp
1
Theo điều tra của nhóm cơng trình Văn khắc Hán Nơm (thời Lê sơ), Viện Nghiên cứu Hán Nôm.
trong cỏ dại, có bia nằm vạ vật trên con đường qua lại; có bia bị dùng để bắc cầu mặc cho
trâu, bị, người, xe dẫm đạp; có bia bị đất đá đổ che lấp (bia Thạch Khê khoa hoạn bi 石 溪
科 宦 碑, nay thuộc Đội 1 xã Đơng Khê); có những tấm bia đứng trơ vơ giữa nắng mưa, trên
các cánh đồng, bãi hoang thuộc các xã trong huyện Đông Sơn, v.v… Những thực trạng văn
bia ở trên đã làm cho công tác sưu tầm và nghiên cứu văn bia huyện Đơng Sơn gặp nhiều
khó khăn. Do đó, văn bia huyện Đơng Sơn cần được quan tâm chú ý gìn giữ.
2.2.
Khảo sát văn bia huyện Đơng Sơn.
Huyện Đơng Sơn hiện cịn bảo tồn được hơn 125 di tích lịch sử văn hố, trong đó
có đến hơn 100 di tích bao gồm cả đình, chùa, từ đường, phủ miếu, văn chỉ, lăng mộ,…
Trong số di tích này, theo điều tra của chúng tơi nhận thấy cịn lưu giữ được khoảng 180 bia
đá.
2.2.1. Sự phân bố của văn bia huyện Đông Sơn
Số văn bia huyện Đông Sơn tỉnh Thanh Hố hiện chúng tơi sưu tập được(2) là 180
văn bia. Sau đây, chúng tôi xin khảo sát sự phân bố của 180 văn bia huyện Đơng Sơn theo
hai tiêu chí: không gian và thời gian.
2.2.1.1.
Phân bố theo không gian
Trong phần khảo sát này, không gian tồn tại của các văn bia huyện Đơng Sơn tỉnh
Thanh Hố sẽ được chúng tơi quy đổi theo các đơn vị hành chính hiện nay(3). Theo tiêu chí
trên, các văn bia được khảo sát tồn tại trên địa bàn của 15 đơn vị xã, 43 đơn vị thơn xóm, 8
loại di tích.
Căn cứ vào Bảng 1 (Sự phân bố bia huyện Đông Sơn theo không gian) chúng ta
nhận thấy:
Về mặt đơn vị hành chính:
Trong 15 xã tồn tại văn bia của huyện Đông Sơn tỉnh Thanh Hố, nhiều nhất là xã
Đơng Hưng, có 66/180 bia, chiếm tới 36,67%. Tiếp đến là xã Đơng Tân có 29/180 bia,
chiếm 16,11%. Một số xã chỉ có 1 bia (0,56%) bao gồm các xã: Đông Anh, Đông Minh và
Đông Tiến. Qua các con số về tỉ lệ văn bia ở các xã, thôn của huyện Đông Sơn ở trên, đã
phản ánh rõ ưu thế của một vùng có nguồn nguyên liệu đá dồi dào, sẵn có, nghề chế tác đá
phát triển lâu đời và bàn tay tài hoa của người thợ đá núi Nhồi là điều kiện thuận lợi cho
việc dựng bia đá với số lượng tương đối nhiều ở xã Đông Hưng và các xã lân cận khác.
2
3
Con số văn bia huyện Đơng Sơn có thể chưa dừng ở đây
Căn cứ vào Địa chí huyện Đơng Sơn, tỉnh Thanh Hoá, Nxb KHXH, 2006, tr.25-52 và các tài liệu khác.
Về mặt loại hình di tích:
Dựa vào Bảng 2 (Sự phân bố bia theo loại hình di tích), chúng tơi thấy, văn bia
huyện Đơng Sơn phân theo loại hình di tích thì chùa có số lượng bia nhiều nhất là 58
bia/180 (chiếm tới 32,22%), tiếp đến là văn chỉ-vũ chỉ có 32 bia/180 (chiếm 17,77%), nghè
có số văn bia ít nhất là 4 bia/180 (chiếm 2,22%). Qua các tỉ lệ văn bia phân theo loại hình di
tích đã phản ánh rõ không gian tồn tại của văn bia huyện Đông Sơn gắn liền với ngơi chùa
và vai trị của nhà chùa đối với sự phát triển và lưu hành bia đá. Đồng thời, còn cho chúng ta
nhận ra Phật giáo đã có sức thu hút số đơng dân chúng, Phật giáo đã ngấm sâu vào đời sống
tình cảm cũng như tín ngưỡng của người dân Đơng Sơn và khẳng định được vị trí cao hơn
hẳn so với các tơn giáo khác. Chùa cũng là di tích có văn bia được khắc khá sớm.
2.2.1.2 Phân bố theo thời gian
Qua khảo sát, chúng tơi nhận thấy tình hình cụ thể như sau: có 149 văn bia ghi rõ
niên đại, 31 bia khơng ghi rõ niên đại. Trong tình đó, sự phân bố của 180 bia huyện Đông
Sơn sẽ được chúng tôi phân tích theo các tiêu chí sau: thế kỷ, triều đại và khơng niên đại.
Chúng tơi dựa vào 3 tiêu chí chủ yếu này để lập bảng thống kê (Bảng 3. Sự phân bố theo
thời gian).
Qua Bảng 3, chúng ta nhận thấy, trong số văn bia huyện Đơng Sơn, bia có niên đại
sớm nhất là Đại Nghiệp thứ 14 (618), muộn nhất là năm Bính Tuất (1946). Văn bia tập trung
nhất vào triều Nguyễn (có 109 bia/180, chiếm 60,55%), mà số nhiều là văn bia thế kỷ XIX
với 71 bia/180, chiếm tới 39,44%. Có ít văn bia nhất là thời Tuỳ, Lý (chỉ có 1 văn bia).
Nhìn chung, văn bia huyện Đơng Sơn có số lượng phát triển tăng dần và liên tục
theo thời gian từ thế kỷ VII đến thế kỷ XX. Tuy nhiên, nếu khơng tính các trường hợp
khơng rõ niên đại, hoặc khơng biết rõ chính xác thế kỷ hình thành, thì sự phát triển giữa các
thời kỳ là chênh lệch tương đối lớn. Đây cũng là cục diện phát triển chung của văn bia Việt
Nam. Nguyên nhân là do quy luật khách quan, hoặc cũng do tính bảo lưu theo thời gian
kém. Những con số và kết quả mà chúng tôi thu được ở đây chỉ mang tính tương đối, nhưng
nó cũng đảm bảo tính đại diện.
Qua phân tích sự phân bố văn bia huyện Đơng Sơn Thanh Hố về mặt khơng gian
và thời gian chúng ta có thể thấy, văn bia huyện Đơng Sơn phân bố không đồng đều theo
không gian và thời gian. Sự phát triển của nó về mặt khơng gian tập trung chủ yếu ở vùng có
nguồn nguyên liệu đá dồi dào và nghề chế tác đá phát triển lâu đời, gắn liền với di tích chùa
và hang động trong cụm di tích chùa. Về mặt thời gian, văn bia huyện Đông Sơn phần lớn
có niên đại vào đầu thế kỷ XIX và XX. Số lượng văn bia ở các triều đại và các thế kỷ khác
nhau chênh lệch khá lớn. Sự tăng trưởng của nó là hợp quy luật, nhưng chỉ số về độ tăng
trưởng giữa các thời kỳ gần nhau là bất thường. Điều đó phản ánh tính chất tự phát, và hồn
cảnh lịch sử - xã hội của văn bia huyện Đông Sơn.
2.3.
Một số đặc điểm về văn bản
Đa số các trường hợp văn bia huyện Đông Sơn mà chúng tôi khảo sát dưới đây tồn
tại dưới dạng thác bản văn bia. Văn bản được in rập trên thác bản đa phần là chữ viết chân
phương và cịn rõ nét. Ngồi ra, chúng tơi cịn sưu tầm và in rập được một số văn bia tại địa
phương. Những phân tích của chúng tơi ở sau đây sẽ khắc họa rõ nét hơn đặc điểm của văn
bản văn bia huyện Đông Sơn.
2.3.1. Tác giả biên soạn văn bia.
Trong khuôn khổ của Luận văn, chúng tôi dành sự quan tâm chủ yếu vào người
sáng tác ra văn bản (tác giả)-một nhân tố quan trọng trong việc dựng bia, cịn về những
thành phần khác khơng phải tác giả bài văn bia ở đây chúng tôi chưa có điều kiện đi sâu. Do
đó, chúng tơi chỉ tiến hành khảo sát về tác giả của bài văn bia huyện Đông Sơn.
Theo khảo sát, chúng tôi thấy rằng, trong 180 văn bia huyện Đơng Sơn hiện sưu
tầm được thì có tới 107 văn bia khơng rõ tên tác giả biên soạn bài văn bia. Số còn lại, 73 văn
bia có đề rõ ràng họ và tên tác giả bài văn bia, trong đó có 61 tác giả tham gia biên soạn văn
bia. Vậy nên, chúng tơi chỉ có thể phân loại những văn bia có ghi rõ tên tác giả biên soạn mà
thơi. Nhìn chung, tác giả của các bài văn bia huyện Đông Sơn bao gồm nhiều thành phần
khác nhau như: quan lại, người đỗ đạt và cả người địa phương,… Để có cái nhìn cụ thể về
thành phần các tác biên soạn bài văn bia huyện Đông Sơn, chúng tôi lập Bảng 5 (Thành
phần tác giả biên soạn văn bia huyện Đông Sơn)
Dựa vào Bảng 5, chúng tôi nhận thấy, thành phần tác giả tham gia biên soạn bài
văn bia là quan lại chiếm tỉ lệ khá cao với 47,95% (có ghi đỗ đạt và khơng ghi đỗ đạt). Tiếp
đó, văn bia huyện Đơng Sơn cịn có một số lượng văn bia không nhỏ do các Cử nhân, Tú tài
tham gia biên soạn, nhưng không thấy ghi rõ là có ra làm quan hay khơng, chiếm tới 23,28%
trong tổng số bài văn bia có ghi rõ các tác giả biên soạn. Qua đây, chúng ta thấy rằng tác giả
của các bài văn bia huyện Đông Sơn phần nhiều là những người có học thức, trong đó số
lượng khơng nhỏ là quan lại có chức vị và đỗ đạt cao. Tác giả biên soạn bài văn bia huyện
Đông Sơn chiếm tỉ lệ thấp nhất là Giám sinh, Sinh đồ là 1,37%. Thêm vào đó, cịn có 5,48%
số lượng văn bia do những tác giả không rõ lai lịch tham gia biên soạn. Do không rõ địa vị
xã hội cũng như tiểu sử tác giả nên chúng tôi tạm thời đưa vào nhóm 8 (các tác giả khơng rõ
lai lịch).
Từ kết quả thống kê ở trên, chúng ta có thể thấy văn bia Đông Sơn phần lớn là sáng
tác của những người khoa bảng đỗ đạt, quan lại có chức vị cao, đồng thời, cịn có sự tham
gia sáng tác của những người bình dân.
2.3.2. Kích cỡ bia và độ dài bài văn bia huyện Đơng Sơn.
Trong q trình tính tốn kích cỡ các bia do chủ yếu dựa vào thác bản nên chúng
tơi tiến hành khảo sát kích cỡ bia theo kích thước diện tích bề mặt chính diện của nó, đó là
chiều rộng x chiều cao, đồng thời tiến hành phân chia kích cỡ bằng đơn vị 1000cm2. Theo
tiêu chí như vậy thì chúng ta có 28 loại kích thước bia. Kích thước bia liên tục tăng từ dưới
1000cm2 (=0.1m2) đến 34720cm2 (=3,47m2). Diện tích bề mặt trung bình của các bia là
9332,93cm. Cá biệt có một bia diện tích bề mặt lớn nhất là 41175cm2 (=4,12m2).
Dựa vào Bảng 6 (Kích thước bia huyện Đơng Sơn tỉnh Thanh Hố), chúng ta nhận
thấy, bia có kích thước dưới 1000 chỉ có 3 bia, trong đó nhỏ nhất là 25x37cm (=925cm2).
Các bia có kích thước trên 16.000cm2 chiếm số lượng rất ít, lẻ tẻ mỗi loại chỉ có từ 1 đến 3
chiếc. Song, những bia có kích thước từ 1000-8000cm2 chiếm tới 50%, từ 8000-12000cm2
cũng chiếm đến 27,2%. Những bia có kích thước từ 12000-18000 chiếm 12,78%, và bia có
kích thước từ 18000-35.000 chỉ chiếm 7,79%. Qua các con số nêu trên, có thể thấy, bia
huyện Đơng Sơn đa phần có kích cỡ tương đối lớn, đồng thời phản ánh một thực tế rằng đây
là vùng có ưu thế về nguồn nguyên liệu đá dồi dào, sẵn có. Tuy nhiên, những bia có kích cỡ
lớn tăng dần thì lại chiếm tỉ lệ nhỏ dần.
Có thể nói, kích cỡ bia và độ dài bài văn bia là hai yếu tố ln đi liền với nhau.
Nhìn chung, kích cỡ bia to thì độ dài bài văn bia đi kèm cũng lớn. Để cụ thể hơn, chúng tôi
đã tiến hành khảo sát về độ dài của các bài văn bia huyện Đông Sơn được thể hiện trong
Bảng 7 (Độ dài bài văn bia huyện Đông Sơn). Qua thống kê tại Bảng 7, chúng tôi nhận thấy,
độ dài bài văn bia huyện Đông Sơn tương đối dài. Bài văn bia dài nhất là 3850 chữ, ở thác
bản có ký hiệu Thư viện N0 17751-17753, ở chùa thôn Phù Lưu xã Đông Tân huyện Đơng
Sơn tỉnh Thanh Hố [139]. Bài văn bia ngắn nhất là 11 chữ ở thác bản có ký hiệu Thư viện
là N0 45296B,ở cánh đồng xã Đông Phú huyện Đông Sơn tỉnh Thanh Hố [179]. Trung bình
có khoảng 820 chữ trên một văn bản.
2.3.3. Đặc điểm trang trí trên bia huyện Đông Sơn
Trong số 180 văn bia huyện Đông Sơn hiện sưu tập được, chúng tơi tập trung sự
phân tích của mình vào những bia mà ở đó có các hoa văn trang trí trên trán bia, diềm bia và
chân bia. Cụ thể là ở huyện Đơng Sơn có 93 bia/180 được chạm khắc hoa văn trang trí, rải
rác từ đời Tuỳ qua đời Lý, Lê Sơ, Lê Trung Hưng đến Nguyễn. Số bia cịn lại đều là khơng
có hoa văn trang trí. Để có cái nhìn tổng quát về đặc điểm hoa văn trang trí từng thời kỳ trên
bia huyện Đơng Sơn tỉnh Thanh Hố, chúng tơi tiến hành tìm hiểu, khái quát những nét đặc
thù nhất để khu biệt chúng trong từng giai đoạn. Trong đó cái mốc lớn cần khu biệt là bia
thời Lý, bia thời Lê sơ và Lê Trung hưng, bia thời Nguyễn.
Hoa văn trang trí trên bia thời Lý
Trong số 93 văn bia của huyện Đơng Sơn có hoa văn trang trí, chỉ thấy có duy nhất
1 bia mang niên hiệu thời Lý. Đó là bia An Hoạch sơn Báo Ân tự bi ký 安 獲 山報 恩 寺 碑
記 [2], niên hiệu năm Hội Phong 9 (1100). Trán bia chạm rồng hai bên, rồng trên văn bia
thời Lý thân rắn dài, khơng có vẩy, có nhiều khúc uốn cong dạng “thắt miệng túi”; Diềm
trán bia và hai diềm bên chạm hoa cúc hình sin, ở mỗi khúc uốn lại điểm một bơng cúc;
Diềm chân bia chạm hình sóng nước. Tuy chỉ với một văn bia nhưng phần nào đã giúp
chúng ta hình dung được nét đặc trưng trong phong cách hoa trí hoa văn trên bia đá của thời
Lý.
Hoa văn trang trí trên bia Lê sơ
Bia thời Lê sơ có hình dáng to, bề thế, trán bia rộng, trang trí chủ yếu hình rồng.
Trán bia chạm rồng hai bên, nét mảnh, đuôi dài. Tên bia được khắc bằng chữ Triện ở ngay
chính giữ trán bia; Diềm bia chạm hình hoa lá soắn cách điệu; Chân bia chạm hình sóng
nước, lớp dưới lượn đều hình sin, lớp trên có dáng thn nhọn, cân đối như “hình núi”.
Phong cách trang trí chân bia này ít gặp ở các giai đoạn sau. Nhìn chung, nét hoa văn trang
trí trên bia thời Lê sơ vẫn cịn mang nhiều dấu ấn của phong cách trang trí trên bia của thời
Lý - Trần.
Hoa văn trang trí trên bia thời Lê Trung hưng
Phần trán bia của các bia thời kỳ này rất phổ biến với đề đài lưỡng long chầu nhật,
chạm nét mác thon, đuôi rồng dài. Cùng với rồng là phượng; Diềm bia có nét khắc nổi đậm,
có hoa dây uốn lượn hình sin, nhưng trên diềm bia thế kỉ XVII, XVIII đã có thêm nhiều họa
tiết trang trí khác khá phong phú như hoa lá, chim, thú... và chủ yếu trang trí bằng hoa văn
xoắn dạng “tay mướp”. Đến thế kỷ XVIII, thời kỳ đầu vẫn mang phong cách bia thế kỷ
XVII, sang nửa sau thế kỷ XVIII có xu hướng cách điệu, thốt ly thực tế. Bia trụ xuất hiện,
có mũ hình chóp. Mặt hổ phù và hoa văn chữ thọ khá phổ biến; Chân bia thời kỳ này chủ
yếu vẫn là chạm hoa văn hình sóng nước.
Hoa văn trang trí trên bia Bia thời Nguyễn
Các tấm bia thế kỷ XIX, XX trên trán bia đều trang trí theo một chủ đề truyền
thống là rồng, mặt trời (mặt trăng). Tuy nhiên, ở giai đoạn đầu, rồng lúc này được cách điệu
cao, đi xoắn trịn. Đặc biệt đến thời kỳ này, dạng bia có mũ hình chóp, trán chạm hổ phù
đã xuất hiện với mật độ dày hơn; Diềm bia chạm hình hoa lá cách điệu, nét mập. Đến giai
đoạn sau, hoa dây khơng cịn nữa mà chỉ gồm những lá nét to mập nối tiếp nhau; Hoa văn
trang trí ở chân bia thời kỳ này khơng được mấy chú ý, nếu có, chủ yếu là chạm hình hoa lá,
cánh sen. Với 45 bia/109 bia thuộc vào thời Nguyễn có hoa văn trang trí, đã cho chúng ta
nhận thấy rằng hoa văn trang trí trên bia thời Nguyễn đã ít được quan tâm hơn.
2.3.4. Bố cục các bài văn bia huyện Đông Sơn
Theo khảo sát văn bia huyện Đơng Sơn, chúng tơi nhận thấy:
- Có 32 văn bia/180, chiếm 17,78% được thể hiện theo Mơ hình 1:
Bài văn
Tên bia
Bài minh
Lạc khoản
Kê người công đức
hoặc ruộng đất (nếu có)
- Có 139 văn bia/180 chiếm 77, 22% được thể hiện theo Mơ hình 2:
Tên bia
(có hoặc
khơng)
Bài
văn
Lạc khoản
(có hoặc
khơng)
Kê người cơng đức
hoặc ruộng đất (nếu có)
Điều này, cho chúng ta nhận thấy rằng, các bài văn bia huyện Đông Sơn chủ yếu
được viết theo thể văn xi. Ngồi ra, văn bia huyện Đơng Sơn cịn được thể hiện theo Mơ
hình là các bài thơ khắc trên bia ma nhai, trong đó chỉ có một yếu tố cố định đó là bài thơ.
Trong tổng thể bố cục trên, tiêu đề bia là một yếu tố ít thiếu vắng. Tiêu đề bia
thường được khắc nổi và đặt ở đường ranh giới giữa trán bia và thân bia. Ở văn bia huyện
Đông Sơn đa phần có dịng tiêu đề được khắc nổi ở đường ranh giới giữa trán bia và thân
bia. Ngoài ra, tiêu đề bài văn bia huyện Đơng Sơn cịn được khắc ở dòng đầu tiên ở lòng bia,
nơi chứa nội dung văn bản, và có khi, có rất nhiều bia khơng có tiêu đề.
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2
Trong chương 2 này, chúng tôi đã trình bày tổng qt về văn bia Việt Nam nói
chung và văn bia huyện Đơng Sơn nói riêng. Qua đó, chúng ta có thể đi đến một cái nhìn
tổng quan về văn bia huyện Đơng Sơn một cách có cơ sở khoa học. Từ cái nhìn tổng quan
này, chúng ta có thể rút ra hiện trạng chung của văn bia huyện Đông Sơn:
Về hiện trạng: một số văn bia huyện Đông Sơn hiện đang đứng trước thực trạng
xuống cấp nghiêm trọng và không mấy được quan tâm chú ý ở một số nơi trong các xã của
huyện Đông Sơn.
Về phân bố: Theo không gian, văn bia huyện Đông Sơn chủ yếu tập trung ở các xã
có nguồn nguyên liệu đá dồi dào, sẵn có của địa phương, có nghề làm đồ đá phát triển lâu
đời. Theo thời gian, huyện Đông Sơn có 1 văn bia mang niên đại sớm nhất vào đời Tuỳ (thế
kỷ VII), và nhiều nhất là thời Nguyễn (thế kỷ XIX-XX) có 109 văn bia. Như vậy, số lượng
văn bia huyện Đơng Sơn có niên đại muộn là chủ yếu trong tổng số văn bia huyện Đông Sơn
mà chúng tôi sưu tầm được.
Về đặc điểm văn bản: Văn bản bia huyện Đông Sơn được khắc chân phương, rõ
nét. Văn bia huyện Đơng Sơn có kích cỡ tương đối lớn, với kích thước trung bình là
9332,9cm2. Độ dài bài văn bia chủ yếu tập trung ở khoảng dưới 100-800 chữ. Đề tài trang trí
trên các bia có trang trí chủ yếu là rồng, mặt trời, hoa dây hình sin, hình sóng nước. Bố cục
bài văn bia khơng ổn định theo mơ hình chung. Trong số thành phần các tác giả biên soạn
bài văn bia huyện Đông Sơn, chủ yếu là quan lại (chiếm 47,95%).
CHƯƠNG 3
TÌM HIỂU GIÁ TRỊ CỦA VĂN BIA
HUYỆN ĐƠNG SƠN
Qua khảo sát văn bia huyện Đơng Sơn tỉnh Thanh Hố, cho chúng ta thấy những
giá trị nhiều mặt của loại hình văn bản này. Số lượng văn bia huyện Đơng Sơn tuy khơng
lớn nhưng có thể góp phần cho việc nghiên cứu trên các phương diện: lịch sử, phong tục tập
qn tín ngưỡng, tình hình phát triển kinh tế, cũng như tinh thần giáo dục và truyền thống
hiếu học… trên vùng đất Đơng Sơn nói riêng và tỉnh Thanh Hố nói chung. Để hiểu sâu sắc
hơn các giá trị của văn bia Đơng Sơn, chúng tơi sẽ trình bầy cụ thể các giá trị sau:
3.1. Góp phần nghiên cứu lịch sử địa phương.
3.1.1. Văn bia huyện Đơng Sơn góp phần nghiên cứu về các nhân vật lịch sử
Trong số văn bia của huyện Đơng Sơn tỉnh Thanh Hố có khá nhiều văn bia ghi
chép về tiểu sử, sự nghiệp của các bậc danh nho khoa bảng, đỗ đạt cao. Có thể nói đây là
nguồn tư liệu có giá trị giúp bổ sung các thông tin về thân thế sự nghiệp của các nhân vật
lịch sử.
Tiểu biểu như văn bia An Hoạch sơn Báo Ân tự bi ký 安 獲 山報 恩 寺 碑 記 [2],
niên đại Hội Phong 9 (1100) đời Lý đã ghi chép khá nhiều chi tiết về tiểu sử sự nghiệp và
cơng tích của Thái Lý Thường Kiệt. Văn bia Quốc triều tá mệnh công thần chi bi 國 朝
佐 命 功 臣 之 碑 [4], niên đại Thái Hoà thứ 8 (1450) đời vua Lê Nhân Tông lại cho chúng
ta biết về tiểu sử sự nghiệp, cơng lao to lớn của Nguyễn Chích, một danh tướng trong khởi
nghĩa Lam Sơn, một đại thần dưới triều Lê sơ với nhiều cơng tích rực rỡ. Tiếp đến là văn bia
Phúc Khê tướng công từ 福 溪 相 公 祠 [8], niên đại Hoằng Định thứ 18 (1618) đời Lê. Văn
bia ghi về gia đình, dịng họ, thân thế sự nghiệp của Phúc Khê tướng công Nguyễn Văn
Nghi, v.v…
Từ những trình bầy tiêu biểu trên đây, có thể thấy văn bia huyện Đông Sơn là nguồn tư
liệu quý giá và thiết thực, tạo điều kiện và cơ sở cho những người nghiên cứu đời sau có thể tìm
hiểu về các nhân vật lịch sử một cách đầy đủ, xác thực hơn.
3.1.2. Văn bia huyện Đơng Sơn góp phần tìm hiểu sự thay đổi diên cách địa
phương.
Trong văn bia Thượng thư lệnh công ký 尚 書 令 公 記 [11], niên đại Vĩnh Tộ thứ
11 (1629) đời Lê Thần Tông, được đặt tại đền thờ Phúc Khê tướng công Nguyễn Văn Nghi,
thôn Kim Bôi xã Đông Thanh huyện Đông Sơn đã cung cấp thông tin thiết thực trong việc
xác định sự thay đổi tên địa danh là xã Phúc Thọ hay Phúc Triền chỉ là một, v.v…
3.1.3. Văn bia huyện Đông Sơn là tư liệu quan trọng để nghiên cứu lịch sử.
Huyện Đông Sơn tỉnh Thanh Hố có 1 tấm bia được xếp vào loại cổ nhất nước ta là
văn bia Đại Tùy Cửu Chân quận Bảo An đạo tràng chi bi văn 大 隋 九 真 郡 寶 安 道 場 之
碑 文[1], niên hiệu Đại Nghiệp thứ 14. Bia 1 mặt, toàn văn chữ Hán, nhưng đã bị mòn mờ
gần hết chữ, chỉ còn đọc được dòng đầu đề bài bia, tên người soạn bài văn và dòng niên đại
khắc ở cuối bia ghi. Tuy nhiên với hai chữ đạo tràng (道 場) của đầu đề bài văn bia cũng đã
cho chúng ta những thông tin về sự tồn tại của Phật giáo và Đạo giáo ở Việt Nam thời bấy
giờ, vì đạo tràng là nơi dạy kinh và cầu cúng của Phật giáo và Đạo giáo.
Trong thời Lý, văn bia huyện Đông Sơn cũng có một bia là tài liệu quan trọng có
giá trị nghiên cứu lịch sử Phật giáo nước nhà, cũng như cả lịch sử tư tưởng Việt Nam. Đó là
văn bia An Hoạch sơn Báo Ân tự bi kí 安 獲 山 報 恩 寺 碑 記 [2], niên đại Hội Phong 9
(1100). Qua phần mở đầu của bài văn bia này đã cung cấp cho chúng những tư liệu có giá trị
trong việc nghiên cứu về triết Lý Phật giáo nói chung và triết Lý Phật giáo Việt Nam nói
riêng,v.v…
3.2. Văn bia huyện Đơng Sơn góp phần tìm hiểu về phong tục tập quán, tín
ngưỡng địa phương.
3.2.1. Văn bia huyện Đông Sơn phản ánh tục lập Hậu thần, Hậu phật.
Tục bầu Hậu đã diễn ra khá phố biến, và được thể hiện đậm nét trong các văn bia
của huyện Đơng Sơn tỉnh Thanh Hố. Người được bầu làm Hậu thần, Hậu Phật là những
người có cơng lao hoặc có đóng góp tiền của cho làng xã, cho đình, đền, chùa, miếu, được
dân làng công nhận và được thờ phụ tại đình, đền hay chùa.
Tiêu biểu như 3 văn bia mang tên Hậu thần bi ký 后 神 碑 記 [33, 34, 35], niên đại
Cảnh Hưng thứ 43 (1782) đời Lê, đều ca ngợi về huân nghiệp, công đức của Quận công Lê
Trung Nghĩa, được dân làng các thôn xã tơn bầu làm Hậu thần. Có 2 văn bia Hậu phật là
Hậu phật bi ký 后 佛 碑 記 [25], niên đại Vĩnh Khánh thứ 3 (1732) đời Lê; Cúng điền bi kí
供 田 碑 記[31], niên đại Cảnh Hưng thứ 29 (1768) đời Lê. Ngồi ra cịn có một số bia khác
cũng đề cập đến việc bầu hậu.
Qua các văn bia trên, chúng ta phần nào có thể hiểu được thể thức của việc bầu
Hậu ở huyện Đơng Sơn. Nhìn chung, đối tượng được bầu Hậu thần chủ yếu trong văn bia
huyện Đơng Sơn là người có cơng đức cao dày với dân, với nước. Song, cịn có cả những
người bình dân nhưng có lịng từ tâm đã cúng số tiền, ruộng nhất định cho thôn, được dân
thôn bầu làm Hậu thần, Hậu phật và hưởng thờ cúng lâu dài. Không chỉ vậy, việc bầu Hậu
của huyện Đơng Sơn cịn là phương cách để giải quyết những cơng việc, những khó khăn
nhất thời trong các xã, thơn. Ví dụ văn bia Hậu kỵ bi ký 后 忌 碑 記[42]. Nội dung văn bia
ghi bản thôn canh giữ cửa quan do không cẩn thận phải bồi thường. Vợ chồng ông Ngô Viết
Lựu cho bản thôn 100 quan cổ tiền và 2 mẫu ruộng tốt để trang trải chi phí. Dân bầu vợ
chồng ông làm Hậu thần, quy định lệ cúng giỗ hàng năm,v.v…
3.2.2. Văn bia huyện Đông Sơn phản ánh tục lệ gửi giỗ.
Người gửi giỗ thường cúng gửi tiền, ruộng vào chùa hay nhà thờ họ để sử dụng số
tiền của đó chi dùng việc làm giỗ lâu dài cho người thân của họ, hoặc chính bản thân họ sau
khi qua đời. Việc đóng góp tiền, ruộng này khơng nhằm mục đích làm cơng đức, do vậy họ
khơng được tơn bầu là Hậu, hưởng quyền lợi của Hậu, mà chỉ được nhà chùa hay nhà thờ họ
cúng giỗ vào ngày giỗ. Đây cũng chính là điểm khác biệt căn bản giữa bia Hậu và bia gửi
giỗ. Ví dụ văn bia Tế tự điền thổ ký 祭 祀 田 土 記 [28], niên đại Cảnh Hưng thứ 17 (1756)
đời Lê. Nội dung văn bia ghi việc vợ chồng ông Nguyễn Hữu Niên, ở xã Mộc Nhuận, huyện
Đơng Sơn, phủ Thiệu Hố cúng tiền 200 quan, 21 mẫu 9 sào ruộng cho bản xã để được cúng
giỗ sau này, ghi cụ thể các định lệ cúng tế hai vợ chồng ông vào ngày giỗ trong năm,v.v…
Có thể thấy, sự xuất hiện của các bia lập Hậu và bia gửi giỗ đã phản ánh một cách chân thực
đời sống tín ngưỡng của người dân Đơng Sơn.
3.3. Văn bia huyện Đơng Sơn góp phần tìm hiểu các hoạt động làng xã Đông
Sơn.
Văn bia Đông Sơn phản ánh khá sinh động các hoạt động cộng đồng của cư dân
Đơng Sơn. Những hoạt động có tính cộng đồng này đều là thuộc những công việc hệ trọng
trong các làng xã Đơng Sơn. Do đó, nó thường phải huy động công sức, tiền của của nhiều
người ở các thơn xóm. Cũng do vậy, trong các văn bia ghi chép về việc xây dựng các công
trình kiến trúc gần như ln gắn với việc ghi họ tên, số tiền, ruộng của những người công
đức cho làng xã.
3.3.1. Xây dựng các cơng trình phục vụ cho tín ngưỡng của người dân Đơng
Sơn.
- Xây dựng và tu sửa chùa.
Có khá nhiều văn bia huyện Đơng Sơn được đặt tại chùa (49/180 văn bia), mà chủ
yếu là văn bia thuộc thời Lê và thời Nguyễn. Qua đó, chúng ta phần nào nhận thấy từ thế kỷ
XVII, XVIII cho đến thế kỉ XIX, bia được đặt nhiều trong chùa và chùa gần như được tu bổ
thường xuyên. Một trong những nội dung được đề cập nhiều nhất trong các văn bia này là
công việc trùng tu, xây dựng chùa. Ví dụ như văn bia Trùng tu Bảo Sơn tự bi ký 重 修 寶 山
寺 碑 記 [6], niên đại Hoằng Định thứ 6 (1605) đời Lê. Nội dung văn bia ghi vợ chồng ơng
và một số tín thí đứng ra sửa chùa Bảo Sơn, từ năm Quý Mão đến năm Ất Tỵ thì xong. Cơng
việc gồm sửa một toà nhà, thay 8 cột đá, đắp 17 pho tượng Phật, xây ba bậc đá, một thềm
đá, một giếng đá và hành lang quanh chùa Bảo Sơn,v.v…Qua những tư liệu văn bia này
giúp chúng ta hiểu rõ lịch sử hình thành và sự phát triển của các ngôi chùa ở huyện Đơng
Sơn tỉnh Thanh Hố, sự phát triển thăng trầm của Phật giáo ở huyện Đơng Sơn tỉnh Thanh
Hố nói riêng và Phật giáo Việt Nam nói chung.
- Xây dựng và tu sửa đình làng.
Văn bia ghi chép tu sửa đình đền ở huyện Đơng Sơn tỉnh Thanh Hố xuất hiện
khơng nhiều, song nó cũng phần nào phản ánh một cách sinh động các hoạt động của cư dân
Đông Sơn. Ví dụ như văn bia Nhuệ thơn tự bi 銳 村 寺 碑 [136], niên đại Bảo Đại Nguyên
niên (1926) đời Nguyễn,v.v…
- Xây dựng và tu sửa văn chỉ thờ các bậc tiên hiền.
Văn bia huyện Đơng Sơn cịn đề cập khá nhiều đến việc tu sửa văn chỉ, vũ chỉ tại
các xã thôn của huyện. Các văn bia này xuất hiện rải rác từ nửa sau thế kỷ XVII đến đầu thế
kỷ XX. Họ xây văn chỉ để thờ những người thành đạt trên các chặng đường thi cử, và còn để
làm tấm gương cho con cháu hậu thế noi theo con đường học hành và đỗ đạt. Ví dụ như văn
bia Trùng tu tiên hiền từ miếu hậu bi 重 修 先 賢 祠 廟 后 碑[17], niên đại Thịnh Đức thứ 4
(1656) đời vua Lê Thần Tông. Nội dung văn bia ghi xã Vân Nhưng là nơi danh thắng, lại có
nhiều người đỗ đạt. Ơng Thái thường Tự khanh, chức Thái Bảo, tước Văn Nguyên bá lập
Hội Tư văn. Nhân việc đó, dựng nhà Từ vũ ba gian làm nơi thờ cúng tiên hiền, dựng bia
khắc họ tên những người đỗ đạt. Văn bia Viễn Chiếu tổng Văn chỉ bi ký 遠炤 總 文 址 碑 記
[145], niên đại Bảo Đại thứ 13 (1938) đời Nguyễn. Nội dung văn bia ghi việc tổng nhà, văn
chỉ trước ở thơn Hồnh Sơn, nhưng vì địa thế, đường núi khó đi, nay chuyển về thơn Phú
Bật. Việc di chuyển xong, dựng bia làm kỷ niệm và khắc họ tên những người đỗ đạt trong
tổng vào bia để lưu truyền, v.v…..
Qua tư liệu văn bia ghi chép việc xây dựng, tu bổ văn chỉ-vũ chỉ ở các thôn xã của
huyện Đông Sơn, cho chúng ta nhận ra đây là vùng đất có truyền thống hiếu học, có nhiều
người khoa bảng đỗ đạt, đồng thời thể hiện tinh thần đề cao việc học, đề cao các bậc tiên
hiền tài đức của người dân Đông Sơn. Mặt khác, văn bia này cịn là tư liệu có thể bổ sung
những thơng tin về công danh, sự nghiệp của các bậc đại khoa được ghi trong các sách sử.
- Xây dựng từ đường thờ cúng tổ tiên.
Đơng Sơn là huyện có nhiều dịng họ lớn, mỗi dịng họ có một từ đường hay nhà
thờ họ riêng. Do đó, ở Đơng Sơn cũng có những văn bia ghi chép về công việc xây dựng,
sửa sang của các dịng họ. Ví dụ văn bia Lương tộc từ đường bi ký 梁 族 祠 堂 碑 記 [97],
niên đại Tự Đức (1848-1883) đời Nguyễn. Nội dung văn bia ghi việc tu bổ, sửa sang 3 gian
từ đường, tiền đường của bản tộc, ghi việc cúng ruộng, ao cho trưởng nam để chi phí việc
cúng tế, hương hoả của bản tộc,v.v… Những tư liệu văn bia này có thể cho chúng ta hiểu
hơn về khả năng kinh tế và q trình tồn tại của mỗi dịng họ.
3.3.2. Xây dựng các cơng trình cơng cộng nhằm phát triển kinh tế địa phương.
Văn bia huyện Đông Sơn chủ yếu đề cập đến việc xây cầu, dựng chợ, mà đặc biệt
là việc bắc cầu. Ví dụ như văn bia Trùng tu kiều bi ký 重 修 橋 碑 記 [30], niên đại Cảnh
Hưng thứ 28 (1767) đời Lê, ghi ở Viện Giang có suối nước chảy qua, trước đây dân đã làm
cầu đá, bị hỏng gây trở ngại cho việc đi lại của người dân, nay quyên góp xây dựng lại. Văn
bia không tên (vô đề) [92], niên đại Tự Đức 34 (1881) đời Nguyễn, lại ghi việc ông Lê Đình
Khản họp bàn với các vị kỳ lão, binh dân trong xã đứng ra tu sửa, mở rộng chợ Pho (Đồng
Pho, nay là xã Đơng Hồ). Văn bia cịn ghi việc bắc cầu Pho qua sơng Hồng bằng gỗ thay
cầu trúc xưa nên việc thông thương buôn bán được thuận lợi, v.v…Có thể thấy các văn bia
này là tư liệu quan trọng để tìm hiểu về tình hình phát triển kinh tế của các làng xã huyện Đông
Sơn. Không chỉ vậy, văn bia Đông Thượng bi ký 東 上 碑 記 [137], niên đại Bảo Đại thứ 5
(1930) đời Nguyễn còn ghi chép cả về việc mở mang đất đai. Văn bia này ghi về các ông họ
Lê trước ở xóm Đơng thuộc bản xã đã có công mở mang, bắc cầu, làm đường, đắp giếng, tu
sửa đình,.. lập nên ấp Đơng Thượng, thu hút dân chúng đến sinh sống,v.v…
Có thể nói, văn bia huyện Đơng Sơn đã phản ánh những nội dung mang giá trị thiết
thực trong việc tìm hiểu đời sống vật chất và tinh thần của cư dân các làng quê Đông Sơn
dưới thời phong kiến, hình thành nên khơng gian văn hố đặc trưng của làng q Đơng Sơn
tỉnh Thanh Hố.
3.4. Văn bia huyện Đơng Sơn góp phần tìm hiểu tinh thần giáo dục và truyền
thống hiếu học của người dân Đông Sơn.
Hầu hết các làng xã trong huyện Đơng Sơn đều có Văn chỉ, có Hội Tư văn, tập hợp
những người học hành đỗ đạt ngoài việc giúp đỡ nhau trong cuộc sống còn cùng nhau cổ
suý cho việc học tập của các thế hệ sau. Theo thống kê chưa đầy đủ, huyện Đơng Sơn có tới
gần 40 văn bia ghi chép việc sửa sang, xây dựng văn chỉ, và họ tên những người đỗ đạt. Ví
dụ như văn bia Quảng chiếu tổng hiền chỉ 廣 照 總 賢 址[59], niên đại Tự Đức thứ 4 (1851)
đời Nguyễn. Nội dung văn bia ghi lịch sử từ xưa đã có nhiều người đỗ đạt trong khoa thi các
năm từ thời tiền triều, ngoài ra văn bia ca ngợi việc học, ghi việc xây Văn chỉ có bờ đá,
tường bao và ghi các điều lệ đón mừng những người đỗ đạt và việc cúng tế hàng năm. Văn
bia Thạch Khê khoa hoạn bi 石 溪 科 宦 碑 [75], niên đại Tự Đức 23 (1870) đời Nguyễn.
Nội dung văn bia ghi họ tên những người đỗ đạt Tiến sĩ, Hương cống, Sinh đồ trong các
khoa thi Hội, thi Hương trong phủ huyện dưới triều Lê, v.v… Qua những văn bia này, cho
chúng ta phần nào thấy được tinh thần đề cao, coi trọng việc học và có nhiều người khoa
bảng đỗ đạt cao của huyện Đơng Sơn tỉnh Thanh Hố. Những người học hành đỗ đạt, nhất là
những người học giỏi đỗ cao từ Cử nhân, Tiến Sĩ ln ln là những mẫu hình được xã hội
ca ngợi và trọng vọng, là tấm gương được mọi tầng lớp nhân dân trong vùng dùng để
khuyên dạy con cháu tiến theo con đường cử nghiệp, lập thân. Các tư liệu văn bia này cịn
có giá trị trong việc cung cấp, bổ sung thông tin về các nhà khoa bảng đỗ đạt cao thời xưa
mà trong sử sách còn ghi chưa đầy đủ.
TIỂU KẾT CHƯƠNG 3
Qua những trình bầy ở trên, chúng ta có thể thấy văn bia huyện Đơng Sơn chứa
đựng những nội dung rất thiết thực về đời sống vật chất và tinh thần của người dân Đông
Sơn tỉnh Thanh Hoá. Các giá trị này được thể hiện rõ ở các mặt sau đây:
Văn bia huyện Đơng Sơn góp phần nghiên cứu lịch sử địa phương. Trong đó bao
gồm có việc tìm hiểu về các nhân vật lịch sử, tìm hiểu sự thay đổi diên cách địa phương.
Ngoài ra văn bia huyện Đơng Sơn cịn là tư liệu nghiên cứu lịch sử quan trọng.
Văn bia huyện Đơng Sơn góp phần tìm hiểu về phong tục tập qn, tín ngưỡng địa
phương.Với một số lượng bia phong phú, văn bia huyện Đông Sơn đã phản ánh khá đầy đủ
những nội dung liên quan đến các hoạt động văn hoá xã hội trong làng xã Đơng Sơn nói
riêng, làng xã Thanh Hố nói chung. Cụ thể như: tục lập Hậu thần, Hậu phật, lệ gửi giỗ, tục
thờ Thành hồng, v.v…
Văn bia huyện Đơng Sơn góp phần tìm hiểu các hoạt động trong làng xã Đơng Sơn.
Trong đó chủ yếu là xây dựng những cơng trình kiến trúc phục vụ cho tín ngưỡng, như tu
sửa chùa, đình, văn chỉ thờ các bậc tiên hiền, từ đường thờ cúng tổ tiên. Và các cơng trình
cơng cộng nhằm phát triển kinh tế địa phương như xây chợ, cầu cống,…Tất cả những hoạt
động có tính cộng đồng này đều là thuộc những công việc hệ trọng trong các làng xã Đơng
Sơn, địi hỏi phải huy động cơng sức, tiền của của nhiều người ở các thơn xóm. Văn bia
huyện Đơng Sơn cịn là tư liệu tìm hiểu việc xây dựng, mở mang đất đai địa phương.
Văn bia huyện Đơng Sơn cịn là tư liệu góp phần tìm hiểu tinh thần giáo dục và
truyền thống hiếu học của người dân Đông Sơn, mà thể hiện rõ nhất là ở tinh thần đề cao,
coi trọng việc học và có nhiều người khoa bảng đỗ đạt cao của huyện Đông Sơn tỉnh Thanh
Hoá.
KẾT KUẬN
Luận văn trình bày tổng quát về văn bia Việt Nam nói chung và văn bia huyện
Đơng Sơn nói riêng. Qua đó, chúng ta có thể đi đến một cái nhìn tổng quan về văn bia huyện
Đơng Sơn một cách có cơ sở khoa học. Từ đó, có thể rút ra hiện trạng chung của văn bia
huyện Đông Sơn về các mặt: thực trạng văn bia, sự phân bố văn bia, những đặc điểm cơ bản
và những giá trị tiêu biểu của văn bia huyện Đông Sơn tỉnh Thanh Hố. Từ những cái nhìn
tổng qt trên, chúng ta có thể rút ra một số đặc điểm về huyện Đông Sơn và về văn bia
huyện Đơng Sơn tỉnh Thanh Hố như sau:
- Khái quát về huyện Đông Sơn tỉnh Thanh Hố
Về mặt địa lý: Đơng Sơn là một huyện đồng bằng của châu thổ Sông Mã, nằm ở
trung tâm của tỉnh Thanh Hố, là một vùng đất có nguồn tài nguyên khá dồi dào, đất đai
mầu mỡ phì nhiêu. Huyện Đơng Sơn hiện gồm có 19 xã và 2 Thị trấn, huyện lỵ Đơng Sơn
đóng ở Thị trấn Rừng Thơng. Đơng Sơn có nhiều ngành nghề truyền thống được nhiều nơi
biết đến, như các nghề chế tác đá, gốm, đúc đồng,…
Về mặt Văn hố - Xã hội. Đơng Sơn là một vùng đất cổ nên có nhiều di tích lịch sử
văn hố, với 125 di tích. Nơi đây cịn lưu truyền và bảo lưu được nhiều phong tục tập quán,
tín ngưỡng, lễ hội truyền thống cổ mang yếu tố tích cực, thể hiện các thuần phong mỹ tục.
Về mặt Văn học - Giáo dục. Đơng Sơn là huyện có kho tàng Văn học dân gian và
văn học viết khá phong phú, mang đặc trưng của của vùng đất Đông Sơn. Nơi đây cũng là
một trong những huyện đứng đầu và nổi tiếng về truyền thống hiếu học, với nhiều bậc danh
nho, khoa bảng đỗ đạt của xứ Thanh.
- Đặc điểm văn bia huyện Đông Sơn
Về thực trạng: một số văn bia huyện Đông Sơn hiện đang đứng trước thực trạng
xuống cấp nghiêm trọng và không mấy được quan tâm chú ý ở một số nơi trong các xã của
huyện Đông Sơn.
Về phân bố: Theo không gian, văn bia huyện Đông Sơn được phân bố ở hầu khắp
các xã trong huyện, nhưng tập trung nhất vẫn là ở các xã có nguồn ngun liệu đá vơi dồi
dào, có nghề làm đồ đá phát triển lâu đời như các xã: Đông Hưng, Đông Tân, Đông Lĩnh,...
Theo thời gian, văn bia huyện Đông Sơn có 1 văn bia mang niên đại khá sớm vào đời Tuỳ
(thế kỷ VII), 1 bia thời Lý (thế kỷ XI), có 2 bia thời Lê Sơ (thế kỷ XV), và còn kéo dài, tập
trung nhiều ở thời Lê Trung Hưng (thế kỷ XVI-XVIII) và nhiều nhất là ở thời Nguyễn (thế
kỷ XIX-XX). Nhìn chung, số lượng văn bia huyện Đơng Sơn có niên đại muộn là chủ yếu
trong tổng số văn bia huyện Đông Sơn mà chúng tôi sưu tầm được.
Về đặc điểm văn bản: Văn bản bia huyện Đông Sơn được khắc chân phương, rõ
nét, đa số văn bản tồn tại dưới dạng hiện vật là bia hình dẹt, ngồi ra cịn có một số ít bia ma
nhai, bia hình trụ. Văn bia huyện Đơng Sơn có kích cỡ tương đối lớn, 40% số bia Đơng Sơn
có kích thước từ 1000-7000cm2, và 37,2% số bia có kích thước từ 7000-12000cm2, kích
thước trung bình là 9332,9cm2. Độ dài bài văn bia chủ yếu tập trung ở khoảng dưới 100-800
chữ. Đề tài trang trí trên các bia có trang trí chủ yếu là rồng, mặt trời, hoa dây hình sin, hình
sóng nước. Bố cục bài văn bia khơng ổn định theo mơ hình chung. Trong số thành phần các
tác giả biên soạn bài văn bia huyện Đông Sơn, chủ yếu là quan lại (chiếm 47,95%). Ngồi
ra, số bia khơng ghi họ tên tác giả trong văn bia huyện Đông Sơn có số lượng khá cao là 80
bia/180 (chiếm 44,44%). Có thể nói, những kết quả thu thập được thơng qua các số liệu
thống kê nêu trên đã phản ánh tình hình chung của văn bia huyện Đơng Sơn tỉnh Thanh
Hố.
- Các giá trị của văn bia huyện Đơng Sơn tỉnh Thanh Hố
Văn bia huyện Đơng Sơn góp phần nghiên cứu lịch sử địa phương trên các bình
diện như: tìm hiểu về các nhân vật lịch sử, tìm hiểu sự thay đổi diên cách địa phương và văn
bia huyện Đông Sơn còn là tư liệu nghiên cứu lịch sử quan trọng.
Văn bia huyện Đơng Sơn góp phần tìm hiểu về phong tục tập quán, tín ngưỡng địa
phương như tục lập Hậu thần, Hậu phật, lệ gửi giỗ, tục thờ Thành hồng,v.v…Qua đó, cho
chúng ta thấy các hoạt đơng văn hố xã hội khá phong phú trong các làng xã Đông Sơn nói
riêng, làng xã Thanh Hố nói chung.
Văn bia huyện Đơng Sơn góp phần tìm hiểu các hoạt động trong làng xã Đông Sơn,
bao gồm việc xây dựng những công trình kiến trúc phục vụ cho tín ngưỡng, như tu sửa chùa,
đình, văn chỉ thờ các bậc tiên hiền, từ đường thờ cúng tổ tiên; xây dựng các cơng trình công
cộng nhằm phát triển kinh tế địa phương như xây chợ, cầu cống,…; và các hoạt động việc
xây dựng, mở mang đất đai địa phương. Ngoài ra, tư liệu văn bia huyện Đơng Sơn cịn có
giá trị trọng việc tìm hiểu tinh thần giáo giục và truyền thống hiếu học của người dân Đơng
Sơn.
Có thể nói, việc đưa ra một cái nhìn tổng quan về đặc điểm và giá trị của văn bia
huyện Đông Sơn là bước đầu tiên và quan trọng để chúng ta có thể nghiên cứu sâu hơn về
nguồn tư liệu giá trị này, góp phần quan trọng vào việc nghiên cứu văn bia Việt Nam nói
chung.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC:
Phụ lục 1: Danh mục văn bia huyện Đông Sơn
Phụ lục 2: Nguyên văn một số văn bia của huyện Đơng Sơn tỉnh Thanh Hố
Phụ lục 3: Phiên âm, dịch nghĩa một số văn bia của huyện Đơng Sơn tỉnh Thanh Hố.
Phụ lục 4: Một số ảnh về văn bia huyện Đơng Sơn tỉnh Thanh Hố.