Tải bản đầy đủ (.doc) (2 trang)

Phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (43.45 KB, 2 trang )

Phân tích bai thơ Đây Thôn Vỹ Dạ
Hàn Mặc Tử là một nhà thơ lớn trong phong trào thơ mới giai đoạn 1930-1945. Ông có
sức sáng tạo mãnh liệt và để lại cho đời những vần thơ vừa đau thương điên loạn vừa thiết
tha trong sáng. Bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” được sáng tác năm 1938 khi ông mắc bệnh nan y
và đang điều trị tại trại phong Quy Hòa. Bài thơ lúc đầu có tên “Ở đây thôn Vỹ” sau đổi
thành “Đây thôn Vỹ Dạ” in trong tập”thơ điên”. Bìa thơ đc khơi nguồn cảm hứng từ tấm
bưu thiếp của Hoàng Cúc, bài thơ được viết theo thể thơ thất ngôn gồm 3 khổ thơ.
Khổ thơ đầu: câu thơ mở đầu là câu hỏi tu từ có thể hiểu theo nhiều nghĩa. Đây có thể là
lời của cô giái, một lời trách nhẹ hay lời mời khéo. Đây cũng có thể là lời của nhà thơ.
Dường như nhà thơ đã phân thân để tự hỏi chính mình câu hỏi có chút trách móc dận hờn
nhưng thực chất là để bộc lộ cảm xúc của chính mình.
Câu thơ với 7 âm tiết thì 6 tiếng liên tục là thanh bằng gợi âm hưởng chơi vơi, sự chơi
vơi trong cõi lòng của tác giả khi hướng về thôn Vỹ. cuối câu hỏi là hình ảnh một thanh
trắc tạo âm hưởng gắt xoáy sâu vào lòng người đọc nỗi xót xa tiếc nuối vì thôn vỹ giờ đã xa
vời vợi mà nhà thơ không thẻ trở về được nữa. 2 từ về chơi mà không phải về thăm đã gợi
ra sự thân mật gắn bó giữa nhà thơ với quê hương vỹ dạ.Câu thơ đầu đã diễn tả tâm trạng
chơi vơi tiếc nuối của nhà thơ khi không còn cơ hội trở về thôn Vỹ nữa.
3 câu thơ tiếp khắc họa hình ảnh thiên nhiên và con người Vỹ Dạ. Đó là cảnh 1 khu
vườn Vỹ Dạ, ánh nắng ban mai chiếu lấp loáng trên những tàu cau. Từ xa nhìn lại thôn vỹ
nhà thơ bắt gặp hình ảnh hàng cau vươn lên thẳng tắp. “nắng hàng cau”- nắng ban mai
chiếu trên những hàng cau cao vút thẳng tắp là nắng mới, thứ nắng gợi ra ấm áp trong trẻo
và tinh khôi. Điệp từ nắng được lặp lại 2 lần trong câu thơ đã gợi ra không gian tràn ngập
ánh nắng. dường như cả khu vườn đang được tắm dưới ánh nắng bình minh.
Đến gần hơn nhà thơ nhìn thấy khu vườn xanh mướt “vườn ai mướt quá xanh như ngọc”
Mướt là từ được dùng để miêu tả độ bóng, sự óng ả mượt mà, và tràn đấy sức sống của khu
vườn. từ cảm thán quá như tiếng reo vui bất ngờ trước vẻ đẹp của khu vườn. Nt so sánh
“xanh như ngọc” mới diễn tả được hết vẻ đẹp trong sáng tươi non rực rỡ của cành lá ướt
đẫm sương đêm đang rười rượi dưới nắng mới. Cảnh thôn vỹ hiện lên trong trí nhớ của nhà
thơ thật gần gũi thật đẹp thật tinh khôi.
Thấp thoáng sau cảnh vật là hình ảnh con người “lá trúc che ngang mặt chữ điền”, người
thôn vỹ hiện lên với mặt chữ điền, khuôn mặt phúc hậu, khuôn mặt ấy xuất hiện sau lá trúc


càng duyên dáng, đáng yêu. Cả khổ thơ là bức tranh thiên nhiên thôn vỹ buổi bình minh
đẹp trong trẻo tinh khôi tràn đầy sức sống. con người thôn vỹ phúc hậu duyên dáng, đáng
yêu. Đằng sau bức tranh có cảnh có người, người đọc cảm nhận ấm lòng yêu đời đáng quí
của nhà thơ bất hạnh.
Khổ 2 là một cảnh khác:
“Gió theo lối gió…tối nay”
Câu thơ thứ nhất với nhịp thơ 4/3 tạo sự chia lìa của gió mây. Dường như câu thơ là
một sự phi lí vì gió và mây thường đi với nhau. Gió thổi mây bay là qui luật tự nhiên thế
nhưng trong câu thơ của Hàn Mặc Tử thì “gió theo lối gió mây đường mây”. Đây không
còn là hình ảnh của thị giác nữa mà là mặc cảm, mặc cảm chia lìa của một con người luôn


sợ phải xa rời trần thế. Mặc cảm đó đã chia cắt những thứ tưởng như không thể chia cắt
được.
Câu thơ thứ 2 tiếp tục bằng hình ảnh thiên nhiên huế dòng sông và hoa bắp. Dòng nước
được miêu tả buồn thiu. Dòng nước trôi chậm lững lờ đến tĩnh lặng, hoa bắp chỉ lay nhẹ
chuyển động khẽ khàng, vô hồn, cảnh vật tĩnh lặng mang nỗi buồn hiu hắt. Từ khổ thơ 1
sang khổ thơ 2 cảnh vật đã có sự thay đổi, nắng tắt chiều buông nỗi buồn của con người
như lan toả vào cảnh vật.
2 câu thơ tiếp là hình ảnh thiên nhiên tuyệt đẹp: dòng sông trăng,con thuyền trở trăng,
trăng du khách. Đêm trăng đẹp lung linh huyền ảo nhưng nhịp thơ da diết khắc
khoải:”thuyền ai … tối nay” . Câu hỏi tu từ và động từ kịp gợi ra sự đợi chờ đến khắc khoải
có về kịp tối nay không Dường như nếu trăng không về kịp thì kẻ bị số phận bỏ rơi trong
đau khổ ấy sẽ hoàn toàn tuyệt vọng đau thương. Dường như với hàn mặc tử trăng là tri âm
tri kỉ, là đôi cánh duy nhất đưa con người ấy thoat khỏi sự cô đơn mặc cảm chia lìa. Nỗi
khắc khoải đợi chờ trăng ấy đã khiến người đọc nhận ra sự khát khao giao cảm với đời của
thi nhân Chữ kip trong câu thơ này còn hé mở cho ta 1 cách sống: sống là chạy đua với thời
gian.
Bài thơ kết thúc bằng khổ 3 với tiếng nói đau thương mà theo hàn mặc tử thì đó
là:”những lời thảm thương trước khi trút bỏ tâm hồn”:

“Mơ khách đường xa khách đường xa….đà”
Con người hiện lên trong giấc mơ hư ảo chập chờn đó là “khách đường xa” Phép điệp lặp
lại hai lần cụm từ “khách đường xa “càng tô đậm thêm sự xa xôi và hư ảo. đến câu thơ thứ
2 hình ảnh em hiện rõ nét hơn “áo em…ra” sắc trắng được cực tả “trắng quá” miêu tả vẻ
đẹp trong sáng tinh khiết của người con gái trong tưởng tượng của hàn mặc tử nhưng vì sắc
trắng ấy trắng quá nhìn không ra. Thì ra em vẫn chập chờn hư ảo quá, xa xôi quá, khó với
tới quá để với nhà thơ chỉ còn là sự bất lực không thể níu kéo. Niềm đau ấy khiến nhà thơ
trở về thực tại của mình:”ở đây…đậm đà”. ở đây là ở đâu Huế hay Quy Nhơn, sương khói
hay cõi thực Con người càng trở nên hư vô bởi lẽ giữa nhà thơ và con người là một bức
tường thành mà nhà thơ không thể nào vượt qua nổi. Nếu là cõi thực khi quay về hiện tại
thì câu thơ như tiếng kêu thương đc cất lên từ một tâm hồn đau đớn trước không gian, thời
gian chia lìa và tiếng lòng nhà thơ như vút lên một câu hỏi lắng đọng hoài nghi:”ai…đà”
Hai chữ ai trong 1 câu thơ thể hiện rõ một mối tình vô vọng. Với cách nói mang dáng dấp
ca dao HMT gửi gắm tấm chân tình tha thiết của mình trước hết tấm chân tình ấy gửi người
trong mộng bởi cuộc đời nhà hơ là hành trình tìm kiếm một tấm chân tình mà chưa thấy.
Câu thơ xoáy sâu vào lòng người đọc một nỗi xót xa, tấm chân tình ấy còn hướng tới con
người và cuộc đời nhưng tất cả dửng dưng vô tình khiến nhà thơ vô cùng bất hạnh lời thơ
buông ra bâng khuâng hư thực như nhắn nhủ như trăn trở không biết con người và cuộc đời
có thấu hiểu tấm lòng của nhà thơ hay không.
Đại từ khiếm chỉ ai đã biến tiếng nói nội tâm của nhà thư trở thàn câu hỏi cho ngàn đời,
cho mọi người cho những ai đang khao khát yêu thương khao khát đồng cảm. Khép lại bài
thơ là hình ảnh nhà thơ cô đơn khắc khoải đang mong chờ tình đời nhưng cũng mở ra rung
cảm sâu sắc trong lòng người.



×