BỘ GIAO THÔNG VẬN TẢI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC HÀNG HẢI VIỆT NAM
KHOA KINH TẾ
BỘ MÔN LOGISTICS VÀ QUẢN TRỊ CHUỖI CUNG ỨNG
BÀI GIẢNG
TỔNG QUAN LOGISTICS
VÀ CHUỖI CUNG ỨNG
TÊN HỌC PHẦN: TỔNG QUAN LOGISTICS VÀ CCƯ
MÃ HỌC PHẦN: 15802
TRÌNH ĐỘ ĐÀO TẠO: ĐẠI HỌC VÀ CAO ĐẲNG
DÙNG CHO SINH VIÊN NGÀNH: LOGISTICS
1
Tổng quan Logistics và Chuỗi cung ứng:
a. Tổng số tín chỉ: 3
Mã học phần: 15802
b. Bộ môn phụ trách giảng dạy: Bộ môn Logistics và Quản trị chuỗi cung ứng
c. Phân bổ thời gian:
- Tổng số (TS): 45
- Thực hành (TH): 0
- Hướng dẫn BTL/ ĐAMH: 0
d. Điều kiện tiên quyết: Không.
e. Mục đích của học phần:
Kiến thức:
- Lý thuyết (LT): 40
- Bài tập (BT): 3
- Kiểm tra (KT): 2
Mục tiêu của học phần Tổng quan Logistics và Chuỗi cung ứng là trang bị cho sinh viên
các kiến thức cơ bản về Logistics và Chuỗi cung ứng về phần khái niệm, quy trình xây dựng và
thực hiện, tạo nền tảng cho các học phần có liên quan khác.
Kỹ năng:
Sau khi kết thúc môn học, học viên có thể nhận biết các hoạt động logistics trong hoạt
động sản xuất kinh doanh, định hình được chuỗi cung ứng và các vấn đề liên quan tới quản trị
chuỗi cung ứng.
Thái độ nghề nghiệp:
Môn học cung cấp cho người học những kiến thức cơ bản về kogistics và chuỗi cung
ứng, tạo nền tảng kiến thức cơ bản phục vụ cho công việc trong tương lai. Môn học không chỉ
hữu ích đối với những công việc mang tính học thuật, nghiên cứu mà còn rất quan trọng đối với
những người có định hướng làm việc ở các ngành nghề liên quan đến logistics hoặc/và chuỗi
cung ứng. Bởi người học được cung cấp cơ sở lý luận để hiểu được cách vận hành và quản lý các
hoạt động này trong thực tiễn.
f. Nộị dung chủ yếu:
Môn học cung cấp cho học viên những kiến thức về logistics và chuỗi cung ứng thông
qua việc giới thiệu cho người học những khái niệm, nguyên tắc cũng như cách thức quản trị các
hoạt động logistics và chuỗi cung ứng. Đồng thời thông qua môn học, người học có được những
hiểu biết thực tiễn về logistics, dịch vụ logistics và chuỗi cung ứng trong thực tế để dễ dàng tiếp
thu, vận dụng cũng như hình thành nền tảng cho các môn học chuyên ngành khác.
g. Người biên soạn:
Bộ môn Logistics và Quản trị chuỗi cung ứng.
h. Nội dung chi tiết của học phần:
TÊN CHƯƠNG MỤC
PHÂN PHỐI SỐ TIẾT
TS
LT
Chương 1: Tổng quan về logistics
18
18
1.1. Khái niệm logistics
2
2
1.2. Quá trình hình thành và phát triển logistics
1
1
1.3. Vị trí và vai trò của logistics
1
1
1.4. Lợi thế so sánh nhờ logistics
1
1
BT TH
KT
2
1.5. Các hoạt động logistics
1
1
1.6. Thách thức đối với hoạt động logistics
1
1
1.7. Dịch vụ logistics
5
5
1.8. Logistics ngược
3
3
1.9. Trung tâm dịch vụ logistics
3
3
Chương 2: Tổ chức và vận hành logistics
7
6
1
2.1. Tổ chức quy trình logistics
3
2
1
2.2. Quản trị và tổ chức hoạt động logistics
1
1
2.3. Quyết định logistics chiến lược
1
1
2.4. Chi phí logistics
2
2
Chương 3: Tổng quan về chuỗi cung ứng
20
16
3.1. Tổng quan về chuỗi cung ứng
5
5
3.2. Tổng quan về quản trị chuỗi cung ứng
10
7
3.3. Công nghệ thông tin trong chuỗi cung ứng
1
1
3.4. Thông tin liên lạc trong chuỗi cung ứng
1
1
3.5. Quản trị rủi ro chuỗi cung ứng
3
2
Tự học (10 tiết): Nghiên cứu tình hình hoạt động logistics và
dịch vụ logistics tại Việt Nam, thông qua việc:
- Đọc giáo trình tổng quan logistics và chuỗi cung ứng chương
1, tổng quan về logistics, trang 4-66.
- Nghiên cứu báo chí, thông qua các trang web trong nước và
nước ngoài: vneconomy.vn, …
- Tài liệu trên thư viện
Tự học (10 tiết): Bài tập nhóm, xây dựng quy trình cho một
hoạt động logistics trong doanh nghiệp.
- Đọc phần 2.1 và 2.2, chương 2, giáo trình tổng quan logistics
và chuỗi cung ứng, trang 71-91.
- Quy trình dịch vụ logistics của các doanh nghiệp (thông qua
các website của doanh nghiệp).
3
1
3
1
Tự học (10 tiết): Nghiên cứu công nghệ thông tin và thông tin
liên lạc trong chuỗi cung ứng, thông qua các nguồn tài liệu
mở:
- Đọc phần 3.3 – 3.4, chương 3, giáo trình tổng quan logistics
và chuỗi cung ứng, trang 193-232.
- Các website:
i. Mô tả cách đánh giá học phần
● Điểm X:
Công thức:
X = X1
3
X1 =
L +L +L
1
2
3
3
Trong đó:
− Điểm X1 là điểm bình quân của ba (03) điểm kiểm tra tư cách L1, L2, L3 trong suốt quá
trình học.
− Bài kiểm tra tư cách được giảng viên trực tiếp giảng dạy lựa chọn thực hiện dưới các
cách thức sau:
Kiểm tra viết 45 phút.
Thảo luận nhóm
Thuyết trình (trình chiếu slide)
Kiểm tra miệng
Làm bài tập trên lớp.
Làm tiểu luận.
− Điểm X được làm tròn lên 0,5.
− Nếu sinh viên vắng mặt, không làm bài kiểm tra thì điểm bài kiểm tra đó bằng 0.
− Thời gian sinh viên có mặt trên lớp <75% thì X = 0.
● Điều kiện dự thi:
- Số tiết tham dự học phần phải ≥ 75%
- Điểm X ≥ 4
● Điểm Y : là điểm thi kết thúc học phần theo hình thức thi viết (tự luận) do Bộ môn tổ
chức. Bài thi do 2 Giảng viên chấm và được làm tròn đến 1 chữ số sau dấu phẩy.
● Điểm Z :
Công thức :
Z = 0.3 X + 0.7 Y
Điểm Z là điểm học phần, được làm tròn đến một chữ số thập phân.
k. Tài liệu tham hảo :
-
Bài giảng Tổng quan logistics và chuỗi cung ứng – Bộ môn Logistics và QTCCƯ
soạn thảo.
l. Tài liệu tham khảo
[1] Giáo trình Quản trị Logistics kinh doanh – ĐH Thương Mại 2000
[2] Alan Rushton, John Oxley, Phil Croucher, “Handbook of Logistics and Distribution
Management”, second edition, published by Kogan Page (2000).
[3] Ian Sadler, “Logistics and Supply Chain Integration”, first edition, published by
Sage (2007).
[4] Martin Christopher, “Logistics and Supply Chain Management”, third edition,
published by Prentice Hall (2005).
[5] Donald Waters, “Logistics - An introduction to Supply Chain Management”.
m. Ngày phê duyệt:
/
/ 2014
n. Cấp phê duyệt:
Trưởng Khoa/Viện/Trung tâm
Trưởng Bộ môn
Người biên soạn
4
•
Tiến trình cập nhật Đề cương:
Cập nhật lần 1: ngày......../....../.....
Người cập nhật
Nội dung: Rà soát theo kế hoạch Nhà trường (từ T4/2014) gồm:
- Mục h: bổ sung Nội dung tự học cuối mỗi chương mục, chuyển
một số nội dung giảng dạy sang phần tự học.
Trưởng Bộ môn
- Bổ sung các mục m, n.
...
Cập nhật lần 2: ngày....../....../......
Người cập nhật
Nội dung:
Trưởng Bộ môn
Trưởng Bộ môn
PGS, TS Nguyễn Thanh Thủy
MỤC LỤC
5
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ LOGISTICS
1.1
Khái niệm logistics
Logistics đã xuất hiện từ rất lâu trong lịch sử loài người tuy nhiên đến giữa thế kỷ
20 logistics mới thực sự được nhìn nhận và phát triển mạnh mẽ. Trở lại 2700 năm trước
công nguyên (TCN), các hoàng đế Ai Cập đã cho xây dựng kim tự tháp bằng những tảng
đá lớn nặng tới vài tấn được vận chuyển và ráp lại trong khu vực xây dựng. Để xây kim
tự tháp Giza cao 146m và nặng 6 triệu tấn, người Ai Cập cần sử dụng tới những thiết bị
vận chuyển nguyên liệu vô cùng tinh xảo để di chuyển các khối đá khổng lồ và đặt chúng
vào đúng vị trí mà đến nay chúng ta vẫn chưa giải thích được tại sao điều này có thể thực
hiện được vào những năm 2700 TCN. Hay, việc xây dựng nhà thờ Hồi giáo Mezquita tại
Cordoba, Tây Ban Nha cách đây 700 năm TCN với hơn 1000 cột đá các loại được lấy từ
khắp các nhà thờ La Mã được xây dựng trước đó hoặc đã bị tàn phá. Từ hai minh chứng
trên ta có thể thấy trong việc di chuyển hoặc thu mua nguyên vật liệu từ thuở xa xưa đã
có sự hiện diện của Logistic.
6
Tuy nhiên, mốc phát triển mạnh mẽ của logistics lại bắt nguồn từ khi logistics được
áp dụng trong lĩnh vực quân sự. Trong các cuộc chiến tranh Hy Lạp và La Mã cổ đại, ban
đầu mỗi chiến sĩ tự vận chuyển và bảo quản lương thực, các đồ dùng thiết yếu cũng như
khí tài trong quá trình di chuyển và chiến đấu. Nhưng khi số lượng quân sĩ tăng lên,
người ta nhận thấy rằng sử dụng một nhóm chuyên trách thực hiện các công việc trên sẽ
nâng cao hiệu quả chiến đấu. Do vậy, các sĩ quan quân đội với chức danh “logistikas” đã
được giao nhiệm vụ thực hiện các dịch vụ về quân nhu và phân phối các nguồn lực, giúp
cho các chiến sĩ có thể chuyển từ vị trí cơ sở tiến lên vị trí mới một cách hiệu quả. Điều
này cũng bao hàm việc gây tổn thất tới nguồn quân nhu của kẻ địch và canh gác tại vị trí
các nguồn quân nhu của chính đội quân mình là yếu tố cốt lõi quyết định kết quả của trận
chiến, từ đó đã dẫn đến sự phát triển của một hệ thống liên quan tới hệ thống quản trị
logistics ngày này.
Chiến tranh Thế giới thứ hai (1939-1945) là sự khẳng định vai trò của logistics
trong lĩnh vực quân sự. Áp dụng logistics trong chiến tranh, quân đội Mỹ đã đảm bảo các
dịch vụ và quân nhu được cung cấp vào đúng thời điểm và tại đúng vị trí. Họ cũng cố
gắng cung cấp những dịch vụ này bất kỳ khi nào và bất cứ nơi nào được yêu cầu, theo
cách thức tối ưu và kinh tế nhất. Quân đội Mỹ đã gây ra tổn thất nặng nề cho tuyến cung
ứng quân nhu của Đức, khiến đội quân Đức mất đi sức chiến đấu và giành chiến thắng.
Điều này cho thấy việc phá hủy tuyến cung ứng của kẻ thù và canh gác tuyến cung ứng
của chính mình là yếu tố quyết định trong trân chiến. Từ đó, nhiều kỹ thuật logistics quân
sự khác nhau đã hình thành và hiện nay vẫn đang được sử dụng, tuy nhiên với cách thức
tiên tiến hơn1.
Sau chiến tranh thế giới thứ hai, những phát minh lớn như container hóa và sự phát
triển của vi tính hóa đã hình thành nên tiền đề cho sự phát triển của logistics sau này. Đặc
biệt, bước sang những năm 80 logistics bắt đầu được áp dụng trong lĩnh vực sản xuất
kinh doanh và đã mang lại nhiều lợi ích lớn cho doanh nghiệp về mặt giảm chi phí. Từ
đây, thuật ngữ logistics xuất hiện và nhiều tổ chức cũng như các học giả bắt đầu tham gia
nghiên cứu về logistics để xây dựng kiến thức khoa học về lĩnh vực mới phát triển này.
Thuật ngữ “logistics” trong tiếng Anh có nguồn gốc từ từ “logistique” trong tiếng Pháp.
“logisticsque” là danh từ xuất phát từ động từ “loger” theo tiếng Pháp có nghĩa là đóng
quân trên chiến trường. Đây là thuật ngữ quân sự được sử dụng từ thời Napoleon đệ
Nhất2. Trên thực tế, logistics là một phạm trù rất rộng.
Hiệp hội các kỹ sư logistics (Society Of Logistics Engineers, 1974) đã đưa ra định
nghĩa về logistics như sau: “Logistics là nghệ thuật và khoa học về quản lý, các hoạt
động kỹ thuật và chuyên môn liên quan tới các yêu cầu, thiết kế và cung ứng, bảo
quản các nguồn lực để hỗ trợ các mục tiêu, các kế hoạch và quá trình hoạt động” .
Trong giai đoạn này, logistics được coi là một ngành khoa học về quản lý tạo ra giá trị lợi
ích cho các bên tham gia hệ thống cung ứng. Tuy nhiên, logistics không được coi là một
khoa học chính nghĩa, bởi logistics không tuân theo một tập hợp các khuôn mẫu định
1
2
Nguồn truy cập ngày 10/6/2013.
Tài liệu khóa đào tạo “The 2nd train the trainer in Japan”, tháng 4 năm 2013.
7
trước hay các kỹ năng đã có từ khi xuất hiện. logistics trong từng lĩnh vực, từng trường
hợp cụ thể được áp dụng theo một cách riêng. Người quản lý logistics thực hiện các
nhiệm vụ của mình dựa trên kiến thức, các kỹ năng được đào tạo, những kinh nghiệm
từng trải qua hoặc được giảng dạy và phải không ngừng trau dồi, áp dụng các kiến thức,
kỹ năng đó. Điều này cho thấy logistics là không ngừng phát triển, luôn luôn hoàn thiện
nhằm đạt được hiệu quả tổng thể cao hơn.
Vào những năm 90 logistics thực sự bùng nổ và phát triển mạnh mẽ và khái niệm
logistics cũng có sự thay đổi tương ứng. D.Browersox, D.Closs (1996) đưa ra định nghĩa
“Logistics là việc tổ chức các hoạt động thực tiễn cần thiết nhằm thực hiện một kế
hoạch phức hợp thành công khi mà kế hoạch đó liên quan đến nhiều người và trang
thiết bị”3.
Hội đồng quản trị logistics (Council of Logistics Management – CLM) - một tổ
chức chuyên môn bao gồm các nhà quản trị logistics, những người làm việc trong lĩnh
vực đào tạo và những người thực tế làm việc trong lĩnh vực logistics, được thành lập năm
1962 với mục đích duy trì công tác đào tạo và thúc đẩy việc trao đổi ý tưởng - đã đưa ra
khái niệm về logistics như sau: “Logistics là quá trình lập kế hoạch, thực hiện và kiểm
soát các luồng lưu chuyển và lưu kho nguyên vật liệu, sản phẩm dở dang, thành
phẩm0020và thông tin liên quan có hiệu suất cao và hiệu quả về mặt chi phí từ điểm
khởi nguồn cho đến điểm tiêu thụ nhằm mục đích thỏa mãn các yêu cầu của khách
hàng” . Khái niệm này đã đề cập đến logistics đầu vào, logistics đầu ra và cả logistics
ngược, tuy nhiên vẫn còn hai điểm hạn chế. Thứ nhất, khái niệm này nhấn mạnh tới việc
lưu chuyển dòng hàng hóa vật chất. Thực tế, nhiều doanh nghiệp sản xuất sản phẩm dịch
vụ thay vì sản phẩm vật chất cũng có nhiều vấn đề liên quan tới logistics và cũng có thể
thu được lợi ích từ hoạt động quản trị logistics. Thứ hai, khái niệm do CLM đưa ra hàm
chứa ngụ ý rằng các nhà logistics học quan tâm tới mọi luồng hàng hóa đi vào và đi ra từ
doanh nghiệp của anh ta. Trách nhiệm này phát sinh nhằm mở rộng sang các luồng sản
phẩm xuyên suốt quá trình sản xuất. Các nhà logistics học sẽ không thực hiện các quy
trình sản xuất tỉ mỉ như kiểm soát hàng tồn kho dở dang, lập kế hoạch cho máy móc thiết
vị, hay thực hiện quản lý chất lượng và loại bỏ các hoạt động này trong những cân nhắc
sắp tới. Ngoài ra, hoạt động bảo dưỡng trong khái niệm logistics quân đội cũng được loại
bỏ. Nhiệm vụ của nhà logistics học là cung cấp sản phẩm và dịch vụ tới khách hàng dựa
theo nhu cầu và yêu cầu của họ bằng cách thức hiệu quả nhất có thể. Nói cách khác,
nhiệm vụ của logistics là đưa đúng sản phẩm và dịch vụ tới đúng địa điểm, vào đúng thời
điểm trong điều kiện mong muốn, đồng thời mang lại những đóng góp lớn nhất cho
doanh nghiệp”4.
Trong cuốn “The handbook of logistics and distribution management” (2000),
nhóm tác giả đã đưa ra một định nghĩa rất ngắn gọn: “Logistics là nghệ thuật và khoa
học giúp quản trị và kiểm soát dòng chảy của hàng hóa, năng lượng, thông tin và
3
Donal J.Browersox, David J.Closs, 1996, “Logistics management”, Mcgraw-Hill company.
Ronald H.Ballou, 1999, “Business Logistics Manadement”, 4th edition, Prentice Hall, Upper Saddle River, New
Jersey 07458.
4
8
những nguồn lực khác”5. Nhìn chung, các khái niệm trên đều thể hiện được logistics đề
cập đến quá trình quản lý luồng lưu chuyển các nguồn lực như vật tư, nhân lực, thông tin,
… nhằm thực hiện một kế hoạch nhất định. Quá trình này bắt đầu từ bước lập kế hoạch,
tổ chức thực hiện, phân phối, quản lý, kiểm soát luồng lưu chuyển nguồn lực nhằm mục
tiêu cuối cùng là kế hoạch được thực hiện thành công.
Hiện nay, khái niệm logistics đang được sử dụng và công nhận trên toàn thế giới là
khái niệm do Hội đồng Các chuyên gia Quản trị Chuỗi cung ứng (Council of Supply
Chain Management Professionals, 2005) đưa ra, theo đó “Logistics là bộ phận của quản
trị chuỗi cung ứng thực hiện kế hoạch và kiểm soát tính hiệu quả và kết quả của các
luồng lưu chuyển và của việc lưu kho hàng hóa, dịch vụ và thông tin liên quan giữa
điểm khởi nguồn và điểm tiêu thụ nhằm đáp ứng nhu cầu khách hàng”. Khái niệm này
đề cập trực tiếp tới tầm quan trọng của tính hiệu quả và kết quả và đồng thời nhấn mạnh
đặc điểm chức năng của logistics. Tuy nhiên, khái niệm này chưa thể hiện một cách tổng
quát về logistics do cụm từ “nhằm đáp ứng nhu cầu khách hàng” khiến khái niệm này
thiên về logistics kinh doanh hơn.
Xét trên phương diện đáp ứng nhu cầu của đối tượng phục vụ, logistics được hiểu
là cung cấp đúng sản phẩm, đúng thời gian, đúng địa điểm. Cùng với quá trình phát triển
mạnh mẽ của logistics và nhu cầu ngày càng tăng từ phía khách hàng, việc đáp ứng các
nhu cầu này không chỉ dừng lại ở 3 đúng – đúng sản phẩm, đúng thời gian, đúng địa điểm
mà đòi hỏi các nhu cầu đó được đáp ứng ở mức độ dịch vụ cao hơn. Do vậy, các tiêu chí
mới dần được bổ sung. Quan điểm mới nhất hiện nay là Quan điểm 7 Đúng (7 Rights)
được phát biểu như sau: “Logistics là quá trình cung cấp đúng sản phẩm với đúng số
lượng và đúng điều kiện tới đúng địa điểm vào đúng thời gian cho đúng khách hàng
với đúng giá cả”6. Điều này cũng cho thấy, cách hiểu cũng như quan niệm về logistics
không ngừng được cải tiến, phát triển để phù hợp với những đòi hỏi thực tiễn.
Có thể thấy rằng, các khái niệm logistics xuất hiện từ những năm 80 của thế kỷ XX
thiên nhiều về logistics kinh doanh. Và khi nhắc đến logistics, nhiều người vẫn lầm tưởng
rằng logistics chỉ áp dụng trong kinh doanh mà chưa hiểu hết được những ứng khác của
logistics trong nhiều lĩnh vực khác nữa.
Mặc dù có nhiều khái niệm khác nhau về logistics nhưng các khái niệm đều thể hiện
cách hiểu chung về logistics như sau:
- Trước hết, cần khẳng định logistics là khoa học và là nghệ thuật về tổ chức và
quản lý nhằm sử dụng các nguồn lực một cách tối ưu. Logistics là khoa học bởi logistics
nghiên cứu các quy luật và nguyên tắc quản lý để sử dụng tối ưu hóa các nguồn lực.
Logistics cũng đồng thời là một nghệ thuật vì các quy luật và nguyên tắc trong logistics
được áp dụng một cách linh hoạt và đa dạng trong thực tiễn, tùy theo từng trường hợp,
điều kiện và phạm vi áp dụng cụ thể mà không tuân theo bất kỳ khuôn mẫu nhất định
5
Alan Rushton-Phil Croucher-Peter Baker, 2006, The handbook of Logistics and distribution management 3 rd
edition, Great Britain ISMN 0-7494-4669-2, PP6.
6
Paul M.Swamidass, 2000, “Encyclopedia of production and manufacturing management”, Kluwer Academic
Publisher.
9
nào. Logistics hỗ trợ cho một kế hoạch hoặc một quá trình hoạt động cụ thể để toàn bộ kế
hoạch/quá trình đó được thực hiện thành công.
- Logistics tồn tại ở cả hai cấp độ: hoạch định và tổ chức 7. Ở cấp độ hoạch định,
các hoạt động logistics được lập kế hoạch, tính toán hiệu quả và lựa chọn các phương án
tối ưu nhất. Cấp độ tổ chức đề cập tới việc tiến hành thực hiện các hoạt động Logistics đó
trên thực tế đồng thời kiểm soát, quản lý toàn bộ quá trình hoạt động, phối hợp giữa các
quá trình để toàn bộ hệ thống hoạt động nhịp nhàng, hiệu quả dựa trên kế hoạch đề ra.
- Logistics là một quá trình tức là một chuỗi các hoạt động liên tục, có quan hệ mật
thiết và tương tác với nhau chứ không phải các hoạt động riêng lẻ. Các hoạt động này
xuất hiện trong tất cả các khâu từ lập kế hoạch, tổ chức thực hiện, kiểm soát, phân phối,
dự trữ các nguồn lực và được lập kế hoạch, thực hiện, quản lý, phối hợp và phát triển
một cách hệ thống, tối ưu nhất nhằm mang lại hiệu quả cho toàn bộ hệ thống. Nói cách
khác, logistics bao trùm toàn bộ quá trình quản lý và phân phối nguồn lực từ điểm đầu tới
điểm cuối của chuỗi cung ứng.
- Logistics đề cập tới các nguồn lực được lưu chuyển, dự trữ trong hệ thống.
Những nguồn lực này có thể là hữu hình (nguyên vật liệu thô, con người, trang thiết bị,
…) hoặc vô hình (thông tin, tài chính, công nghệ,…), tham gia vào các quá trình hoạt
động (cung ứng, sản xuất, phục vụ, vận chuyển, bán hàng, đào tạo,…) từ điểm đầu tới
điểm đích. Nói cách khác, logistics đề cập tới hai luồng lưu chuyển: luồng vật chất và
luồng thông tin. Mục tiêu trọng tâm của logistics là sử dụng và phân phối hiệu quả các
nguồn lực này đúng nơi, đúng lúc, trong đúng tình trạng và với đúng chi phí.
Logistics phát triển và được ứng dụng mạnh mẽ trong nhiều lĩnh vực, hình thành
nên các ngành logistics khác nhau như logistics kinh doanh, logistics y tế, logistics giáo
dục, logistics nội đô, logistics xanh và nhiều lĩnh vực khác nữa. Đối tượng quản lý và
mục tiêu hoạt động khác nhau của logistics trong mỗi lĩnh vực không giống nhau.
Logistics quân sự (Military Logistics) thiết kế và phối hợp các phương diện hỗ trợ và các
thiết bị cho các chiến dịch và trận đánh của lực lượng quân đội, đảm bảo sự sẵn sàng,
chính xác và hiệu quả cho các hoạt động này. Logistics sự kiện (Event Logistics) là tập
hợp các hoạt động, các phương tiện vật chất kỹ thuật và con người cần thiết để tổ chức,
sắp xếp lịch trình, nhằm triển khai các nguồn lực cho một sự kiện được diễn ra hiệu quả
và kết thúc tốt đẹp. Logistics dịch vụ (Service Logistics) bao gồm các hoạt động thu nhận,
lập chương trình, và quản trị các điều kiện cơ sở vật chất/ tài sản, con người, và vật liệu
nhằm hỗ trợ và duy trì cho các quá trình dịch vụ hoặc các hoạt động kinh doanh.
Logistics y tế (Hospital Logistics) trong các bệnh viện không chỉ bao gồm các dịch vụ
như thu mua đầu vào, lưu kho và dược phẩm mà còn gồm các dịch vụ chăm sóc sức khỏe
như các gói dịch vụ chăm sóc bệnh nhân hay dịch vụ về phòng phẫu thuật. Logistics xanh
(Green Logistics) chú trọng tới việc sử dụng tối ưu các phương tiện vận tải, giảm lượng
7
GS.TS Hoàng Văn Châu. TS. Trịnh Thị Thu Hương, Th.S Vương Thị Bích Ngà, 2009, Giáo trình Logistics và
vận tải quốc tế - Đại học Ngoại thương Hà Nôi, NXB Thông tin và Truyền thông.
10
khí thải các bon, tái chế nguyên vật liệu đóng gói cũng như các tác động xấu khác do
hoạt động logistics gây ra cho môi trường.
Tuy được áp dụng trong nhiều lĩnh vực nhưng logistics kinh doanh phát triển mạnh
mẽ nhất, ghi nhận nhiều dấu mốc phát triển quan trọng của logistics. Chính những lợi ích
về tiết kiệm chi phí và tạo dựng lợi thế cạnh tranh cho doanh nghiệp nhờ áp dụng
logistics trong sản xuất kinh doanh đã khiến cho logistics kinh doanh được ứng dụng
rộng rãi nhất. Bước sang thế kỷ 21, logistics không ngừng phát triển và đã tiến lên hình
thái mới là quản trị chuỗi cung ứng (supply chain management) và hiện nay đã xuất hiện
mạng lưới logistics toàn cầu (global logistics) liên kết các hoạt động logistics giữa các
quốc gia.
Do vậy, các nội dung tiếp theo của giáo trình này chỉ tập trung nghiên cứu về
logistics kinh doanh, gọi tắt là logistics.
1.2
Quá trình phát triển của logistics
1.2.1
Các giai đoạn phát triển của logistics
Theo Ủy ban Kinh tế Xã hội Châu Á–Thái Bình Dương (Economic and Social
Commision for Asia and the Pacific – ESCAP) quá trình phát triển của logistics bao gồm
ba giai đoạn chính sau đây:
1.2.1.1 Giai đoạn 1960-1970: Phân phối vật chất
Trong những năm 50 của thế kỷ 20, logistics được xem như các hoạt động chức
năng riêng lẻ, hệ thống phân phối không được lập kế hoạch hay tính toán trước, các bên
tham gia hoạt động phân phối như nhà sản xuất, người bán lẻ, khách hàng không có mối
liên hệ chặt chẽ với nhau. Bước sang những năm 60, người ta bắt đầu chú ý tới việc kết
nối các hoạt động có liên quan tới nhau như vận tải, quản trị tồn kho, xử lý nguyên vật
liệu, đóng gói, phân loại, dán nhãn v.v. để quản lý một cách có hệ thống và hiệu quả hơn.
Khái niệm “phân phối vật chất” được hình thành để thể hiện sự kết hợp giữa các hoạt
động kể trên. Đây chính là hoạt động phân phối bên ngoài doanh nghiệp hay còn gọi là
“Outbound Logistics”.
1.2.1.2 Giai đoạn 1980-1990: Chuỗi Logistics/Hệ thống Logistics
Trong những năm 80, nhận thức trước đây về logistics như gánh nặng chi phí đã
thay đổi, logistics được nhìn nhận là một lĩnh vực có thể cải thiện hoạt động quản lý, tăng
cường hiệu quả hoạt động. Các doanh nghiệp đã chú trọng đến việc kết hợp hoạt động
cung ứng đầu vào (Inbound Logistics) và phân phối đầu ra (Outbound Logistics), hình
thành nên hệ thống logistics (logistics system) để tăng mức dịch vụ khách hàng và giảm
chi phí. Mối quan hệ với các nhà cung cấp trở nên mật thiết hơn và hoạt động quản lý
nguồn nguyên vật liệu đầu vào được tăng cường, từ đó nâng cao chất lượng sản phẩm,
tạo lợi thế cạnh tranh về giá. Cùng với sự phát triển của hệ thống Kanban, Just-In-Time
và hệ thống lập kế hoạch nhu cầu nguyên vật liệu (Material Requirement Planning
11
systems) đã góp phần làm giảm chi phí sản xuất của doanh nghiệp thông qua việc giảm
tồn kho.
Có thể thấy, toàn bộ các hoạt động logistics từ nhà cung cấp tới nhà sản xuất và
cuối cùng là tới khách hàng đều được tích hợp và quản lý một cách hệ thống, toàn diện,
tạo thành một chuỗi logistics nhằm tạo hiệu quả chung cho toàn hệ thống. Tầm quan
trọng của dòng thông tin và dòng vật chất trong hệ thống logistics cũng được nhấn mạnh.
1.2.1.3 Giai đoạn 2000 - nay: Quản trị chuỗi cung ứng
Bước sang giai đoạn này, chuỗi logistics được quản lý từ nhà cung cấp tới nhà sản
xuất và cuối cùng là người tiêu dùng. Tức là, ngoài logistics đầu vào và logistics đầu ra
thì các hoạt động như hệ thống theo dõi, kiểm tra sản phẩm, lập các chứng từ liên quan
nhằm làm tăng giá trị sản phẩm cũng được bao gồm trong chuỗi. Kéo theo đó là sự phát
triển mối quan hệ với các bên liên quan khác như người giao nhận, kho bãi, vận tải,
người cung cấp công nghệ thông tin. Hoạt động quản lý mang tính chiến lược này được
gọi là quản trị chuỗi cung ứng.
Song song với sự phát triển của logistics là sự xuất hiện của các công ty cung cấp
dịch vụ logistic (Logistics Service Providers). Ban đầu khi chưa có nhà cung cấp dịch vụ
logistics thì trên thị trường tồn tại các công ty giao nhận hay người kinh doanh dịch vụ
giao nhận chuyên thực hiện các dịch vụ giao nhận. Dịch vụ giao nhận là bất kỳ dịch vụ
nào liên quan đến vận chuyển, gom hàng, lưu kho, bốc xếp, đóng gói, phân phối hàng
hóa, các dịch vụ tư vấn hay có liên quan đến các dịch vụ trên, kể cả các vấn đề về hải
quan, tài chính, bảo hiểm, thanh toán, thu thập chứng từ liên quan đến hàng hóa (Theo
quy tắc mẫu của Liên đoàn các Hiệp hội Giao nhận Quốc tế - FIATA). Cùng với sự phát
triển của logistics, nhu cầu của khách hàng ngày càng tăng cả về lượng và chất, đòi hỏi
các công ty phải cung ứng nhiều dịch vụ liên hoàn tích hợp với quá trình hoạt động chính
yếu của khách hàng. Do vậy, các công ty cung cấp dịch vụ logistics xuất hiện, tiền thân là
công ty giao nhận, kho bãi hoặc hãng vận tải. Ví dụ, rất nhiều doanh nghiệp giao nhận đã
đổi tên thành công ty kinh doanh dịch vụ logistics hoặc thành lập các công ty cung cấp
dịch vụ logistics như Mearsk Logistics, MOL Logistics, APL Logistics, NYK Logistics.
Đây chính là các nhà cung cấp dịch vụ logistics bên thứ ba (3PL – Third Party Logistics),
là một doanh nghiệp độc lập chuyên cung cấp các dịch vụ logistics dưới danh nghĩa của
khách hàng.
Hiện nay, 3PL đang phát triển rất rộng rãi, tuy nhiên trong tương lai với những tiến
bộ lớn và thay đổi lớn trong khoa học công nghệ các cách thức sản xuất, các dịch vụ
logistics sẽ còn tiếp tục phát triển sang các hình thức cao hơn là 4PL hay 5PL, hình thành
nên mạng lưới logistics toàn cầu (global logistics).
12
Hình 1.1 Các giai đoạn phát triển logistics theo trình độ kiến thức8
Hình 1.1 thể hiện bốn giai đoạn phát triển logistics theo trình độ kiến thức về
logistics của doanh nghiệp và con đường phát triển từ trình độ kiến thức thấp nhất tới cao
nhất. Đôi khi hai giai đoạn phát triển cao nhất được gộp thành một giai đoạn. Trong hai
giai đoạn đầu, các quy trình logistics chú trọng vào hiệu quả đạt được thông qua chuyên
môn hóa và phối hợp chức năng chéo giữa các luồng lưu chuyển nguồn lực. Bước sang
giai đoạn thứ ba và thứ tư, phạm vi của hoạt động logistics đã thay đổi rõ rệt. Logistics
trở thành một chức năng quản lý với mục tiêu định hướng quy trình và định hướng luồng
lưu chuyển xuyên suốt toàn bộ tổ chức, từ đó khuyến khích lối tư duy và hoạt động trong
logistics vượt ra khỏi khuôn khổ bộ phận logistics riêng rẽ. Tuy nhiên, dù đạt tới cấp độ
phát triển cao hơn nhưng các chức năng nhưng các doanh nghiệp vẫn cần chú ý tới các
chức năng logistics cơ bản ở cấp độ phát triển thấp hơn.
8
Weber, J., 2002, Logistikkostenrechnung, 2nd edition, Berlin.
13
Hình 1.2 Các giai đoạn phát triển của logistics
theo mức độ tích hợp các hoạt động chức năng9
Hình 1.2 thể hiện quá trình phát triển của logistics cụ thể hơn theo các hoạt động
chức năng cụ thể trong quá trình sản xuất kinh doanh. Các hoạt động chức năng riêng rẽ
trong doanh nghiệp được tích hợp từ bên trong khu vực chức năng đó như quản trị
nguyên vật liệu, hoạt động kho hàng hay phân phối vật chất. Các nhóm hoạt động này lại
được tích hợp chéo với các hoạt động chức năng khác trong doanh nghiệp và tích hợp với
các hoạt động chức năng của các tổ chức khác ngoài doanh nghiệp để phát triển lên hình
thái cao hơn của logistics là quản trị chuỗi cung ứng.
1.2.2 Các điều kiện phát triển logistics
Trong những thập niên cuối thế kỷ XX, trên thế giới có nhiều thay đổi lớn trong các
lĩnh vực sản xuất, điện tử, viễn thông, vận tải, … và trong quan điểm quản lý đã tạo điều
kiện cho sự phát triển mạnh mẽ của logistics.
1.2.2.1 Máy tính hóa (Computerization)
Máy tính xuất hiện vào những năm 60 của thế kỷ XX và nhanh chóng phát triển và
được ứng dụng trong nhiều lĩnh vực. Máy tính hóa cho phép cập nhật, thao tác và xử lý
khối lượng dữ liệu, thông tin lớn một cách nhanh chóng, chính xác. Trong nghiệp vụ
logistics, máy tính là công cụ chủ đạo trong việc trao đổi thông tin, quản lý hàng tồn kho,
tính toán các chi phí. Tại các nước phát triển, bộ phận logistics là nơi sử dụng nguồn vật
chất máy vi tính lớn nhất trong doanh nghiệp.
1.2.2.2 Cách mạng viễn thông
Những tiến bộ của ngành viễn thông nói chung và công nghệ thông tin nói riêng có
ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả hoạt động logistics. Từ những năm 80, người ta đã sử
dụng công nghệ mã vạch (bar code) để cải tiến hoạt động logistics. Trao đổi thông tin
điện tử (EDI - electronic data interchange) cũng bắt đầu được sử dụng giữa khách hàng
và nhà cung ứng để truyền tải và tiếp nhận dữ liệu giữa các cơ sở kinh doanh trong và
ngoài doanh nghiệp. Ngoài ra còn phải kể đến vệ tinh, máy fax, máy photo và các dụng
cụ ghi băng, ghi hình khác, nhờ những phương tiện này mà người ta có được thông tin
cập nhật liên tục và chính xác trong quá trình thực hiện hoạt động logistics.
1.2.2.3 Quản lý chất lượng
Quan điểm quản trị chất lượng đồng bộ (TQM – Total Quality Management) là
động cơ quan trọng nhất trong việc thúc đẩy hoạt động logistics. Thời kỳ sau Chiến tranh
Thế giới II, các doanh nghiệp ngày càng quan tâm đến chất lượng hàng hoá và tính hiệu
quả của các quy trình sản xuất. Sản phẩm tốt mà đến muộn so với yêu cầu hoặc bị hư hại
đều không thể chấp nhận được. Việc thực hiện các công việc logistics không hiệu quả sẽ
làm tổn hại đến các sáng kiến cải tiến chất lượng. Từ đó, các doanh nghiệp nhận ra rằng
logistics là lĩnh vực có thể giúp họ cải thiện hoạt động quản lý. Quan điểm “không sai
9
Alfred J. Battaglia, reproduced by Natalie David
14
hỏng - zero defects” và “làm đúng ngay từ lần đầu tiên - doing things right the first time”
trong TQM đã được áp dụng rộng rãi trong lĩnh vực logistics.
1.2.2.4 Đối tác và đồng minh chiến lược
Sang thập kỷ 80, các doanh nghiệp bắt đầu nhận thấy rằng phải coi các khách hàng
và các nhà cung ứng như đồng minh chiến lược hay các đối tác kinh doanh. Chính sự hợp
tác, liên kết giữa các bên là cơ sở để hoạt động logistics đạt được hiệu quả ngày càng cao,
giảm sự chồng chéo, hao phí không cần thiết, tập trung vào hoạt động kinh doanh, đẩy
mạnh hiệu quả chung. Do vậy, việc tạo mối liên kết mật thiết giữa các thành phần này
được các doanh nghiệp chú trọng hơn trước.
Những tiến bộ trong khoa học kỹ thuật, lý thuyết quản lý và công nghệ thông tin kể
trên đã thúc đẩy logistics lớn mạnh theo thời gian về cả quy mô và tầm ảnh hưởng, tạo
nên một làn sóng tư duy đổi mới về tất cả các khía cạnh của hoạt động logistics tại các
doanh nghiệp từ những năm 1960 cho đến nay.
1.2.3 Xu hướng phát triển logistics
Trong tương lai, hoạt động logistics sẽ không ngừng phát triển nhằm đáp ứng nhu
cầu khách hàng với các dịch vụ ngày càng hoàn thiện hơn. Những xu hướng phát triển
chính trong hoạt động logistics như sau:
1.2.3.1Ứng dụng công nghệ thông tin và thương mại điện tử
Cuộc sống hiện đại và hối hả đòi hỏi các nhu cầu phải được đáp ứng mọi lúc, mọi nơi
theo cách thức làm hài lòng khách hàng nhất. Điều đó đòi hỏi các hoạt động cung ứng
phải nhanh chóng nắm bắt và đáp ứng các nhu cầu đó mà quan trọng nhất là thông tin và
các tiện ích mà các dịch vụ mang lại cho khách hàng. Ứng dụng công nghệ thông tin và
thương mại điện tử giúp cho việc cập nhật, xử lý và truyền tải thông tin nhanh chóng,
hiệu quả giữa các bên trong hệ thống cung ứng, tạo ra tiện ích cho khách hàng về thời
gian, không gian và sự thuận tiện đồng thời đẩy nhanh tốc độ giao dịch.
1.2.3.2 Ứng dụng phương pháp quản lý logistics kéo
Phương pháp quản lý kéo tức là nhu cầu của khách hàng kéo sản phẩm dịch vụ từ
nhà sản xuất về phía thị trường. Theo đó, hoạt động sản xuất được thực hiện dựa trên nhu
cầu từ phía khách hàng nói cách khác khi nhu cầu của khách hàng xuất hiện thì sản phẩm
mới được sản xuất/lắp ráp, dịch vụ mới được cung ứng. Điều này giúp các nhà sản xuất
giảm chi phí nhờ giảm lượng tồn kho, rút ngắn chu trình sản xuất, giảm vốn lưu động,
phản ứng nhanh trước sự thay đổi của thị trường, đồng thời đáp ứng được các nhu cầu đa
dạng của khách hàng.
1.2.3.3 Xu hướng thuê ngoài dịch vụ logistics từ các công ty cung cấp dịch vụ
logistics chuyên nghiệp
Gần đây, nhu cầu thuê ngoài một phần hoặc toàn bộ hoạt động logistics của các
doanh nghiệp đang tăng lên. Thuê ngoài giúp doanh nghiệp loại bỏ các dịch vụ tự thực
hiện (1PL) không hiệu quả. Nhờ vậy, các doanh nghiệp sẽ tập trung vào các hoạt động
15
cốt lõi, giảm chi phí vốn đầu tư, tận dụng được những lợi ích từ các dịch vụ được cung
cấp một cách chuyên nghiệp và nâng cao hiệu quả hoạt động. Một số dịch vụ được thuê
ngoài phổ biến như dịch vụ vận tải, kho bãi, công nghệ thông tin, dịch vụ cung cấp
thuyền viên.
Ngoài ra, trong lĩnh vực logistics còn nhiều xu hướng phát triển khác nữa như giảm
số lượng nhà cung cấp, mở rộng mạng lưới hoạt động logistics ra toàn cầu, chú trọng tới
các vấn đề về môi trường …
1.3 Vị trí và vai trò của logistics
1.3.1 Đối với nền kinh tế
1.3.1.1 Logistics thúc đẩy hoạt động thương mại phát triển thông qua việc hỗ trợ
các luồng chu chuyển kinh tế
Cụ thể, logistics đưa hàng hóa/dịch vụ đến tay người tiêu dùng cuối cùng theo cách
thức nhanh nhất, hiệu quả nhất, đáp ứng yêu cầu khách hàng với đúng sản phẩm, đúng
địa điểm, đúng thời gian, đúng mức giá, đúng điều kiện. Nhờ vậy, luồng hàng hóa dịch
vụ lưu chuyển liên tục, không tắc nghẽn, thúc đấy hoạt động mua bán hàng hóa, cung
ứng dịch vụ diễn ra trên thị trường. Nếu như sự tắc nghẽn xảy ra tại một điểm nào đó
trong mạng lưới, thì sẽ gây thiệt hại cho chính hoạt động logistics đó và cho toàn nền
kinh tế. Ví dụ, nếu sản phẩm không đến đúng lúc hoặc không thỏa mãn các điều kiện đã
thỏa thuận khiến khách hàng không mua hàng thì hoạt động mua bán sẽ không diễn ra,
nhà cung ứng không bán được hàng và do đó hiệu quả của nền kinh tế không tăng thêm.
Như vậy, nền kinh tế chỉ phát triển nhịp nhàng, đồng bộ khi mà chuỗi logistics hoạt động
nhịp nhàng, liên tục.
1.3.1.2 Logistics nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh cho nền kinh tế
Logistics là mối liên kết kinh tế xuyên suốt gần như toàn bộ quá trình sản xuất, lưu
thông và phân phối hàng hóa. Chi phí logistics giảm là điều kiện thuận lợi cho hoạt động
xuất khẩu và tăng trưởng kinh tế của quốc gia, từ đó tăng khả năng hội nhập với các quốc
gia trên thế giới. Ngày nay, khả năng cạnh tranh của các nền kinh tế được đánh giá thông
qua trình độ phát triển và chi phí logistics của mỗi nước. Các nước sớm phát triển dịch vụ
logistics như Singapore, Nhật Bản, Trung Quốc, Hồng Kông… đã trở thành các trung
tâm logistics lớn của thế giới, gặt hái nhiều thành tựu tăng trưởng kinh tế. Điều này cho
thấy logistics có vai trò quan trọng để phát triển kinh tế đất nước.
1.3.2 Đối với doanh nghiệp
Chuỗi logistics bao gồm hàng loạt các hoạt động theo đó các nguồn tài nguyên được
biến đổi thành sản phẩm, quan trọng hơn là giá trị của chúng tăng lên không chỉ cho
khách hàng mà cho cả nhà sản xuất, thỏa mãn nhu cầu của các bên. Đối với doanh
nghiệp, logistics phục vụ đắc lực cho hoạt động sản xuất kinh doanh cốt lõi đồng thời
cũng mang lại lợi thế thương mại cho doanh nghiệp.
16
1.3.2.1 Logistics giúp giải quyết đầu vào và đầu ra của doanh nghiệp một cách hiệu
quả nhờ tối ưu hóa quá trình chu chuyển nguyên vật liệu, hàng hóa, dịch vụ
Về đầu vào, logistics giúp doanh nghiệp kiểm soát chất lượng và số lượng các
nguồn cung luôn đáp ứng nhu cầu sản xuất đúng thời gian, đúng địa điểm, đảm bảo quá
trình sản xuất kinh doanh được tiến hành liên tục. Về đầu ra, logistics phân phối sản
phẩm dịch vụ tới khách hàng một cách mau chóng, hiệu quả thông qua mạng lưới phân
phối, góp phần đẩy nhanh quá trình tiêu thụ và vòng quay của vốn.
1.3.2.2 Logistics góp phần nâng cao hiệu quả quản lý, giảm thiểu chi phí, tăng khả
năng cạnh tranh cho doanh nghiệp
Nhờ tích hợp chuỗi các hoạt động logistics một cách tối ưu, logistics tạo nên một hệ
thống cung ứng thống nhất giúp cho hoạt động quản lý có hệ thống và hiệu quả hơn. Hệ
thống JIT giúp giảm lượng tồn kho, đáp ứng kịp thời nhu cầu khách hàng cùng với việc
tiêu chuẩn hóa các chứng từ trong lưu thông đã góp phần làm giảm chi phí logistics từ đó
tạo lợi thế cạnh tranh cho doanh nghiệp. Nhiều doanh nghiệp đã gặt hái thành công lớn
nhờ có chiến lược và hoạt động logistics đúng đắn, ngược lại có không ít doanh nghiệp
gặp khó khăn, thậm chí thất bại, phá sản những quyết định sai lầm trong hoạt động
logistics. Ví dụ: chọn sai vị trí đặt kho hàng hoặc trung tâm phân phối khiến luồng hàng
hóa ra vào không thuận lợi hoặc tổ chức vận chuyển không hiệu quả có thể khiến cho chi
phí vận chuyển cao/dẫn đến tổn thất về hàng hóa sẽ làm mất lợi thế cạnh tranh của doanh
nghiệp. Ngày nay, các tập đoàn đa quốc gia, các công ty đủ mạnh đã và đang nỗ lực tìm
kiếm trên toàn cầu với mong muốn tìm được nguồn nguyên liệu, nhân công, vốn, bí quyết
công nghệ, thị trường tiêu thụ, môi trường kinh doanh… tốt nhất, tạo điều kiện thuận lợi
cho hoạt động kinh doanh hiệu quả hơn. Đây là nguyên do để logistics toàn cầu hình
thành và phát triển.
1.3.2.3 Logistics hỗ trợ đắc lực cho hoạt động marketing, đặc biệt là marketing hỗn
hợp
Marketing hỗn hợp bao gồm 4 yếu tố (4P) gồm sản phẩm (Product), giá cả (Price),
chiêu thị (Promotion) và địa điểm (Place). Logistics thực hiện và kiểm soát chuỗi các
hoạt động liên hoàn để đưa đúng sản phẩm (Right Product) đến đúng thời gian, đúng địa
điểm (Right Place). Điều này giúp cho giá trị sản phẩm/dịch vụ khách hàng nhận được
cũng như mức độ hài lòng của khách hàng cao hơn khi mà các nhu cầu được đáp ứng
nhanh chóng, đúng nơi, đúng lúc. Như vậy, logistics giúp phối hợp các biến số marketing
hỗn hợp, gia tăng sự hài lòng của khách hàng, trực tiếp làm giảm chi phí, gián tiếp làm
tăng lợi nhuận của doanh nghiệp trong dài hạn.
1.4 Lợi thế so sánh nhờ logistics
Có rất nhiều nền tảng cho sự thành công của một doanh nghiệp trên thị trường.
Nguồn gốc của lợi thế cạnh tranh trước tiên là ở khả năng phân biệt doanh nghiệp đó với
các doanh nghiệp khác trong mắt khách hàng và với đối thủ cạnh tranh và thứ hai là nhờ
hoạt động với chi phí thấp hơn do đó thu được lợi nhuận cao hơn. Tìm kiếm lợi thế cạnh
17
tranh để có thể phòng vệ và chống đỡ đã trở thành mối quan tâm của mọi nhà quản lý
nhận thức được thực tiễn thị trường kinh doanh. Quan điểm hàng hóa tốt sẽ tự bán được
không còn được công nhận nữa, và tương tự với giả định rằng thành công của hôm nay sẽ
kéo dài tới ngày mai.
Những quan điểm về logistics đã thay đổi đáng kể trong những năm gần đây. Từ rất
lâu, người ta cho rằng các yếu tố trong logistics chỉ đơn thuần làm tăng chi phí cho các
doanh nghiệp đang cố gắng bán sản phẩm trên thị trường. Tất nhiên, trong các yếu tố đó
có chi phí vận chuyển và lưu kho hàng hóa nhưng giờ đây người ta nhận thấy rằng
logistics cũng đóng góp tích cực vào giá trị của một sản phẩm do hoạt động logistics
cung cấp các phương tiện mà nhờ đó sản phẩm được đưa tới khách hàng/người tiêu dùng
cuối cùng trong điều kiện tốt nhất và tới địa điểm được yêu cầu.
Thành công thương mại xuất phát từ lợi thế chi phí hoặc lợi thế giá trị, hoặc lý
tưởng nhất là cả hai. Đối thủ thu được nhiều lợi nhuận nhất trong mọi lĩnh vực có xu
hướng trở thành nhà sản xuất với chi phí thấp nhất hoặc nhà cung cấp cung ứng sản phẩm
với những giá trị khác biệt. Các doanh nghiệp thành công hoặc là có lợi thế về chi phí
hoặc có lợi thế về giá trị, hoặc kết hợp cả hai. Lợi thế về chi phí mang lại chi phí thấp
hơn và lợi thế giá trị mang lại những sản phẩm hoặc đưa ra những giá trị tăng thêm khác
biệt so với đề nghị của đối thủ cạnh tranh.
Do vậy các công ty có thể cạnh tranh trên cơ sở cung cấp sản phẩm với chi phí thấp
nhất có thể (vì vậy khách hàng sẽ mua sản phẩm vì nó ít tốn kém nhất) hoặc có giá trị cao
nhất có thể đối với khách hàng (ví dụ sản phẩm ở chính xác địa điểm và theo cách khách
hàng muốn). Thật sự, một số công ty cố gắng đạt được cả hai mục tiêu này. Ngày nay
điều này rất quan trọng do không có nhiều sản phẩm được bán chỉ dựa trên nhãn hiệu,
trên thực tế các sản phẩm hàng hóa được bán trên cơ sở sự sẵn có hoặc giá cả. Điều này
đúng với mặt hàng thực phẩm cũng như sản phẩm kỹ thuật như điện thoạt di động hoặc
máy tính cá nhân.
18
Hình 1.3 Hai phương pháp để đạt được lợi thế cạnh tranh10
Hình 1.3 thể hiện các ý tưởng trên. Một công ty có thể cạnh tranh như người dẫn
đầu về dịch vụ, cố gắng đạt được lợi thế so với các đối thủ cạnh tranh khác thông qua
việc cung cấp một số yếu tố dịch vụ chủ chốt để khiến công ty đó trở nên khác biệt. Hoặc
công ty đó có thể cạnh tranh như người dẫn đầu về chi phí, cố gắng tận dụng các nguồn
lực của mình để cung cấp sản phẩm với chi phí thấp nhất có thể, nhờ đó đạt được lợi thế
về năng suất. Hình 1.3 thể hiện những lợi thế này đạt được như thế nào. Đối với lợi thế
giá trị/khác biệt, có thể đạt được nhờ cung cấp dịch vụ thiết kế đặc biệt hoặc sử dụng các
kênh phân phối khác nhau nhờ đó sản phẩm có sẵn trên thị trường theo nhiều cách khác
nhau. Lợi thế giá trị có thể bao gồm mức dịch vụ được đảm bảo hoặc liên tục cập nhật
trạng thái của các đơn hàng. Đối với lợi thế về chi phí/năng suất, cách thức đạt được gồm
các phương tiện tối thiếu hóa chi phí khác nhau như duy trì mức tồn kho rất thấp và đảm
bảo tận dụng tối đa tất cả tài sản sản xuất và phân phối.
1.5 Các hoạt động logistics
Việc hiểu rõ hoạt động logistics về các bộ phận cấu thành cũng như các thành phần
trong từng bộ phận đặc biệt hữu ích cho hoạt động quản lý và xác định chi phí logistics.
Hoạt động logistics bao gồm 6 thành phần chính: vận tải, hoạt động kho hàng, làm hàng,
bao gói, hoạt động xử lý logistics và thông tin.11
1.5.1 Vận tải
Vận tải (transportation) là hoạt động có chi phí chiếm tỷ trọng lớn trong tổng chi
phí logistics. Hoạt động vận tải bao gồm lựa chọn phương thức và phương tiện vận tải,
lập kế hoạch xếp hàng và lập kế hoạch lịch trình. Lựa chọn phương tiện vận tải có ảnh
10
Christopher, 1997.
Japan’s program for “Improving Efficiency of Logistics and Distribution of the “East-West Corridor” and the “Southern Economic
Corridor” by Government of Japan, October, 2011.
11
19
hưởng trực tiếp tới các bước thực hiện tiếp theo cũng như tới kết quả và chi phí của hoạt
động vận tải. Việc lựa chọn phương tiện vận tải được thực hiện dựa trên các căn cứ về số
lượng, kích thước và đặc tính của hàng hóa; thời gian giao hàng; địa điểm giao hàng;
cước phí… Ngày nay, các phương thức vận tải được kết hợp sử dụng, hình thành nên vận
tải đa phương thức giúp cho việc vận chuyển hàng hóa hiệu quả, nhanh chóng hơn nhờ
giảm được chi phí và thời gian vận chuyển. Vận tải cần đảm bảo các yêu cầu về nhanh
chóng, kịp thời; hiệu quả về kinh tế; an toàn; tiện lợi và đảm bảo các vấn đề xã hội (khí
thải từ phương tiện, tắc nghẽn giao thông…)
Hình 1.4 Mô hình logistics thể hiện các bộ phận logistics chủ yếu
và tầm quan trọng của dòng vật chất và dòng thông tin12.
1.5.2 Hoạt động kho hàng
Hoạt động kho hàng (warehousing) là lưu trữ hàng hóa từ sau khi sản xuất/thu
hoạch tới khi tiêu dùng/sử dụng nhằm duy trì chất lượng hàng hóa hoặc tồn trữ hàng hóa
để đáp ứng kịp thời các đơn hàng. Vai trò của hoạt động kho hàng đã có nhiều thay đổi.
Trước đây, lưu kho chỉ chú trọng vào việc đảm bảo an toàn cho hàng hóa lưu trữ. Cụ thể,
các kho hàng trước đây chú trọng vào việc quản lý sự an toàn cho hàng hóa, ngăn ngừa
việc hư hỏng, giảm sút về chất lượng; sử dụng không gian kho một cách tối ưu và sử
dụng hiệu quả mạng lưới máy tính. Ngày nay, với các trung tâm dịch vụ logistics thì
luồng lưu chuyển hàng tồn kho được chú trọng hơn: cách thức lưu kho phải dễ dàng tiếp
cận để xếp dỡ hàng; phương pháp làm việc cần phải đơn giản, thuận tiện; tính hiệu quả
của việc gửi hàng; các chức năng xử lý logistics (logistics processing) mà kho cung cấp
và quản trị thông tin trong kho. Mục tiêu chính của các trung tâm dịch vụ logistics là việc
làm hàng và giải phóng hàng nhanh chóng, thuận tiện.
12
Alan Rushton, John Oxley, Phil Croucher, 2000, Handbook of Logistics and Distribution Management, 2nd edition, Kogan Page USA.
20
1.5.3
Làm hàng
Làm hàng (Cargo handling) bao gồm một chuỗi các hoạt động trung gian giữa vận
tải và lưu kho từ khi hàng hóa được gửi đến cho đến khi hàng hóa được xuất kho, hoặc
đến khi xuất đi khỏi trung tâm dịch vụ logistics. Làm hàng bao gồm:
+ Các hoạt động làm hàng liên quan tới phương tiện vận tải, ví dụ xếp hàng, dỡ
hàng lên xe tải, lên máy bay; xếp dỡ, san cào (nếu có) hàng trên tàu lửa hoặc tàu biển; và
+ Các hoạt động làm hàng liên quan tới các cơ sở lưu trữ, ví dụ xếp hàng, dỡ hàng;
chuyển hàng trên băng chuyền; kiểm tra chất lượng/phân loại hàng sau khi nhập kho và
trước khi xuất kho.
Việc làm hàng cần đảm bảo tính chính xác, nhanh chóng và đảm bảo an toàn cho
hàng hóa.
1.5.4 Bao gói
Bao gói (Packing) là các quá trình nhằm bảo vệ hàng hóa và đảm bảo việc làm hàng
được dễ dàng đồng thời cũng có chức năng truyền tải thông tin nhận dạng hàng hóa. Có
ba loại bao bì được sử dụng trong quá trình bao gói hàng hóa gồm:
-
Bao bì riêng (individual packing): là bao bì cho từng sản phẩm thể hiện nhận
dạng của sản phẩm để tách riêng và bảo vệ sản phẩm.
-
Bao bì trong (internal packing): là bao bì chứa các sản phẩm đã đóng bao bì
riêng tạo thành các đơn vị hàng hóa để bán. Bao bì trong có chức năng bảo vệ
sản phẩm khỏi nước, độ ẩm, ánh sáng/sức nóng, rung lắc … ngoài ra còn có
công dụng quảng cáo.
-
Bao bì ngoài (external packing): là bao bì bên ngoài các đơn vị hàng hóa đã
đóng gói tạo điều kiện thuận tiện cho việc vận chuyển, xếp dỡ hàng hóa. Ví dụ:
hàng hóa đã đóng gói được xếp vào trong hộp, túi, thùng …
1.5.5 Hoạt động xử lý logistics
Hoạt động xử lý logistics (Logistics processing) là hoạt động xử lý hàng hóa trong
quá trình logistics mà nhẽ ra nên được thực hiện trong quá trình sản xuất. Có nhiều lý do
để tiến hành hoạt động xử lý logistics như tiết kiệm chi phí vận tải bằng việc gửi hàng với
số lượng lớn từ nhiều địa điểm sản xuất khác nhau; rút ngắn thời gian từ khâu sản xuất
tới tiêu dùng; đáp ứng những đơn vị hàng tiêu dùng cuối cùng; thực hiện nguyên tắc kết
nối cuối cùng (postponement) không tạo ra sản phẩm hoàn thiện cho tới phút cuối khi
xuất hiện nhu cầu tiêu dùng.
1.5.6 Hệ thống thông tin
Hệ thống thông tin (Information System) thao tác và quản lý hoạt động logistics
một cách kịp thời, chính xác và hiệu quả rõ ràng là hệ thống đầu não trong hoạt động
logistics. Hệ thống thông tin bao gồm mô hình hệ thống thông tin, quy trình kiểm soát
thông tin và dự báo thông tin. Luồng thông tin trong hoạt động logistics xuyên suốt từ
21
khách hàng, qua trung tâm thông tin tới trung tâm logistics hoặc nhà sản xuất lắp ráp.
Thông tin bao gồm thông tin về việc gửi hàng, xác nhận hàng đến/kiểm tra chất
lượng/lượng tồn kho…liên tục lưu chuyển giữa các bộ phận khi cần thiết để các hoạt
động tiếp theo được thực hiện dựa trên yêu cầu từ khách hàng.
1.6
Thách thức đối với hoạt động logistics
Trong những năm gần đây, cấu trúc tổ chức và vận hành logistics đã có nhiều phát
triển lớn, đáng chú ý là logistics được áp dụng trong các chuỗi cung ứng lớn. Những thay
đổi này bao gồm kỳ vọng dịch vụ khách hàng tăng lên, khái niệm về giảm thời gian trong
chuỗi cung ứng và toàn cầu hóa hoạt động kinh doanh - cả về nhãn mác và thị trường và tích hợp cấu trúc tổ chức. Ngoài ra, còn nhiều yếu tố khác tác động tới hệ thống
logistics của doanh nghiệp. Các yếu tố đó có thể là các yếu tố bên ngoài hoặc bên trong
logistics mà chúng ta sẽ đề cập tới trong nội dung dưới đây.
1.6.1 Thách thức từ môi trường bên ngoài
Sự phát triển của các liên minh kinh tế khác nhau (EU, ASEAN, NAFTA ...) ngày
càng có ảnh hưởng mạnh mẽ. Sự thành lập những liên minh này là vấn đề chính trị quan
trọng nhưng cũng có tác động tới nền kinh tế trên thực tiễn, mà hầu hết đều là những thay
đổi có lợi.
Một trong những kết quả quan trọng khi thành lập liên minh là loại bỏ dần sự khác
biệt trong các nhóm nước thành viên. Điều này đặc biệt ảnh hưởng tới chiến lược
logistics của các công ty. Ví dụ, trong Liên minh Châu Âu đã có những thay đổi chính
về:
- Loại bỏ những khác biệt trong vận tải
- Thống nhất luật pháp giữa các quốc gia khác nhau
- Giảm dần hàng rào thuế quan
- Loại bỏ sự khác biệt về thủ tục hải quan cửa khẩu
- Thống nhất về thuế quan
Trong logistics, những thay đổi này đã khiến cho nhiều công ty phải đánh giá lại
toàn bộ chiến lược logistics của họ, chuyển từ cách tiếp cận trong phạm vi quốc gia sang
một mô hình mới vượt ra khỏi phạm vi quốc gia/xuyên biên giới. Nhiều công ty đã giảm
đáng kể số lượng kho hàng và lượng hàng tồn kho cùng chi phí lưu kho tương ứng đồng
thời duy trì, cải tiến dịch vụ khách hàng.
Ở châu Âu, vấn đề môi trường ngày càng được đề cao do việc cảnh báo công khai,
mạnh mẽ về các vấn đề về môi trường và các hoạt động gây áp lực cho Chính phủ. Điều
này đã dẫn đến nhiều thay đổi quan trọng đối với hoạt động logistics, bao gồm:
- Cấm vận chuyển đường bộ vào cuối tuần (Đức, Thụy Sỹ)
- Khuyến khích vận tải đường sắt hơn vận tải đường bộ
22
- Tái chế bao gói – đôi khi được đề cập tới như logistics ngược
- Tính “thân thiện môi trường” của sản phẩm
- Thuê ngoài các dòng logistics ngược
- Thiết kế sản phẩm để dễ dàng sửa chữa/ làm mới, tái chế và giảm bớt bao gói.
Đối với hầu hết các thành phố trên thế giới, tắc đường có tác động rõ rệt. Thực tế,
ách tắc giao thông nghiêm trọng có thể ảnh hưởng xấu tới một số khái niệm mới trong
logistics – cụ thể là ý tưởng về hệ thống Just-In-Time và các hệ thống phản ứng nhanh
(quick-response systems). Cùng với vấn đề ách tắc giao thông, các dự báo đều cho thấy
số lượng phương tiện giao thông tăng lên đáng kể ở hầu hết các quốc gia khi mà các dự
án xây dựng đường bộ rất hạn chế. Nhiều quốc gia phương Tây cố gắng giảm tắc nghẽn
giao thông bằng cách kết hợp thu phí cầu đường, lệnh cấm xe tải, hạn chế lượng tham gia
giao thông, hạn chế thời gian tham gia giao thông và thuế sử dụng phương tiện - tất cả
các biện pháp này đều ảnh hưởng tới chi phí và hoạt động logistics. Không có giải pháp
chung nào được chấp nhận. Các công ty cố gắng giảm bớt vấn đề này bằng các chiến
lược như giao hàng ngoài giờ, các kho hàng trống và đặt các kho hàng gần với điểm giao
hàng hơn.
Những thay đổi và phát triển đáng kể trong tư duy logistics và công nghệ thông tin
cũng dẫn tới một vấn đề khác - ảnh hưởng của sự thay đổi và phát triển này tới năng lực
lao động và quản lý phù hợp.
Nhu cầu về tầm nhìn chiến lược của logistics và sự am hiểu về bản chất tích hợp
của logistics đều rất quan trọng đối với các mạng lưới hướng về chuỗi cung ứng ngày
nay. Nhiều nhà quản lý không có kinh nghiệm hoặc kiến thức liên quan để có được cái
nhìn này. Bên cạnh những thay đổi nhanh chóng về công nghệ, có thể hiểu tại sao lại
thiếu sự quản lý logistics phù hợp. Vấn đề này cũng được phản ánh trong chất lượng lao
động hiện đang làm việc trong các bộ phận chức năng logistics và phân phối khác nhau.
1.6.2 Thách thức từ hoạt động cung ứng
Những tiến bộ quan trọng trong cung ứng hoặc logistics đầu vào là kết quả của sự
thay đổi về công nghệ và cấu trúc cung ứng. Trong phạm vi tìm nguồn cung ứng nguyên
vật liệu thô và sản xuất, những tiến bộ này bao gồm:
- Công nghệ sản xuất mới (New manufacturing technology) thích hợp với những
yêu cầu sản xuất phức tạp hơn và sản phẩm đa dạng hơn.
- Mối quan hệ mới với nhà cung cấp (New supplier relationships) nhấn mạnh vào
việc tìm nguồn cung ứng và chuỗi cung ứng tinh giản, do vậy cho phép nhà cung
cấp và người mua làm việc kỹ càng hơn.
- Các nhà máy trọng điểm (Focused factories) với sự tập trung vào ít nguồn lực
hơn nhưng đòi hỏi các chuyến vận chuyển dài hơn.
23
- Mở rộng nguồn cung ra thị trường quốc tế (Transnational sourcing) nhấn mạnh
vào việc dịch chuyển khỏi chiến lược tìm kiếm nguồn cung trong nước hoặc ở
địa phương sang một chiến lược mang tính toàn cầu.
- Kết nối cuối cùng (Postponement): tạm ngừng việc lắp ráp hoàn thiện sản phẩm
để giảm lượng tồn kho thành phẩm trong chuỗi cung ứng.
- Cùng hợp tác (Co-makership) thể hiện sự phát triển mối quan hệ hợp tác giữa
nhà cung cấp và người mua để giúp giảm chi phí trong chuỗi cung ứng nhờ việc
cải tiến chất lượng và thông tin. Điều này thể hiện sự thay đổi tích cực ra khỏi
mối quan hệ đối kháng truyền thống đã phổ biến giữa các nhà cung cấp và người
mua.
- Cùng địa điểm (Co-location) tức là cơ sở vật chất của nhà cung cấp hoạt động
trên hoặc cạnh khu vực sản xuất của khách hàng.
Sự thay đổi chủng loại sản phẩm cũng tác động tới những tiến bộ kể trên. Điển hình
là ví dụ về việc rút ngắn vòng đời sản phẩm, chủng loại sản phẩm đa dạng hơn, và nhu
cầu ngày càng tăng đối với những sản phẩm nhạy cảm về mặt thời gian – đặc biệt là
những đồ ăn tươi chế biến sẵn. Những thay đổi này đặt ra các vấn đề logistics liên quan
đến mức tồn kho và đặc biệt là tốc độ giao hàng.
1.6.3 Thách thức từ hoạt động phân phối
Về nhiều phương diện, yếu tố phân phối trong chuỗi cung ứng ít thay đổi hơn
những yếu tố khác. Trong phạm vi hoạt động, những phát triển quan trọng trong phân
phối đều xuất phát từ công nghệ:
-
Hệ thống phương tiện mới (phần thân xe có thể tháo rời, ...)
-
Các depot rỗng tiến hành tổ chức cross-docking
-
Hệ thống thông tin điện tử, đặc biệt là ở các depot
-
Định tuyến đường và lập lịch trình tương tác trong vận tải đường bộ
Một lĩnh vực quan trọng và đang phát triển đó là phân phối bên thứ ba (third-party
distribution) hoặc thuê ngoài hoạt động phân phối. Đây là điểm đặc trưng của logistics ở
UK trong nhiều năm và hiện nay các nước lục địa châu Âu đã bắt đầu đi theo hướng đi
này. Lợi thế chủ yếu của việc thuê ngoài dịch vụ là các công ty tập trung vào ngành kinh
doanh cốt lõi của mình là sản xuất hay bán lẻ mà không dàn trải nguồn lực để thực hiện
hoạt động phân phối.
Các công ty cung cấp dịch vụ bên thứ ba có nhiều cơ hội phát triển trong nhiều thị
trường. Hiện nay, hầu hết các công ty này đòi hỏi có một hoặc một số chuyên môn về đồ
ăn, giá treo, may mặc, … và nhiều công ty cố gắng mang lại danh mục nhiều hoạt động
làm tăng thêm giá trị, cho phép các công ty này mở rộng hoạt động kinh doanh (dán nhãn
mác, lắp ráp, ....). Hiện nay có xu hướng thành lập các tổ chức đối tác kinh doanh, những
câu hỏi đặt ra là liệu có nên thuê ngoài tất cả các hoạt động và thuê ngoài dịch vụ nào.
24
Cuối cùng, điểm khác biệt trong những năm gần đây là tập trung vào cải thiện tình
hình sử dụng tài sản. Điều này đã được chứng minh về nhiều phương diện: việc xây dựng
các kho hàng tổng hợp trong phân phối hàng tạp hóa và sử dụng các phương tiện có chia
khoang chứa; vận chuyển hàng trên chặng về của các phương tiện giao hàng.
1.6.4 Thách thức từ hoạt động bán lẻ
Trên toàn châu Âu, trong lĩnh vực bán lẻ có nhiều xu hướng đã, đang và sẽ tiếp tục
có ảnh hưởng tới sự phát triển của logistics và chuỗi cung ứng. Vai trò của cửa hàng tạp
hóa không thể được đánh giá quá cao khi những thay đổi trong logistics xuất phát từ lĩnh
vực này. Nhìn chung, số lượng các cửa hàng có mặt hàng đa dạng đang tăng lên và số
lượng các cửa hàng chuyên về một sản phẩm giảm xuống. Số lượng các cửa hàng bán lẻ
đang giảm nhưng quy mô bình quân của các cửa hàng này đã tăng đáng kể. Xu hướng
chung là phát triển các cửa hàng lớn và các siêu thị lớn.
Những thay đổi này đều có ảnh hưởng tới chiến lược và quy trình vận hành
logistics. Tuy nhiên, sự kết hợp các chính sách giảm hàng tồn kho có ảnh hưởng lớn nhất.
Những chính sách này gồm có:
-
Tối đa hóa các gian hàng bán lẻ - với chi phí do các kho bán lẻ chịu
-
Giảm lượng hàng lưu kho tại các depot theo các chính sách tiết kiệm chi
phí
-
Giảm số lượng các depot trữ hàng tồn kho
-
Khái niệm và nguyên lý Just-In-Time
-
Các chính sách tồn kho do người bán quản lý
Chính sách bán lẻ quan trọng nhất là chính sách hướng tới việc tối đa không gian
gian hàng trong các cửa hàng, với chi phí thường do các kho bán lẻ chịu. Những phát
triển trong công nghệ thông tin có vị trí rất quan trọng, đặc biệt là việc ứng dụng hệ thống
điểm bán hàng điện tử đã chỉ ra những yêu cầu bổ sung hàng tồn kho chính xác và kịp
thời tại cửa hàng. Cùng với sự phát triển này, các chính sách tồn kho do người bán quản
lý đã được đưa ra tại Mỹ, theo đó người bán thay cho người bán lẻ chịu trách nhiệm bổ
sung hàng tồn kho cho cửa hàng. Cuối cùng, nhiều quy trình bán lẻ đã áp dụng các chính
sách này để tổ chức các hoạt động bán lẻ qua việc đưa các hoạt động này quay lại depot
(dán nhãn, rút hàng, …)
Luồng sản phẩm liên tục chảy vào cửa hàng dẫn đến kết quả là hàng tồn kho tại các
cửa hàng bán lẻ giảm xuống hoặc bị loại bỏ. Điều này đòi hỏi hệ thống giao hàng có
trách nhiệm hơn, thông tin chính xác và kịp thời hơn. Do vậy, quy trình vận hành
logistics phải hoạt động với hiệu quả cao hơn và ít giấy tờ thông hành hơn (safeguards).
1.6.5 Thách thức từ khách hàng
Thách thức trực tiếp tới hoạt động bán lẻ là xu hướng mua hàng tại nhà hoặc mua
hàng trực tuyến. Hiện tượng này đã phổ biến ở Mỹ và châu Âu thông qua bán hàng trực
25