Tiểu luận Triết học
MụC LụC
Phần Mở đầu- Giới thiệu đề tài
2
Phần Nội dung lý luận.
5
A./ Cở sở lý luận
I./ Cơ sở Triết học
5
II./ Cơ sở thực tế
7
1./Tính tất yếu phải xây dựng và phát triển kinh tế thị trờng ở nớc ta
7
2./Nền kinh tế tri thức, mục tiêu và thách thức.
8
3./Chất lợng đào tạo đại học những năm vừa qua, thực tiễn cuộc sống và
học tập của sinh viên trong thời đại mới.
9
B./ Thực trạng đề tài.
I./Thực tiễn quá trình hình thành và phát triển kinh tế thị trờng ở Việt Nam
1./Đặc trng của nền kinh tế thị trờng theo định hớng xã hội chủ nghĩa
ở nớc ta
11
2./Thành tựu sau 15 năm đổi mới.
12
3./Những tồn tại của quá trình đổi mới.
13
II./Thách thức toàn cầu hoá và kinh tế tri thức.
13
III./ Những mâu thuẫn nảy sinh giữa quá trình phát triển kinh tế thị
trờng với quá trình học tập và rèn luyện của sinh viên Việt Nam.
1./Biểu hiện của sự thống nhất.
16
2./Biểu hiện của sự đấu tranh.
18
C./Một số giải pháp và kiến nghị.
I./Giáo dục đại học trớc ngỡng cửa nền kinh tế tri thức.
20
II./Sử dụng có hiệu quả nguồn tri thức để nâng cao chất lợng nguồn nhânlực. 22
III./Ngời sinh viên hãy nhìn lại mình để biết mình phải làm gì.
IV./Giữ gìn các giá trị đạo đức, nhân cách con ngời (sinh viên) trong bối
Đại học Kinh tế quốc dân- Kinh tế đầu t 43A1
24
Tiểu luận Triết học
cảnh toàn cầu hoá và phát triển nền kinh tế tri thức.
26
Phần Kết luận
28
Đại học Kinh tế quốc dân- Kinh tế đầu t 43A2
Tiểu luận Triết học
PHầN Mở ĐầU
Sinh viên, tri thức trong tơng lai của Việt Nam, sẽ là chiếc chìa khoá vàng mở
cánh cửa đa kinh tế Việt Nam bắt kịp xu thế phát triển của kinh tế thế giới? Nền
kinh tế thị trờng ở Việt Nam đang và sẽ phát triển nh thế nào trong bối cảnh thế
giới nhiều thử thách và trong nớc còn nhiều khó khăn. Trong nền kinh tế thị trờng,
sinh viên Việt Nam đang sống, học tập và đợc đầu t đào tạo nh thế nào trớc yêu cầu
của tình hình mới?
Xa kia, ông cha ta đã từng nói: Hiền tài là nguyên khí của quốc gia. Ơ đây có
nghĩa là nhìn vào sức mạnh của một quốc gia là nhìn vào những con ngời kiệt xuất,
những nhân tài của quốc gia đó. Hiền tài ở đây phải là những con ngời vừa có tài
năng vừa có đủ đạo đức và luôn sẵn sàng đem tài năng phục vụ cho đất nớc. Đến
nay, lời dạy của cha ông vẫn đúng đắn và luôn thể hiện một triết lý sâu xa. Nhng
ngày nay, do đòi hỏi ngày càng cao, hiền tài còn thể hiện trên bình diện quốc tế và
nhiều lĩmh vực mới mẻ. Dự báo nền kinh tế tri thức sẽ hình thành vào khoảng năm
2010, lúc đó sẽ tạo ra những bớc ngoặt lớn trong tiến trình phát triển của nhân loại.
Kinh tế tri thức đợc hiểu là nền kinh tế trong đó nhân tố quan trọng nhất là việc
chiếm hữu, phân phối và sử dụng nguồn tri thức. ở đó hàm lợng tri thức trong sản
xuất rất cao và tài nguyên về con ngời là tài nguyên quý nhất. Ơ đây muốn nói rằng
hiền tài hôm nay chính là sức mạnh của đất nớc ngày mai.Vì vậy chúng ta có thể
nói tri thức là vốn quý nhất của một quốc gia.
Chính Simom S .Kuznets, ngời đoạt giải Nôbel, đã khẳng định rằng:Nguyên
liệu sẵn sàng đợc dùng của một nớc tiên tiến về kinh tế không phải là của cải vật
chất của nó mà là con ngời và kiến thức đợc thu thập từ tìm kiếm đã đợc kiểm
nghiệm những tìm tòi khoa học thực tiễn và khả năng cũng nh sự đào tạo của ngời
dân nớc đó sử dụng những kiến thức này một cách có hiệu quả.
Dự báo đến năm 2005 hầu hết các nớc trên thế giới sẽ đợc kết nạp vào tổ chức
Thơng mại thế giới (WTO). Nếu không muốn là nớc cuối cùng thì bên cạnh những
biện pháp trớc mắt mang tính cấp bách, Việt Nam phải có một cái nhìn mang tính
chiến lợc lâu dài đối với vấn đề tri thức và công nghệ. Tri thức là sức mạnh, bởi nó
là chất dinh dỡng cho sự phát triển trí tuệ và năng lực sáng tạo trí tuệ vô tận của con
ngời. Dân tộc nào sớm tự ý thức đợc những hạn chế, giới hạn của mình, biết tiếp
thu nhng tinh hoa nhân loại của mọi thời đại, kết hợp đợc bản sắc truyền thống vốn
Đại học Kinh tế quốc dân- Kinh tế đầu t 43A3
Tiểu luận Triết học
có với những tinh hoa con ngời của mình, biết tiêu hoá và làm chủ những giá trị ấy,
biến nó thành của mình, làm phong phú và giàu có bản thân mình thì dân tộc ấy
chủ động tìm thấy triển vọng của mình. Hoặc tiến kịp đà phát triển chung, khẳng
định mình một cách xứng đáng trong thế giới hoặc sẽ không bao giờ, sẽ mãi mãi đi
sau, rơi vào tình cảnh nô lệ và lệ thuộc vào nớc khác. Có khẳng định đợc hay không
hay lại tự phủ định và phủ nhận chính mình- đó là thách thức lớn nhất với mọi quốc
gia-dân tộc trên lộ trình phát triển, trớc hết là phát triển kinh tế. T tởng, trí tuệ đợc
vật chất hoá trong sản xuất, kinh doanh và trong hoạt động kinh tế nói chung. Dân
tộc Việt Nam với nhiều hậu quả chiến tranh để lại, muốn hội nhập với nền kinh tế
thế giới thì phải sớm đào tạo cho mình một đội ngũ nhà khoa học phục vụ cho công
nghiệp hoá hiện đại hoá đất nớc. Dự kiến đến năm 2003 Việt Nam sẽ gia nhập
WTO, lúc đó sẽ có nhiều cơ hội và thách thức đòi hỏi Việt Nam phải nỗ lực và
những bớc đi phù hợp. Tri thức là nhân tố giúp Việt Nam đi trớc đón đầu, cùng hoà
nhịp với guồng quay của nền kinh tế thế giới.
Thực tiễn phát triển kinh tế của các nền kinh tế công nghiệp mới (NIES) đã chỉ
ra rằng chất lợng của nguồn lao động con ngời có ảnh hởng trực tiếp đến quá trình
công nghiêp hoá hiện đại hoa.Vì vậy, càc nớc này trong khi coi trọng nguồn tài
nguyên nhân lựcđã tìm mọi cách đầu t nhằm nâng cao chất lợng nguồn tài vô giá
đó. Để trả lời câu hỏi vì sao các con rồng châu á đã thành công trong việc hiện đại
kinh tế trong khi nhiều nớc đang phát triển khác không thể làm cho nền kinh tế của
mình cất cánh lên đợc; nhiều học giả cho rằng :bốn con rồng châu á đã biết kết
hợp tốt giữa các yếu tố nội sinh và ngoại sinh, đồng thời thiết lập đợc một nền kinh
tế vận hành vừa chắc chắn vừa linh hoạt.Trong cơ chế đó, giáo dục và đào tạo, hay
nói cách khác,việc bồi dỡng và nâng cao chất lợng nguồn nhân lực con ngời đóng
vai trò đặc biệt quan trọng. Phải đảm bảo đợc việc phát huy nhân tố con ngời trong
lực lợng sản xuất hiện đại. Đó là điều kiện tất yếu để tăng nhanh năng suất lao
động xã hội, đa đất nớc lên tầm cao mới.
Có thể nói đó là một bài học kinh nghiệm quí giá đối với các nớc đang trên con
đơng tìm tòi phát triển, là nguyên lý phù hợp cho việc áp dụng trong nớc ta. Đại hội
VI của Đảng cộng sản Việt Nam đã chỉ ra đờng lối đổi mới, đó là chuyển sang nền
kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trờng có sự quản lý của
nhà nớc theo định hớng XHCN. Thực hiễn bớc đầu đã chứng minh đó là sự chọn
lựa đúng đắn.Và để phát huy hơn nữa sự đúng đắn và hiệu quả đó , một nhân tố
Đại học Kinh tế quốc dân- Kinh tế đầu t 43A4
Tiểu luận Triết học
không thể thiếu đó là nguồn nhân lực con ngời. Mà ta đã biết trong xã hội sinh viên
là lực lợng tri thức đông đảo nhất ,năng động và có trình độ, vì vậy sinh viên tất yếu
phải đợc coi là đối tợng chính của chiến lợc con ngời. Và cách nghiên cứu, đánh
giá hữu hiệu nhất đó là nghiên cứu trong sự vận động, trong mối liên hệ biện chứng
với nhau, mà cụ thể ở đây là mối quan hệ giữa tác động của nền kinh tế thị trờng
với quá trình học tập và rèn luyện của sinh viên.
Trong dự thảo báo cáo chính trị trình Đại hội Đảng IX đã khẳng định giáo dục
đào tạo và khoa học công nghệ là quốc sách hàng đầu. Trong báo cáo của phó thủ
tớng thờng trực Nguyễn Tấn Dũng tại kỳ họp thứ 10 Quốc hội khoá X ngày
8/12/2001, chính phủ sẽ tập trung chỉ đạo việc nâng cấp hệ thống giáo dục, cơ sở trờng lớp và dự kiến chi 3200 tỷ/năm cho việc nâng cao chất lợng giáo dục(1). Qua
đó cho thấy vai trò của tri thức có tính quyết định đối với kinh tế Việt Nam trong
những năm sắp tới. Sinh viên, đại diện cho tri thức Việt Nam trong những năm tới,
sẽ đợc đào tạo nh thế nào và có vai trò gì trong nền kinh tế đang trở thành một vấn
đề quan trọng đợc các cấp các nghành bàn bạc. Kinh tế Việt Nam sẽ đi đến đâu,
phát triển nh thế nào phụ thuộc vào việc ngày hôm nay chúng ta có chiến lợc, kế
hoạch gì đầu t cho thế hệ trẻ nói chung và sinh viên nói riêng. Vai trò của sinh viên
và quá trình đào tạo sinh viên có một ý nghĩa hết sức quan trọng vì tác dụng của nó
rất rộng, lâu dài và có tính quyết định.
Chúng ta khẳng định rằng tri thức là chiếc chìa khoá vàng mở cánh cửa đa Việt
Nam bắt kịp xu thế phát triển của thế giới.Vấn đề đặt ra là phải biết cách sử dụng,
giữ gìn chiếc chìa khoá vàng đó nh thế nào để phục vụ tốt nhất cho công cuộc đổi
mới đất nớc. Đó là một vấn đề hết sức quan trọng mang tính sống còn . Trong bài
tiểu luận này xin đợc đề cập đến nó với nội dung:
Kinh tế Việt Nam đang phát triển theo theo định hớng kinh tế thị trờng. Vai trò
của tri thức mà ở đây là thế hệ sinh viên đối với nền kinh tế thị trờng ở Việt Nam
và những tác động của nền kinh tế thị trờng trong việc hình thành tầng lớp trí thức
( cả tri thức và nhân cách ) trong những năm vừa qua và những năm sắp tới.(Nhìn
từ quy luật đấu tranh và thống nhất giữa các mặt đối lập trong phép biện chứng
duy vật.)
Nói cách khác là sinh viên đã và sẽ phải làm gì để phát triển kinh tế Việt Nam.
Nhà nớc, xã hội công nhận, quan tâm, sử dụng sinh viên ra trờng nh thế nào? Họ
đang sống trong cơ chế thị trờng đầy biến động (mâu thuẫn) nh thế nào? Và họ đã
Đại học Kinh tế quốc dân- Kinh tế đầu t 43A5
Tiểu luận Triết học
và sẽ đợc đào tạo, học tập rèn luyện nh thế nào để có thể đáp ứng vai trò lớn lao mà
toàn xã hội dành cho họ ?
(1):Truyền hình trực tiếp trên VTV2 ngày 8/12/2001
NộI DUNG Lý LUậN
A./CƠ Sở Lý LUậN
I./Cơ sở Triết học
Có thể nói qui luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập (qui luật mâu
thuẫn) là qui luật quan trọng nhất của phép biện chứng (là hạt nhân của phép biện
chứng). Qui luật mâu thuẫn đã vạch ra đợc nguồn gốc bên trong của sự vận động
và phát triển. Nội dung của qui luật đã khái quát đợc đăc trng của mâu thuẫn đồng
thời phản ánh đợc bản chất của mối quan hệ giữa các mặt đối lập.
Thật vậy, đặc trng của mâu thuẫn đợc nói đến là hiện tợng khách quan phổ biến.
Bất kỳ sự vật ,hiện tợng nào của thế giới khách quan cũng có những tổ chức và kết
cấu nhất định , nghĩa là sự vật đợc tạo thành từ nhiều yếu tố ,bộ phận , nhiều quá
trình khác nhau, chúng thờng xuyên liên hệ tác động lẫn nhau tạo thành những xu
Đại học Kinh tế quốc dân- Kinh tế đầu t 43A6
Tiểu luận Triết học
hớng biến đổi khác nhau gọi là các mặt đối lâp. Các mặt đối lập hợp lại tạo thành
mâu thuẫncủa sự vật. Do đó mâu thuẫn là sự liên hệ tác động lẫn nhau giữa các mặt
đối lập trong bản thân sự vật hay giữa các sự vật với nhau và mâu thuẫn là một hiện
tợng khách quan phổ biến.
Các mặt đối lập đợc đề cập đến ở đây là xu hớng phát triển trái ngợc nhau nhng
chúng có quan hệ chặt chẽ với nhau. Chúng vừa thống nhất với nhau lại vừa đấu
tranh tiêu diệt lẫn nhau, trong đó thống nhất chỉ là tơng đối tạm thời, còn đấu tranh
là tuyệt đối vĩnh viễn. Sự thống nhất giữa các mặt đối lập đợc thể hiện ở sự nơng
tựa, ràng buộc, phụ thuộc vào nhau, là tiền đề, điều kiện tồn tại và phát triển của
nhau. Chúng thâm nhập chuyển hoá cho nhau, có mặt này mới có mặt kia. Sự thống
nhất giữa các mặt đối lập chỉ là một hiện tợng tơng đối, tạm thời. Nó chỉ tồn tại
trong thời gian nhất định, trong điều kiện nhất định. Nó có khởi đầu và kết thúc.
Giới hạn đó là sự tồn tại sự của sự vật. Sự đấu tranh giữa các mặt đối lập là sự bài
trừ, gạt bỏ, phủ định lẫn giữa chúng. Hai mặt đối lập cùng tồn tại trong một thể
thống nhất của sự vật.Vì thế chúng thờng xuyên đấu tranh tiêu diệt lẫn nhau và sự
đấu tranh này diễn ra ngay trong thể thống nhất. Đấu tranh giữa các mặt đối lập trả i
qua nhiều nhiều giai đoạn, dới nhiều hình thức và nhiều tính chất khác nhau. Ban
đầu là một sự khác biệt, khi hai mặt đối lập của mâu thuẫn phát triển đến giai đoạn
gay gắt, nó biến thành mâu thuẫn và khi có đầy đủ điều kiện thích hợp sẽ diễn ra sự
chuyển hoá cuối cùng giữa chúng. Sự vật cũ mất đi, sự vật mới hình thành .Sau khi
mâu thuẫn đợc giải quyết,sự thống nhất của hai mặt đói lập cũ đợc thay thế bắng sự
thống nhất của hai mặt đối lập mới. Hai mặt đối lập mới lại đấu tranh chuyển hoá
thành mâu thuẫn. Mâu thuẫn mới đợc giải quyết làm xuất hiện sự vật mới thứ
hai ....Cứ nh thế, sự đấu tranh giữa các mặt đối lập làm cho sự vật biến đổi không
ngừng từ thấp đến cao. Chính vì vậy, Lênin để khẳng định: sự phát triển là một
cuộc đấu tranh giữa các mặt đối lập .
Với nội dung sâu sắc, đúng đắn về nguồn gốc động lực của mọi sự phát triển
trong thế giới khách quan và ý nghĩa phơng pháp luận của qui luật mâu thuẫn là hết
sức to lớn và quan trọng. Nó phản ánh sâu xa bản chất của vấn đề, hiện tợng chỉ ra
xu hớng vận động của vấn đề đó
Xuất phát từ đặc trng mâu thuẫn là hiện tợng khách quan phổ biến nên muốn
hiểu đúng bản chất của sự vật phải tìm và phân tích cho đợc mâu thuẫn của nó.
Xuất phát từ vai trò của đấu tranh giữa các mặt đối lập là nguồn gốc động lực của
Đại học Kinh tế quốc dân- Kinh tế đầu t 43A7
Tiểu luận Triết học
mọi sự phát triển nên muốn thúc đẩy sự vật phát triển phải giải quyết cho đợc mâu
thuẫn bên trong của nó . Để thực hiện đợc điều đó đòi hỏi chúng ta phải tuân theo
nguyên tắc nh: sự vật khác nhau, qúa trình khác nhau thì mâu thuẫn khác nhau; mỗi
sự vật, mỗi quá trình đều có nhiều mâu thuẫn, mỗi mâu thuẫn lại có đặc điểm riêng;
quá trình phát triển của một mâu thuẫn, ở cuối giai đoạn của nó, mâu thuẫn và mỗi
mặt đối lập của nó lại có những đặc điểm riêng. Do vậy khi đấu tranh giải quyết
mâu thuẫn cần phải có quan điểm lịch sử cụ thể, nhất quán, xuyên suốt trong suốt
quá trình đấu tranh cũng nh nhìn nhận vấn đề. Bên cạnh đó còn phải nắm vững
nguyên tắc giải quyết mâu thuẫn. Đó là sự đấu tranh giữa hai mặt đối lập. Bất kỳ
mâu thuẫn nào, bất kỳ giai đoạn nào của mâu thuẫn chỉ có thể đợc giải quyết bằng
đấu tranh giữa các mặt đối lập chứ không phải bằng con đờng hoà giải giữa chúng.
Đó là khác nhau căn bản giữa những ngời cách mạng và những ngời theo chủ nghĩa
cải lơng, cơ hội, thủ tiêu đấu tranh giai cấp, thủ tiêu đấu tranh cách mạng. Nhìn
nhận vấn đề theo hớng của quy luật mâu thuẫn là nhìn thẳng vào vấn đề đói diện
với nó, giám đấu tranh để tạo ra cái mới tiến bộ hơn thay thế cái cũ thúc đẩy sự tiến
bộ của thế giới. Nắm bắt đợc quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập,
chúng ta sẽ biết cách khôn khéo xử lý tình huống, vấn đề trọng đại và diễn biến vô
cùng phức tạp của tình hình chính trị, kinh tế của thế giới.
II./Cơ sở thực tế
1./Tính tất yếu phải xây dựng và phát triển kinh tế thị trờng ở nớc ta.
Trong tiến trình xây dựng và phát triển kinh tế của Việt Nam, Đại hội Đảng cộng
sản Việt Nam lần thứ VI (12-1986) nh một mốc son lịch sử đánh dấu sự chuyển hớng có ý nghĩa quyết định đối với sự hình thành mô hình kinh tế vĩ mô phù hợp với
qui luật kinh tế khách quan và thực tế của Việt Nam . Đặc trng cơ bản của nền kinh
tế mới đợc đề ra là :Phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành
theo cơ chế thị trờng có sự quản lý của nhà nớc theo định hớng XHCN. Mục tiêu
của đổi mới cơ chế quản lý kinh tế là tạo ra động lực mạnh mẽ giải phóng mọi lực
lợng sản xuất, thúc đẩy tiến bộ khoa học kĩ thuật, hiệu quả ngày càng cao, thiết lập
trật tự, kỉ cơng trong mọi hoạt động kinh tế tến tới ổn định kinh tế xã hội, tạo điều
kiện để tiến lên. Có thể nói rằng sự chuyển hớng là tất yếu khách quan rất phù hợp
với bối cảnh kinh tế nớc ta lúc đó. Nhng hậu quả của việc duy trì chế độ tập trung
quan liêu bao cấp, những thuận lợi tiền đề mới, tính tất yếu của các qui luật kinh tế
đòi hỏi nhất thiết phải có sự thay đổi chuyển hớng. Nếu không việc thực hiện đổi
Đại học Kinh tế quốc dân- Kinh tế đầu t 43A8
Tiểu luận Triết học
mới sẽ gặp khó khăn, không tránh khỏi những kết quả nặng nề trong nền kinh tế ,
từ đó kéo theo sự giảm sút xã hội, chính trị và nhiều yếu tố khác.
Sau ngày thống nhất tổ quốc, đất nớc có cơ hội mới để xây dựng và phát triển
kinh tế xã hội vì tiềm năng kinh tế của hai miền sẽ bổ sung cho nhau và thuận lợi
cơ bản là có hoà bình.Tuy nhiên, do xuất phát của nền kinh tế quá thấp, hậu quả
của chiến tranh để lại quá nặng nề, cùng với những vấp váp sai lầm trong chính
sách kinh tế nên đến năm 1985, kinh tế nớc ta rơi vào khủng hoảng nghiêm trọng.
Nếu tính chung kể từ năm 1976 đến năm 1985 thu nhập quốc dân chỉ tăng 38,8%,
bình quân mỗi năm tăng 3,8% (1977 tăng 2,8%; 1978 tăng 2,3%; 1979 tăng 2%;
1980 giảm 1,4 % ; 1981 tăng 2,3% ; 1982 tăng 8,6% ; 1983 tăng 7,2%; 1984 tăng
8,3%; 1985 tăng 5,7%) Nông nghiệp là nghành kinh tế then chốt của đất nớc, thờng
tạo ra trên dới 50% thu nhập quốc dân, nhng trong những năm 1976-1985 bình
quân giá trị tổng sản lợng nông nghiệp chỉ tăng 3,8%. Sản lợng công nghiệp đợc
đầu t nhng tốc độ tăng trởng còn rất thấp và không ổn định.Vào giai đoạn này, mỗi
năm giá trị tổng sản lợng công nghiệp chỉ tăng 5,2%. Do sản xuất phát triển chậm
và bấp bênh trong khi dân số tăng với tốc độ cao nên sản xuất trong nớc không thể
đáp ứng đợc nhu cầu tối thiểu của dân c. Thu nhập quốc dân sản xuất trong nớc chỉ
bằng 80-90% thu nhập quốc dân sử dụng. Toàn bộ quỹ tích luỹ và một phần quỹ
tiêu dùng phải dựa vào viện trợ và vay nợ nớc ngoài. Trong những năm 76-80 thu
vay nợ và vay nợ nớc ngoài đã chiếm 38,2% tổng thu ngân sách và bằng 61,9%
tổng thu trong nớc. Hai chỉ tiêu tơng ứng của những năm 1981-1985 là 22,4% và
28,9%. Tính đến năm 1985, nợ nớc ngoài lên đến 8,5 tỷ Rúp và 1,9 tỷ Đôla. Tuy
vậy ngân sách luôn trong tình trạng thâm hụt và bù đắp bằng phát hành. Mặt khác,
do sản xuất trong nớc không đủ tiêu dùng nên hầu hết các loại hàng hoá đều phải
nhập khẩu một phần hay toàn bộ. Ngoài sắt thép, xăng dầu, máy móc thiết bị còn
phải nhập hàng tiêu dùng với khối lợng lớn( kể cả những hàng hoá mà lẽ ra trong nớc có thể đáp ứng đợc nh gạo và vải). Trong giai đoạn 1976-1985 chúng ta đã phải
nhập 1,5 triệu tấn gạo và 60 triệu mét vải. Sản xuất tăng tởng chậm và thực chất
không có phát triển nên lạm phát ngầm diễn ra với mức độ ngày càng cao. Đến năm
1985, cuộc cải cách giá lợng tiền có những sai lầm, thiếu sót đã làm cho nền kinh
tế hoàn toàn rơi vào tình trạng khủng hoảng. Siêu lạm phát đạt đỉnh cao vào năm
1986 với tốc độ tăng giá cả năm lên tới 774,7%
Đại học Kinh tế quốc dân- Kinh tế đầu t 43A9
Tiểu luận Triết học
Trong bài phát biểu của đồng chí cố tổng bí th Nguyễn Văn Linh ở hội nghị lần
th ba BCHTW Đảng khoá VI về đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, ngày24/8/1987, đã
nói: Hiện nay cái thiếu nhất của chúng ta không chỉ là cơ sở vật chất kĩ thuật của
CNXH, cân đối cho sản xuất và đời sống mà còn là cơ chế quản lý kinh tế phù hợp
để vận hành toàn bộ nền kinh tế quốc dân cũng nh từng cơ sở sản xuất kinh doanh
đạt hiệu quả cao nhất. Việc xây dựng cơ chế quản lý mới là điều kiện thiết yếu để
sử dụng có hiệu quả và hợp lý cơ sở vật chất kỹ thuật hiện có, góp phần tích cực
tạo ra các nguồn cân đối mới cho nền kinh tế quốc dân. Kinh tế thị trờng là phơng
thức vận hành kinh tế lấy thị trờng hình thành do trao đổi và lu thông hàng hoá làm
ngời phân phối các nguồn lực chủ yếu; lấy lợi ích vật chất, cung cầu thị trờng và
mua bán giữa hai bên làm cơ chế khuyến khích hoạt động kinh tế. Nó là phơng
thức tổ chức vận hành kinh tế xã hội- chính trị, nó in đậm dấu ấn của lực lợng xã
hội là chủ thị trờng. Kinh tế thị trờng là một phạm trù kinh tế hoạt động, có chủ thể
của quá trình hoạt động đó, có sự tác động lẫn nhau của các chủ thể hoạt động.
Trong xã hội có giai cấp chủ thể hoạt động của kinh tế thị trờng không phải chỉ là
cá nhân riêng lẻ, đó còn là những tập đoàn xã hội, những giai cấp. Sự tác động đó
có thể có lợi cho ngời này, tầng lớp này, giai cấp này, có hại cho ngời khác, tầng
lớp giai cấp khác. Do vậy, trong kinh tế thị trờng luôn chứa đựng cả hai mặt tích
cực và tiêu cực. Kinh tế thị trờng có sự phát triển từ thấp lên cao, đỉnh cao nhất
trong sự phát triển của nó trong giai đoạn qua đã đạt đợc trong chủ nghĩa t bản, đợc
xã hội đó sử dụng triệt để. Đó là cơ sở để trớc đây nhiều ngời đồng nhất kinh tế thị
trờng với chủ nghĩa t bản. Tuy nhiên kinh tế thị trờng không phải là sản phẩm riêng
của chủ nghĩa t bản. Thị trờng là một thực thể tồn tại tự nhiên qua nhiều chế độ xã
hội khác nhau. Chủ nghĩa t bản dù có công mở rộng thị trờng gấp ngàn lần so với
chế độ phong kiến, song cũng khiến cho thị trờng t bản chủ nghĩa phát triển những
mặt xấu, tiêu cực. Qua đó có thể khẳng định việc xây dựng một thị trờng theo định
hớng XHCN là việc làm hoàn toàn phù hợp quy luật khách quan và rất thiết thực.
Kinh tế thị trờng chính là sự lựa chọn duy nhất của chúng ta.
2./ Nền kinh tế tri thức, mục tiêu và thách thức cho những năm sắp tới.
Trong những năm gần đây, chúng ta thờng nghe nói nhiều đến thuật ngữ kinh tế
tri thức. Có nhiều ý kiến khác nhau, nhng có thể nói đó là tính chất trình độ phát
triển trí tuệ cao của kinh tế, nó chính là nấc thang phát triển mới cha từng có trong
lịch sử phát triển lực lợng sản xuất của thế giới từ trớc đến nay. Nền kinh tế tri thức
Đại học Kinh tế quốc dân- Kinh tế đầu t 43A10
Tiểu luận Triết học
dĩ nhiên vẫn là nền kinh tế hàng hoá, là sản xuất hàng hoá, vẫn tuân theo các quy
luật giá trị, vận động theo cơ chế thị trờng và hiện diện trong thể chế kinh tế thị trờng nhng tri thức đã trở thành nền tảng, cốt lõi quyết định sự phát triển của nó. Nh
vậy có nghĩa là kinh tế tri thức không nằm ngoài kinh tế thị trờng mà 0là một hình
thức hiện diện của kinh tế thị trờng. Đó là đặc trng tổ chức, hoạt động, quản lý
kinh tế dựa trên tri thức và trí tuệ hoá, trong điều kiện xã hội thông tin, tận dụng
tối đa các thành quả của cách mạng khoa học và công nghệ trên quy mô quốc giaquốc tế-dân tộc và thế giới.
Từ cơ sở thực tiễn là kinh tế thế giới thế giới đang và sẽ đi lên nền kinh tế tri
thức đã đặt ra cho Việt Nam mục tiêu hình thành kinh tế tri thức thì mới sớm hội
nhập với kinh tế thế giới. Việc hình thành nền kinh tế tri thức ở Việt Nam là một
tất yếu nh nhiều nớc khác muốn phát triển lực lợng sản xuất thì phải nâng cao tri
thức của nguồn nhân lực. Nh vậy thực tiễn đặt ra yêu cầu buộc Việt Nam không
những phát triển kinh tế thị trờng đơn thuần mà phải nâng lên một tầm cao hơn đó
là kinh tế tri thức. Đó là một tất yếu mà chúng ta phải sớm nhận thức và có những
chiến lợc hợp lý thích ứng với tình hình mới.
Kinh tế tri thức, môt trình độ cao, sẽ đặt ra vô vàn thách thức khó khăn đòi hỏi
chúng ta phải vợt qua. Những khó khăn không chỉ bó hẹp trong phạm vi nào đó mà
buộc tất cả các nghành các cấp, toàn Đảng toàn dân phải đoàn kết, cố gắng vơn
lên. Bởi vì nhiệm vụ nâng cao tri thức, nâng cao chất lợng ngồn lao động là nhiệm
vụ quan trọng có tính quyết định mà toàn dân phải tham gia.
3./Chất lợng đào tạo đại học những năm vừa qua, thực tiễn cuộc sống
và học tập của sinh viên trong thờiđại mới.
Trong kì họp Quốc hội khoá X(12/2001), chính phủ đã nhận định những yếu
kém của giáo dục nói chung và giáo dục đại học nói riêng trong những năm vừa
qua. Đó là chất lợng đào tạo thấp, cha tiếp cận đợc giáo dục của khu vực và thế
giới, sinh viên hạn chế về thực hành, thực tiễn, khả năng tự lực kém. Hệ thống các
giáo trình còn lạc hậu không bắm sát với những thực tế và khoa học mới. Hệ thống
cơ sở vật chất ở một số trờng còn tồi tàn, sinh viên còn phải học trong các điều
kiện yếu, thiếu đồ dùng thí nghiệm, minh hoạ. Mất cân đối về đào tạo giữa các
nghành nghề dẫn tới tình trạng d thừa giả tạo (thừa chỗ này thiếu chỗ khác), mất
cân đối giữa các cấp dẫn tới thừa thầy thiếu thợ(thừa kỹ s, cử nhân thiếu thợ bậc
Đại học Kinh tế quốc dân- Kinh tế đầu t 43A11
Tiểu luận Triết học
cao có tay nghề). Chính vì vậy làm cho một số lợng lớn sinh viên không có việc
làm. Mang năng tính hàn lâm, đối phó chạy theo hình thức.Văn bằng chứng chỉ
của Việt Nam cha đợc công nhận rộng rãi ở quốc tế. Công tác quản lý chậm đổi
mới, tổng quan chậm khắc phục. Chính phủ nhận định là vì công tác chỉ đạo của
chính phủ, triển khai của bộ giáo dục còn yếu kếm, không đi đôi với thực tiễn,
công tác thanh tra cha sát sao, tơng ứng. Bên cạnh đó là do điều kiện khách quan
do sức ép quá lớn của tình hình mới khiến cho việc đáp ứng khó thực hiện. Sức ép
lớn của nhu cầu hình thành, phát triển và đòi hỏi của một số lợng quá đông sinh
viên và đang ngày càng tăng. Tổng số sinh viên những năm 80 là 12 vạn mà ngày
nay đã tăng lên gấp 10 lần tới 1,23 triệu sinh viên mỗi năm. Nền kinh tế còn nghèo
nàn nên khả năng đầu t hạn hẹp, ngân sách dành cho giáo dục của Việt Nam so với
khu vực rất thấp vào khoảng 1/12 so với Thái lan và Malaisia, 1/19 so với Hàn
quốc. Thực tế đó đã đặt ra một thách thức không nhỏ cho việc nâng cao chất lợng
giáo dục và việc bắt kịp với tốc độ phát triển giáo dục của khu vực
Thực tiễn quá trình học tập và rèn luyện của sinh viên cũng là một cơ sở cho
việc định hớng hình thành tri thức. Và là cơ sở thực tiễn cho việc đánh giá, nhận
xét sự tác động qua lại nền kinh tế thị trờng và thế hệ sinh viên. Ngày nay sinh viên
có cuộc sống có thể nói là đầy đủ hơn so với những năm trớc nhng để đáp ứng nhu
cầu ngày càng cao thì vẫn còn nhiều bất cập cần đợc quan tâm hơn. Nhng khó khăn
về tiền cho các nhu cầu thiết yếu, các nhu cầu tâm lý. Khó khăn về chỗ ở trong khi
cơ sở kí túc xá yếu kém thì tiền thuê nhà quá cao. Một ví dụ trờng kinh tế quốc dân
có khoảng 10 nghìn sinh viên ngoại tỉnh trong khi kí túc xá chỉ đáp ứng đợc 2
nghìn sinh viên, 400-500 nghìn đồng/nhà trọ cho 2,3 ngời là khó khăn cho nhiều
sinh viên ở nông thôn. Ngoài ra các sinh hoạt phí quá đắt đỏ vợt quá khả năng đáp
ứng của gia đình. Đời sống sinh viên phát sinh nhiều nhu cầu mới cả về vật chất và
tinh thần. Về học tập có những khó khăn về khả năng tiếp cận với thế giới, với tri
thức mới. Chính vì vậy cuộc sống sinh viên rất phức tạp và thể hiện rõ nét tác động
của cơ chế thị trờng đến ngời sinh viên. Một số sinh viên sống và học tập bình thờng, họ học tập chăm chỉ để có đợc tấm bằng giỏi tạo điều kiện cho công việc sau
này. Trong số họ có ngời vợt nên khó khăn để lấy về cho mình những thành công vơn đến những chân trời tri thức. Chúng ta đã thấy nhiều doanh nghiệp là sinh viên
hoặc ít ra là những sinh viên đi làm để nuôi sống bản thân. Chúng ta đã thấy
Nguyễn Tử Quảng với phần mềm diệt vi rút BKAV. Chúng ta đã thấy những tấm
huy chơng Olympic mà sinh viên Việt Nam đem về cho nớc nhà. Họ đã vợt nên
Đại học Kinh tế quốc dân- Kinh tế đầu t 43A12
Tiểu luận Triết học
chính mình để là con ngời thích ứng và phát triển đúng với sự phát triển của xu thế
chung. Một số khác lại phải đối mặt với các khó khăn, có ngời ngày càng trởng
thành, có ngời thì đánh mất mình để bị lôi kéo vào những thói h đời thờng. Do
cuộc sống khó khăn, ngời sinh viên số nhiều sống với những khó khăn đời thờng
đã không còn sống với những lý tởng cao đẹp. Nói chính xác hơn họ đã bị tầm thờng hoá bởi những tính toán đời thờng. Đó là một tất yếu khi con ngời không đợc
tạo điều kiện để chuyên tâm vào học tập và zèn luyện. Chúng ta không thể phủ
nhận rằng số tội phạm là sinh viên trong những năm gần đây xuất hiện và tăng nên
đáng kể. Đâu đó ta vẫn nghe thấy sinh viên đi cầm đồ để lấy tiền tiêu, đau lòng
hơn là sinh viên cớp giật, trộm cắp. Phát hiện ngày càng nhiều sinh viên nghiện hút
ma tuý và vô vàn những lỗi lầm khác nữa. Họ đã mất bao công sức để đợc ngồi
trên ghế giảng đờng mà nay lại đánh mát mình bởi những lôi kéo của lối sống thực
dụng, sa hoa của đô thị. Thơng mại hoá trong học tập là một thực tế nhức nhối,
sinh viên đã bị thực dụng hoá nặng nề. Tuy nhiên những thói h tật xấu đó sớm
muộn sẽ bị đào thải và đợc thay thế bằng thế hệ sinh viên tiến bộ . Đời sống sinh
viên ngày nay đang dần có những biến đổi cả theo chiều hớng tích cực cả theo
chiêù hớng tiêu cực. Đó phải chăng là do ảnh hởng của nền kinh tế thị trờng đang
ngày càng ảnh hởng sâu đến đời sống, học tập và zèn luyện của sinh viên?
B./THựC TRạNG Đề TàI.
I./Thực tiễn quá trình hình thành và phát triển kinh tế thị tr ờng ở Việt
Nam.
1./Đặc trng của nền kinh tế thị trờng theo định hớng xã hội chủ nghĩa ở nớc ta.
Nền kinh tế thị trờng định hớng xã hội chủ nghĩa cũng có những tính chất của
nền kinh tế: nền kinh tế vận động theo quy luật cạnh tranh; có chủ thể kinh tế có
tính độc lập, tự chủ để có quyền đa ra những quyết định phi tập trung hoá; thị trờng
có vai trò quyết định trong việc phân phối các nguồn lực kinh tế; giá cả do thị trờng quyết định; nhà nớc thực hiện điều tiết kinh tế vĩ mô để giảm bớt thất bại của
thị trờng. Nhng bất cứ nền kinh tế thị trờng nào cũng hoạt động trong những điều
kiện lịch sử và đặc biệt chế độ xã hội của nớc đó, và do đó có những đặc điểm
riêng phân biệt với nền kinh tế thị trờng của nớc khác. Cụ thể nền kinh tế thị trờng
định hớng XHCN ở Việt Nam có những đặc điểm sau đây:
Đại học Kinh tế quốc dân- Kinh tế đầu t 43A13
Tiểu luận Triết học
Nền kinh tế dựa trên cơ cấu đa dạng về hình thức sở hữu, trong đó sở hữu nhà nớc là chủ đạo. Nền kinh tế gồm 5 thành phần kinh tế: kinh tế nhà nớc, kinh tế hợp
tác, kinh tế cá thể tiểu thủ, kinh tế t bản t nhân, kinh tế t bản nhà nớc . Trong đó tất
cả các loại hình đều góp mặt đi đôi với các chính sách khuyến khích phát triển phù
hợp với từng loại hình và từng vùng.
Trong nền kinh tế của chúng ta thực hiện nhiều hình thức phân phối thu nhập:
phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế, phân phối dựa trên mức đóng
góp của nguồn lực vào sản xuất vá kinh doanh và phân phối thông qua các quỹ
phúc lợi xã hội, trong đó phân phối theo kết quả lao động giữ vai trò nòng cốt, đi
đôi với chính sách điều tiết thu nhập một cách hợp lý. Chúng ta không coi bất bình
đẳng trong xã hội nh là một trật tự tự nhiên, là điều kiện tăng trởng kinh tế, mà thực
hiện mỗi bớc tăng trởng kinh tế kết hợp với cải thiện đời sống nhân dân, với tiến bộ
và công bằng xã hội.
Cơ chế vận hành nền kinh tế là cơ chế thị trờng có sự điều tiết của nhà nớc theo
định hớng XHCN. Vai trò qản lý của nhà nớc trong nền kinh tế thị trờng là hết sức
quan trọng. Sự quản lý của nhà nớc bảo đảm sự công bằng và tiến bộ xã hội; bảo
đảm cho nền kinh tế tăng trởng ổn định có hiệu quả. Không có ai ngoài nhà nớc lại
có thể giảm bớt đợc sự chênh lệch giàu và nghèo,giữa thành thị và nông thôn, giữa
công nghiệp và nông nghiệp, giữa các vùng của đất nớc. Tuy vậy cần nhấn mạnh
rằng sự can thiêp của nhà nớc vào nền kinh tế phải sao cho phù hợp với thị trờng.
Vì vậy nhà nớc sử dụng các biện pháp kinh tế là chính để điều tiết nền kinh tế .Nền
kinh tế thị trờng ở nớc ta là nền kinh tế mở rộng hội nhập với nền kinh tế thế giới
và khu vực, thị trờng trong nớc gắn với thị trờng thế giới, thực hiện những thông lệ
trong quan hệ kinh tế quốc tế, nhng vẫn giữ độc lập chủ quyền và bảo vệ lợi ích
quốc gia, dân tộc trong quan hệ kinh tế đối ngoại.
2./Thành tựu đạt đợc sau 15 năm đổi mới
Qua hơn 15 năm thực hiện đổi mới, tuy mới chỉ là khoảng thời gian không lớn
nhng sự chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế đã đem lại một số thành tựu quan trọng.
Nền kinh tế đạt đợc tốc độ tăng trởng tơng đối cao và bắt đầu có tích luỹ. Tổng sản
phẩm quốc dân (GNP) năm năm 1985-1990 tăng 4,8% năm. Tổng sản phẩm quốc
nội (GDP) tăng 3,9% năm. Giai đoạn 1991- 1995 GDP tăng bình quân 8,2% năm
(1991: 6%; 1992: 8,6%; 1993:8,1%; 1994:8,4%; 1995:9,5%). Giai đoạn 1996-2000
GDP tăng bình quân 6,5% năm (1996: 9,3% ;1997: 8,1%; 1998:5,8% ;1999: 4,8%;
Đại học Kinh tế quốc dân- Kinh tế đầu t 43A14
Tiểu luận Triết học
2000: 5,5%) . Một số năm tốc độ tăng có chậm do khủng hoảng tài chính trong khu
vực, nhng quy mô kinh tế đã lớn hơn nhiều so với năm 1990 (1997:gấp1,7 lần;
1998 gấp 1,8 lần).
Về cơ cấu kinh tế cũng từng bớc có sự chuyển hớng tích cực. Tỷ trọng khu vực
công nghiệp và dịch vụ tăng dần, giảm tỷ trọng khu vực nông- lâm nghiệp, thuỷ
sản trong khi vẫn duy trì đợc tốc độ tăng của tất cả các nghành kinh tế. Lạm phát
tiếp tục bị kiềm chế và đẩy lùi (giá hàng hoá và dịch vụ thị trờng năm 1991 tăng
67,5%; 1992:17,5%; 1993:5,2%; 1994:14,4%; 1995:12,7%). Quá trình mở cửa và
hội nhập với bên ngoài cũng có những bớc phát triển mới. Thực hiện phơng châm
Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nớc, đến cuối năm 1995 chúng ta đã có
quan hệ với 156 nớc, quan hệ ngoại thơng với trên 100 nớc và lãnh thổ , trên 50 nớc có quan hệ đầu t trực tiếp, quan hệ đa đón khách du lịch với 470 hãng của 45 nớc và lãnh thổ. Từ nớc ta đã có trên 20 đờng bay quốc tế với sự tham gia 30 hãng
hàng không các nớc và lãnh thổ. Nghành bu điện năm 1986 chỉ có 9 kênh ra nớc
ngoài nhng đến năm1995 đã có khoảng1500. Nhiều tổ chức tài chính quốc tế , tổ
chức chính phủ và các liên minh kinh tế , hiệp hội kinh tế đã có quan hệ đa phơng
và song phơng với nớc ta. Đời sống các tầng lớp dân c đợc cải thiện một bớc. Sự
nghiệp văn hoá ,giáo dục, y tế cũng đợc củng cố và tăng cờng. Theo kết quả điều
tra giàu nghèo 1994, trong tổng số 48.000 hộ đại diện cho các khu vực, các vùng,
các địa phơng có 17,81% hộ nghèo, so với kết quả điều tra năm 1989, không
những số hộ có thu nhập cao đã tăng lên mà thu nhập thực tế của hộ nghèo cũng
đợc nâng cao hơn, tỷ lệ hộ nghèo giảm từ 55% xuống 17,81%.
Có thể nói những thành tựu đạt đợc chính là bằng chứng thuyết phục nhất chứng
minh cho sự đúng đắn của việc chuyển đổi cơ chế kinh tế, chứng minh cho những u điểm của kinh tế thị trờng.
3./Những tồn tại của quá trình đổi mới .
Nh đã nói ở trên, kinh tế thị trờng luôn chứa trong nó cả hai mặt tích cực và tiêu
cực. Do vậy, bên cạnh những thành tựu thì sự tồn tại của những điều hạn chế cũng
là điều khó tránh khỏi, Từ một nền kinh tế nặng bao cấp, tự cung tự cấp chuyển
sang kinh tế thị trờng , đến nay sự phát triển hàng hoá còn khá chênh lệch giữa các
vùng và các ngành. Mặt khác, kinh tế thị trờng nội địa còn mới sơ khai lại gắn với
kinh tế thị trờng thế giới hiện đại do chủ nghĩa t bản chi phối. Việc thu hút vốn đầu
t nớc ngoài là một yêu cầu rất cấp thiết . Song do thế và lực trong nớc còn yếu và
Đại học Kinh tế quốc dân- Kinh tế đầu t 43A15
Tiểu luận Triết học
trên thực tế nớc ta còn cha vợt qua những bớc đi mò mẫm, vừa làm vừa rút kinh
nghiệm nên các lúng túng trong việc hoạch định cơ chế chính sách và tổ chức chỉ
đạo thực hiện ,dẫn đến sức cạnh tranh và hiệu quả kinh tế còn thấp, dễ rơi vào tình
trạng phụ thuộc, bị động, nợ nần chồng chât, dễ chịu tác động của các cuộc khủng
hoảng kinh tế, tài chính thế giới và khu vực. Nền kinh tế tuy có khả năng đạt mức
tăng trởng cao trong thời kỳ đầu nhng nêu không có định hớng đầu t tốt thì sẽ gặp
khò khăn trong thời kỳ tiếp theo. Bên cạnh đó, cơ chế và tổ chức thực hiện việc
tuyển dụng, sắp xếp, đào tạo và nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ, viên chức ở
các nghành các cấp, từ trung ơng xuống địa phơng còn nhiều yếu kém.
Đặc biệt, sự phát triển của kinh tế thị trờng nếu không tỉnh táo, bám sát chủ trơng của Đảng sẽ dễ dẫn tới sự suy của giá trị đạo đức, làm lu mờ bản sác văn hoá,
truyền thống dân tộc. Nền kinh tế mở cửa kéo theo sự thâm nhập trên cả các lĩnh
vực chính trị , văn hoá, xã hội... Đó là một thực trạng phức tạp đang tồn tại ở Việt
Nam và gây nhiều ảnh hởng đến các thành viên trong xã hội.
II./Thách thức của quá trình toàn cầu hoá và nền kinh tế tri thức.
Toàn cầu hoá đang tác động mạnh mẽ đến các quốc gia, dân tộc đời sống xã hội
của cả cộng đồng nhân loại, cũng nh đến cuộc sống của từng con ngời. Báo cáo
UNDP năm 1999: một phần năm dân số thế giới sống trong những nớc thu nhập
cao nhất chiếm tới 86% GDP của thế giới, 82% thị trờng xuất khẩu, 68% đầu t nớc
ngoài trực tiếp, 74% số điện thoại trong khi đó một phần năm dân số ở các nớc có
thu nhập thấp chỉ chiếm 1% các chỉ số đó. Các nớc OECD với 19% dân số toàn
cầu chiếm tới 71% thơng mại toàn cầu về hàng hoá và dịch vụ, 58% đầu t nớc
ngoài và 91% tổng số ngời dùng internet. Tài sản của 3 tỷ phú giàu nhất nhiều hơn
tổng GNP của các nớc kém phát triển với 600 triệu dân v.v...Toàn cầu hoá là một
quá trình tất yếu. Nó tạo ra nhiều cơ hội cho các nớc đang phát triển(trong đó có
Việt Nam) hoà nhập vào nền kinh tế thế giới nhng cũng tạo ra những thử thách vô
cùng khó khăn không thể lờng hết đợc. Điều cần nhấn mạnh là ở chỗ, cơ hội mà
toàn cầu hoá đem lại cho các nớc khác nhau, dân tộc khác nhau không phải lúc nào
cũng nh lúc nào. Các nớc phát triển hơn sẽ đợc chia sẻ nhiều cơ hội nhiều hơn và
nh vậy thách thức với các nớc nghèo là rất lớn. Bảng xếp hạng UNDP năm 1999,
Việt Nam xếp hạng 110/144, là nớc đang phát triển. Vì vậy thách thức đặt ra cho
chúng ta là hết sức to lớn đặc biệt là về kinh tế. Từ năm 1997 đến nay, do ảnh hởng
của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ trong khu vực nền kinh tế nớc ta bắt đầu
Đại học Kinh tế quốc dân- Kinh tế đầu t 43A16
Tiểu luận Triết học
gặp nhiều khó khăn, tốc độ tăng trởng giảm xuống. Các cấp lãnh đạo đang đau đầu
về nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế và để tránh tình hình đó phải tiến hành công
nghiệp hoá hiện đại hoá. Mặt khác do sự thay đổi về cơ chế quản lý dẫn tới nhiều
doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, hàng hoá không còn sức cạnh tranh. Xét về mặt cơ
cấu của nền kinh tế, nớc ta vẫn là nớc nông nghiệp. Thêm vào đó, nền nông nghiệp
lại phân bố không đều, tập trung chủ yếu ở hai đầu đất nớc nên phát triển công
nghiệp lại càng khó khăn.
Hiệp định thơng mại Việt- Mỹ ký giữa hai nớc Việt Nam và Hoa Kỳ vào tháng
12/2001 là bớc đi mở đầu cho việc hội nhập thực sự vào nền kinh tế thế giới Và
tiếp sau đó sẽ là một loạt những bớc đi khác nữa khẳng định việc hòa nhập đó. Nó
đặt ra những cơ hội về khả năng mở rộng buôn bán nhng cũng buộc Việt Nam phải
có những gải pháp nhằm nâng cao sức cạnh tranh thì mới có hi vọng phát triển
Chúng ta phải mở cửa để hàng hoá các nớc vào và nâng cao chất lợng xuất khẩu để
hàng Việt Nam có thể bán đợc ở nớc ngoài.
Tiếp theo đó là thách thức về mặt xã hội. Là nạn thất nghiệp và thiếu việc làm.
Theo số liệu thống kê những năm 90 chúng ta có 3 triệu ngời không có việc làm và
một bộ phận không nhỏ có việc làm không ổn định. Ước tính mỗi năm có 9 triệu
lao động trong khi chỉ đáp ứng 1 triệu/ năm. Là sự phân hoá giàu nghèo và nhiều
yếu tố tiêu cực gắn liền với nó. Là tình trạng tệ nạn xã hội và tội phạm xã hội ngày
một gia tăng với tốc độ ngày càng cao. Và thách thức về văn hoá cũng không phải
là nhỏ với những khó khăn phải giữ cho đợc văn hoá truyền thống trong các tác
động to lớn của cơ chế mới.
Và một thách thức cực kì quan trọng mang tính cấp bách là nâng cao tri thức vì
đó là động lực phát triển kinh tế tri thức. Chất lợng đào tạo tri thức còn quá yếu
kém không phục vụ tốt đợc nhu cầu của những nghành nghề có hàm lợng tri thức
cao. Nh đã trình bày ở trên, những khó khăn, yếu kém đã đặt ra một thách thức vô
cùng to lớn đó là phải đầu t có trọng điểm và nâng cao chất lợng giáo dục trong bối
cảnh kinh tế còn khó khăn. Và để bắt kịp xu thế chung thì đòi hỏi phải là sự nỗ lực
với mối đại đoàn kết của toàn Đảng toàn dân.
Từ hơn một thập niên trở lại đây, nền kinh tế tri thức trở thành một chủ đề lớn ,
là vấn đề nóng hổi trong sự quan tâm chú ý của tất cả dân tộc, các quốc gia.Nh đã
nói trên kinh tế tri thức là con đờng duy nhất và là tất yếu của kinh tế thế giới cũng
nh Việt Nam phải theo. Đó là kinh tế khoa học, kinh tế văn hoá. Kinh tế tri thức là
Đại học Kinh tế quốc dân- Kinh tế đầu t 43A17
Tiểu luận Triết học
hệ quả hợp lôgíc của tiến bộ, phát triển, của văn minh và văn hoá. Sự xuất hiện của
sự kiện này trong những năm gần đây phải đợc xem là một trong những biến đổi
nổi bật của tình hình thế giới, có tác động trực tiếp và sâu xa tới giáo dục và đào
tạo. Kinh tế tri thức không tách rời, biệt lập mà gắn liền với toàn cầu hoá. Toàn cầu
hoá diễn ra với sức mạnh kinh tế tri thức và trên thực tế, nó đang tạo u thế và lợi
thế cho các nớc t bản chủ nghĩa có trình độ phát triển cao. Thời đại ngày nay quá
độ từ chủ nghĩa t bản lên chủ nghĩa xã hội , nhng xu thế ấy của lịch sử không hề
che lấp một thực tế là chủ nghĩa t bản hiện đại còn rất nhiều tiềm lực để phát triển,
trong khi đó chủ nghia xã hội còn cha thoát khỏi tình trạng thoái trào những đổ vỡ
của thể chế xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu, đang phải tiếp tục đổi mới,
cải cách để phát triển, để lấy lại vị thế của mình trong đời sống chính trị thế giới.
Các thế lực t bản chủ nghĩa và đế quốc chủ nghĩa đang ra sức lợi dụng nhng u thế
hiện có về kỹ thuật, tân dung các thành quả của cách mạng khoa học kỹ thuật và
công nghệ để dành lấy lợi thế tối đa của nó, duy trì ách áp bức, bóc lột đối với
công nhân và lao động, kìm hãm các phong trào đấu tranh cách mạng để củng cố
các vị trí thống trị của chúng ở trong nớc và gây biết bao hậu quả cho các dân tộc
khác. Các nớc t bản phát triển và các tập đoàn kinh tế xuyên quốc gia đang ra sức
lợi dụng u thế vật chất, kinh tế kỹ thuật và công nghệ để can thiệp vừa thô bạo vừa
tinh vi vào chủ quyền dân tộc, quốc gia khác, mu toan áp đặt con đờng t bản chủ
nghĩa vào các nớc và lệ thuộc hoàn toàn vào các cờng quốc t bản do Mỹ thao túng.
Mỹ và đồng minh đã gây chiến tranh vùng Vịnh ở Irắc, thức hiện cấm vận gây bao
đau thơng ở đây. Chúng gây chiến tranh Côxôvô can thiệp trắng trợn vào chủ
quyền của Nam T, không hề từ bỏ mu đồ chống phá cách mạng CuBa bằng bao vây
cấm vận tiếp tay cho phản động...Nh vậy có thể thấy toàn cầu hoá có tính hai mặt,
toàn cầu hoá là một xu hớng khách quan , bắt nguồn từ phát triển lực lợng sản
xuất, của khoa học kỹ thuật công nghệ, của kinh tế tri thức.
Thực tế này đòi hỏi chúng ta phải tính đến và có những đối sách phù hợp. Kinh
tế tri thức có chất thế giới. Nhận thức rõ các tất yếu này để tìm kiếm sự đồng thuận
trong phát triển, có hành động phối hơp để đạt mục tiêu phát triển, vì lợi ích của
dân tộc mình.
III./Những mâu thuẫn nảy sinh giữa quá trình phát triển kinh tế thị tr ờng với quá
trình học tập và rèn luyện của sinh viên.
Đại học Kinh tế quốc dân- Kinh tế đầu t 43A18
Tiểu luận Triết học
Bên trong mỗi thực tế xã hội luôn tồn tại nhiều loại mâu thuẫn. Đó là tất yếu bởi
xã hội đợc cấu thành từ nhiều bộ phận và yếu tố khác nhau. Đó là: mâu thuẫn giữa
quan hệ sản xuất và lực lợng sản xuất, mâu thuẫn giữa đào tạo và việc làm, mâu
thuẫn giữa lợi ích kinh tế, chính trị của các giai cấp, tầng lớp xã hội... Trong bối
cảnh nớc ta hiện nay cũng tồn tại nhiều loại mâu thuẫn, mà một trong những mâu
thuẫn quan trọng phải kể đến mâu thuẫn giữa nền kinh tế thị trờng và tác động của
nó đối với quá trình học tập, rèn luyện của sinh viên.
Có thể khẳng định mâu thuẫn trên là quan trọng bởi nhiều nhiều lý do. kinh tế thị
trờng là một vấn đề hàng đầu trong các chiến lợc phát triển của Việt Nam. Sự phát
triển của kinh tế sẽ là nền tảng cho sự phát triển của nhiều yếu tố nh chình trị, văn
hoá,xã hội... Không thể mong muốn một quốc gia thịnh vợng nếu không có tiềm
lực phát triển kinh tế. Mặt khác, chúng ta đang trong thời gian thực hiện đổi mới
,tất cả chỉ là bớc khởi đầu cha có kinh nghiệm nên mọi tác động từ nền kinh tế và
từ nền kinh tế đều đáng chú ý. Tuy nhiên, phát triển kinh tế phải luôn đi đôi với
chiến lợc phát triển con ngời. Trong dự thảo báo cáo chính trị của BCHTW Đảng
khoá VIII trình đại hội IX của Đảng- công bố ngày 3-2-2001 có đoạn: Phát triển
giáo dục và đào tạo, khoa họcvà công nghệ, xem đây là nền tảng và động lực của sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Tạp chí cộng sản số5-1999 có viết :Lấy
đầu t tri thức làm động lực phát triển chủ yếu thay cho đầu t vật chất... Tất cả đèu
tập trung vào yếu tố con ngời. Thực tế các nớc phát triển trên thế giới đã thừa nhận
đó là sự lựa chọn tối u .Một ví dụ tiêu biểu và gần gũi với chúng ta là đất nớc
Singapore. Thành công vang dội của Singapore có phần nhờ chủ nghĩa nhân tàido
ông Lý Quang Diệu đề ra và thực thi với nội dung:Tài nguyên duy nhất của
Singapore là CON NGƯƠI, không đào tạo và sử dụng nhân tài thì đất nớc sẽ suy
vong. Sau khi dành hơn 10 năm cho việc đa những ngời tài giỏi lên thay thế cán
bộ các cấp , ông nói: tôi cảm thấy mình đã làm đợc việc có thể làm là đa nhữngngời tài giỏi nhất, vững vàng nhất lên lãnh đạo Singapore . Nhờ những tầng lớp lãnh
đạo trí thức hoá biết nhìn xa trông rộng , Singapore đã tập trung phát triển sức
mạnh dịch vụ và dùng công nghệ tin học biến Singapore thành Hòn đảo trí tuệ.
Nói nh vậy để chúng ta có thể thấy rõ tầm quan trọng của nhân tố con ngời trong sự
nghiệp phát triển kinh tế nói riêng và phát triển đất nớc nói chung.
Tất nhiên con ngời bao gồm nhiều đối tợng, và đó là quá trình đào tạo lâu dài.
Tuy nhiên trong đó các tầng lớp sinh viên là đối tợng tiêu biểu. Bài viết Một số
Đại học Kinh tế quốc dân- Kinh tế đầu t 43A19
Tiểu luận Triết học
suy nghĩ về vai trò của giáo dục và đào tạo trong việc phát triển nguồn lực con ngời. của tác giả Phạm Văn Đức trên tạp chí Triết học-số12/2000- đã nhận định:
Chỉ có đào tạo, giáo dục bậc cao mới tạo ra đợc những nhân tài, một yếu tố không
thể thiếu đợc cho sự phát triển của bất kỳ đất nớc nào. Giáo dục bậc cao ở đây là
đề cập đến bậc đại học và sau đại học, trong đó đối tợng chủ yếu là sinh viên . Đây
là đối tợng chính thức có sự chọn lựa, khẳng định về nghành nghề trong tơng lai và
họ là thành phần chủ yếu thâm gia vào bộ máy nhà nớc sau này, thực hiện các chức
năng điều hành, quản lý, xây dựng kinh tế, văn hoá, chính trị và xã hội.
Bản thân nền kinh tế thị trờng và sinh viên là hai lĩnh vực hoàn toàn khác nhau,
chúng không phải là hai mặt đối lập, mà sự đối lập đợc nẩy sinh trong sự tác động
qua lại giữa chúng. Đó là mối quan hệ biện chứng. Sự vận động phát triển không
ngừng của kinh tế thị trờng, quá trình học tập và rèn luyện của sinh viên làm nảy
sinh nhiều mâu thuẫn vừa thống nhất vừa đấu tranh với nhau. Và sự nảy sinh mâu
thẫn đó là khách quan phù hợp quy luật mâu thuẫn.
1./Biểu hiện của sự thống nhất.
Theo quy luật mâu thuẫn, sự thống nhất đợc thể hiện ở sự nơng tựa, ràng
buộc,phụ thuộc lẫn nhau, là điều kiện , tiền đề tồn tại và phát triển của nhau, thâm
nhập chuyển hoá lẫn nhau . Ơ đây cũng vậy, những thành tựu đạt đợc sau 15 năm
đổi mới thực hiện cơ chế thị trờng đã làm bộ mặt nền kinh tế Việt Nam có nhiều
thay đổi đáng kể. Khi kinh tế phát triển, cơ sở hạ tầng đơc chú ý đầu t nâng cấp, có
thêm nguồn vốn cho hoạt động chính trị, văn hoá, xã hội và cả kinh tế. Đời sống
nhân dân khá hơn dẫn đến trình độ nhận thức cũng đợc nâng cao. Ngày càng có
nhiều ngời theo học ở các trình độ cao đảng và đại học. Số lợng sinh viên nhiều
năm qua đã có sự tăng lên đáng kể. Nếu coi năm 1985-1986 là 100% thì có thể
biểu thị sự tăng trởng số sinh viên nh sau: 1986-1987:102,53% ; 1987-1988 :
102,45% ; 1988-1989:112,75%; 1989 -1990:117% ; 1990-1991:119,55% ;19911992: 101.09% ; 1992-1993: 131,34%; 1993-1994: 138,08%; 1994-1995: 153,86%
1995-1996: 194,43 %...Ngân sách dành cho giáo dục đào tạo, trong đó có cao đẳng
và đại học ngày càng cao hơn. Hệ thống giảng đờng, th viện, phòng thí nghiệm đợc
tu sửa, đầu t xây mới hiện đại và qui mô hơn. Sinh viên có nhiều cơ hội tiếp cận với
tri thức bên ngoài bài giảng trên lớp. Đặc biệt hiện nay có s mở cửa của nền kinh tế
đã tạo điều kiện cho sự giao lu quốc tế về khoa học kĩ thuật, thông tin,tri thức.
Thông qua Internet, sinh viên có thể tìm hiểu thế giới chuyển động không ngừng,
Đại học Kinh tế quốc dân- Kinh tế đầu t 43A20
Tiểu luận Triết học
giao lu học hỏi bạn bè quốc tế. Nhiều quốc gia nh Australia, Mỹ, Anh, Pháp,
Singapore, Hà Lan ...cùng nhiều tổ chức nớc ngoài đã dành cho sinh viên Việt Nam
những suất học bổngdu học, tạo điều kiện cho phát triển năng lực cá nhân. Trong
các trờng đại học hiện nay, chất lợng ký túc xá đã đáp ứng phần nào nhu cầu chỗ ở
cho sinh viên, một số còn rất tiện nghi, thuận cho quá trình sinh hoạt, học tập nh
ĐH Ngoại Thơng, Quan hệ Quốc tế, Xây Dựng, Mỹ Thuật, Kinh Tế Quốc Dân...
Những đặc trng của nền kinh tế thị trờng có tác động rất lớn đến sinh viên. Sự
vận động sôi nổi, liên tục của nền kinh tế đã tạo nên một thế hệ sinh viên năng
động, sáng tạo dám nghĩ dám làm, bám sát thực tế. Số sinh viên vừa học vừa làm
ngày càng nhiều, không những vừa đáp ứng thêm nhu cầu tài chính mà còn quan
trọng đã giúp ngời sinh viên mở rộng thêm thực tế, có thể thực hành các lý thuyết
từ bài giảng. Từ những công việc nh: bán bảo hiểm, gia s, chạy bàn quán bar, tiếp
thị...sinh viên hiểu đợc sự khó khăn trong công việc, hiểu đợc ý nghĩa của đồng tiền
và họ trởng thành từ đó. Ngày càng nhiều các đội ngũ các nhà doanh nghiệp trẻ còn
đang ngồi trên ghế giảng đờng. Rõ ràng đó là một sự năng động hết mình, sự tự
khẳng định mình đáng thuyết phục. Trung tâm Acad- 66/66- Đại Cồ Việt Hà Nội
bao gồm 5 sinh viên khoá 97- K5 Kiến trúc ĐH Kiến trúc là một ví dụ. Thành lập
với số vốn ban đầu là 45 triệu +1 máy tính / ngời, đến nay họ đã thực hiện đợc
nhiều hợp đồng, gây đợc uy tín và thu đợc một số vốn khá lớn. Với t cách là một
doanh nghiệp sinh viên trẻ tuổi, họ đã nói:Chúng tôi muốn đợc thị trờng cấp bằng.
Không thể coi một sinh viên học gạo kiếm điểm cao là học giỏi đợc. Giỏi ở đây là
kinh nghiệm, là kinh nghiệm, là kiến thức thực tế, là khả năng áp dụng kiến thức
vào cuộc sống. Nghành nào bây giờ cũng vậy thôi, phải làm điều thị trờng cần chứ
không hẳn những gì ta đã học. Lăn lng vào làm mới vỡ ra : từ lý thuyết đến thực tế
còn một khoảng cách khá xa. (1) Đặc biệt kể đến mô hình hợp tác xã đầu tiên và
đến nay là duy nhất trong cả nớc của trờng đại học Kinh tế quốc dân. Một trờng đại
học có hợp tác xã. Một hợp tác xã có giáo viên và 75% là sinh viên. Sinh viên tiết
kiệm tiền mua cổ phần của hợp tác xã. Họ vừa là khách hàng của hợp tác xã vừa là
chủ ngồi biểu quyết bàn luận phơng hớng hoạt động trong những kỳ đại hội xã
viên. Hợp tác xã kinh doanh rất đâ dạng, từ ăn uống, dịch vụ văn hoá phẩm, dịch vụ
đời sống, trông giữ xe, tổ chức vui chơi, giải trí, du lịch, quầy tích kiệm,cho
vay,cầm đồ, nhà trọ... Thành lập từ 2/1/1998 với số vốn ban đầu 26.820.000 đồng,
vốn cổ phần là 161.320.000 đồng, đến nay tổng số tài sản của hợp tác xã là
674.700.000. Từ trớc đến nay vẫn tồn tại suy nghĩ sinh viên Việt Nam thua kém
Đại học Kinh tế quốc dân- Kinh tế đầu t 43A21
Tiểu luận Triết học
sinh viên các nớc rất nhiều, đặc biệt về thực hành , thực tế. Chúng ta cũng phải thừa
nhận rằng sinh viên ta còn nhiều hạn chế nhng là do điều kiện cuộc sống, học tập
còn khó khăn so với các nớc. Thế nhng những gơng mặt , tập thể điển hình nh trên
là những biểu hiện cho một xu hớng khả quan hơn.
Số sinh viên đại học và cao đẳng hiện nay đã tăng 5,7 lần so với trớc đổi mới.
Nh vậy hàng năm sẽ có một số lợng lớn sinh viên ra trờng , tham gia vào nhiều hoạt
động kinh tế, văn hoá xã hội, vào quản lý điều hành bộ máy Nhà nớc.Đây là lực lợng trí thức nhất trong xã hội, do vậy giữ vai trò quyết định trong việc phát triển đất
nớc. Họ than gia vào các quá trình hoạch định , xây dựng các chính sách chiến lợc
và trực tiếp thực hiện các kế hoạch, chính sách đó.
Nếu ở trên, mặt tích cực của nền kinh tế thị trờng góp phần đào tạo nên một thế
hệ sinh viên tri thức, năng động sáng tạo thì bây giờ, chính những con ngời đó do
đợc phát triển về mọi mặt sẽ có cái nhìn tổng thể toàn diện, đặc biệt về kinh tế thị
trờngđể đa ra những bớc đi phù hợp. Kinh tế lại phát triển hơn dẫn đến nâg cao hơn
nữa trình độ, số lợng đội ngũ sinh viên. Cứ nh thế, sự phát triển của hoạt động này
nằm ngay trong sự phát triển của hoạt động kia. Điều đó rất phù hợp với quy luật
mâu thuẫn. Sự thống nhất chỉ là một hiện tợng tơng đối tạm thời, chỉ tồn tại trong
những thời gian, điều kiện nhất định. Rõ ràng sự thống nhất giữa sự phát triển của
kinh tế thị trờng và quá trình học tập , rèn luyện của sinh viên là sự thống nhất của
hai quá trình vận động không ngừng, do đó luôn đợc biến đổi cả về lợng và chất ,
có xu hớng ngày càng ở mức cao hơn so với khi cha tới giới hạn. Các thế hệ sinh
viên tiếp nối nhau, lớp sau giỏi hơn lớp trớc, nền kinh tế phát triển ngày càng hiệu
quả. Nh vậy, xét về phơng diện sự thống nhất, đây là một quá trình tích cực thúc
đẩy lẫn nhau cùng phát triển.
2./Biểu hiện của sự đấu tranh
Ngay bản thân nền kinh tế thị trờng đã chứa đựng mâu thuẫn và trong đó mâu
thuẫn giữa hai mặt đối lập là mặt tích cực và tiêu cực cuả kinh tế thị trờng. Nếu nh
mặt tích cực của kinh tế thị trờng tác động tích cực đến sinh viên và thu về những
tác động tích cực thì tiêu cực lại là những tác động tiêu cực đến sinh viên và cũng
thu về những tác động tiêu cực. Theo quy luật mâu thuẫn, sự đấu tranh giữa các mặt
đối lập là sự gạt bỏ bài trừ, phủ định lẫn nhau. Cụ thể những tiêu cực của nền kinh
tế thị trờng đã đem lại những phần tử sinh viên quá đề cao vật chất, chạy theo lối
sống thực dụng , lãng quên các giá trị đạo đức,văn hoá dân tộc ... kinh tế thị trờng
Đại học Kinh tế quốc dân- Kinh tế đầu t 43A22
Tiểu luận Triết học
mang theo nó những căn bệnh nh tham ô tham nhũng, cửa quuyền..., dẫn đến
những khâu yếu kém trong lĩnh vực quản lý. Dới tác động của mặt trái cơ chế thị trờng, việc mở rộng và đa dạng hoá các lĩnh vực đào tạo đã đa đến tình trạng khó
kiểm soát về mặt chất lợng. Nhiều địa phơng, nhiều cơ sở không đủ điều kiện nhng
cũng tìm mọi cách mở trờng mở lớp dới nhiều hình thức hn liên doanh liên kết, đào
tạo tại chức. Các hình thức kinh doanh giáo dục đào tạo đợc tổ chức ở khắp nơi.
Nhiều tác động của cơ chế thị trờng, của đồng tiền đã len lỏi vào tận bục giảng. Có
lẽ cha bao giờ chúng ta gặp nhiều tiêu cực trong giáo dục và đào tạo nh hiện nay .
Trên cơ sở 500 phiếu phát tại kí túc xá của các trờng đại học ở Hà Nội (Ngoại thơng, Thơng mại, Kinh tế quốc dân, Bách khoa, Khoa học xã hội và nhân văn, Luật )
đã có 80% sinh viên cho rằng hiện tợng mua bán điểm diễn ra phổ biến Tình trạng
học giả bằng thật không phải là hiếm ... Thậm chí ở một số trờng, ở các quầy
photocopy diễn ra việc mua bán luận văn, tiểu luận. Chỉ với khoảng 15.000
đồng/đĩa hay 20.000- 30.000 đồng/80 trang luận văn là có thể đàng hoàng có đợc
cái mà nhẽ ra phải tìm tòi , học tập vất và mới có đợc. Quy trình tốt nghiệp đại học
vì thế mà bị coi thờng. Và không biết từ khi nào , chuyện thi cử, tốt nghiệp , học
đại học, môi trờng đại học không còn đợc xem là một chốn trong lành, nghiêm
trang nữa. Dùng tiền mua con đờng vào tơng lai, điều đó khống chế, tác động xấu
đến chất lợng giáo dục mà còn tác động xấu đến nhân cách của những con ngời sẽ
là chủ nhân tơng lai của đất nớc.
Không chỉ có thế, kinh tế thị trờng còn gián tiếp gây ra một hiện tợng tiêu cực
trong sinh viên, đó là tình trạng giàu nghèo. Tất nhiên trong cơ chế thị trờng sẽ có
kẻ giàu ngời nghèo, đó là điều không thể tránh khỏi. Tuy nhiên trong môi trờng đại
học phải có sự công bằng bình đẳng với tất cả sinh viên. Nhiều lớp chia thành xóm
nhà lá và xóm nhà giàu. Họ học tập, vui chơi, hoạt động hoàn toàn độc lập,
riêng biệt với nhau. Kẻ giàu thì kiêu căng, không hoà đồng với tập thể, khinh ngời,
phô trơng mà họ quên rằng họ vẫn cha thoát khỏi sự ăn bám gia đình. Ngời khó
khăn thì tự ty, rụt rè, thu mình và cũng không tham gia các hoạt động của tập thể.
Chính vì vậy, các hoạt động của lớp không đợc thực hiện, tập thể rời rạc không
đoàn kết, không còn có tác động tốt đến từng sinh viên, không còn mang những
tính ấm cúng, thiêng liêng nh nó đã từng có. Và từ đó xuất hiện những t tởng tiêu
cực và nó không kéo đợc sinh viên về với học tập khiến nhiều sinh viên sa ngã vào
các tệ nạn xã hội .Tuy rằng điều đó chỉ diễn ra ở một vài lớp vài tr ờng nhng chúng
Đại học Kinh tế quốc dân- Kinh tế đầu t 43A23
Tiểu luận Triết học
ta cũng phải nghiêm khắc nhìn nhận và có những suy nghĩ , hành động tích cực đối
với những hiện tợng đó.
Ngoài ra, tác động tiêu cực này còn phải kể đến tình trạng phân bố không đều về
các nghành nghề của sinh viên. kinh tế thị trờng kéo theo sự lên ngôi của một số
nghành nghề kinh tế, luật,...đặc biệt khoa học công nghệ đợcđề cao trong khi đó
khoa học kỹ thuật cơ bản ở mức độ trung bình, còn nông , lâm nghiệp, văn hoá,
nghệ thuật là rất thấp. Theo số liệu thống kê trong những năm gần đây, số lợng sinh
viên theo học các khối nghành kinh tế, luật chiếm tỷ lệ khá lớn, khoảng 42,78%,
khoa học kĩ thuật là15,2%; khoa học cơ bản:15,5%; nông- lâm- ng nghiệp: 3,13%;
văn hoá nghệ thuật: 1,3%.Điều đó tất yếu dẫn tới tình trạng thừa cử nhân ở các lĩnh
vực kinh tế, luật và thiếu các kỹ s khoa học kỹ thuật, đặc biệt kỹ s nông nghiệp.
Sinh viên tốt nghiệp đại học không có việc làm cò tỷ lệ rất cao, khoảng 50%; số
kiếm đợc việc đúng nghành nghề đợc đào tạo cha chiếm đến 1/3. Thực tế cho thấy
đào tạo đã đánh mất chức năng tạo cơ hội việc làm của mình.
Tất nhiên những đối tợng sinh viên tiêu cực sẽ có ảnh hởng sấu đến sự phát triển
của nền kinh tế. có thể bằng cách nào đó, họ có chỗ đứng trong bộ máy nhà nớc, sau
đó bằng nhiều thủ đoạn sẽ tham ô, thực hiện buôn lậu, lợi dụng chức quyền để mu
cầu lợi ích riêng, chỉ vì chạy theo đồng tiền mà trực tiếp hoặc tiếp tay cho kẻ xấu
lũng đoạn nền kinh tế... Đó là ảnh hởng trực tiếp. Còn qua những thiệt hại về chính
trị, văn hoá, xã hội ...họ đã gây ảnh hởng gián tiếpđến nền kinh tế vì những khoản
chi để khắc phục hậu quả của những việc làm phi pháp. Có rất nhiều con đờng có
thể ảnh hởng đến nền kinh tế thị trờng của nớc ta. Vấn đề không đơn giản chỉ là phát
hiện và tìm ra con đờng, phơng thức tiêu cựcđó mà hơn nữa còn phải đa ra giải pháp
khắc phục, tức là giải quyết mâu thuẫn để nâng nên trình độ phát triển cao hơn.
C./ MộT Số GIảI PHáP Và KIếN NGHị.
I./Giáo dục đại học (GD ĐH) trớc ngỡng cửa nền kinh tế tri thức.
Trong kỳ họp 10 Quốc hội khoá X(12/2001) chính phủ đã thể hiện quyết tâm
nâng cao hệ thống giáo dục đào tạo. Giáo dục sẽ đợc cải thiện dới sự chỉ đạo và
giám sát của Quốc hội. Đó là sự chỉ đạo sâu sắc mang tính liên nghành để đạt hiệu
quả tốt nhất. Nh vậy là các cấp lãnh đạo đã thấy trớc đợc và đánh giá cao vai trò to
lớn của giáo dục đối với đất nớc nói chung và nền kinh tế nói riêng. Nhà nớc sẽ đầu
Đại học Kinh tế quốc dân- Kinh tế đầu t 43A24
Tiểu luận Triết học
t cho giáo dục (trong đó có giáo dục đại học) cả về bề rộng và chiều sâu nhằm nâng
cao chất lợng giảng dạy và học tập với những điểm mang tính bao quát sau:
*Đổi mới chơng chình, nội dung đào tạo cũ còn mang tính hàn lâm, viện, giảng
dạy một chiều, đối phó, hiệu quả không cao.
*Nâng cao chất lợng giáo dục bậc cao: Gửi nớc ngoài đào tạo các cán bộ ở trình
độ thạc sỹ, tiến sỹ bằng tiền của Nhà nớc nhằm mục đích đào tạo ra những máy
cái thật tốt phục vụ cho những năm sắp tới.
*Chú trọng đầu t nhiều vốn, thời gian nghiên cứu cho giáo dục và coi đó là quốc
sách hàng đầu.
Để có thể hội nhập chủ động vào sự phát triển chung của thế giới khi nền kinh tế
tri thức mở ra, đòi hỏi nền GD ĐH nớc ta phải có chiến lợc cụ thể hiệu quả ngay từ
bây giờ. Trớc hết chúng ta phải từng bớc sắp xếp hợp lý và ổn định hệ thống các trờng ĐH- CĐ. Trong mấy năm trở lại đây, hệ thống các trờng ĐH- CĐ ở nớc ta đã có
nhiều cải cách, nhng vẫn bộc lộ một số hạn chế, đó là tình trạng tách nhập các khoa,
các trờng liên miên, một số nghành nghề đào tạo còn chồng chéo... dẫn tới kinh tế
đầu t cho GD ĐH dàn trải, làm cho hiệu quả đào tạo cha cao. Theo GS.VS Đào
Trọng Thi- Giám đốc Đại học Quốc gia Hà Nội thì: Chúng ta cần tăng cờng đầu t
cho GD ĐH hơn nữa, bởi so với các nớc trong khu vực và trên thế giới nớc ta mpí
chỉ đầu t cho giáo dục ở mức thấp. Để nâng cao chất lợng GD ĐH chúng ta cần đầu
t trọng điểm chứ không nên dàn trải. Nếu nh trong kinh tế nông nghiệp, kinh phí đầu
t cho giáo dục chỉ chiếm 1% tổng sản lợng kinh tế quốc dân, thì trong kinh tế tri
thức nó phải chiếm 6-8%. Đáng chú ý là cống hiến của KHKT đối với sự tăng trởng
kinh tế trong kinhtế tri thức chiếm tới hơn 80%, trong khi đó ở kinhtế nông nghiệp
chỉ chiếm 10%. Nói nh vậy để thấy tầm quan trọng của đầu t cho giáo dục và thành
quả mà nó đem lại cho nền kinh tế nếu đợc đầu t thoả đáng.
Để có thể trang bị cho sinh viên- những chủ tơng lai của nền kinh tế tri thức- một
trình độ tri thức cao, khả năng tiến bộ khoa học tốt thì nhân tố quan trọng hàng đầu
là đội ngũ giảng viên ở bậc đại học. Giảng viên luôn là trung tâm điểm của chất lợng
giảng dạy, bởi thầy có tốt thì trò mới giỏi. Để đáp ứng đợc yêu cầu cao của nền kinh
tế tri thức, đòi hỏi giảng viên phải có kiến thức uyên bác và phơng pháp giảng dạy
sáng tạo. Kiến thức ở đây không chỉ là kiến thức hàn lâm cổ điển, mà yêu cầu giảng
viên phải luôn cập nhật những kiến thức khoa học mới của nhân loại. Việc đổi mới
Đại học Kinh tế quốc dân- Kinh tế đầu t 43A25