Tiểu luận kinh tế chính trị
Lời nói đầu
Sau những cuộc chiến tranh giải phóng, dới sự lãnh đạo của Đảng, đất nớc ta đã
hoàn toàn độc lập và chuyển sang giai đoạn mới, giai đoạn xây dựng chế độ xã hội
chủ nghĩa. Cả nớc bắt tay vào công cuộc xây dựng, củng cố và hoàn thiện nền kinh
tế và lấy mục tiêu phát triển kinh tế làm hàng đầu. Nhng nền kinh tế tự cung tự cấp
lúc bấy giờ, mặc dù trong thời gian đầu có những hiệu quả đáng kể nhng dần dần
cùng với sự phát triển của xã hội đã bộc lộ những khuyết tật, không còn phù hợp với
thới đại mới. Đảng và Nhà nớc ta đã sáng suốt đề ra nhiệm vụ đổi mới toàn diện, trớc hết là đổi mới nền kinh tế. Đảng và Nhà nớc ta đã chú trọng chuyển từ nền kinh
tế tự cấp tự túc sang nền kinh tế thị trờng có sự quản lý của Nhà nớc theo định hớng
xã hội chủ nghĩa. Nền kinh tế thị trờng có nhiều u điểm, phù hợp với cơ chế mới, với
xu hớng chung của thời đại nhng vẫn còn tồn tại nhiều khuyết tật làm ảnh hởng đến
sự phát triển của xã hội. Vì vậy, Nhà nớc cần phải tăng cờng vai trò điều tiết vĩ mô
nhằm kích thích phát huy u điểm, hạn chế những nhợc điểm còn tồn tại của cơ chế
thị trờng.
Rõ ràng, trong nền kinh tế ở nớc ta hiện nay, vai trò kinh tế của Nhà nớc là một
tất yếu khách quan. Có nh vậy, nớc ta mới giữ vững định hớng xã hội chủ nghĩa,
không bị chệch hớng trong đờng lối lãnh đạo ở bất kì hoàn cảnh nào, giữ đợc xã hội
ổn định, kinh tế phát triển.
Nhằm nghiên cứu rõ hơn vai trò của Nhà nớc Việt Nam trong nền kinh tế thị trờng hiện nay, tôi đã mạnh dạn chọn đề tài: Kinh tế thị trờng và vai trò của kinh tế
Nhà nớc trong nền kinh tế thị trờng định hớng xã hôị chủ nghĩa ở Việt Nam cho
bài tiểu luận của mình.
Tiểu luận gồm 3 phần:
Phần I : Mở đầu
Phần II: Kinh tế thị trờng và vai trò của kinh tế Nhà nớc trong nền kinh tế
thị trờng định hớng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Phần III: Kết luận
1
Tiểu luận kinh tế chính trị
Phần I: Mở đầu
Trong nhiều năm qua, các nớc xã hội chủ nghĩa cũ đã xây dựng nền kinh tế của
mình theo mô hình kinh tế " chỉ huy" với quan điểm cho rằng phát triển có kế hoạch
và cân đối nền kinh tế quốc dân là quy luật riêng có của xã hội chủ nghĩa. Theo yêu
cầu của qui luật này, tất cả các quan hệ nảy sinh đợc giải quyết một cách trực tiếp
bằng kế hoạch hoá tập trung của Nhà nớc. Sản xuất cái gì, sản xuất nh thế nào và
sản xuất cho ai đều do kế hoạch của Nhà nớc trực tiếp điều tiết. Hậu quả tất yếu là
sản xuất không có động lực, hàng hoá khan hiếm, lu thông ách tắc.
Kinh tế hàng hoá, giai đoạn cao của nó là kinh tế thị trờng không phải là sản
phẩm riêng có của chủ nghĩa t bản mà là thành tựu chung của nền văn minh nhân
loại. Bỏ qua chế độ t bản chủ nghĩa không đồng nghĩa với bỏ qua kinh tế thị trờng.
Kinh tế hàng hoá đã có trớc chủ nghĩa t bản. Đến chủ nghĩa t bản nó đợc phát triển
mạnh hơn và trở thành hình thái bao trùm phố biến. Trong chế độ xã hội chủ nghĩa,
kinh tế hàng hoá đơng nhiên vẫn còn tồn tại. Thực tế phát triển sản xuất xã hội cho
thấy kinh tế hàng hoá là phơng thức làm kinh tế có hiệu quả nhất. Sự lựa chọn kinh
tế thị trờng theo định hớng xã hội chủ nghĩa là thể hiện những nhận thức mới về nền
kinh tế xã hội chủ nghĩa.
Nền kinh tế của chủ nghĩa xã hội nói chung, của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội nói riêng là một sự phát triển mang tính phủ định biện chứng đối với kinh tế thị
trờng của chủ nghĩa t bản. Từ đó ra đời nền kinh tế thị trờng mới về chất. Kinh tế thị
trờng có nhiều mô hình tồn tại khác nhau, trong đó có mô hình của nền kinh tế
nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trờng có sự quản lý của Nhà nớc theo
định hớng xã hội chủ nghĩa. Đây là nền kinh tế do nhân dân lao động làm chủ, mọi
năng lực sản xuất đợc giải phóng, mọi tiềm năng của cá nhân tập thể và cộng đồng
dân tộc đợc sử dụng và khai thác triệt để với mục tiêu dân giàu nớc mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh".
Bên cạnh đó, nền kinh tế thị trờng cũng gây ra không ít những khuyết tật nh: Phân
hoá giàu nghèo trong xã hội, tự phát vô chính phủ do phải chạy theo lợi nhuận, sự
cạnh tranh tàn bạo phi đạo đức, gây ô nhiễm môi trờng
Nền kinh tế thị trờng theo định hớng xã hội chủ nghĩa là một nền kinh tế hỗn hợp
mang tính định hớng xã hội chủ nghĩa, vừa kế thừa những thành tựu của loài ngời
vừa gắn liền với mục tiêu chính trị, đồng thời là sự kết hợp giữa tăng trởng kinh tế
và tiến bộ xã hội. Vì vậy, vai trò Nhà nớc trong việc định hớng xã hội chủ nghĩa là
2
Tiểu luận kinh tế chính trị
không thể thiếu đợc. Nhà nớc có vai trò thúc đẩy những mặt tích cực và hạn chế
những mặt tiêu cực của nền kinh tế thị trờng.
Không nằm ngoài nhận thức chung này, ở Việt Nam đã từng tồn tại cơ chế kế
hoạch tập trung quan liêu bao cấp và nay là cơ chế thị trờng có sự quản lý của Nhà
nớc. Sở dĩ, ở nớc ta phải đổi mới cơ chế quản lý kinh tế là bởi vì: Trong một thời
gian rất dài, nền kinh tế nớc ta đợc vận hành theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung
quan liêu bao cấp. Cơ chế này có đặc điểm là Nhà nớc nắm toàn bộ nguồn lực của
nền kinh tế trong tay, Nhà nớc thông qua các chỉ tiêu kế hoạch mang tính pháp lệnh
đợc đặt từ trên (Uỷ ban kế hoạch Nhà nớc) xuống các đơn vị kinh tế cơ sở. Cơ chế
này sử dụng hình thức bao cấp tràn lan (bao cấp qua giá tiền lơng, vật t, kỹ thuật...).
Đồng thời, thủ tiêu tính năng động vốn có của thị trờng, thực hiện phân phối qua chế
độ tem phiếu, hiện vật. Từ những đặc điểm đã dẫn đến bộ máy quản lý rất cồng
kềnh, có nhiều cấp trung gian và kém năng động, từ đó sinh ra một đội ngũ cán bộ
kém năng lực quản lý, không thạo nghiệp vụ kinh doanh nhng phong cách thì quan
liêu cửa quyền.
Cơ chế kế hoạch hoá tập trung đã tích góp những xu hớng tiêu cực, làm nảy sinh sự
trì trệ, hình thành cơ chế kìm hãm sự phát triển kinh tế - xã hội. Vấn đề đặt ra là
phải đổi mới sâu sắc cơ chế đó. Phơng hớng cơ bản của sự đổi mới cơ chế quản lý
kinh tế ở nớc ta đã đợc đại hội VI của đảng xác định và tiếp tục đợc đại hội VII của
Đảng khẳng định " Tiếp tục xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, hình thành
đồng bộ và vận hành có hiệu quả cơ chế thị trờng có sự quản lý của Nhà nớc"
Đại hội khẳng định rằng cơ chế thị trờng đã phát huy tác dụng tích cực to lớn đếu
sự phát triển kinh tế - xã hội . Nó chẳng những không đối lập mà còn là nhân tố
khách quan cần thiết cho xây dựng và phát triển đất nớc theo con đờng xã hội chủ
nghĩa. Vì vậy, ... tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý kinh tế với mục tiêu xoá bỏ cơ chế
tập trung quan liêu bao cấp, hình thành tơng đối đồng bộ cơ chế thị trờng có sự quản
lý của Nhà nớc định hớng xã hội chủ nghĩa.
3
Tiểu luận kinh tế chính trị
Phần II:
Kinh tế thị trờng và vai trò của kinh tế Nhà nớc
trong nền kinh tế thị trờng định hớng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
I. Kinh tế thị trờng và các đặc trng của kinh tế thị trờng:
1- Bản chất của kinh tế thị trờng:
Mọi hệ thống kinh tế đều đợc tổ chức nhằm huy động tối đa các nguồn lực của xã
hội và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực đó nhằm sản xuất ra hàng hoá và dịch vụ
để thoả mãn nhu cầu của xã hội. Việc sản xuất ra hàng hoá gì, sản xuất đợc tiến
hành theo phơng pháp nào là tốt nhất và phân phối hàng hoá đợc sản xuất ra sao cho
đáp ứng nhu cầu của xã hội, đó là những vấn đề cơ bản của tổ chức kinh tế - xã hội.
Lực lợng nào quyết định những vấn đề cơ bản đó ? Trong một nền kinh tế, mà ng ời
ta gọi là kinh tế chỉ huy, những vấn đề cơ bản đó do các cơ quan của Nhà nớc quyết
định. Còn một nền kinh tế mà trong đó những vấn đề cơ bản của nó do thị trờng
quyết định đợc xem là nền kinh tế thị trờng.
Kinh tế thị trờng là loại hình kinh tế trong đó cung và cầu gặp gỡ và cân bằng trên
thị trờng. Trong nền kinh tế thị trờng các quan hệ hàng hoá phát triển mở rộng và
bao quát trên mọi lĩnh vực, mở ra một hệ thống thị trờng quốc gia thông suốt. Các
thị trờng nh thị trờng tài chính, thị trờng tiền tệ đã phát triển tơng đối mạnh. Vì vậy
kinh tế thị trờng là giai đoạn phát triển cao của kinh tế hàng hoá, trong đó toàn bộ
các yếu tố đầu vào và đầu ra của sản xuất đều thông qua thị trờng.
Kinh tế thị trờng là nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trờng. Cơ chế thị trờng là
cơ chế tự điều tiết nền kinh tế hàng hoá do sự tác động của các quy luật kinh tế vốn
có của nó, cơ chế đó giải quyết ba vấn đề cơ bản của tổ chức kinh tế là sản xuất cái
gì, sản xuất nh thế nào và sản xuất cho ai. Cơ chế thị trờng bao gồm các nhân tố cơ
bản là cung, cầu và giá cả thị trờng.
Theo Samuelson, nhà kinh tế học nổi tiếng, thì cơ chế thị trờng là một kiểu tổ chức
kinh tế trong đó cá nhân ngời tiêu dùng và các nhà doanh nghiệp tác động lẫn nhau
qua thị trờng để xác định ba vấn đề trung tâm của tổ chức kinh tế.
Cơ chế thị trờng đợc thể hiện thông qua hai lực lợng cơ bản là cung và cầu để qua
đó một mặt điều tiết giá cả thị trờng, mặt khác để phân phối các nguồn lực một cách
có hiệu quả cho các lĩnh vực và các nhu cầu của nền kinh tế.
Cơ chế thị trờng không phải là một sự hỗn độn, mà là một trật tự kinh tế, là bộ
máy tinh vi phối hợp một cách không có ý thức hoạt động của ngời tiêu dùng với các
4
Tiểu luận kinh tế chính trị
nhà sản xuất thông qua hệ thống giá cả thị trờng nhằm tạo ra một trật tự kinh tế. Cơ
chế thị trờng tồn tại khách quan, không phụ thuộc vào ý chí chủ quan của con ngời.
2- Lịch sử hình thành và phát triển của kinh tế thị trờng:
a. Quá trình chuyển từ kinh tế tự nhiên lên kinh tế hàng hoá:
Nền sản xuất xã hội trong bất kỳ một giai đoạn lịch sử nào cũng phải giải quyết 3
vấn đề cơ bản là: sản xuất cái gì, sản xuất nh thế nào, và sản xuất cho ai ? Kinh tế tự
nhiên chính là hình thái tổ chức kinh tế - xã hội đầu tiên mà loài ng ời sử dụng để
giải đáp ba vấn đề này.
Trong nền kinh tế tự nhiên, sản phẩm đợc sản xuất ra nhằm mục đích trực tiếp
thoả mãn nhu cầu tiêu dùng của chính ngời sản xuất, hoặc là nhu cầu tiêu dùng nội
bộ, theo phơng châm tự sản, tự tiêu". Vì vậy, hầu nh không có quan hệ trao đổi
hàng hoá. Tổ chức kinh tế có tính khép kín, phân tán, trình độ kỹ thuật lạc hậu. Do
trình độ phát triển thấp kém của lực lợng sản xuất và phân công lao động xã hội
khiến cho năng suất lao động thấp, sản phẩm đợc sản xuất ra quá ít ỏi, chỉ đủ để
thoả mãn nhu cầu tiêu dùng nội bộ.
Kinh tế tự nhiên tồn tại trong xã hội cộng sản nguyên thuỷ, tuy nhiên tàn tích của
nó vẫn còn dai dẳng mãi về sau.
Cùng với sự phát triển của lực lợng sản xuất, phân công lao động xã hội và với sự
tan rã của chế độ cộng sản nguyên thuỷ, quan hệ trao đổi ngày càng phát triển
mạnh. Khi trao đổi trở thành mục đích phổ biến và thờng xuyên của sản xuất thì
kinh tế tự nhiên dần chuyển sang kinh tế hàng hoá.
Kinh tế hàng hoá là một hình thái tổ chức kinh tế mà ở đó các sản phẩm đợc sản
xuất là nhằm mục đích để trao đổi, hay để bàn.
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin đã chỉ ra rằng kinh tế hàng hoá
muốn ra đời và tồn tại cần phải có hai điều kiện: Phải có phân công lao động xã hội
đạt đến một trình độ phát triển nhất định và phải có sự tách biệt về kinh tế giữa ngời
sản xuất (do quan hệ sở hữu khác nhau về t liệu sản xuất quyết định).
Kinh tế hàng hoá ra đời đã thúc đẩy chuyên môn hoá, mở rộng thị trờng, phát huy
đợc lợi thế so sánh của mỗi đơn vị kinh tế. Đồng thời tạo ra động lực thúc đẩy sự
phát triển mạnh mẽ của sản xuất và lực lợng sản xuất và mở rộng quan hệ giao lu về
kinh tế giữa các vùng và các nớc.
Trong lịch sử, sản xuất và trao đổi hàng hoá bắt đầu xuất hiện vào thời kỳ tan rã
của chế độ cộng sản nguyên thuỷ, nhng trong chế độ chiếm hữu nô lệ và phong kiến
thì kinh tế hàng hoá vẫn ở trình độ kém phát triển, phổ biến vẫn là kinh tế hàng hoá
5
Tiểu luận kinh tế chính trị
giản đơn. Đến chủ nghĩa t bản, không chỉ mọi sản phẩm lao động trở thành hàng hoá
mà ngay cả sức lao động của con ngời cũng trở thành hàng hoá làm cho kinh tế hàng
hoá đạt đến trình độ phát triển cao còn đợc gọi là kinh tế thị trờng.
b. Quá trình chuyển từ kinh tế hàng hoá giản đơn sang kinh tế thị trờng:
Để dễ hình dung ta xem xét hoạt động kinh tế của hai ngời nông dân. Ngời thứ
nhất, trong hoạt động của mình, anh ta cố gắng mua càng ít càng tốt và nếu cái gì
có thể tự làm đợc thì anh ta sẵn sàng làm. Vậy sản xuất của anh ta là sản xuất hàng
hoá, nhng cha phải là kinh tế thị trờng. Trong khi đó, ngời nông dân thứ hai thì mua
toàn bộ các yếu tố đầu vào, kể cả hạt giống và sức lao động, toàn bộ sản phẩm đầu
ra cũng đợc bán trên thị trờng, nên sản xuất của anh ta là kinh tế thị trờng.
Vì vậy kinh tế thị trờng là giai đoạn phát triển cao của kinh tế hàng hoá và chỉ có
sản xuất hàng hoá dựa trên phân công lao động xã hội đã phát triển mới trở thành
kinh tế thị trờng.
Trong nền kinh tế thị trờng, các mối quan hệ kinh tế của các cá nhân, các doanh
nghiệp đều biểu hiện thông qua quan hệ mua bán hàng hoá và dịch vụ trên thị trờng.
Mục đích của các thành viên khi tham gia thị trờng là tìm kiếm lợi ích cho mình
nhờ sự điều tiết của giá cả trên thị trờng.
Xét về mặt lịch sử, kinh tế hàng hoá có trớc kinh tế thị trờng. Chỉ khi nào kinh tế
hàng hoá tăng trởng nhanh, thị trờng đợc mở rộng, các quan hệ thị trờng tơng đối
hoàn thiện mới có kinh tế thị trờng. Nh vậy, kinh tế thị trờng không phải là một giai
đoạn khác biệt, độc lập đứng ngoài kinh tế hàng hoá mà là giai đoạn phát triển cao
của kinh tế hàng hoá.
Kinh tế thị trờng đợc hình thành dựa trên những điều kiện sau:
Một là, có sự xuất hiện của thị trờng sức lao động. Đây là một bớc tiến bộ trong
lịch sử nhân loại và là điều kiện quyết định sự hình thành của kinh tế thị trờng vì nó
là công cụ để thoả mãn nhu cầu về lợi nhuận cho các nhà kinh doanh nhờ vào giá trị
sử dụng đặc biệt của nó. Hơn nữa, sự xuất hiện của hàng hoá sức lao động đã làm
cho đồng tiền không chỉ đơn thuần là phơng tiện mua bán thông thờng mà còn là
vốn, là t bản, là điều kiện đầu tiên giúp cho các nhà kinh doanh đạt đợc mục đích là
lợi nhuận. Từ đó dẫn tới sự ra đời của các thị trờng khác nh thị trờng vốn, thị trờng
tiền tệ...
Hai là, phải tích luỹ đợc một số tiền nhất định. Lý luận của trờng phái trọng thơng đã cho thấy chủ nghĩa t bản muốn ra đời cần phải trải qua một thời kỳ tích luỹ
tiền tệ để giải quyết nhu cầu về vốn ban đầu. Cho đến nay, mọi ngời đều thừa nhận
6
Tiểu luận kinh tế chính trị
kinh tế thị trờng là thành tựu chung của nhân loại và nó đợc sử dụng nh một công cụ
để thúc đẩy tăng trởng kinh tế. Song trong lịch sử, chủ nghĩa t bản lại là xã hội đầu
tiên biết sử dụng kinh tế thị trờng. Vì vậy, cũng có thể rút ra từ lịch sử hình thành
chủ nghĩa t bản những vấn đề chung cho sự hình thành của một nền kinh tế thị trờng. Những biện pháp tích luỹ tiền mà giai cấp t sản áp dụng trong thời kì tích luỹ
nguyên thuỷ nói lên rằng: để chuyển từ kinh tế hàng hoá giản đơn sang kinh tế thị
trờng tất yếu phải có một thời kỳ tích luỹ tiền tệ (mặc dù về phơng pháp có thể khác
nhau).
Ba là, cần có hệ thống tài chính, tín dụng, ngân hàng tơng đối phát triển. Có ngời
nói rằng: nền kinh tế thị trờng là nền kinh tế tiền tệ. Thực chất là họ muốn nói đến
một thuộc tính của nền kinh tế thị trờng. Bởi vì trong nền kinh tế thị trờng mọi hoạt
động kinh tế đều có thể đợc biểu hiện bằng các chỉ tiêu tiền tệ. Vì vậy tốc độ lu
chuyển của các nguồn vốn rất lớn và hệ thống của nó rất phức tạp. Sự phát triển của
hệ thống tài chính, tín dụng, ngân hàng tài chính là điều kiện để đáp ứng nhu cầu lu
chuyển vốn tiền tệ cho các doanh nghiệp cũng nh các tổ chức kinh tế, trên cơ sở đó
duy trì đợc sự cân đối giữa cung và cầu về vốn tiền tệ ở cả tầm vĩ mô và vi mô.
Bốn là, cần phải có một hệ thống kết cấu hạ tầng tơng đối phát triển. Một trong
những vấn đề có tính qui luật của sự hình thành và phát triển kinh tế thị tr ờng là hệ
thống kết cấu hạ tầng phải đi trớc một bớc nhằm đảm bảo cho sự lu thông thông suốt
của hàng hoá và tạo đợc môi trờng đầu t, môi trờng kinh doanh thuận lợi cho các
doanh nghiệp và các nhà đầu t.
Năm là, tăng cờng vai trò kinh tế của Nhà nớc. Ngày nay, thuyết kinh tế thị trờng
hoàn toàn tự do không còn thích hợp nữa. Trong điều kiện mới, Nhà nớc phải can
thiệp bằng nhiều biện pháp, ở những mức độ khác nhau để điều tiết thị trờng, phát
triển và bảo vệ nền kinh tế quốc gia, chống khủng hoảng, giành thắng lợi trong
cạnh tranh trên thị trờng thế giới.
3. Đặc trng của kinh tế thị trờng:
a. Tính tự chủ của các chủ thể kinh tế rất cao:
Các chủ thể kinh tế trong nền kinh tế thị trờng bao gồm các doanh nghiệp, các hộ
kinh doanh, các cá nhân và cả Nhà nớc. Họ chính là ngời đề ra các quyết sách kinh
tế, các quyết định kinh doanh, họ phải tự chịu trách nhiệm về tính khả thi của các
quyết sách, quyết định đợc ban hành, cũng nh phải gánh chịu rủi ro nếu có.
7
Tiểu luận kinh tế chính trị
Chỉ có nền kinh tế hàng hoá dựa trên sự tách biệt về kinh tế giữa những ngời sản
xuất mới có đợc đặc trng này. Nó hoàn toàn không thể có ở những nền kinh tế kế
hoạch hoá tập trung bao cấp.
b. Số lợng, chủng loại hàng hoá:
Trong nền kinh tế thị trờng số lợng và chủng loại hàng hoá rất phong phú, đa
dạng, do vậy mọi nhu cầu tiêu dùng của con ngời dễ dàng đợc thoả mãn.
Đặc trng này cũng không thể có đợc ở trong một nền kinh tế hàng hoá kém phát
triển. Chỉ có trong nền kinh tế thị trờng với trình độ phát triển cao của lực lợng sản
xuất, của phân công và chuyên môn hoá lao động mới có đợc đặc trng này.
c. Giá cả đợc xác định ngay trên thị trờng:
Theo lý luận giá trị của Mác, giá cả là sự biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hoá,
mà giá trị hàng hoá lại là sự kết tinh của hao phí lao động xã hội cần thiết. Song trên
thực tế giá cả ngoài sự quyết định của giá trị hàng hoá ra còn chịu ảnh hởng khá lớn
bởi quan hệ cung cầu. Sự biến động của quan hệ cung cầu kéo theo sự biến động
của giá cả và ngợc lại.
Nh vậy, trong nền kinh tế thị trờng giá cả là phạm trù kinh tế trung tâm, vừa là
chiếc
" phong vũ biểu" phản ánh tình trạng của thị trờng, lại vừa là công cụ
thông qua cung cầu để điều tiết hoạt động của các chủ thể kinh tế.
d. Cạnh tranh là một tất yếu của kinh tế thị trờng:
Mọi động lực của cạnh tranh suy đến cùng đều xuất phát từ lợi ích kinh tế. Trong
cuộc cạnh tranh đó tất yếu có ngời đợc ngời thua. Tuy nhiên cần phân biệt cạnh
tranh lành mạnh và cạnh tranh không lành mạnh.
Cạnh tranh lành mạnh là tình trạng cạnh tranh diễn ra trong khuôn khổ của pháp
luật qua đó nâng cao năng suất lao động, số lợng và chất lợng hàng hoá, dịch vụ, hạ
giá thành sản phẩm, tăng hiệu quả trong kinh doanh. Cạnh tranh lành mạnh là động
lực phát triển của nền kinh tế thị trờng.
Cạnh tranh không lành mạnh là những quan hệ cạnh tranh đợc tiến hành bằng
những hình thức biện pháp phi kinh tế, vi phạm pháp luật, thu lời bất chính. Quan hệ
cạnh tranh kiểu này gây thiệt hại cho ngời tiêu dùng đồng thời cũng gây thiệt hại
cho xã hội nói chung nên cần đợc nghiêm trị bằng pháp luật.
e. Kinh tế thị trờng là hệ thống kinh tế mở:
8
Tiểu luận kinh tế chính trị
Do kinh tế thị trờng lấy trao đổi làm mục đích của sản xuất kinh doanh (đã trao
đổi là phải "mở cửa" hớng ra bên ngoài). Trên thực tế không thể tồn tại một nền kinh
tế thị trờng theo kiểu "đóng kín" không có giao lu kinh tế với bên ngoài. Thực tế
phát triển kinh tế thị trờng ở các nớc trên thế giới đều chứng minh điều đó.
4. Ưu điểm và khuyết tật của kinh tế thị trờng:
Một nền kinh tế vận động theo cơ chế thị trờng sẽ cho phép đạt đợc những thành
tựu to lớn về tăng trởng và phát triển kinh tế, về khả năng thoả mãn nhu cầu của dân
c... mà những thành tựu này rất khó có thể đạt đợc trong nền kinh tế phi thị trờng.
Điều đó chứng tỏ rằng cơ chế thị trờng có những u thế riêng của nó.
a. Những u điểm của kinh tế thị trờng:
Cơ chế thị trờng thúc đẩy lực lợng sản xuất phát triển, nâng cao năng suất lao
động. Sự vận hành của cơ chế thị trờng đòi hỏi ngời sản xuất phải cạnh tranh với
nhau để tìm ra lợi nhuận siêu ngạch, do đó họ phải áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ
thuật. Vì vậy kinh tế thị trờng thúc đẩy lực lợng sản xuất phát triển, nâng cao năng
suất lao động, nâng cao chất lợng và số lợng của hàng hoá.
Cơ chế thị trờng thúc đẩy phân công lao động xã hội, tạo ra nhiều ngành nghề,
nhiều lĩnh vực kinh tế, vì vậy tạo ra khối lợng sản phẩm lớn về quy mô, đa dạng về
chủng loại, mẫu mã và cho phép đáp ứng một cách nhanh nhất, nhiều nhất và đa
dạng nhất mọi nhu cầu cả về tiêu dùng và sản xuất.
Cơ chế thị trờng lấy lợi nhuận làm động lực, cạnh tranh làm môi trờng vì vậy đã
tạo ra tính năng động và sáng tạo của các chủ thể kinh tế, từ đó dẫn đến hiệu quả sản
xuất kinh doanh ngày càng cao. Đồng thời cơ chế thị trờng dẫn đến khai thác sử
dụng tối u các nguồn lực (vốn, lao động, tài nguyên) và tạo ra tối đa sản phẩm.
b. Những khuyết tật của kinh tế thị trờng:
Lịch sử phát triển của sản xuất xã hội chứng minh rằng có chế thị trờng là cơ chế
điều tiết nền kinh tế hàng hoá đạt hiệu quả kinh tế cao. Song cơ chế thị trờng không
phải là hiện thân của sự hoàn hảo, mà nó vốn có những khuyết tật, đặc biệt về mặt
xã hội. Có thể chỉ ra một số khuyết tật dới đây của cơ chế thị trờng:
Cơ chế thị trờng mang tính tự phát nên những hậu quả nh: khủng hoảng, thất
nghiệp, lạm phát, phân hoà giàu nghèo.. là những vấn đề khó tránh khỏi.
Do chạy theo mục đích là tối ta hoá lợi nhuận nên cơ chế thị trờng có xu hớng
kích thích việc khai thác và sử dụng tài nguyên một cách vô tội vạ, phá huỷ môi trờng, môi sinh và sự cân bằng sinh thái.
9
Tiểu luận kinh tế chính trị
Trong cơ chế thị trờng, cạnh tranh là động lực của nền kinh tế, song bản thân
quan hệ cạnh tranh lại cũng chứa đựng những nhân tố tạo ra sự đối lập của nó, đó là
độc quyền, mà độc quyền chính là cơ sở để làm nảy sinh những quan hệ cạnh tranh
không lành mạnh.
Vậy kinh tế thị trờng với sự vận hành của cơ chế thị trờng có nhiều u thế và những
u thế này đã đợc khẳng định qua thực tiễn phát triển kinh tế ở nhiều nớc trên thế
giới. Vì những u thế của cơ chế thị trờng nên ngày nay các quốc gia trên thế giới đều
chủ trơng sử dụng cơ chế thị trờng nh một công cụ để phát triển kinh tế. Mặt khác,
vì những khuyết tật của cơ chế thị trờng nên hiện nay các quốc gia có xu hớng kết
hợp cơ chế thị trờng với sự can thiệp, điều tiết của Nhà nớc đối với nền kinh tế, hình
thành nên cơ chế kinh tế hỗn hợp.
II. Kinh tế thị trờng định hớng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam:
1. Bản chất của kinh tế thị trờng định hớng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam:
a. Sự cần thiết khách quan phải chuyển nền kinh tế Việt Nam sang kinh tế thị trờng
định hớng xã hội chủ nghĩa:
Do lịch sử phát triển của các nớc t bản chủ nghĩa và các nớc xã hội chủ nghĩa dẫn
đến việc hình thành các quan điểm khác nhau. Một trong những quan điểm đó đã
đồng nhất kinh tế thị trờng với chủ nghĩa t bản, kế hoạch hoá tập trung với xã hội
chủ nghĩa. Trong quá trình phát triển mô hình kinh tế kế hoạch hoá tập trung đã bộc
lộ những khuyết tật dẫn đến sự khủng hoảng và sụp đổ của hàng loạt các nớc xã hội
chủ nghĩa. Trái lại, chủ nghĩa t bản ngày càng phát triển và đạt đợc mọi thành tựu
trên các lĩnh vực. Do thực tiễn phát triển sản xuất xã hội cho thấy kinh tế thị trờng là
phơng thức làm ăn có hiệu quả nhất. Vì vậy không có lý nào chủ nghĩa xã hội không
sử dụng và phát triển kinh tế thị trờng nhằm mục tiêu phát triển kinh tế đất nớc.
Đứng trớc tình hình thực tế nh vậy, Đảng ta đã sớm nhận ra rằng chỉ có nền kinh
tế thị trờng theo định hớng xã hội chủ nghĩa mới có thể đa nền kinh tế đi lên. Vì vậy
Đảng ta mới nhận định tại đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII: "có thể xây dựng nền
kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trờng có sự quản lý của
Nhà nớc theo định hớng xã hội chủ nghĩa" (văn kiện đại hội VII).
Chủ nghĩa xã hội là kết quả phát triển tất yếu của xã hội loài ngời, là hình thái
kinh tế - xã hội cao hơn hình thái kinh tế - xã hội t bản, chủ nghĩa xã hội không
hoàn toàn đoạn tuyệt với chủ nghĩa t bản mà nó phát triển trên cơ sở kế thừa và khắc
phục những khuyết tật của chủ nghĩa t bản. Vậy có thể nói rằng, kinh tế thị trờng và
định hớng xã hội chủ nghĩa không hoàn toàn loại trừ mà thống nhất với nhau, xây
10
Tiểu luận kinh tế chính trị
dựng kinh tế thị trờng để phát triển lực lợng sản xuất tạo tiền đề cho chủ nghĩa xã
hội".
Hiện tại, Việt Nam đang hội tụ đầy đủ những yếu tố cần thiết cho sự tồn tại và
phát triển kinh tế hàng hoá, cao hơn nữa là kinh tế thị trờng:
Thứ nhất, phân công lao động xã hội, cơ sở của sản xuất và trao đổi hàng hoá,
đang ngày càng phát triển cả về chiều rộng lẫn chiều sâu. Điều này đợc thể hiện là
phạm vi phân công lao động xã hội ngày càng đợc mở rộng, từ địa phơng tới toàn
quốc, rồi tới phạm vi khu vực và thế giới. Trên thực tế Việt Nam đang ngày càng
tham gia có hiệu quả hơn vào sự phân công và hợp tác lao động quốc tế. Những lợi
thế so sánh của Việt Nam về nhân công, về tài nguyên, về vị trí địa lý đang đợc phát
triển mạnh trong xu thế mở cửa và hội nhập hiện nay. Hơn nữa, dới sự tác động của
cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại đã làm xuất hiện ngày càng nhiều
các ngành kinh tế mới, đó là những ngành có hàm lợng khoa học công nghệ cao do
đó có tác dụng thúc đẩy và hiện đại hoá các ngành nghề truyền thống.
Thứ hai, nền kinh tế Việt Nam đang tồn tại nhiều thành phần kinh tế với những
hình thức sở hữu khác nhau, có nhiều chủ thể kinh tế. Các chủ thể này độc lập, tách
biệt nhau mặc dù nằm trong hệ thống phân công lao động chung của xã hội. Do vậy,
trong sản xuất kinh doanh họ vừa cạnh tranh với nhau, lại vừa hợp tác với nhau,
quan hệ kinh tế giữa các chủ thể chỉ có thể đợc thực hiện thông qua quan hệ trao đổi
hàng hoá. Mặt khác cũng chính sự phát triển của quan hệ hàng hoá sẽ tạo ra cơ
chế để khai thác có hiệu quả tiềm năng của các thành phần kinh tế.
b. Phát triển kinh tế thị trờng là một xu hớng phổ biến diễn ra trên thế giới trong
giai đoạn hiện nay:
Ta biết rằng, hiện nay trên thế giới có một số nớcphát triển kinh tế thị trờng kết
hợp với sự điều tiết của Nhà nớc theo mô hình kinh tế thị trờng hỗn hợp, một số nớc
phát triển theo mô hình kinh tế chỉ huy. Song thực tiễn đã chỉ ra những u điểm của
mô hình kinh tế thị trờng hỗn hợp và những nhợc điểm của mô hình kinh tế chỉ huy.
Vì vậy, vào những năm 80 của thế kỷ XX mô hình kinh tế chủ huy bắt đầu lâm vào
khủng hoảng và đến cuối những năm 80 thì diễn ra quá trình chuyển đổi từ mô hình
kinh tế chỉ huy sang mô hình kinh tế thị trờng hỗn hợp. Sự khủng hoảng của các nớc
xã hội chủ nghĩa cũ ở Liên Xô và Đông Âu cũng là khủng hoảng của mô hình kinh
tế chỉ huy. Vì vậy, đổi mới để chuyển sang kinh tế thị trờng là một tất yếu. Song
đáng tiếc là ở Liên Xô cũ và Đông Âu các nhà lãnh đạo Đảng và Nhà nớc đã vi
phạm những nguyên tắc về chính trị, từ bỏ chủ nghĩa Mác-Lê nin, từ bỏ vai trò lãnh
11
Tiểu luận kinh tế chính trị
đạo của Đảng cộng sản Vì vậy đã dẫn đến sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở các n ớc này. Còn ở những nớc nh Việt Nam, Trung Quốc quá trình cải cách, đổi mới cũng
diễn ra nhng dù đổi mới hay cải cách các nớc này vẫn lấy chủ nghĩa Mác-Lênin làm
nền tảng t tởng, làm kim chỉ nam. Đổi mới, cải cách, chuyển sang kinh tế thị trờng
nhng vẫn đặt dới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, kiên trì mục tiêu chủ nghĩa xã hội
với những bớc đi thận trọng, vừa làm, vừa tổng kết, vừa rút kinh nghiệm đúng sai. Vì
vậy sau hơn 15 năm đổi mới, Việt Nam đã đạt đợc những thành tựu không thể phủ
nhận trong quá trình chuyển sang kinh tế thị trờng mà không gây biến động lớn
trong đời sống chính trị.
2. Thực trạng của nền kinh tế Việt Nam khi chuyển sang kinh tế thị trờng định
hớng xã hội chủ nghĩa:
Nền kinh tế thị trờng ở Việt Nam hiện vẫn đang ở giai đoạn sơ khai, cha đạt đến
trình độ của một nền kinh tế thị trờng hiện đại. Thể hiện:
Kinh tế hàng hoá kém phát triển, nền kinh tế còn mang nặng tính tự cấp tự túc.
Trình độ cơ sở vật chất kỹ thuật và công nghệ còn thấp kém.
Hệ thống kết cấu hạ tầng, dịch vụ sản xuất và dịch vụ xã hội cha đủ để đáp ứng
yêu cầu phát triển kinh tế thị trờng trong nớc cũng nh để giao lu với bên ngoài. ở
một số vùng núi cao, vùng sâu, vùng hẻo lánhkinh tế tự nhiên vẫn còn chiếm tỷ lệ
cao.
Cơ cấu kinh tế mất cân đối và kém hiệu qủa: quá nặng về nông nghiệp (tỷ trọng
nông nghiệp vẫn chiếm khoảng 25% GDP, lao động nông nghiệp vẫn chiếm gần
70% lực lợng lao động xã hội), trong nông nghiệp vẫn chủ yếu độc canh trồng lúa,
công nghiệp chế biến còn kém hiệu quả.
Năng suất lao động xã hội và thu nhập bình quân đầu ngời còn thấp (đến năm
2000 mức thu nhập bình quân đầu ngời là 400 USD/năm. So với chỉ tiêu đặt ra là đã
hoàn thành song so các nớc trong khu vực và trên thế giới chỉ tiêu đó vẫn còn rất
thấp).
Ngoài ra, ảnh hởng của mô hình kinh tế chỉ huy với cơ chế tập trung quan liêu
bao cấp vẫn còn nặng nề. Trớc hết, phải nhận thấy mô hình kinh tế thị trờng hơn mô
hình chỉ huy nhiều mặt nhng chủ yếu là:
Nếu nh cơ chế cũ đợc hình thành trên cơ sở thu hẹp hoặc gần nh xoá bỏ quan hệ
hàng - tiền, làm cho nền kinh tế bị hiện vật hoá thì cơ chế mới lại đợc hình thành
trên cơ sở mở rộng quan hệ hàng - tiền.
12
Tiểu luận kinh tế chính trị
Trong cơ chế cũ giá cả đợc hình thành theo kiểu áp đặt từ phía Nhà nớc. Vì vậy
mà trong cùng một nền kinh tế tồn tại hai hệ thống thị trờng với hai loại giá khác
nhau: Giá bao cấp ứng với những thị trờng có tổ chức, còn giá chợ ứng với thị trờng
tự do.
Trong cơ chế cũ quan hệ tài chính đợc hình thành theo kiểu giao, nộp, cấp, phát:
Nhà nớc cấp vốn từ ngân sách cho các doanh nghiệp, doanh nghiệp nộp thu quốc
doanh theo nghĩa vụ của Nhà nớc.
Hơn nữa, trong quá trình chuyển đổi, mô hình kinh tế chỉ huy vẫn còn ảnh h ởng
đối với mô hình kinh tế thị trờng:
Các quan hệ hàng - tiền bị xơ cứng trong cơ chế cũ đang đợc hồi phục, tuy
nhiên vẫn cha đủ sức để làm thay đổi cả một nề nếp, thói quen của cả một nền kinh
tế (hiện nay nhiều doanh nghiệp Nhà nớc vẫn không muốn hạch toán đầy đủ khấu
hao tài sản cố định vào trong giá thành sản phẩm hàng hoá, họ sợ làm tăng giá bán
sẽ làm giảm khả năng cạnh tranh trong quá trình tiêu thụ. Mang tiếng là doanh
nghiệp tự hạch toán đủ bù đắp, nhng trên thực tế là họ muốn đẩy gánh nặng đổi mới
và sửa chữa lớn tài sản cố định cho ngân sách Nhà nớc).
Tự do hoá giá cả, nhng cha triệt để, một số mặt hàng do Nhà nớc độc quyền
vẫn còn ảnh hởng cơ chế 2 giá (ví dụ: giá điện sinh hoạt vẫn còn giá bao cấp).
Về quan hệ tài chính vẫn cha xoá bỏ triệt để cơ chế bao cấp vốn qua ngân
sách.
Các yếu tố của thị trờng trong nớc đang trong quá trình hình thành nhng cha
đồng bộ.
Thị trờng hàng hoá - dịch vụ đã hình thành nhng còn hạn hẹp và còn nhiều
hiện tợng tiêu cực nh: hàng giả, hàng nhái, hàng nhập lậu... vẫn đang làm rối loạn
thị trờng.
Thị trờng sức lao động mới mạnh nha: Đã ra đời một số trung tâm giới thiệu
việc làm và xuất khẩu lao động nhng đã nảy sinh nhiều hiện tợng tiêu cực. Cung về
sức lao động chuyên môn lành nghề hiện đang nhỏ hơn cầu rất nhiều nhng trong khi
đó cung về sức lao động giản đơn lại đang vợt quá xa cầu. Nhiều ngời có sức lao
động nhng không tìm đợc việc làm phù hợp, quan hệ mua bán sức lao động mới chủ
yếu diễn ra trong các thành phần kinh tế ngoài Nhà nớc với các quan hệ thuê mớn
còn rất thô sơ.
13
Tiểu luận kinh tế chính trị
Thị trờng tiền tệ: vốn đã có những tiến bộ nhng vẫn còn những bất cập. Nhiều
doanh nghiệp nhất là các doanh nghiệp t nhân rất thiếu vốn nhng không vay đợc vì
vớng mắc thủ tục. Trong khi đó những ngân hàng thơng mại huy động vốn mà
không thể cho vay dẫn đến tình trạng ứ đọng vốn. Thị trờng chứng khoán ra đời và
đi vào hoạt động nhng vẫn đang trong quá trình thử nghiệm. Quan hệ cung cầu
những lúc căng thẳng không cần thiết và hiện đang còn rất ít doanh nghiệp đủ điều
kiện để tham gia vào thị trờng chứng khoán.
Thị trờng đất đai: ở Việt Nam hiến pháp quy định đất đai thuộc sở hữu toàn
dân, trong đó Nhà nớc thay mặt cho toàn dân đứng ra thực hiện quyền sở hữu. Vì
vậy trên thực tế những quan hệ mua bán, chuyển nhợng đất đai chỉ là mua bán,
chuyển nhợng quyền sử dụng. Hiện nay ở Việt Nam thị trờng nhà cửa, đất đai đang
có những biến động bất thờng, cụ thể: Cầu về nhà đất đang vợt rất xa khả năng của
cung làm cho giá bán xa rời giá thực tế. Trong khi nhà ở bình thờng cha đáp ứng
nhu cầu thì các nhà hàng khách sạn, nhà trọ, nhà cho thuê với giá đắt phát triển
mạnh. Diện tích đất nông nghiệp, đất canh tác đang bị thu hẹp do tình trạng sử dụng
đất sai mục đích chạy theo lợi ích cá nhân...
Thị trờng công nghệ, thông tin: Về thực chất khi thị trờng công nghệ, thông
tin đợc hình thành thì có nghĩa là quyền sở hữu trí tuệ đợc thực hiện về kinh tế. Nhng hiện nay ở Việt Nam đây là thị trờng mới, vì vậy tình trạng trao đổi thông tin, vi
phạm quyền sở hữu trí tuệ, thông tin sai lệch...vẫn tồn tại. Thời gian tới Nhà nớc cần
sớm đa ra và hoàn thiện chính sách, quy định... để hớng thị trờng công nghệ thông
tin phát triển lành mạnh.
Khả năng mở cửa để chủ động hội nhập, gắn kết thị trờng trong nớc với thị trờng
khu vực và thị trờng thế giới vẫn còn hạn chế. Thế hiện:
Hiện tại Việt Nam vẫn còn cha phát huy đợc lợi thế so sánh của mình trên thị
trờng khu vực và thế giới. Tài nguyên, nhân công, vị trí địa lý là những lợi thế của
Việt Nam, song trên thực tế nếu cứ tình trạng công nghệ lạc hậu, cơ sở hạ tầng yếu
kém và giáo dục đào tạo không đáp ứng đợc nhu cầu đào tạo nhân lực nh hiện nay
thì rất khó phát huy đợc.
Xuất khẩu của Việt Nam hiện nay vẫn thiên về xuất khẩu sản phẩm thô, sản
phẩm sơ chế, những sản phẩm chế biến thì giá thành lại cao, chất lợng thấp nên kim
ngạch nhập khẩu cũng thấp.
14
Tiểu luận kinh tế chính trị
Đầu t nớc ngoài vào Việt Nam sau một thời kỳ tăng trởng nhanh nay đang có
xu hớng chững lại mà nguyên nhân chủ yếu là do môi trờng đầu t cha thật hấp dẫn:
chính sách kinh tế vĩ mô hiện nay vẫn còn thiếu về nhập khẩu, bảo hộ mậu dịch lớn,
những chính sách u đãi của các doanh nghiệp Nhà nớc, những bất cập trong hệ
thống ngân hàng bảo hiểm hiện nay... nhiều khi cũng gây trở ngại cho các nhà đầu
t nớc ngoài.
3. Các đặc trng của kinh tế thị trờng định hớng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam:
Kinh tế thị trờng định hớng xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một kiểu tổ chức kinh
tế vừa dựa trên những nguyên tắc và qui luật của kinh tế thị trờng, vừa dựa trên
những nguyên tắc và cơ sở kinh tế của chủ nghĩa xã hội, thể hiện trên cả ba mặt: Sở
hữu, tổ chức quản lý và phân phối. So với kinh tế thị trờng t bản chủ nghĩa thì kinh
tế thị trờng định hớng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam có những đặc trng cơ bản sau:
Mục tiêu chiến lợc của đờng lối phát triển kinh tế thị trờng ở Việt Nam là giải
phóng sức sản xuất, động viên mọi nguồn lực trong và ngoài nớc để thực hiện công
nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội,
nâng cao hiệu quả kinh tế xã hội, cải thiện từng bớc đời sống của nhân dân, gắn
tăng trởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội. Trong quá trình xác định mục
tiêu phát triển kinh tế thị trờng có những nớc đặt vấn đề tăng trởng kinh tế lên trớc,
giải quyết công bằng xã hội sau; Có những nớc muốn dựa vào viện trợ và vay nớc
ngoài để cải thiện đời sống nhân dân trớc rồi mới thúc đẩy tăng trởng kinh tế. ở
Việt Nam, Đảng cộng sản và Nhà nớc Việt Nam chủ trơng gắn tăng trởng với tiến
bộ và công bằng xã hội ngay từ đầu.Vì vậy, những chơng trình phát triển kinh tế,
khuyến khích làm giàu bao giờ cũng đi đôi với chơng trình xoá đói giảm nghèo.
Kinh tế thị trờng định hớng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là nền kinh tế nhiều
thành phần, trong đó thành phần kinh tế Nhà nớc giữ vai trò chủ đạo. Thật vậy, kinh
tế thị trờng trong chủ nghĩa t bản cũng là một nền kinh tế nhiều thành phần, nhng
nhà nớc t sản điều tiết quản lý vĩ mô vì lợi ích của giai cấp t sản. Vì vậy kinh tế t
bản t nhân là nền tảng, kinh tế Nhà nớc giữ vai trò tạo điều kiện cho kinh tế t bản t
nhân hoạt động và là giá đỡ cho kinh tế t bản t nhân, nhng nhà nớc xã hội chủ nghĩa
điều tiết và quản lý vĩ mô và thành phần kinh tế Nhà nớc giữ vai trò chủ đạo. Thành
phần kinh tế Nhà nớc và thành phần kinh tế tập thể là những thành phần kinh tế dựa
trên chế độ công hữu, đại diện cho quan hệ sản xuất của xã hội mới, vì vậy sẽ giữ
vai trò là nền tảng của nền kinh tế thị trờng phát triển theo định hớng xã hội chủ
nghĩa.
15
Tiểu luận kinh tế chính trị
Trong điều kiện hiện đại, cả kinh tế thị trờng t bản chủ nghĩa và kinh tế thị trờng
định hớng xã hội chủ nghĩa đều cần có sự quản lý vĩ mô của Nhà nớc, song điều
khác nhau là ở bản chất của hai Nhà nớc. Kinh tế thị trờng t bản chủ nghĩa thì Nhà
nớc là Nhà nớc của giai cấp t sản, tự do dân chủ cũng là tự do dân chủ t sản, vì vậy
Nhà nớc can thiệp kinh tế là để bảo vệ lợi ích kinh tế của giai cấp t sản. Còn trong
kinh tế thị trờng định hớng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam thì Nhà nớc là Nhà nớc của
dân, do dân và vì dân. Vì vậy Nhà nớc can thiệp, điều tiết kinh tế là để bảo vệ lợi
ích kinh tế của đa số nhân dân lao động. Nhà nớc nớc ta quản lý và điều tiết vĩ mô
nền kinh tế là để kết hợp tính định hớng và cân đối của kế hoạch với tính năng động
và nhạy cảm của thị trờng.Thị trờng vừa là đối tợng, vừa là căn cứ của kế hoạch hoá.
Ta sử dụng cơ chế thị trờng không phải là để đoạn tuyệt với kế hoạch, mà là để thực
hiện kế hoạch một cách tổng thể hơn, tốt hơn. Quản lý của Nhà nớc là để hạn chế
mặt tiêu cực, phát huy mặt tích cực của cơ chế thị trờng. Cơ chế thị trờng không
phải là liều thuốc vạn năng, không phải là mục đích mà là phơng tiện. Ta không
nhằm mục đích chạy theo lợi nhuận của thiểu số ngời, mà là để xây dựng chủ nghĩa
xã hội.
Trong nền kinh tế thị trờng tất yếu phải tồn tại nhiều hình thức phân phối. Trong
nền kinh tế thị trờng t bản chủ nghĩa những hình thức phân phối chủ yếu là phân
phối theo vốn, theo trình độ bóc lột, theo giá trị sức lao động, chủ yếu là phục vụ
mục đích thu lợi nhuận tối cao cho các chủ t bản. Nền kinh tế thị trờng định hớng
xã hội chủ nghĩa lấy phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu,
bên cạnh đó có kết hợp các hình thức phân phối khác nữa để vừa khuyến khích lao
động, vừa đảm bảo phúc lợi cơ bản.
III. Vai trò kinh tế của Nhà nớc Việt Nam:
1. Vai trò kinh tế của Nhà nớc trong lịch sử:
Trong xã hội có giai cấp, Nhà nớc ra đời để bảo vệ và phục vụ lợi ích của giai
cấp thống trị. Vì vậy vai trò đầu tiên của Nhà nớc là vai trò chính trị, đảm bảo trật tự
trị an, sau dần dần chuyển sang vai trò kinh tế. Vai trò kinh tế của Nhà nớc ngày
càng tăng lên theo sự phát triển về quy mô và trình độ của của nền kinh tế, đồng thời
cũng luôn biến đổi theo sự biến động về chế độ chính trị, yêu cầu và xu hớng phát
triển kinh tế của từng quốc gia trong từng giai đoạn lịch sử khác nhau.
Trong lịch sử, nền kinh tế thị trờng của thế giới đã trải qua 3 thời kỳ và vai trò
của Nhà nớc trong mỗi một thời kỳ cũng đợc xác định không giống nhau.
a) Thời kỳ trớc những năm 30 của thế kỷ XX:
16
Tiểu luận kinh tế chính trị
Đặc trng của nền kinh tế thị trờng thời kỳ này là kinh tế thị trờng tự do, vận động
theo cơ chế thị trờng.
Lý thuyết của các nhà kinh tế học cổ điển tin tởng rằng không thể xảy ra tình
trạng khủng hoảng, thất nghiệp rộng lớn và lâu dài trong nền kinh tế thị trờng. Họ
cho rằng nền kinh tế thị trờng có thể tự điều chỉnh, tự động lập lại các mất cân đối
mà không cần bất cứ sự can thiệp nào của Nhà nớc. Đại biểu cho các quan điểm này
là A. Smith với lý thuyết "bàn tay vô hình" và nguyên lý "Nhà nớc không can thiệp
vào kinh tế". Theo ông, việc tổ chức nền kinh tế hàng hoá cần theo nguyên tắc tự do,
yếu tố tự do bao trùm nền kinh tế thị trờng, các quy luật kinh tế là vô địch, vai trò
của kinh tế của Nhà nớc ở mức độ thấp, Nhà nớc chỉ là ngời "canh gác" bảo vệ trật
tự xã hội nhằm tạo ra môi trờng an ninh cần thiết cho các nhà kinh doanh yên tâm
hoạt động về kinh tế. Nhà nớc chỉ có vai trò ban hành và tổ chức duy trì các đạo
luật, ổn định chuẩn mực cân đo, phát hành tiền tệ và thu ngân sách. Nhà nớc hầu nh
không gây ảnh hởng gì trong việc giải quyết các vấn đề kinh tế cơ bản.
b) Thời kỳ từ những năm 30 đến đầu những năm 70 của thế kỷ XX:
Đặc trng của nền kinh tế thị trờng thế giới thời kỳ này là nền kinh tế có sự can
thiệp trực tiếp của Nhà nớc.
Đầu những năm 30 của thế kỷ XX, những cuộc khủng hoảng kinh tế nổ ra thờng
xuyên, đặc biệt là đại khủng hoảng kinh tế thế giới giai đoạn 1929 - 1933 chứng tỏ
rằng "bàn tay vô hình" không thể đảm bảo đợc những điều kiện ổn định cho nền
kinh tế thị trờng phát triển.
Hơn nữa, xu thế xã hội hoá ngày càng cao đã chỉ ra cho các nhà kinh tế học t sản
thấy rằng, phải có một lực lợng nhân danh xã hội can thiệp vào các quá trình kinh tế,
điều tiết kinh tế. Lý thuyết "chủ nghĩa t bản đợc điều tiết" của nhà kinh tế học ngời
Anh J. M. Keynes là để đáp ứng yêu cầu này. Ngời ta gọi Keynes là "công trình s"
của chủ nghĩa t bản độc quyền Nhà nớc vì ông chỉ chứng minh cho sự cần thiết phải
có sự can thiệp của Nhà nớc t sản vào kinh tế, mà còn chỉ ra đợc những công cụ chủ
yếu cho sự can thiệp này. Theo ông, nguyên nhân của vấn đề này là do tác động của
những khuynh hớng tâm lý cơ bản dẫn đến sự giảm sút của "cầu có hiệu quả", do đó
gây ra khủng hoảng sản xuất thừa. Để khắc phục Nhà nớc phải can thiệp vào kinh tế
thông qua các giải pháp "kích cầu". Những công cụ đợc sử dụng để "kích cầu" là
những công cụ kinh tế vĩ mô, nh : tài chính, tín dụng, lu thông tiền tệ
Nhà nớc can thiệp vào kinh tế là xu hớng chung của các nớc trên thế giới trong
thời kỳ này, kể cả các nớc xã hội chủ nghĩa.
17
Tiểu luận kinh tế chính trị
Trong nền kinh tế chỉ huy, Nhà nớc xã hội chủ nghĩa can thiệp quá sâu vào nền
kinh tế, thực hiện quản lí toàn bộ nền kinh tế quốc dân ở cả tầm vĩ mô và vi mô. Nhà
nớc thực hiện hai chức năng: Quản lý hành chính về kinh tế và quản lý sản xuất kinh
doanh của các doanh nghiệp, làm cho cạnh tranh bị thủ tiêu, động lực kinh tế bị mất
dần, nền kinh tế kém hiệu quả.
c) Thời kỳ từ cuối những năm 70 của thế kỷ XX đến nay:
Đặc trng của nền kinh tế thế giới thời kỳ này là nền kinh tế hỗn hợp, vận hành
theo cơ chế thị trờng có sự quản lý của Nhà nớc.
Trờng phái Keynes tin tởng rằng sự can thiệp của Nhà nớc vào kinh tế sẽ khắc
phục đợc khủng hoảng, thất nghiệp, lạm phát...duy trì sự phát triển kinh tế ổn định.
Song những chấn động lớn trong nền kinh tế vẫn diễn ra, thất nghiệp, lạm phát ngày
càng trầm trọng.
Đúng là nền sản xuất xã hội hoá cao đòi hỏi phải có sự can thiệp của Nhà nớc
vào kinh tế, nhng khiếm khuyết lớn nhất của Keynes là ông đã bỏ qua vai trò của cơ
chế thị trờng. Từ đó xuất hiện t tởng phối hợp cả sức mạnh của Nhà nớc với tính
mềm dẻo, linh hoạt của cơ chế thị trờng để điều tiết nền kinh tế thị trờng.
Ngay từ những năm 40, nhà kinh tế học ngời Mỹ P.Samuelson đã nhận thấy
những khiếm khuyết đó trong lý thuyết của Keynes, cuốn "kinh tế học" của ông đợc
xuất bản vào năm 1948 đã đa ra quan điểm về "nền kinh tế hỗn hợp", nhng phải đến
những năm 70 quan điểm đó mới trở thành phổ biến và đợc thừa nhận nh một quan
điểm hiện đại chính thống.
Theo Samuelson thì cơ chế thị trờng xác định giá cả và sản lợng trong nhiều lĩnh
vực, còn Nhà nớc điều tiết thị trờng bằng các chơng trình thuế, các khoản chi tiêu và
luật lệ Cả hai yếu tố cơ chế thị trờng và Nhà nớc đều cần thiết nh nhau. Điều hành
một nền kinh tế không có chính phủ lẫn thị trờng thì cũng nh ngời định vỗ tay bằng
một bàn tay.
Nhìn chung, cho tới nay các nhà kinh tế học đều ứng hộ quan điểm của
P.Samuelson về vai trò của Nhà nớc trong nền kinh tế thị trờng. Có thể khái quát vai
trò đó ở các chức năng chủ yếu sau:
Một là, đảm bảo sự ổn định chính trị, xã hội và thiết lập khuân khổ luật pháp để
tạo ra điều kiện cần thiết cho các hoạt động kinh tế. Nhà nớc tạo ra hành lang luật
pháp cho hoạt động kinh tế bằng cách đặt ra những điều luật cơ bản về quyền sở
hữu tài sản và sự hoạt động của thị trờng, đặt ra những quy định chi tiết cho hoạt
động của các doanh nghiệp.
18
Tiểu luận kinh tế chính trị
Hai là, điều tiết kinh tế đảm bảo cho nền kinh tế thị trờng phát triển ổn định.
Nền kinh tế thị trờng khó tránh khỏi bị chấn động bởi các cuộc khủng hoảng kinh tế,
đều phải trải qua các chu kỳ kinh doanh, tức là các giao động lên xuống của GNP
hoặc GDP, kèm theo là các giao động lên xuống về mức độ thất nghiệp và lạm phát.
Nhà nớc cần làm dịu những giao động lên xuống của chu kỳ kinh doanh thông
qua chơng trình hoá kinh tế, chính sách tài chính và chính sách tiền tệ. Chẳng hạn,
chính phủ có thể giảm thuế trong cơn suy thoái với hy vọng tăng chi tiêu của dân
chúng, nhờ đó sẽ nâng cao GDP. Ngân hàng Trung ơng, là ngời kiểm soát khối lợng
tiền tệ, có thể áp dụng các biện pháp "nới lỏng tiền tệ" trong cơn suy thái; khi lạm
phát cao, Ngân hàng Trung ơng áp dụng các biện pháp "thắt chặt tiền tệ" nhằm giảm
lạm phát. Nh vậy, thông qua chính sách tài chính và chính sách tiền tệ Nhà nớc thực
hiện việc ổn định nền kinh tế.
Ba là, đảm bảo cho nền kinh tế hoạt động có hiệu quả. Một trong những nguyên
nhân dẫn đến tính kém hiệu quả của hoạt động thị trờng là những tác động bên
ngoài. Các doanh nghiệp vì lợi ích tối đa của mình có thề lạm dụng tài nguyên xã
hội, gây ô nhiễm môi trờng sống của con ngời mà xã hội phải gánh chịu. Chẳng hạn,
một doanh nghiệp sản xuất hoá chất tống chất thải ra, chính phủ có thể buộc các
doanh nghiệp phải trả tiền cho những thiệt hại do ô nhiễm mà doanh nghiệp đã gây
ra. Sự can thiệp của chính phủ nhằm ngăn chặn những tác động bên ngoài để nâng
cao hiệu qủa của nền kinh tế.
Một nguyên nhân khác dẫn đến tính kém hiệu quả của hoạt động thị trờng là sự
xuất hiện của độc quyền. Các tổ chức độc quyền có thể không tăng, thậm chí giảm
số lợng hàng hoá mà chỉ tăng giá để tăng lợi nhuận. Một nền kinh tế đợc thúc đẩy
bởi cạnh tranh hoàn hảo để đạt hiệu quả cao, nhng cạnh tranh làm hạn chế khả năng
đạt lợi nhuận độc quyền nên các doanh nghiệp thờng cố gắng giảm bớt cạnh tranh.
Vì vậy, Nhà nớc có một nhiệm vụ rất cơ bản là bảo vệ cạnh tranh và chống độc
quyền để nâng cao tính hiệu quả của hoạt động thị trờng.
Bốn là, để đảm bảo tính hiệu quả thì Nhà nớc phải sản xuất ra hàng hoá công
cộng, đảm bảo xây dựng kết cấu hạ tầng cho nền kinh tế, thực hiện công bằng xã
hội. Sự hoạt động của cơ chế thị trờng có thể làm cho nền kinh tế đạt hiệu quả cao.
Nhng cơ chế thị trờng hoạt động phi nhân tính, nó không tính đến các khía cạnh
nhân đạo và xã hội, không mang lại những kết quả mà xã hội cố gắng vơn tới.
Sự can thiệp của Nhà nớc nhằm phân phối thu nhập công bằng, bảo vệ các thành
viên của xã hội chống lại những khó khăn về kinh tế, nâng cao mức sống của các
19
Tiểu luận kinh tế chính trị
nhóm dân c có thu nhập thấp nhất. Điều này đợc thực hiện thông qua chính sách
phân phối, bảo hiểm xã hội và phúc lợi xã hội.
2. Vai trò kinh tế của Nhà nớc trong nền kinh tế thị trờng định hớng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam:
a) Những điểm chung và khác nhau cơ bản giữa vai trò kinh tế của Nhà nớc Việt
Nam và vai trò kinh tế của các Nhà nớc t sản trong quản lý nền kinh tế thị trờng:
Trong công tác quản lý kinh tế thị trờng Nhà nớc Việt Nam trớc hết cũng phải
tôn trọng những nét chung của kinh tế thị trờng. Do vậy phơng pháp quản lý của
Nhà nớc Việt Nam về nhiều phơng diện cũng có những điểm giống nh phơng pháp
quản lý ở các nớc t bản. Vì vậy chúng ta có thể và cần thiết phải tham khảo mọi tri
thức và kinh nghiệm quản lý kinh tế thị trờng của Nhà nớc ở nhiều nớc trên thế giới.
Những điểm chung trong công tác quản lý nền kinh tế thị trờng của Nhà nớc:
Thừa nhận tính độc lập của các chủ thể kinh tế tham gia thị trờng .Các cá
nhân và doanh nghiệp tự chủ định ra các quyết định kinh tế, tự do lựa chọn, tự
mình gánh chịu các rủi ro kinh tế nếu có.
Xây dựng hệ thống thị trờng có tính cạnh tranh. Giá cả chủ yếu do thị trờng
xác định. Thị trờng có tác dụng quan trọng trong việc bố trí tài nguyên.
Xây dựng cơ chế kinh tế điều tiết kinh tế vĩ mô có hiệu quả, thực hiện sự hớng dẫn, giám sát và khống chế đối với thị trờng, khắc phục những nhợc điểm
và thiếu sót của bản thân kinh tế thị trờng.
Phải có pháp luật kinh tế đầy đủ, đảm bảo sự vận hành kinh tế theo khuân
khổ của pháp luật và phải tôn trọng các quy tắc và thông lệ trong trao đổi quốc
tế.
Tuy nhiên, có những điểm khác nhau cơ bản giữa quản lý kinh tế thị trờng định
hớng xã hội chủ nghĩa của Nhà nớc ta và quản lý kinh tế thị trờng của các nớc t
sản. Sự khác nhau đó là:
Về chính trị: Có Đảng lãnh đạo, có Nhà nớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
dân, do dân và vì dân. Sự lãnh đạo của đảng và quản lý của Nhà nớc nhằm mục
tiêu cao cả là: dân giàu, nớc mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
20
Tiểu luận kinh tế chính trị
Về kinh tế: Nền kinh tế thị trờng có cơ cấu nhiều thành phần, trong đó thành
phần kinh tế Nhà nớc giữ vai trò chủ đạo, cùng với kinh tế tập thể phát triển dần
dần trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân.
Về mục tiêu: Nhà nớc ta quản lý nền kinh tế thị trờng là nhằm từng bớc giải
phóng ngời lao động thoát khỏi áp bức bóc lột, làm cho ngời lao động có cuộc
sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện. Còn quản lý
kinh tế thị trờng của Nhà nớc t sản là nhằm mục tiêu thu đợc lợi nhuận tối đa
của các tập đoàn và các nhà t bản trên cơ sở bóc lột quần chúng lao động làm
thuê.
Tóm lại, do bản chất của Nhà nớc là xã hội chủ nghĩa, có Đảng cộng sản lãnh
đạo, chế độ công hữu là nền tảng, với mục tiêu mọi ngời đều có cuộc sống ấm no, tự
do, hạnh phúc, cho nên vai trò kinh tế của Nhà nớc ta khác về bản chất so với vai trò
kinh tế của Nhà nớc t sản trong việc quản lý nền kinh tế thị trờng.
b) Chức năng của Nhà nớc Việt Nam trong nền kinh tế thị trờng định hớng xã hội
chủ nghĩa:
Nền kinh tế thị trờng định hớng xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế trong đó có cả
kế hoạch lẫn thị trờng. Kế hoạch và thị trờng đan xen vào nhau, bổ sung cho nhau và
chế ớc lẫn nhau, trong đó thị trờng là căn cứ, là đối tợng và là công cụ của kế hoạch
hoá. Kế hoạch chủ yếu mang tính định hớng và đặc biệt quan trọng trên tầm vĩ mô
của nền kinh tế. Thị trờng có vai trò trực tiếp hớng dẫn các đơn vị kinh tế lựa chọn
lĩnh vực hoạt động và phơng án tổ chức sản xuất và kinh doanh, nhng lại phải tuân
theo phơng hớng mục tiêu của kế hoạch.
Vận dụng cơ chế thị trờng đòi hỏi phải nâng cao năng lực quản lý vĩ mô của Nhà
nớc, đồng thời phải xác lập đầy đủ chế độ tự chủ của các đơn vị sản xuất kinh
doanh. Không có chế độ tự chủ của các đơn vị này thì cũng không có cơ chế thị trờng. Thực hiện đúng chức năng quản lý của Nhà nớc về kinh tế và chức năng chủ sở
hữu tài sản công của Nhà nớc, Nhà nớc không can thiệp vào chức năng quản trị kinh
doanh và quyền tự chủ hạch toán của các doanh nghiệp.
Nhà nớc phải phát huy những tác động tích cực và hạn chế những mặt tiêu cực
của cơ chế thị trờng. Đồng thời, quản lý thị trờng bằng pháp luật, kế hoạch, cơ chế
chính sách, các công cụ đòn bẩy kinh tế khác và bằng các nguồn lực của khu vực
kinh tế Nhà nớc.
Từ những quan điểm trên, những chức năng cơ bản về quản lý nền kinh tế thị trờng định hớng xã hội chủ nghĩa ở nớc ta là :
21
Tiểu luận kinh tế chính trị
Một là, tạo môi trờng và điều kiện thuận lợi cho các hoạt động kinh tế nh đảm
bảo sự ổn định về chính trị, xã hội và thiết lập khuân khổ luật pháp thống nhất, có hệ
thống chính sách nhất quán để tạo môi trờng ổn định và thuận lợi cho giới kinh
doanh làm ăn có hiệu quả.
Hai là, định hớng cho sự phát triển, trực tiếp đầu t vào một số lĩnh vực để dẫn
dắt nền kinh tế phát triển theo định hớng xã hội chủ nghĩa, ổn định môi trờng kinh tế
vĩ mô nh chống lạm phát, khủng hoảng và ngăn ngừa những đột biến xấu trong nền
kinh tế.
Ba là, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội đảm bảo yêu cầu của phát triển
kinh tế.
Bốn là, quản lý tài sản công và kiểm kê, kiểm soát toàn bộ hoạt động kinh tế, xã
hội. Thực hiện đúng chức năng quản lý Nhà nớc về kinh tế và chức năng chủ sở hữu
tài sản của công của Nhà nớc. Các Bộ và các cấp chính quyền không can thiệp vào
chức năng quản trị kinh doanh và quyền tự chủ của các doanh nghiệp.
Năm là, khắc phục và hạn chế các mặt tiêu cực của cơ chế thị trờng. Phân phối
thu nhập quốc dân một cách công bằng, thực hiện tăng trởng kinh tế gắn với cải
thiện đời sống nhân dân, với tiến bộ và công bằng xã hội.
c) Các công cụ quản lý kinh tế của Nhà nớc ta trong nền kinh tế thị trờng định hớng
xã hội chủ nghĩa:
* Kế hoạch và thị trờng:
Nền kinh tế thị trờng định hớng xã hội chủ nghĩa đòi hỏi phải sử dụng hai công
cụ quản lý kinh tế cơ bản là kế hoạch và thị trờng. Việc sử dụng hai công cụ này
không thể tách rời nhau mà là sự vận dụng tính kế hoạch để điều tiết tác động của
các quy luật giá trị và vận dụng quy luật này nhằm phát triển kinh tế theo kế hoạch.
Chuyển từ cơ chế kế hoạch tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trờng có
sự quản lý của Nhà nớc không có nghĩa là từ bỏ kế hoạch hoá mà là chuyển từ kế
hoạch hoá thuần tuý pháp lệnh sang kế hoạch hoá định hớng là chủ yếu, sử dụng các
đòn bẩy kinh tế và lực lợng vật chất trong tay Nhà nớc để đảm bảo các tỷ lệ cân đối
trong nền kinh tế quốc dân. Từ chỗ đối lập kế hoạch với thị trờng, ngày nay chúng
ta nhận thức rõ cả kế hoạch lẫn thị trờng đều là công cụ quản lý nền kinh tế, trong
đó thị trờng là căn cứ, là đối tợng, là công cụ của kế hoạch hoá. Trong nền kinh tế
thị trờng kế hoạch phải bao quát đợc tất cả các thành phần kinh tế, tất cả các quan hệ
thị trờng, không chỉ các quan hệ thị trờng trong nớc mà cả các quan hệ thị trờng với
nớc ngoài.
22
Tiểu luận kinh tế chính trị
Kế hoạch Nhà nớc bao gồm kế hoạch dài hạn và kế hoạch ngắn hạn, thông qua
kế hoạch dài hạn, Nhà nớc cụ thể hoá chiến lợc phát triển kinh tế - xã hội, từ đó
vạch ra các chơng trình kinh tế có mục tiêu để định hớng đầu t, điều tiết các hoạt
động kinh tế và đề ra chính sách kinh tế thích hợp (thuế, tín dụng, xuất nhập khẩu,
chuyển giao công nghệ,....)
*Thành phần kinh tế Nhà nớc:
Đây là thành phần kinh tế có vai trò quyến định nhất để quản lý một nền kinh tế
thị trờng có nhiều thành phần phát triển theo định hớng xã hội chủ nghĩa. Thành
phần kinh tế này có vai trò mở đờng và hỗ trợ các thành phần kinh tế khác phát
triển, thúc đẩy sự tăng trởng nhanh và lâu bền của nền kinh tế. Nhờ thành phần kinh
tế này mà Nhà nớc có sức mạnh vật chất để điều tiết và hớng dẫn nền kinh tế, thực
hiện tốt những mục tiêu kinh tế - xã hội đề ra.
* Hệ thống pháp luật:
Nhà nớc phải sử dụng hệ thống pháp luật làm công cụ điều tiết hoạt động của
các tổ chức kinh tế thuộc mọi thành phần kinh tế nhằm làm cho nền kinh tế phát
triển theo định hớng xã hội chủ nghĩa, phát huy mặt tích cực và ngăn chặn các mặt
tiêu cực của cơ chế thị trờng, điều tiết các hoạt động kinh tế đối ngoại sao cho nền
kinh tế không bị lệ thuộc vào nớc ngoài.
Việc xây dựng hệ thống pháp luật hoàn chỉnh đối với nớc ta là một quá trình lâu
dài. Vì thị trờng luôn biến động nên hệ thống pháp luật cũng phải đợc bổ sung hoàn
chỉnh kịp thời cho phù hợp với tình hình thực tế. Hệ thống pháp luật phải bao trùm
mọi mặt hoạt động kinh tế - xã hội.
* Tài chính:
Tài chính là một phạm trù kinh tế khách quan gắn liền với kinh tế thị trờng. Đó
là một hệ thống các quan hệ kinh tế nhất định đợc biểu hiện dới hình thức tiền tệ,
phát sinh trong qúa trình phân phối để hình thành, quản lý và sử dụng các quỹ tiền tệ
nhằm phát triển sản xuất và nâng cao đời sống vật chất tinh thần của nhân dân.
Tài chính có hai chức năng là phân phối và giám sát: Phân phối gồm có phân
phối lần đầu và phân phối lại. Quá trình phân phối lần đầu diễn ra trong quá trình
sản xuất vật chất với mục đích là hình thành nên các quỹ tiền tệ và các khoản thu
nhập ban đầu dới hình thức tiền tệ cho các tổ chức và cá nhân đã tham gia và quá
trình sản xuất vật chất. Với chức năng giám sát thì tài chính sẽ thông qua đồng tiền
để giám sát việc quản lý và sử dụng quỹ tiền tệ.
Các công cụ của tài chính bao gồm:
23
Tiểu luận kinh tế chính trị
+ Hệ thống thuế: Chính sách thuế đúng đắn không chỉ có mục đích tạo nguồn
thu cho ngân sách mà còn khuyến khích sản xuất, xuất khẩu, điều tiết tiêu dùng,
khắc phục có hiệu quả các hiện tợng tiêu cực trong nền kinh tế, thu hút đợc vốn đầu
t từ nớc ngoài.
+ Ngân sách Nhà nớc: Ngân sách Nhà nớc là công cụ rất quan trọng để tác
động vào nền kinh tế nhằm thực hiện mục tiêu tăng trởng và công bằng, là hình thức
cơ bản để hình thành nên các quỹ tiền tệ tập trung. Ngân sách đợc dùng để khuyến
khích sử dụng hợp lý các nguồn lực trong tất cả các thành phần kinh tế, gắn tăng trởng với tiến bộ và công bằng xã hội.
* Tín dụng:
Tín dụng là một yếu tố trong hệ thống tài chính, là một hình thức vận động của
vốn tiền tệ. Nó phản ánh quan hệ kinh tế giữa các chủ thể sở hữu và các chủ thể sử
dụng nguồn vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế trên nguyên tắc có thời hạn, hoàn trả cả
vốn lẫn lãi.
* Tiền tệ là lu thông tiền tệ:
Trong nền kinh tế thị trờng tiền tệ đóng vai trò vô cùng quan trọng. Việc thắt
chặt hay nới lỏng cung ứng tiền tệ, kiềm chế lạm phát thông qua hoạt động của hệ
thống ngân hàng sẽ tác động trực tiếp đến tình hình kinh tế. Bằng công cụ tiền tệ
Nhà nớc có thể định hớng xã hội chủ nghĩa cho sự phát triển của nền kinh tế, ngăn
chặn tính tự phát t bản chủ nghĩa.
* Các công cụ điều tiết kinh tế đối ngoại:
Để thực hiện tốt chiến lợc kinh tế mở, xúc tiến các quan hệ đối ngoại, Nhà nớc
phải sử dụng nhiều công cụ, trong đó chủ yếu là: thuế xuất nhập khẩu, hạn ngạch
(quota), tỷ giá hối đoái, bảo đảm tín dụng xuất khẩu, trợ cấp xuất khẩu... Thông qua
những công cụ này, Nhà nớc có thể khuyến khích việc xuất, nhập khẩu, đồng thời lại
bảo hộ một cách hợp lý nền sản xuất nội địa, nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá
Việt Nam, thu hút vốn đầu t nớc ngoài đồng thời giữ vững độc lập, chủ quyền quốc
gia, lợi ích dân tộc theo định hớng Xã hội chủ nghĩa.
24
Tiểu luận kinh tế chính trị
Phần III: Kết Luận
Để thích ứng và thúc đẩy nền kinh tế phát triển, chúng ta đã từng đổi mới cơ chế
quản lý kinh tế, từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp chuyển sang nền kinh tế thị trờng và đại hội lần thức VII của Đảng đã khẳng định nền kinh tế nớc ta là nền kinh tế
thị trờng theo định hớng xã hội chủ nghĩa, vận động theo cơ chế thị trờng có sự quản
lý của Nhà nớc. Để nền kinh tế phát triển theo định hớng xã hội, nhất thiết phải coi
trọng vai trò quản lý vĩ mô của Nhà nớc.
Trong những năm đổi mới kinh tế vừa qua, nớc ta đã đổi mới một bớc vai trò
quản lý vĩ mô của Nhà nớc đối với nền kinh tế , chuyển từ quản lý kế hoạch hoá tập
trung sang sử dụng các công cụ chính sách kinh tế vĩ mô để quản lý nền kinh tế.
Những thành tựu của hơn 15 năm đổi mới chỉ là bớc đầu. Trong những năm tới, đặc
biệt trong xu thế hội nhập với nền kinh tế thế giới và khu vực cần phải phát huy vai
trò Nhà nớc thông qua việc đổi mới các công cụ chính sách vĩ mô, đặc biệt là hệ
thống tài chính, tín dụng, lu thông tiền tệ, chính sách phân phối thu nhập và kế
hoạch hoá nhằm phát triển kinh tế - xã hội. Việc đổi mới này vừa phải theo nguyên
tắc phù hợp với phơng thức quản lý của nền kinh tế thị trờng, đồng thời phải đảm
bảo cho nền kinh tế phát triển theo định hớng xã hội chủ nghĩa mà Đảng đã lựa
chọn.
25