VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN THỊ THUẬN
HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH CỦA NGƯỜI KHƠ MÚ
Ở HUYỆN MAI SƠN, TỈNH SƠN LA
Chuyên ngành: Nhân học
Mã số:62.31.03.02
LUẬN ÁN TIẾN SĨ NHÂN HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
1. TS Trần Văn Hà
2. TS Hoàng Hữu Bình
HÀ NỘI- 2016
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Nguồn dữ liệu
luận án là trung thực và nội dung của luận án chưa được công bố trong bất kỳ công
trình nào khác.
Hà Nội, ngày tháng năm 2016
NGHIÊN CỨU SINH
Nguyễn Thị Thuận
LỜI CẢM ƠN
Quá trình học tập, nghiên cứu và viết luận án, nghiên cứu sinh đã nhận được
sự quan tâm, hướng dẫn, giúp đỡ tận tình của nhiều cơ quan, tập thể và cá nhân.
Nghiên cứu sinh xin gửi lời biết ơn sâu sắc đến các thầy hướng dẫn khoa học
là TS. Trần Văn Hà, TS. Hoàng Hữu Bình cùng các thầy cô giáo Khoa Dân tộc học,
Học viện Khoa học Xã hội thuộc Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam, thầy cô
ở Viện Dân tộc học đã giúp đỡ, động viên, khích lệ NCS trong suốt quá trình học
tập cũng như quá trình viết luận án.
Nghiên cứu sinh xin trân trọng cảm ơn đến Ban Giám hiệu Trường Cán bộ dân
tộc, thầy giáo, cô giáo, cán bộ, viên chức của Trường nơi nghiên cứu sinh đang
công tác đã tạo điều kiện thuận lợi để tác giả hoàn thành việc học tập và nghiên cứu.
Nghiên cứu sinh xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến Lãnh đạo Phòng Dân tộc
huyện Mai Sơn tỉnh Sơn La, các gia đình đồng bào người Khơ mú đã giúp đỡ, cung
cấp những tư liệu quý báu trong quá trình nghiên cứu sinh đi thu thập tư liệu hoàn
thành luận án.
Cuối cùng, xin bày tỏ lòng biết ơn đến đồng nghiệp, bạn bè và gia đình đã
luôn chia sẻ, động viên để nghiên cứu sinh hoàn thành luận án.
Trân trọng cảm ơn.
Hà Nội, ngày
tháng
năm 2016
Nghiên cứu sinh
Nguyễn Thị Thuận
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ...............................................................................................................1
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU, CƠ SỞ LÝ THUYẾT,PHƯƠNG
PHÁP VÀ KHÁI QUÁT ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU.......................................5
1.1. Tổng quan tài liệu ................................................................................ 5
1.2. Cơ sở lý thuyết về hôn nhân và gia đình............................................ 16
1.3. Phương pháp nghiên cứu ................................................................... 28
CHƯƠNG 2. HÔN NHÂN CỦA NGƯỜI KHƠ MÚ Ở HUYỆN MAI
SƠN, TỈNH SƠN LA ........................................................................... 38
2.1. Hôn nhân truyền thống....................................................................... 38
2.2. Biến đổi trong hôn nhân của người Khơ mú ở bản Co Chai và bản Tra
...................................................................................................................... 64
CHƯƠNG 3. GIA ĐÌNH CỦA NGƯỜI KHƠ MÚ Ở HUYỆN MAI SƠN,
TỈNH SƠN LA ...................................................................................................83
3.1. Gia đình truyền thống của người Khơ mú ......................................... 83
3.2. Biến đổi gia đình của người Khơ mú ............................................... 112
CHƯƠNG 4. KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN ................................................... 125
4.1. Kết quả nghiên cứu về hôn nhân và gia đình người Khơ mú .......... 125
4.2. Bàn luận hôn nhân và gia đình của người Khơ mú ......................... 128
4.3. Nguyên nhân của sự biến đổi hôn nhân và gia đình của người Khơ mú
.................................................................................................................... 134
4.4. Một số kiến nghị .............................................................................. 143
KẾT LUẬN...................................................................................................... 147
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ, SƠ ĐỒ VÀ BẢNG BIỂU
Biểu đồ 1.1. Diện tích đất và loại đất sử dụng huyện Mai Sơn .............................................33
Sơ đồ 2.1. Quan hệ hôn nhân liên minh 3 thị tộc.....................................................................46
Bảng 2.1. Độ tuổi kết hôn của người Khơ mú .........................................................................65
Bảng 2.2. Giới và độ tuổi kết hôn (Số lượng người được hỏi) ..............................................66
Bảng 2.3. Tuổi kết hôn của người Khơ mú ..............................................................................66
Bảng 2.4. Trường hợp đăng ký kết hôn và không đăng ký kết hôn......................................68
Bảng 2.5. Bối cảnh quen biết kết hôn chia theo giới tính .......................................................69
Sơ đồ 2.2. Hôn nhân qua lại, hôn nhân đơn tuyến giữa các cộng đồng ...............................70
Bảng 2.6. Người quyết định hôn nhân theo nhóm tuổi ..........................................................71
Bảng 2.7. Hôn nhân hỗn hợp tộc người ở bản Co Chai .........................................................74
Bảng 2.8. Số năm ở rể của người Khơ mú ...............................................................................76
Sơ đồ 3.1. Cấu trúc tiểu gia đình Quàng Văn Yên ..................................................................84
Sơ đồ 3.2. Gia đình Triệu Văn Hán: Khi mẹ là người Khơ mú cha là người Dao .............84
Sơ đồ 3.3. Bố là người Khơ mú mẹ là người Thái ..................................................................84
Sơ đồ 3.4. Quan hệ gia đình ông Hà Văn Nguyễn bản Tra ................................... 102
Bảng 3.1. Qui mô gia đình người Khơ mú.............................................................................112
Bảng 3.2. Số người trong gia đình Khơ mú ...........................................................................113
Bảng 3.3. Số người trong hộ gia đình người Khơ mú ..........................................................114
Bảng 3.4. Số thế hệ trong gia đình người Khơ mú................................................................114
Bảng 3.5. Qui mô gia đình Khơ mú ........................................................................................115
Bảng 3.6. Công việc làm chủ yếu chia theo giới trong gia đình theo số ý kiến trả lời .....118
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
1. CHDCND Lào :
Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào
2. CNH, HĐH
:
Công Nghiệp hóa, hiện đại hóa
3. DCDC
:
Du canh du cư
4. DS & KHHGĐ:
Dân số và kế hoạch hóa gia đình
5. ĐCĐC
:
Định canh, định cư
6. HN & GĐ
:
Hôn nhân và gia đình
7. KT- XH
:
Kinh tế - xã hội
8. NCS
:
Nghiên cứu sinh
9. Nxb
:
Nhà xuất bản
10. TP
:
Thành phố
11. TTr
:
Thị trấn
12. TX
:
Thị xã
13. VASS
:
14. VND
:
Việt Nam đồng
15. UBND
:
Ủy ban nhân dân
Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hôn nhân và gia đình luôn là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học
thuộc lĩnh vực xã hội và nhân văn. Đối với nhân học/dân tộc học, việc nghiên cứu
hôn nhân và gia đình ở các dân tộc có ý nghĩa rất lớn về mặt khoa học; một mặt,
làm rõ các quan hệ xã hội và văn hóa, mặt khác góp phần sáng tỏ quá trình tộc
người với các hình thức tiến triển của các loại hình hôn nhân và gia đình ở các thời
kỳ lịch sử khác nhau. Bởi vì, hôn nhân và gia đình thể hiện mối quan hệ chặt chẽ,
tương hỗ giữa văn hóa và các quan hệ xã hội của các cộng đồng, các nhóm xã hội,
tộc người. Tùy thuộc vào điều kiện xã hội và những yếu tố văn hóa tộc người mà
hôn nhân và các quan hệ gia đình diễn ra theo nhiều hình thái khác nhau, vừa phản
ánh qui luật chung nhất về sự phát triển của xã hội loài người qua các giai đoạn lịch
sử, vừa mang những đặc thù văn hóa tộc người. Kết quả của hôn nhân là hình thành
gia đình. Xây dựng, duy trì, củng cố và phát triển gia đình tạo ra mối liên hệ chặt
chẽ và ảnh hưởng trực tiếp với toàn bộ hệ thống xã hội. Vì vậy, hôn nhân và gia
đình có mối liên hệ qua lại với nhau, mang nhiều ý nghĩa văn hóa - xã hội khác.
Nghiên cứu hôn nhân và gia đình từ góc nhìn Nhân học/dân tộc học còn tham
góp những cứ liệu văn hóa, xã hội đối với việc xây dựng, bổ sung chính sách cho
phù hợp và hiệu quả liên quan quan đến Luật Hôn nhân và Gia đình cũng như chính
sách dân số và kế hoạch hóa gia đình, xây dựng gia đình văn hóa mới, v.v… ở các
dân tộc, vùng miền trong bối cảnh mới của đất nước ta.
Người Khơ mú ở Việt Nam thuộc nhóm ngôn ngữ Môn-Khơ me. Theo số liệu
Tổng Điều tra Dân số và Nhà ở, ngày 1/4/2009, dân tộc Khơ mú có 72.929 người,
phân bố hầu hết ở các tỉnh dọc biên giới Việt – Lào, như Nghệ An, Thanh Hóa, Sơn
La, Lai Châu và Điện Biên. Ở Sơn La, người Khơ mú có 12.576 người, chiếm
1,34% dân số trong tỉnh và phân bố chủ yếu ở các huyện Yên Châu, Sông Mã, Mai
Sơn, Thuận Châu, Quỳnh Nhai và Sốp Cộp. Tại các địa bàn này, người Khơ mú cư
trú thành từng bản xen cài chủ yếu với các bản dân tộc thiểu số khác nhau là Thái,
Hmông, Xinh Mun, Kháng. Chính sự cư trú xen cài này đã tạo nên mối quan hệ xã
hội và giao tiếp, trao đổi văn hóa giữa người Khơ mú và các tộc người thiểu số này
một cách tự nhiên qua các thời kỳ lịch sử khác nhau trong quá khứ và hiện tại. Từ
những năm cuối thế kỷ XX, đã có nhiều công trình nghiên cứu về dân tộc này, song
1
chủ yếu tập trung ở các tỉnh Lai Châu, Nghệ An và một vài huyện phía Tây Bắc
tỉnh Sơn La. Ở những công trình nghiên cứu này đã nghiên cứu khá toàn diện về
kinh tế, văn hóa, xã hội và môi trường. Tuy nhiên, trên phương diện sự đa dạng
vùng, đặc điểm địa phương của các nhóm Khơ mú, đặc biệt là lĩnh vực quan hệ hôn
nhân và gia đình trong bối cảnh đổi mới hiện nay vẫn còn bỏ ngỏ. Bởi vì, do tác
động đa chiều của điều kiện địa lý nhân văn và các chính sách phát triển kinh tế - xã
hội và văn hóa, làm cho bức tranh phát triển của những địa phương có người Khơ
mú sống riêng biệt hoặc xen cài là không như nhau. Vì vậy, việc đi sâu tìm hiểu một
cách sâu sắc và có so sánh cả về lịch đại, đồng đại giữa các cộng đồng Khơ mú ở
những mẫu khảo sát nhất định, hoặc với các cộng đồng khác dựa trên các dữ liệu
địa phương khác được nghiên cứu sẽ góp phần tìm hiểu văn hóa Khơ mú nói chung
và hôn nhân, gia đình của dân tộc này một cách toàn diện hơn. Hơn thế, dữ liệu của
nghiên cứu sẽ cho thấy mức độ như thế nào về mối quan hệ dân tộc thông qua hôn
nhân và gia đình của dân tộc Khơ mú và các dân tộc khác ở các địa phương những
năm gần đây.
Từ sau khi tiến hành công cuộc Đổi mới (1986) đến nay, hôn nhân, gia đình và
các quan hệ của nó ở vùng dân tộc thiểu số đang chịu sự tác động đa chiều từ các
chính sách phát triển kinh tế - xã hội, toàn cầu hóa về văn hóa. Đặc biệt là sự lan tỏa
của các quan hệ kinh tế thị trường đến các cộng đồng dân tộc thiểu số. Điều này
cũng có nghĩa, tính cấp thiết về sự bảo tồn các giá trị văn hóa tộc người (điểm tốt,
tích cực) trong gia đình, quan hệ gia đình, hôn nhân và lễ nghi liên quan là hết sức
có ý nghĩa về thực tiễn.
Tìm hiểu hôn nhân và gia đình của người Khơ mú ở huyện Mai Sơn, từ góc độ
dân tộc học/nhân học, đề tài nghiên cứu hy vọng sẽ có sự đóng góp trên hai phương
diện: i/ Trên cơ sở làm rõ những quan hệ xã hội của tộc người trong hôn nhân và gia
đình, góp phần bảo tồn, phát huy văn hóa tộc người; ii/ Qua thực tiễn cụ thể ở một
địa phương, tộc người thấy được việc thực hiện Luật Hôn nhân và Gia đình cũng
như những vấn đề đặt ra trong bối cảnh mới.
Từ những vấn đề trên, nghiên cứu sinh (NCS) đã lựa chọn đề tài “Hôn nhân và
gia đình của người Khơ mú ở huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La” làm luận án tiến sĩ
chuyên ngành dân tộc học/nhân học văn hóa.
2
2. Mục tiêu nghiên cứu
- Tìm hiểu hôn nhân, gia đình truyền thống và những biến đổi tại hai cộng
đồng của người Khơ mú ở huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La qua các thời kỳ trước và sau
giải phóng (1954) đến nay, nhất là từ sau đổi mới (1986) đến thời điểm nghiên cứu.
- Những yếu tố tác động trực tiếp, gián tiếp đến sự biến đổi và xu hướng biến
đổi về quan hệ hôn nhân, gia đình của người Khơ mú trong bối cảnh phát triển kinh
tế - xã hội và giao tiếp văn hóa với các tộc người khác (Thái, Kinh, v.v…);
- Trên cơ sở nghiên cứu thực tế hôn nhân và gia đình ở hai cộng đồng Khơ
mú, luận án đề xuất một số ý kiến tham góp cụ thể làm cơ sở khoa học đối với việc
điều chỉnh Luật hôn nhân và gia đình (sửa đổi); bảo tồn giá trị văn hóa truyền
thống, xây dựng văn hóa gia đình Khơ mú trong bối cảnh CNH, HĐH.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu tình trạng hôn nhân và gia đình cũng như các quan
hệ của nó cụ thể tại 2 cộng đồng người Khơ mú ở huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La đã,
đang diễn ra và trong một số trường hợp có so sánh với thời kỳ trước khi tiến hành
công cuộc Đổi mới (1986) đến nay. Cụ thể, luận án đi sâu tìm hiểu hình thức, các lễ
nghi liên quan đến hôn nhân, gia đình, vai trò của gia đình, mối quan hệ xã hội và
văn hóa thể hiện trong các loại hình gia đình, hình thức hôn nhân giữa các cộng
đồng Khơ mú được khảo sát.
Về không gian cư trú. Người Khơ mú ở huyện Mai Sơn cư trú thành các bản
xen cài đến cấp xã và chủ yếu ở địa bàn vùng sâu, vùng xa đặc biệt khó khăn, giao
thông đi lại còn nhiều trắc trở. Vì vậy, NCS chọn 2 bản ở 2 xã có khoảng cách
không xa nhau. Giữa 2 bản này tuy không có quan hệ về hành chính và kinh tế,
nhưng lại có quan hệ xã hội và văn hóa chặt chẽ. Điều này cho phép NCS có thể
khám phá về quan hệ hôn nhân và gia đình trong nội bộ cộng đồng và giữa 2 cộng
đồng Khơ mú về mặt đồng đại và lịch đại.
4. Nguồn tài liệu của luận án
Để hoàn thành luận án, nguồn tư liệu chính được NCS thu thập từ những đợt
điền dã dân tộc học qua các năm 2010 đến 2014 tại bản Co Chai, xã Hát Lót và bản
Tra, xã Chiềng Lương, huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La.
Bên cạnh đó, việc tham khảo các công trình nghiên cứu của các nhà nghiên cứu
nước ngoài dựa trên việc tổng quan tài liệu, đặc biệt là các tác giả trong nước đã
giúp NCS có cơ sở rất tốt về kiến thức dân tộc học/nhân học. Đó không chỉ về lịch
3
sử tộc người, văn hóa vật chất, tinh thần mà hơn thế là những tư liệu trực tiếp liên
quan đến chủ đề luận án rất hữu ích và giá trị về khoa học.
Việc xử lý các tài liệu văn bản về dân số, địa lý, chính sách phát triển kinh tế- xã
hội, văn hóa,v.v… từ những báo cáo thường niên ở cấp xã và cơ quan ban ngành
chuyên môn của huyện Mai Sơn liên quan đến các điểm nghiên cứu. Nguồn dữ liệu
này giúp NCS có bức tranh tổng quát về bối cảnh lịch sử của những cộng đồng Khơ
mú được lựa chọn làm đối tượng khảo sát.
5. Đóng góp của luận án
- Trên cơ sở nghiên cứu về đặc điểm hôn nhân, gia đình truyền thống của người
Khơ mú cũng như những biến đổi của nó dưới tác động của các chính sách phát triển
kinh tế - xã hội và mở rộng quan hệ giao tiếp văn hóa với các tộc người khác tại địa
phương ở hai điểm được lựa chọn khảo sát. Luận án trình bày một cách toàn diện và
chuyên sâu tình trạng hôn nhân và gia đình truyền thống cũng như những biến đổi
trong lĩnh vực này ở bản Co Chai và Tra thuộc huyện Mai Sơn, Sơn La;
- Góp phần làm rõ những nét đặc thù và giống nhau về vai trò gia đình, tình
trạng hôn nhân tại dân tộc Khơ mú đối với việc thực hiện Luật hôn nhân và Gia
đình ở vùng dân tộc và xây dựng nông thôn mới ở vùng dân tộc thiểu số.
- Xây dựng cơ sở khoa học và bước đầu đề xuất kiến nghị để phát huy giá trị
văn hóa tộc người và xóa bỏ các lễ nghi không phù hợp liên quan đến hôn nhân và
gia đình của người Khơ mú trong quá trình thực hiện Luật hôn nhân và Gia đình
cũng như xây dựng nông thôn mới ở miền núi.
- Kết quả nghiên cứu của luận án là tài liệu tham khảo phục vụ công tác giảng
dạy và học tập tại các trường đại học và Khoa Dân tộc, Trường Cán bộ dân tộc (Ủy
Ban Dân tộc) liên quan đến lĩnh vực hôn nhân và gia đình các dân tộc Việt Nam.
6. Cấu trúc của luận án
Cấu trúc luận án ngoài phần mở đầu, kết luận, kết cấu gồm 4 chương:
Chương 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu, cơ sở lý thuyết, phương pháp và
khái quát địa bàn nghiên cứu
Chương 2. Hôn nhân của người Khơ mú ở huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La
Chương 3. Gia đình của người Khơ mú ở huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La
Chương 4. Kết quả và bàn luận
4
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU, CƠ SỞ LÝ THUYẾT,
PHƯƠNG PHÁP VÀ KHÁI QUÁT ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU
1.1. Tổng quan tài liệu
Những tài liệu viết về tộc người Khơ mú ở Việt Nam và các nước láng giềng
như Lào, Trung Quốc, Thái Lan từ những năm đầu thế kỷ XX cho đến nay, bằng
các ngôn ngữ Pháp, Anh, Lào, Thái, Trung Quốc, Việt khá phong phú. Các tác giả
từ góc nhìn ngôn ngữ học, văn hóa học, dân tộc học, xã hội học tập trung vào tìm
hiểu lịch sử tộc người, ngôn ngữ, văn hóa, quan hệ xã hội hay mối quan hệ phân bố
dân tộc, dân cư trong phạm vi vùng của một quốc gia hay liên quốc gia [1, 2, 3, 4, 5
(Anh, Pháp) và Tiếng Việt: 20, 37, 38, 39, 40,70, 102, 103, v.v…]
Tuy nhiên, trong khuôn khổ của một luận án tiến sĩ nhân học, chuyên ngành
dân tộc học, việc lựa chọn chủ đề hôn nhân và gia đình, tác giả không đi sâu vào
tổng thuật các nghiên cứu thuộc hầu hết các lĩnh vực nói trên. Dựa trên cách tiếp
cận, hôn nhân và gia đình được coi như một hiện tượng xã hội có quan hệ chặt chẽ
với toàn bộ hệ thống xã hội, là bức tranh phản ánh gián tiếp và trực tiếp sự vận hành
xã hội đã và đang diễn ra của một cộng đồng hay xã hội cụ thể. Vì vậy, tác giả luận
án chỉ tập trung nhìn nhận các chiều cạnh có liên quan ở các công trình mà mình
tiếp cận được cho đến thời điểm nghiên cứu từ góc nhìn dân tộc học/ nhân học.
1.1.1.Nghiên cứu của tác giả nước nước ngoài
Cho đến hiện nay, tài liệu mà NCS tiếp cận được về các học giả nước ngoài
nghiên cứu về người Khơ mú là công trình của Bernard. N. viết về người Khas ở
Lào năm 1904 và (Kha, người hoang dã ở Lào thuộc Pháp, Tạp chí Lịch sử - Les
Khâs. Peuple inculte du Laos Francais. Bull. hist. et descriptive, 1904 ).
Học giả người Mỹ Frank Proschan, nghiên cứu về lịch sử tộc người Khơ mú ở
địa bàn Đông Dương. Đây là nhà nghiên cứu có thời gian và điều kiện đến nhiều
cộng đồng Khơ mú tại nhiều tỉnh của Việt Nam và Lào1 để tìm hiểu các vấn đề dân
số, dân cư, ngôn ngữ, v.v…Đáng chú ý là báo cáo khoa học của ông “Chương văn
học dân gian, trong lịch sử và tiềm thức của người Khơ mú” được Frank Proschan
Frank Proschan đã có dịp trình bày các kết quả khảo sát về ngôn ngữ, lịch sử tộc người Khơ mú ở
Tây Bắc Việt Nam và Lào tại Viện Dân tộc học, năm 1992; Cụ thể là thuyết trình:”Đặc điểm phân
bố và văn hóa tộc người Khơ mú ở Đông Dương tại Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam (2000)”.
1
5
trình bày ở báo cáo khoa học tại Hội thảo Thái học (Tai Study Worshop), năm 1990
ở Băng Cốc (Thái Lan). Trong Báo cáo khoa học này, Frank Proschan đã liệt kê tài
liệu về “nạn giặc Chương” diễn ra tại một số địa phương của Việt Nam vào cuối Thế
kỷ XIX ở địa bàn Mường Lay và Mường Thanh (thuộc tỉnh Điện Biên, Lai Châu hiện
nay) diễn ra từ năm 1874 – 1876, do Tạo Lả Xanh Xen Hoa cầm đầu. Còn ở Nghệ
An, “nạn giặc Chương” diễn ra từ năm 1884 – 1887, do Tạo Cớt cầm đầu. Giả
thuyết nói đến nguồn gốc lịch sử tộc người này ở mức độ nào đó cho thấy, dân tộc
Khơ mú có một truyền thuyết bi tráng gắn liền với lịch sử người Khơ mú ở Việt Nam
nói riêng và Đông Dương nói chung. Tuy nhiên, đây cũng chỉ là giả thuyết dựa trên
huyền thoại lịch sử dựa trên dữ liệu bất thành văn và một vài tư liệu được đề cập trên
các ấn phẩm viết về tộc người Khơ mú ở Đông Dương thời thuộc Pháp.
Tác giảHenri Roux (1927) viết về Les tsa Khmu. Tác giả đã đề cập đến nơi cư
trú, những nét đặc trưng về làng bản, nhân chủng, trang phục, trang sức, hôn nhân,
tang ma, ngôn ngữ, từ vựng. Bên cạnh đó, ông cũng nêu lên một số ví dụ về thuyết
luân hồi của người Khơ mú và người Mèo (Hmông) ở Việt Nam.
Bên cạnh đó, có tác phẩm Thelife of Shong Lue Yang (Cuộc đời của Shong Lue
Yang) có Hmong Mother of writing/Chia Koua Vang, Gnia Yee Yang, W. Smalley
(Chicago,1990), giới thiệu cuộc đời và sự nghiệp của Shong Lue Yang, sự nghiệp
giáo dục của ông với người Hmông và Khơ mú ở Việt Nam và Lào.
Về ngôn ngữ: Từ điển Khơ mú - Việt – Thái - Anh được biên soạn dựa theo dự
án nghiên cứu Thuật ngữ tiếng địa phương của dân tộc Khơ mú ở Đông Nam Á với
công trình Từ Điển Việt - Anh - Thái - Khơ mú Nghệ An (Nghe An Khmu Vietnamese - Thai - English Dictionary) của nhóm tác giả Suwilai Premsrirat, Lo
Van Tuan, Mayuree Thawornpat, Trinh Dieu Thin được xuất bản tại Đại học
Mahidol Băng Cốc (Băng kok Mahidol University, 1998). Đây là công trình hợp tác
của các học giả Thái Lan và Việt Nam trên lĩnh vực ngôn ngữ học về dân tộc Khơ
mú đầu tiên. Từ điển gồm phần giới thiệu những thông tin về dân tộc Khơ mú,
danh mục các thuật ngữ tộc người Khơ mú ở tỉnh Nghệ An, Việt Nam. Giá trị khoa
học của công trình là ở chỗ, thông qua việc biên soạn từ ngữ theo khuôn khổ từ điển
chuyên biệt và mang tính phổ thông, các tác giả đã góp phần giới thiệu văn hóa tộc
người Khơ mú qua 4 ngôn ngữ (Anh, Việt, Thái, Khơ mú) mà xưa nay chưa có
công trình khoa học nào triển khai.
6
Từ chiều cạnh kinh tế, Shomphra Xaiyamongkhoun(Lào) có công trình The
Economic System of the Mountainous People, Khmu Ethnic Minority, Din Dam
Village, Phabong Area, Nong Hed District, Xiêng Khouang Province (Case Study:
Compare to Na Toun Village, Kham District - Hệ thống kinh tế của cư dân miền
núi. Dân tộc Khơ mú ở làng Din Dam, vùng Pha Bông, huyện Noọng Hét, tỉnh
Xiêng Khoảng – Nghiên cứu trường hợp làng Na Tom, huyện Khăm. Viện Dân tộc
học dịch, Lần thứ nhất, 2007 gồm 10 trang). Nội dung chủ yếu đề cập đến Hệ thống
kinh tế của dân tộc Khơ mú, làng Din Dam, vùng Phabong, huyện Noọng Het, tỉnh
Xiêng Khoảng gồm canh tác nông nghiệp truyền thống, canh tác nương rẫy, kỹ
thuật làm vườn, chăn nuôi gia súc, nghề thủ công truyền thống và giáo dục của
người Khơ mú.
Ngoài những nghiên cứu trên, khi nghiên cứu về người Khơ mú ở tỉnh Côn
Minh, Tây Nam Trung Quốc, trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập khu vực
thuộc công trình hợp tác nghiên cứu về các dân tộc thiểu số ở Tiểu vùng sông Mê
Kông giữa các học giả Việt Nam, Lào, Thái Lan và Trung Quốc, Giáo sư LiJiang
(Đại học Dân tộc Côn Minh). Ông đã nghiên cứu bản sắc và sự bảo tồn văn hóa của
tộc người Khơ mú trong bối cảnh toàn cầu ở Trung Quốc cụ thể ở Dilemma vùng
Xishuangbana. Bên cạnh khảo sát và phân tích cộng đồng Lilemma dưới góc độ
sinh thái, kinh tế và các yếu tố văn hóa truyền thống biến đổi mạnh mẽ như thế nào,
cũng như các quan hệ xã hội. Ông cho rằng, là nhóm dân tộc có dân số ít ở Trung
Quốc, người Khơ mú ở đây có quan hệ chặt chẽ hơn với người Khơ mú vùng biên
giới Trung - Lào cả về họ hàng, tính chia sẻ, tương trợ và văn hóa hơn là với người
Thái ở Trung Quốc (3, tr.255).
Như vậy, cho đến hiện nay với những công trình nghiên cứu về người Khơ mú
của học giả nước ngoài mà NCS tiếp cận được, về cơ bản cho thấy, các công trình
nghiên cứu cũng đã đề cập đến địa bàn cư trú của người Khơ mú đầu tiên là ở Lào,
nghiên cứu đến các biến cố nạn giặc Chương dẫn đến sự cư trú phân tán của người
Khơ mú ở một số nước Đông Nam Á trong đó có Việt Nam. Bên cạnh đó, đề cập
đến đặc điểm địa bàn cư trú sau biến cố trên và phương thức sản xuất, nét văn hóa
cơ bản của người Khơ mú. Nghiên cứu về hôn nhân và gia đình của người Khơ mú
đến nay chưa có công trình nào đề cập một cách có hệ thống với tư cách một
chuyên khảo.
7
1.1.2. Nghiên cứu của tác giả trong nước
Có thể nói rằng, cho đến thời điểm nghiên cứu những nghiên cứu về người Khơ
mú ở Việt Nam chiếm khối lượng không lớn như các tộc người có dân số đông
thuộc nhóm ngôn ngữ Tày- Thái và Ka đai hay Hmông – Dao, nhất là các tộc người
cùng nhóm ngôn ngữ Môn – Khơ me khác, nhưng cũng khá toàn diện ở các lĩnh vực
khác nhau thuộc văn hóa vật chất, văn hóa xã hội và văn hóa tinh thần. Ở đây, do
bám sát chủ đề của luận án, chúng tôi tổng quan tài liệu dựa trên cách phân loại
thành hai nhóm vấn đề: i/Tình hình nghiên cứu về người Khơ mú ở Việt Nam, và ii/
Những nghiên cứu về hôn nhân và gia đình của người Khơ mú.
Một là, nghiên cứu về người Khơ mú ở Việt Nam. Ở đây chúng tôi xin điểm lại
một loạt các công trình nghiên cứu về lịch sử tộc người, hoạt động kinh tế, văn hóa
vật chất và các lễ nghi liên quan, v.v…
Nghiên cứu về lịch sử tộc người Khơ mú ở Việt Nam. Trước hết, phải kể đến
hai công trình nghiên cứu khoa học đầu tiên về tộc danh Khơ mú vào những năm
đầu thập niên 60 của thế kỷ XX, được nhà xuất bản Giáo dục phát hành của Vương
Hoàng Tuyên, đó là tác phẩm: Các dân tộc nguồn gốc Nam Á ở miền Bắc Việt Nam,
(1963) [94]. Phải nói rằng, công trình này tên dân tộc Khơ mú lần đầu tiên được
công bố trong công trình sách và địa bàn cư trú sau giải phóng Tây Bắc (1954). Bên
cạnh đó, tác giả đã khái quát về nguồn gốc tộc người Khơ mú cùng một số tộc
người thiểu số khác như Kháng, La Ha cùng tên gọi là người Xá có mặt lâu đời tại
vùng Tây Bắc, Việt Nam. Tuy còn giới thiệu ở mức độ hết sức sơ lược, nhưng hai
công trình của Vương Hoàng Tuyên đã đặt nền móng khá quan trọng cho việc đi
sâu tìm hiểu một các toàn diện hơn về dân tộc Khơ mú, các dân tộc thuộc nhóm
ngôn ngữ Môn – Khơ me nói chung trong mối quan hệ bình đẳng với các dân tộc có
dân số đông và ảnh hưởng xã hội hơn trong thời kỳ này ở Tây Bắc, Việt Nam.
Từ năm 1970 trở đi, Viện Dân tộc học thuộc Ủy ban Khoa học Xã hội Việt
Nam đã tiến hành nghiên cứu tiến tới xác minh thành phần các dân tộc ở miền Bắc
Việt Nam. Trên cơ sở đó, người Khơ mú đã được giới thiệu nhiều hơn trong công
trình Những nhóm dân tộc thuộc ngữ hệ Nam Á ở Tây Bắc Việt Nam, (1972) của
nhóm tác giả Đặng Nghiêm Vạn – Nguyễn Trúc Bình – Nguyễn Văn Huy – Thanh
Thiên [103] . Công trình này giới thiệu năm nhóm người thuộc Ngữ hệ Nam – Á,
trong đó, phần giới thiệu về người Khơ mú được Đặng Nghiêm Vạn biên soạn đã
khái quát lịch sử tộc người tương đối rõ nét; Dân tộc Khơ mú do Khổng Diễn chủ
8
biên năm 1999 [20] là cuốn sách chuyên khảo đầu tiên về người Khơ mú ở Việt
Nam. Những công trình này đã khái quát lịch sử tộc người Khơ mú có mặt ở Việt
Nam khoảng thế kỷ XVII – XVIII. Năm 2006, nhà xuất bản Trẻ xuất bản ấn phẩm
Người Khơ mú của Chu Thái Sơn (Chủ biên) và Vì Văn An. Tuy nhiên, đây chỉ là
tài liệu giới thiệu giản lược mang tính phổ thông, chưa cập nhật được tư liệu gì mới
về dân tộc Khơ mú ở Việt Nam [75].
Như vậy, từ những năm 1970 trở lại đây, dựa trên các cứ liệu dân tộc học, ngôn
ngữ học và nhân chủng học, các nhà nghiên cứu trong nước đã tương đối thống nhất
về nguồn gốc người Khơ mú ở Việt Nam là tộc người di cư từ Lào đến các tỉnh
Nghệ An, Thanh Hóa, Sơn La, Lai Châu và Điện Biên cách đây khoảng 2 – 3 thế
kỷ. Đồng thời, khẳng định, người Khơ mú ở các tỉnh biên giới Việt Nam có quan hệ
đồng tộc và đồng văn tương đối chặt chẽ với người Khơ mú ở các tỉnh ở vùng
Trung và Thượng Lào. Mối quan hệ này vẫn được duy trì cho đến hiện nay.
Về lĩnh vực dân số, văn hóa (vật chất, tinh thần) và hoạt động sản xuất kinh tế,
đã có những đề cập đáng kể cả trong các tác phẩm của Vương Hoàng Tuyên, Đặng
Nghiêm Vạn, Khổng Diễn (chủ biên), Luận án tiến sỹ Lịch sử của Trần Tất Chủng.
Những công trình này đã đề cập văn hóa, dân số và phân bố dân cư người Khơ mú ở
Việt Nam, tuy chưa có nghiên cứu sâu về lĩnh vực cụ thể nhưng những công trình
này đã cung cấp tư liệu để hiểu được khái quát người Khơ mú ở Việt Nam. Khi
nghiên cứu về văn hóa vật chất của người Khơ mú ở tỉnh Nghệ An, Trần Tất Chủng
trong luận án tiến sĩ của ḿnh bên cạnh miêu tả khá toàn diện nhà cửa, làng bản,
trang phục của người Khơ mú ở điểm nghiên cứu là miền Tây Nghệ An, đã đặt ra
vấn đề về không gian xã hội của ngôi nhà liên quan đến quan hệ của các thành viên
trong gia đình và lễ nghi liên quan đến cặp hôn nhân. Đây là nguồn tư liệu giúp
chúng tôi so sánh với người Khơ mú ở các cộng đồng Khơ mú được khảo sát của
huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La.
Ở một chiều cạnh khác, trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp, Đặng Minh
Ngọc(2000, 2004) khi nghiên cứu về canh tác nương rẫy truyền thống của người
Khơ mú bản Co Chai, xã Hát Lót, huyện Mai Sơn có đề cập đến sự biến đổi của
chúng trong điều kiện hiện nay. Đồng thời, đưa ra nhận xét và kiến nghị nhằm giải
quyết một số vấn đề về canh tác nương rẫy đang đặt ra đối với dân tộc này. Trần
Văn Hà và cộng sự (2003) [38], ở góc nhìn kinh tế - xã hội liên quan đến chính sách
xóa đói, giảm nghèo ở người Khơ mú khi khảo sát Thực trạng đói nghèo và cách
9
ứng xử vượt đói nghèo của tộc người Khơ mú ở bản Tra, xã Chiềng Lương, huyện
Mai Sơn,tỉnh Sơn La đã cho thấy vấn đề nợ nần, bán nương rẫy và tình trạng làm
thuê trên chính mảnh đất của mình và vai trò của nhà nước trong thực hiện chính
sách an sinh xã hội ở địa phương.
Một khảo sát khác về tình hình ruộng đất của một số cộng đồng Khơ mú Tây
Bắc và so sánh với một vài nhóm tộc người khác thuộc ngôn ngữ Môn – Khơ-me ở
Tây Nguyên. Qua tư liệu Tình hình sử dụng và quản lý đất của bốn nhóm dân tộc:
Êđê và Mnông ở tỉnh Đắk Lắk (Tây Nguyên), Thái và Khơ mú ở tỉnh Sơn La [60], đã
cho thấy có những nét giống nhau trong cơ chế thị trường về mua bán đất canh tác
nương rẫy cho người Kinh ở hai vùng miền Tây Bắc và Tây Nguyên. Đây là một
trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng đói nghèo của các dân tộc thuộc nhóm
ngôn ngữ Môn – Khơ me.
Nghiên cứu về người Khơ mú ở Nghệ An do Hoàng Xuân Lương chủ biên [54]
gọi người Khơ mú là Kưm mụ (ở đây chúng tôi lưu ý rằng, mặc dù là quan điểm
của tác giả nhưng tên tộc danh không đúng với bản danh mục về 54 dân tộc đã được
công bố năm 1979 mang tính quốc gia). Cuốn sách đã đi nghiên cứu thực trạng kinh
tế, văn hóa để đưa những khuyến nghị giúp đồng bào Khơ mú thoát nghèo.
Nghiên cứu về dân tộc Khơ mú ở địa bàn có dân số tập trung đông nhất cả nước
không thể không nói đến nghiên cứu Đặc trưng văn hóa và truyền thống cách mạng
các dân tộc ở Kỳ Sơn Nghệ An [50]. Đây là nghiên cứu khá toàn diện từ góc nhìn
dân tộc học. Ngoài những vấn đề cảnh quan cư trú, làng bản, nhà cửa, văn hóa tinh
thần, xã hội, v.v… các tác giả cũng đã đề cập đến các hoạt động sản xuất và sinh kế
của người Khơ mú ở Tây Nghệ An trong mối quan hệ kinh tế - xã hội quá khứ và
đến thời điểm nghiên cứu. Hơn nữa, công trình cũng góp phần tổng kết truyền thống
đấu tranh cách mạng của các dân tộc ở một huyện miền núi biên giới, trong đó có
dân tộc Khơ mú trong mấy chục năm qua ở Nghệ An dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Tiếp đến là những nghiên cứu tại Tây Nghệ An về cộng đồng Khơ mú ở Bình
Sơn I, xã Tà Cạ, huyện Kỳ Sơn, Nghệ An thuộc khuôn khổ dự án do Viện Dân tộc
học thực hiện, được tài trợ bởi Quĩ Rockfeller (2006). Dựa trên các cứ liệu khảo sát
về cộng đồng sau ĐCĐC từ một bản gần biên giới với những vấn đề liên quan đến
an toàn lương thực, các tác giả đã cho người đọc hiểu được bức tranh toàn diện
trong hoạt động sinh kế, đất đai, nghề nghiệp,v.v… của nhóm Khơ mú đặc biệt khó
khăn này. Với sự chuyển đổi lối canh tác và định cư, nhưng văn hóa liên quan đến
10
ứng phó với tình trạng khan hiếm lương thực của cộng đồng Khơ mú một lần nữa
không mấy thay đổi mà vẫn phải dựa vào cứu đói hàng năm của địa phương và
Chính phủ. Vấn đề đặt ra, theo các tác giả là cần phải có chính sách xóa đói giảm
nghèo ưu tiên đặc thù đối với người Khơ mú tại điểm nghiên cứu và Tây Nghệ An
nói chung trong phát triển sản xuất. Chẳng hạn như trợ giúp tài chính, kỹ thuật và
chuyển đổi cơ cấu kinh tế trong khuôn khổ chương trình lâu dài mới hy vọng đảm
bảo an toàn về lương thực bền vững [40].
Liên quan đến phát triển kinh tế nông nghiệp phải kể đến dự án Tìm hiểu tập
quán sử dụng phân bón trong phát triển sản xuất nông nghiệp của các cộng đồng
Khơ mú ở huyện Tuần Giáo, Điện Biên (Trần Văn Hà, 2000, Toyota Foundation)
[37]. Nghiên cứu này đã đề cập đến vấn đề chuyển đổi tập quán sản xuất nông
nghiệp, đưa tiến bộ kỹ thuật vào canh tác cây lương thực, cây màu và những vấn đề
đang đặt ra trong phát triển nông nghiệp bền vững ở người Khơ mú xã Mùn Chung
(Điện Biên), Hát Lót (Sơn La) trong bối cảnh kinh tế hàng hóa. Một nghiên cứu
khác cũng của Trần Văn Hà liên quan đến vấn đềtrong lao động sản xuất và đời
sống của vềtri thức địa phương của người Khơ mú ở Việt Nam, cho biết vấn đề đặt
ra trong sử dụng tri thức địa phương kết hợp với tiến bộ khoa học công nghệ để phát
triển nông nghiệp bền vững là đáng chú ý về dân tộc này [36].
Những công trình nghiên cứu về phương thức sản xuất, tập quán canh tác của
người Khơ mú ứng phó với vấn đề phát triển kinh tế, hoạt động sinh kế bền vững
khá phong phú. Nhìn chung, qua những khảo sát, phân tích trên đây cho thấy, hoạt
động kinh tế của người Khơ mú vẫn là một nền kinh tế cơ bản tự cung tự cấp, phụ
thuộc vào khai thác tự nhiên là chính. Đây là nguồn tư liệu giúp chúng tôi tìm thấy
những yếu tố tác động về kinh tế - xã hội đối với hôn nhân và gia đình của người
Khơ mú trong quá khứ và hiện nay.
Ở một góc độ khác, những nghiên cứu về mối quan hệ giữa người Khơ mú và
các tộc người khác cũng được các nhà dân tộc học quan tâm trong nghiên cứu của
mình. Mặc dù chưa có một chuyên khảo riêng biệt, nhưng các nghiên cứu củaHoàng
Lương (2008), Lý Hành Sơn (2006) [53, 62] đã có đề cập đến quan hệ dân tộc của
người Khơ mú với các dân tộc cùng cư trú ở địa bàn cấp xã hoặc cùng huyện.
Hoàng Lương qua việc đi sâu phân tích gia phả họ Lò Cầm ở Mai Sơn, Sơn La đã
cho thấy dòng họ quý tộc Thái Đen và người Khơ mú là anh em một nhà. Lý Hành
Sơn ở góc nhìn của mối quan hệ của các dân tộc vùng biên giới Việt Nam – Lào chủ
11
yếu ở thời hiện tại chỉ ra được mối quan hệ tộc người xuyên biên giới giữa các cộng
đồng Khơ mú ở Việt Nam và Lào không chỉ có quan hệ trong buôn bán, trao đổi,
mà còn có quan hệ anh em, dòng tộc trong quá khứ và hiện tại sâu sắc. Mối quan hệ
ấy có vai trò quan trọng góp phần trong việc giữ gìn và củng cố quan hệ quốc gia
dân tộc Việt Nam – Lào hiện đại [76].
Vũ Trường Giang (năm 2006) quan hệ tộc người người ở miền núi tỉnh Thanh
Hoá (Việt Nam) và tỉnh Hủa Phăn (Lào) cho thấy rằng, bên cạnh những thuận lợi
trong việc phát huy tinh thần đoàn kết giữa các tộc người và xây dựng đường biên
giới hoà bình, hữu nghị Việt - Lào, mặt khác đây cũng là một vấn đề phức tạp vì cư
dân nước nào có nghĩa vụ và trách nhiệm công dân với nước đó. Tuy nhiên, họ lại
có quan hệ đồng tộc, thân tộc với cư dân nước láng giềng. Do vậy, trong công tác
quản lý ở vùng biên giới cần chú ý tới đặc điểm này.
Những công trình nghiên cứu về quan hệ giữa dân tộc Khơ mú với các dân tộc
sinh sống xen cài hoặc đồng tộc vùng biên giới tuy chưa nhiều, đặc biệt là quan hệ
trong nội bộ dân tộc còn bỏ ngỏ. Tuy vậy, những tư liệu có được từ góc nhìn dân
tộc học/nhân học bước đầu đã cung cấp một bức tranh khái quát về địa bàn cư trú,
mối quan hệ tộc người Khơ mú với tộc người khác hoặc cùng dân tộc có truyền
thống đoàn kết, bang giao, nhất là ở vùng biên giới Việt – Lào thời hiện đại. Hơn
nữa, gợi mở cho những nghiên cứu tiếp theo về góc độ này đối với quá trình tộc
người ở Việt Nam, từ dân tộc Khơ mú.
Hai là, nghiên cứu về hôn nhân và gia đình của người Khơ mú ở Việt Nam.
Việt Nam một quốc gia đa dạng vùng và tộc người. Nghiên cứu về gia đình và
hôn nhân ở các dân tộc là đối tượng nghiên cứu của các ngành khoa học xã hội và
nhân văn được phát triển vào những năm nửa cuối Thế kỷ XX. Từ những năm đầu
Thế kỷ XXI đến nay, nghiên cứu về hôn nhân và gia đình (hay gia đình và hôn
nhân) và các nghi lễ liên quan được quan tâm đặc biệt với nhiều công trình chuyên
khảo trong lĩnh vực nhân học/ dân tộc học về các dân tộc thiểu số.
Vào những thập niên cuối Thế kỷ XX, phải nói đến các công trình nghiên cứu
của Đặng Nghiêm Vạn về lĩnh vực hôn nhân truyền thống của người Khơ mú ở Việt
Nam được công bố trên Tạp chí nghiên cứu Lịch sử. Tuy chưa phải là chuyên khảo
riêng biệt sâu và hệ thống về hôn nhân và gia đình, nhưng dữ liệu bước đầu được
công bố ở tạp chí có uy tín về hôn nhân giữa các dòng họ trong cộng đồng và giữa
các cộng đồng trong một địa bàn khác tô tem mà tác giả đã chỉ ra các quan hệ hôn
12
nhân thuận chiều và ngược chiều ở người Khơ mú như là bức tranh khá điển hình
khi nói đến những tàn dư nguyên thủy của dân tộc này [102]. Đến công trình tập thể
do ông chủ biên Những nhóm dân tộc thuộc ngữ hệ Nam Á ở Tây Bắc Việt Nam
[103] đã được đề cập đến hôn nhân và gia đình của người Khơ mú ở Việt Nam một
cách tổng quát hơn. Tuy vậy, cũng chỉ là sự kế thừa dữ liệu đã công bố ở Tạp chí
Nghiên cứu lịch sử trước đó 3 năm. Phần quan hệ gia đình và hôn nhân tác giả có
bổ sung đôi chút thông qua việc miêu tả quy mô gia đình nhỏ và quan hệ gia đình
theo chế độ phụ quyền. Nhận xét của Đặng Nghiên Vạn ở tác phẩm này cũng cho
thấy không có khác biệt nhiều về nhận xét chung rằng, tuy là chế độ phụ quyền
nhưng không khắt khe như nhiều dân tộc trong vùng, con cái trong gia đình được bố
mẹ quan tâm nuôi dưỡng không phân biệt nam nữ, mặc dù khi phân chia tài sản
thừa kế có khác nhau. Khi con gái lớn được tự do lựa chọn người yêu mà ít khi bị
bố mẹ can thiệp. Cưới “gửi rể” xong, đồng bào có phong tục ở rể nên cô gái được
sống bên nhà bố mẹ đẻ một thời gian nữa cùng chồng. Các nguyên tắc hôn nhân của
người Khơ mú ở cộng đồng Phiêng Phấư, xã Noong Lay được Đặng Nghiên Vạn
khảo sát một cách kỹ lưỡng dựa trên khung lý thuyết hôn nhân nguyên thủy và
những tàn dư của dân tộc học Xô Viết [102]. Đây là tư liệu đầu tiên giúp người đọc
hiểu cơ bản về dân tộc Khơ mú ở Việt Nam. Tuy nhiên, do không phải là chuyên
khảo về lĩnh vực về gia đình và hôn nhân nên tác giả chưa đề cập đến quan niệm
hôn nhân, các trường hợp hôn nhân đặc biệt, nghi thức hôn lễ và những thay đổi về
tình trạng hôn nhân của người Khơ mú cho đến thời điểm nghiên cứu. Đây hoàn
toàn là bức tranh hôn nhân truyền thống qua khảo sát công phu ở một cộng đồng
Khơ mú và được bổ sung bởi các tư liệu ở riêng các huyện phía Tây và phía Bắc cụ
thể là tỉnh Lai Châu khi đó, nhưng chưa trọn vẹn do còn thiếu dữ liệu khảo sát ở
Nghệ An, địa bàn có dân số Khơ mú đông nhất cả nước.
Về gia đình, từ góc nhìn dân tộc học tác giả chưa đề cập đến phân loại và cấu
trúc gia đình, chức năng, mối quan hệ giữa các thành viên trong từng loại hình gia
đình và nghi lễ gia đình. Do hạn chế về thời gian nghiên cứu, và trong khuôn khổ
cuốn sách đại cương về nhóm dân tộc thuộc ngữ hệ Nam Á, nên giống như phần
hôn nhân, tác giả chưa thể đề cập nhiều đến những biến đổi trong gia đình của
người Khơ mú thời điểm nghiên cứu. Đồng thời, nghiên cứu cũng chỉ dừng lại ở các
cộng đồng Khơ mú ở Tây Bắc (chủ yếu là Tuần Giáo, Lai Châu cũ) mà chưa có dữ
liệu về các nhóm khác ở Sơn La. Dẫu vậy, nét nổi bật về những đóng góp khoa học
13
trong nghiên cứu của Đặng Nghiêm Vạn là ở chỗ, đã mở ra một xu hướng nghiên
cứu logic khi nghiên cứu về hôn nhân và gia đình với những mối liên hệ của dòng
họ, dấu tích tô tem nguyên thủy và ở hai họ: họ nội và họ ngoại. Từ góc độ dân tộc
học/nhân học, dưới cách tiếp cận mới cũng đặt ra những vấn đề cần tìm tòi tiếp trên
cơ sở nguyên tắc hôn nhân, quy mô gia đình, quan hệ gia đình là những biến đổi
trong điều kiện kinh tế thị trường và toàn cầu hóa về văn hóa.
Đến năm 1978, trong công trình Các dân tộc ít người ở Việt Nam (các tỉnh phía
Bắc) của Viện Dân tộc học, khi viết về dân tộc Khơ mú, Đặng Nghiêm Vạn đã kế
thừa tài liệu trước, nên phần hôn nhân gia đình cũng được tác giả đề cập, tuy nhiên
không có nhiều tư liệu mới bổ sung kể cả những biến đổi trong hôn nhân và gia
đình ở các địa phương hay vùng khác.
Nghiên cứu về Đặc trưng văn hóa và truyền thống cách mạng các dân tộc ở Kỳ
Sơn Nghệ An [50], Phạm Quang Hoan và Moong Văn Nghệ đã trình bày tư liệu
khảo sát khá kỹ lưỡng về cấu trúc, loại hình và quan hệ trong gia đình của tộc người
Khơ mú. Phần gia đình đối với người Khơ mú, tác giả đã đưa ra hai loại hình gia
đình, trong đó loại hình gia đình nhỏ (hạt nhân) là chủ yếu và đã đưa ra các dạng
thức của gia đình hạt nhân. Gia đình lớn vẫn còn tồn tại nhưng là đại gia đình mở
rộng. Việc tổ chức sản xuất và phân công lao động trong gia đình thực hiện theo
nguyên tắc giới - tuổi rõ rệt. Gia đình theo chế độ phụ hệ (hay phụ quyền), nhưng
biểu hiện không đậm nét như trong gia đình người Hmông, người Thái tại địa
phương này. Tính chất phụ quyền thể hiện qua quan hệ của chủ gia đình với các
thành viên khác, trong thừa kế tài sản. Sự quan tâm nuôi dưỡng của bố mẹ đối với
con trai và con gái biểu hiện là như nhau, mặc dù tâm lý họ thích con trai đầu lòng
vì là người trụ cột trong gia đình, người đảm đương được những công việc nặng
nhọc, người nối dõi dòng giống.
Phần hôn nhân, các tác giả đã phản ánh tập tục ràng buộc qua nguyên tắc để
bảo đảm tính thuần khiết của dòng giống: nguyên tắc cơ bản là ngoại hôn dòng họ,
nếu vi phạm sẽ mắc tội loạn luân và bị phạt theo luật tục của cộng đồng tộc người
Khơ mú. Nguyên tắc hôn nhân dây chuyền và thuận chiều là nguyên tắc phổ biến.
Hình thức hôn nhân con cô con cậu vẫn đang hiện hành những chỉ được phép kết
hôn với những người con gái của chị em của bố. Hình thức hôn nhân anh em chồng
(levirat) và chị em vợ (sororat) cũng còn phổ biến ở người Khơ mú, huyện Kỳ Sơn.
14
Miêu tả về tình yêu, nam nữ thanh niên, tại các cộng đồng Khơ mú, huyện Kỳ
Sơn dựa trên nguyên tắc: trai gái đến tuổi lấy vợ, lấy chống được tự do tìm hiểu
(thanh niên luôn là người chủ động). Khi đôi trai gái và hai gia đình đã ưng thuận
nhau, nghi thức hỏi cưới được tiến hành. Hình thức cư trú sau hôn nhân là chế độ
gửi rể và đổi họ theo họ vợ vẫn còn tồn tại. Khi cưới đón dâu về, mới chính thức kết
thúc nghi lễ hôn nhân. Bên cạnh đó, các tác giả cũng đề cập đến một số trường hợp
tái giá do góa vợ hoặc góa chồng.
Một số vấn đề mà các tác giả trình bày trong phần hôn nhân và gia đình được
phân tích khá kỹ lưỡng như loại hình, quy mô gia đình, nguyên tắc và hình thức hôn
nhân của người Khơ mú, huyện Kỳ Sơn, Nghệ An. Đây là nguồn tư liệu rất hữu ích
để so sánh với địa bàn nghiên cứu về hôn nhân và gia đình của người Khơ mú ở
huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La, chủ đề của luận án này.
Một công trình khác cũng đề cập đến Hôn nhân của người Khơ mú ở một địa
bàn khác của Tây Bắc là xã Nghĩa Sơn, huyện Văn Chấn, tỉnh Yên Bái của Trần Thị
Thảo, năm 2010 [93]. Chuyên khảo này, tác giả đã đề cập đến tập tục, quan niệm, lễ
nghi hôn nhân truyền thống và những biến đổi trong hôn nhân của người Khơ mú ở
Nghĩa Sơn, Văn Chấn, Yên Bái. Điểm đóng góp ở khảo sát này là có tính tư liệu dân
tộc học nhiều hơn. Tác giả mô tả những hình thức, các bước trong hôn nhân và những
biến đổi mang tính miêu thuật chi tiết, nhưng thiếu những phân tích, so sánh với các
cộng đồng tại địa phương hoặc các công trình đã công bố những năm gần đây.
Nhìn chung, qua hai vấn đề được đề cập trên đây, những nghiên cứu về người
Khơ mú đến nay đã được giới thiệu khá đầy đủ từ góc độ tộc danh, dân số, địa bàn
cư trú cho đến hoạt động kinh tế truyền thống, các dạng thức văn hóa cổ truyền của
họ. Tuy nhiên, đến nay vẫn thiếu vắng một khảo cứu mang tính hệ thống, chuyên
sâu về hôn nhân và gia đình của người Khơ mú với những nét riêng và nét tương
đồng ở một địa bàn cụ thể trên cơ sở kế thừa kiến thức về lĩnh vực này của các học
giả trước đã đạt được. Đặc biệt là những khía cạnh liên quan như hôn nhân truyền
thống, gia đình truyền thống và biến đổi hôn nhân và gia đình, nguyên nhân của sự
biến đổi,v.v… cũng như những vấn đề đang đặt ra về mặt chính sách, đóng góp cho
Luật Hôn nhân và Gia đình ở các tộc người thuộc nhóm ngôn ngữ Môn – Khơ - me
nói chung và người Khơ mú ở nước ta nói riêng. Bên cạnh đó, việc nghiên cứu hôn
nhân và gia đình của người Khơ mú ở một địa bàn cụ thể trong mối liên hệ với các
tộc người khác dưới tác động của các chính sách phát triển kinh tế - xã hội của
15
Đảng và Nhà nước, tác động của CNH, HĐH và toàn cầu hóa hiện nay, góp phần
nêu dự báo về khuynh hướng của nó là những vấn đề còn bỏ ngỏ. Việc đi sâu tìm
hiểu một cách hệ thống mang tính chuyên sâu, có tính đa dạng vùng và các địa
phương về hôn nhân và gia đình của dân tộc Khơ mú trong bối cảnh mới là hết sức
cần thiết và có ư nghĩa khoa học và thực tiễn.
1.2. Cơ sở lý thuyết về hôn nhân và gia đình
1.2.1. Khái niệm về hôn nhân
Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam: Hôn nhân là thể chế xã hội kèm theo nghi
thức xác nhận quan hệ tính giao giữa hai hay nhiều người thuộc hai giới tính khác
nhau (nam, nữ), được coi nhau là chồng và vợ, quy định mối quan hệ và trách
nhiệm giữa họ với nhau và giữa họ với con của họ. Sự xác nhận đó, trong quá trình
phát triển của xã hội, dần dần mang thêm những yếu tố mới [97, tr.389-390].
Từ điển Nhân học (The Dictionary of Anthropology) của Thomas Barfield, định
nghĩa rằng, Hôn nhân là mối quan hệ gắn bó được thừa nhận về mặt xã hội giữa một
người đàn ông và một người đàn bà, nhằm mục đích duy trì nòi giống một cách hợp
pháp, tạo lập gia đình hạt nhân mới hoặc nhằm tạo ra hộ gia đình mới [Thomas
Barfield, 2006, tr. 519]. Tuy nhiên, hiện nay trên thực tế lại xảy ra tình trạng hôn
nhân đồng giới tính (giữa 2 người đàn ông hay 2 người đàn bà với nhau) được luật
pháp một số nước phương Tây và cả phương Đông công nhận.
Như vậy, hôn nhân là một hiện tượng xã hội, một đặc trưng cơ bản nhất của văn
hóa tộc người. Ở mỗi một thời kỳ lịch sử, hôn nhân mang tính chất và hình thức
khác nhau. Trong xã hội nguyên thủy, hôn nhân tiến hành theo luật tục, còn xã hội
có giai cấp và nhà nước, hôn nhân phải được khế ước làng, pháp luật công nhận, do
đó quyền hạn và nghĩa vụ, trách nhiệm của vợ chồng con cái cũng được khế ước,
pháp luật xác định và bảo đảm. Có trường hợp hôn nhân phải được tiến hành ở nhà
thờ, phải tuân theo nghi thức tôn giáo nhất định để được giáo hộ công nhận. Khi
được các tổ chức, nhóm cộng đồng công nhận qua khế ước, pháp luật hay giáo hội
thì cuộc hôn nhân đó mới được coi là có cơ sở pháp lý, cộng đồng chấp thuận.
Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2015 [73], của Quốc hội Nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam ghi rằng: Hôn nhân là quan hệ giữa vợ và chồng sau khi đã
kết hôn. Đồng thời, định nghĩa Tập quán về hôn nhân và gia đình là quy tắc xử sự
có nội dung rõ ràng về quyền, nghĩa vụ của các bên trong quan hệ hôn nhân và gia
đình, được lặp đi, lặp lại trong một thời gian dài và được thừa nhận rộng rãi trong
16
một vùng, miền hoặc cộng đồng. Kết hôn là việc nam và nữ xác lập quan hệ vợ
chồng với nhau theo quy định của Luật này về điều kiện kết hôn và đăng ký kết hôn
[73, mục 1, 4, 5; Điều 3]. Luật cũng qui định rõ Kết hôn trái pháp luật là việc nam,
nữ đã đăng ký kết hôn tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền nhưng một bên hoặc cả
hai bên vi phạm điều kiện kết hôntheo quy định tại Điều 8 của Luật này [73, mục 6;
Điều 3]. Còn từ góc độ khoa học chuyên ngành, nội hàm khái niệm được định nghĩa
chi tiết hơn: “Hôn nhân là thể chế xã hội kèm theo những nghi thức xác nhận quan
hệ tính giao giữa hai hay nhiều người thuộc hai giới tính khác nhau (nam, nữ), được
coi nhau là chồng và vợ, quy định mối quan hệ và trách nhiệm giữa họ với nhau và
giữa họ với con cái của họ. Sự xác nhận đó, trong quá trình phát triển của xã hội,
dần dần mang thêm những yếu tố mới” [97, tr.389 - 390].
Hôn nhân chị em vợ (sororate) hay anh em chồng (lévirate). Hiện tượng không
may nếu trong gia đình có người chồng chết hoặc người vợ chết thì người còn sống
sẽ tái hôn với anh chị em của người đã chết, được coi là hình thức vừa phức hôn,
vừa đơn hôn. Hai trường hợp này đều duy trì được quan hệ thân tộc, không phải trả
lại đồ dẫn cưới, không tốn kinh phí cưới lại, đồng thời cũng không tốn tiền bạc và
thời gian cho vấn đề ngoại giao với họ hàng mới nảy sinh sau hôn nhân, thêm vào
đó, những đứa con của người trước sinh ra được nuôi dưỡng, quyền kế tục vị thế và
tài sản [98].
Phần tiến tới một định nghĩa về hôn nhân hai nhà nghiên cứu về Nhân học xã
hội và văn hóa Emily A.Schultz và Robert H.Laveda, đã viết: Một hôn nhân mẫu
(1) đòi hỏi phải có một người nam và (2) một người nữ và quy định mức độ tính
giao các thành viên trong hôn nhân có thể có với nhau, xếp từ quan hệ độc quyền
đến đến quan hệ ưu tiên. Hôn nhân cũng (3) tạo nên tính hợp pháp của con cái do
người vợ sinh ra, và (4) thiết lập các mối quan hệ giữa họ hàng bên vợ và họ hàng
bên chồng [77, tr.306]. Theo G.Endruweit và G.trommsdorff thì “Hôn nhân là một
dạng liên kết khác giới thuộc loại đặc biệt được tập quán và luật pháp công nhận, có
gia trị lâu dài [77, tr.222].
Hôn nhân là mối quan hệ xã hội mang tính văn hóa và trải qua những thay đổi
trong lịch sử. Trước hết, hôn nhân đòi hỏi những quy tắc nhất định (như tuổi kết
hôn, phải lấy người trong họ hay ngoài họ, cùng dân tộc và tôn giáo hay không…)
những thủ tục nhất định (về tôn giáo và theo phong tục tập quán…). Vì vậy, hôn
nhân vừa là những quy tắc mang tính xã hội,vừa là quá trình tiến hành thủ tục, nghi
17
lễ cần thiết của các bên liên quan, để một người nam và một người nữ được trở
thành vợ chồng và hình thành nên một gia đình mới.
Từ những nhận định trên cho thấy, hôn nhân là một quy tắc xã hội đồng thời là
một quy trình thực hiện các thủ tục, nghi thức nhất định để một người đàn ông và
một người đàn bà trở thành vợ chồng với những quyền, nghĩa vụ đối với nhau và
với con của họ.
Hôn nhân trong lịch sử, theo các nhà kinh điển mác - xít có những hình thức và
tính chất khác nhau và tương ứng với các thời kỳ phát triển của lịch sử nhân loại.
Ph. Ăng ghen nêu ra:“ ba hình thức hôn nhân chính, tương ứng về đại thể với ba ba
giai đoạn phát triển chính của nhân loại. Ở thời đại mông muội có chế độ quần hôn;
ở thời đại dã man, có chế độ hôn nhân cặp đôi; ở thời đại văn minh có chế độ hôn
nhân một vợ một chồng [58, tr. 119].
Các chế độ hôn nhân
Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2015 [73] viết rằng, Chế độ hôn nhân và gia
đình là toàn bộ những quy định của pháp luật về kết hôn, ly hôn; quyền và nghĩa vụ
giữa vợ và chồng, giữa cha mẹ và con, giữa các thành viên khác trong gia đình; cấp
dưỡng; xác định cha, mẹ, con;quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài và
những vấn đề khác liên quan đến hôn nhân và gia đình. [73, mục 3; Điều 3]. Còn
trong quan niệm dân gia thể theo tập quán pháp của các tộc người đều có cách thức
xác định ai được cưới ai. Đôi khi người ta chỉ được phép lấy người cùng một nhóm
xã hội với mình. Hình thức hôn nhân này được gọi là Nội hôn.Trong các trường hợp
khác, người ta phải chọn người ngoài nhóm để cưới. Hình thức hôn nhân này đựợc
gọi là ngoại hôn.
Như vậy, ngoại hôn là khi người ta kết hôn với người thuộc ngoài nhóm xã hội với
mình. Nội tộc hôn là sự lựa chọn kết hôn trong cùng một nhóm tộc người quy định bởi
luật tục hay tập quán đã định rõ. Ngoại hôn là quy tắc kết hôn ngoài nhóm thân tộc, họ
hàng bởi luật tục hay tập quán đã định rõ. Hôn nhân hỗn hợp dân tộc là khái niệm dùng
để chỉ sự kết hôn giữa hai người khác giới không cùng dân tộc, tôn giáo.
18
Hôn nhân một vợ một chồng. Chế độ này là hình thức hôn nhân giữa một
người vợ và một người chồng vào một thời điểm nhất định. Luật Hôn nhân và Gia
đình Việt Nam qui định rõ tại mục 1 của Điều 2 về Những nguyên tắc cơ bản của
chế độ hôn nhân và gia đình là Hôn nhân tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ
chồng bình đẳng.
1.2.2. Khái niệm về gia đình
Gia đình là một đơn vị xã hội thành lập trên cơ sở cùng dòng máu, bắt đầu từ
thời đại thị tộc mẫu hệ; trong thời đại phong kiến, thường có cha, mẹ, con cháu,
chắt nữa, trong thời đại tư bản thường chỉ có vợ chồng và con cái.
Luật Hôn nhân và Gia đình Việt Nam nêu rõ tại mục 2 của Điều 3, Gia đình là
tập hợp những người gắn bó với nhau do hôn nhân, quan hệ huyết thống hoặc quan
hệ nuôi dưỡng, làm phát sinh các quyền và nghĩa vụ giữa họ với nhau theo quy định
của Luật này [73].
Định nghĩa về gia đình trong xu thế hội nhập toàn cầu ngày nay được mở
rộng hơn bởi gia đình thực tế đang tồn tại nhiều dạng thức. Xét từ góc độ những
người cùng chung sống trong một gia đình: Gia đình có thể chỉ có cha mẹ và con
cái, con đẻ hoặc con nuôi; gia đình có thể đầy đủ các thế hệ tam, tứ, ngũ đại đồng
đường cùng chung sống; gia đình cũng có thể chỉ có ông bà và cháu nhỏ; gia đình
cũng có thể chỉ có hai người đồng giới cùng chung sống với nhau hoặc có những
gia đình đã ly dị, ly thân chỉ còn cha với con hoặc mẹ với con.
Cho dù gia đình giới hạn trong số lượng người sống chung nhiều hay ít, một
hay nhiều thế hệ cùng huyết thống, đủ mọi thành tố gia đình hay khuyết vắng vì
những lý do chủ quan hay khách quan… thì gia đình trong ý thức mỗi cá nhân vẫn
là một tổ ấm không thể thay đổi, vẫn là nơi chốn đi về để mỗi cá nhân có thể thư
giãn, sống thật là mình nhất, vẫn là bệ phóng bình yên, an toàn nhất, hội đủ mọi yếu
tố cơ hội nhất để mỗi cá nhân có thể đạt tới đích khát khao, tới chân trời mơ ước của
mình. Và trên hết, gia đình là một tế bào nhỏ nhất cấu thành nên xã hội.
Theo quan điểm duy vật lịch sử, sự sản xuất và tái sản xuất không ngừng ra tư
liệu sản xuất và con người là nhân tố nền tảng có tính quyết định của xã hội. Sự
phát triển của gia đình cũng gắn với sự phát triển của sản xuất, tái sản xuất vật chất
và tinh thần cũng như tái sản xuất ra con người. Trong “Nguồn gốc của gia đình,
của sở hữu tư nhân và sở hữu nhà nước” Ph.Ănghen đã chỉ rõ: “Theo quan điểm
duy vật, nhân tố quyết định trong lịch sử, suy đến cùng là sản xuất và tái sản xuất ra
19