Triết Học Nâng Cao
Lời Mở Đầu
Trong quá trình phát triển kinh tế ở nước ta nói riêng và ở các nước khác
nói chung, sự phát triển kinh tế ở mỗi nước tuy khác nhau nhưng đều có một
số điểm chung, dựa trên một số quy tắc cơ bản để xây dựng và phát triển kinh
tế. Một trong những nguyên tắc cơ bản trong phát triển kinh tế ở mỗi nước là
quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất,
mỗi đất nước đều có vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên và sự phân bố dân cư
không giống nhau dẫn đến quan hệ sản xuất và trình độ của lực lượng sản
xuất ở mỗi vùng cũng khác nhau. Do tính đặc thù trên nền khi quan hệ sản
xuất ở một vùng, một trình độ phát triển nào đó phù hợp với tình độ phát triển
của lực lượng sản xuất thì nó sẽ kéo theo sự phát triển về kinh tế nhanh
chóng, nhưng nếu quan hệ sản xuất không phù hợp với trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất thì nó sẽ có tác động tiêu cực đến sự phát triển kinh tế, vì
vậy quan hệ sản xuất và trình đọ phát triển của lực lượng sản xuất có tác động
lẫn nhau là hai mặt của quá trình phát triển kinh tế. Tìm hiểu về quy luật này
còn là cơ sở để giải thích về nguồn gốc sâu xa của toàn bộ các hiện tượng xã
hội, sự biến đổi trong đời sống chính trị. Vì vậy việc vân dụng quy luật này
trong việc xây dựng, phát triển đất nước là điều hợp lí, tuy nhiên không phải
quốc gia nào, đất nước nào cũng vận dụng nó một cách hiệu quả, việc vận
dụng quy luật này cần có sự cân nhắc kĩ lưỡng. Việt Nam đã vận dụng điều
này như thế nào, có những khó khăn, thuận lợi, thành công hay sai lầm gì, để
trả lời những câu hỏi này chúng tôi đã quyết định chọn đề tài “Vận dụng quy
luật quan hệ sản xuất – lực lượng sản xuất vào việc xây dựng nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam” để hiểu rõ hơn việc
vận dụng quy luật này vào việc xây dựng nền kinh tế ở Việt Nam
Nhóm 1 -QLKT
Page 1
Triết Học Nâng Cao
Phần I: Cơ Sở Lý Luận
1.Một số khái niệm cơ bản về quan hệ sản xuất – lực lượng sản xuất
Lực lượng sản xuất
Lực lượng sản xuất là sự kết hợp giữa người lao động (sức khoẻ thể chất,
kinh nghiệm, kỹ năng, tri thức lao động của họ) với tư liệu sản xuất mà trước
hết là công cụ lao động để tạo ra một sức sản xuất vật chất nhất định.
Lực lượng sản xuất do con người tạo ra nhưng mang tính khách quan. Nó
biểu hiện mối quan hệ giữa con người với tự nhiên. Lực lượng sản xuất nói
lên năng lực hoạt động thực tiễn của con người trong quá trình chinh phục tự
nhiên. Nó là sản phẩm của sự kết hợp giữa lao động sống và lao động quá
khứ.
Lực lượng sản xuất là tiêu chí quan trọng nhất để chỉ ra những nấc thang
của sự tiến bộ xã hội vì các chế độ kinh tế khác nhau ở chỗ, nó sản xuất bằng
cách nào, với công cụ lao động nào.
Trong lực lượng sản xuất gồm ba yếu tố cơ bản: con người - người lao
động với thể lực, học vấn, kinh nghiệm, kỹ năng, trình độ lao động; tư liệu lao
động (gồm công cụ lao động và đối tượng lao động). Các yếu tố trong lực
lượng sản xuất không thể tách rời nhau, chúng có quan hệ hữu cơ với nhau
trong đó yếu tố con người - người lao động giữ vị trí hàng đầu, tư liệu sản
xuất đóng vai trò rất quan trọng.Ngày nay khoa học - kỹ thuật ngày càng trở
thành lực lượng sản xuất trực tiếp của xã hội. Điều này thể hiện ở chỗ, khoa
học đã thẩm thấu vào tất cả quy trình lao động, đóng vai trò quan trọng trong
tổ chức, quản lý sản xuất, trong chế tạo, cải tiến công cụ lao động, v.v.
Quan hệ sản xuất
Quan hệ sản xuất là những quan hệ cơ bản giữa người với người trong
quá trình sản xuất vật chất (sản xuất và tái sản xuất xã hội) thể hiện ở quan hệ
về mặt sở hữu đối với tư liệu sản xuất, ở quan hệ trong tổ chức quản lý sản
xuất và quan hệ về mặt phân phối sản phẩm sản xuất ra. Như vậy, quan hệ sản
xuất gồm ba quan hệ:
- Quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất;
- Quan hệ tổ chức, quản lý sản xuất;
- Quan hệ phân phối sản phẩm sản xuất.
Nhóm 1 -QLKT
Page 2
Triết Học Nâng Cao
Ba quan hệ trên trong quan hệ sản xuất thống nhất với nhau. Tuy nhiên,
trong ba quan hệ này thì quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất đóng vai trò
quyết định. Bởi lẽ, ai nắm tư liệu sản xuất trong tay, người ấy sẽ quyết định
việc tổ chức, quản lý sản xuất cũng như phân phối sản phẩm. Chính quan hệ
sở hữu cũng quy định tính đặc trưng cho từng quan hệ sản xuất của từng xã
hội. Do vậy, quan hệ sản xuất là tiêu chí quan trọng để phân biệt hình thái
kinh tế - xã hội này với hình thái kinh tế - xã hội khác. Mặc dù vậy, quan hệ
tổ chức quản lý sản xuất và quan hệ phân phối sản phẩm có ảnh hưởng quan
trọng tới quan hệ sở hữu. Chúng có thể góp phần củng cố hoặc phá hoại quan
hệ sở hữu.
Quan hệ sản xuất mang tính khách quan, nó được hình thành trong quá
trình phát triển lịch sử không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người.
Quan hệ sản xuất là quan hệ cơ bản quyết định tất cả các quan hệ xã hội khác
của con người.
2.Mối quan hệ biện chứng giữa Quan hệ sản xuất - Lực lượng sản
xuất.
Mối quan hệ biện chứng giữa QHSX-LLSX là mối quan hệ giữ nội dung
vật chất và hình thức kinh tế của quá trình sản xuất đó cũng là mối quan hệ
thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập, trên cơ sở quyết định của LLSX,
tạo thành nguồn gốc và động lực cơ bản của quá trình vận động, phát triển các
hình thức sản xuất trong lịch sử. Đó cũng là nội dung cơ bản của quy luật
“QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX” quy luật cơ bản nhất của
quá trình phát triển xã hội.
Thứ nhất: sự thống nhất giữ LLSX và QHSX
LLSX và QHSX là hai phương diện cơ bản, tất yếu của mọi phương thức
sản xuất- mỗi quá trình sản xuất nhất định, do đó chúng tồn tại trong tính quy
định lẫn nhau, tri phối lẫn nhau trong quá trình sản xuất của xã hội. Nói cách
khác, mỗi phương thức sản xuất hay mỗi quá trình sản xuất không thể tiến
hành được nếu thiếu một trong hai phương diện đó, trong đó LLSX chính là
nội dung vật chất, kỹ thuật, công nghệ của quá trình này, còn QHSX đóng vai
trò là hình thức kinh tế của quá trình. Mối quan hệ LLSX và QHSX là mối
quan hệ tất yếu giữa nội dung vật chất và hình thức kinh tế của cùng một quá
trình sản xuất khách quan của xã hội.
Nhóm 1 -QLKT
Page 3
Triết Học Nâng Cao
Thứ hai: Vai trò quyết định của LLSX đối với QHSX
Trong mối quan hệ giữ LLSX và QHSX, LLSX đóng vai tròn quyết định
với QHSX. Nói các khác QHSX phụ thuộc tất yếu vào trình độ phát triển của
LLSX. Tính quyết định của LLSX đối với QHSX được thể hiện trên hai mặt
thống nhất với nhau: LLSX nào thị QHSX đấy và cũng do đó, khi LLSX có
những thay đổi thì cũng tât yếu đòi hỏi có những thay đổi nhất định đối với
QHSX trên phương diện sở hữu, tổ chức, quản lý và phân phối. Sự thay đổi
này có thể diễn ra với sự nhanh chậm khác nhau, phạm vi khác nhau, mức độ
khác nhau… nhưng tất yếu sẽ diễn ra những thay đổi nhất định bởi vì những
QHSX chỉ là hình thức kinh tế của quá trình sản xuất, còn LLSX đóng vai
tròn là nội dung vật chất của quá trình đó
Thứ ba: vai trò tác động trở lại của QHSX đối với LLSX
Với tư cách là hình thức kinh tế của quá trình sản xuất, QHSX luôn có
khả năng tác động trở lại, ảnh hưởng trở lại đối với việc bảo tồn, khai thác, sử
dụng, tái tạo và phát triển LLSX. Sự tác động trở lại của QHSX thể hiện rõ
nhât trên phương diện các quan hệ tổ chức, quản lý quá trình sản xuất của xã
hội. Quá trình tác động trở lại của QHSX với LLSX có thể diễn ra với hai khả
năng: tác động tích cực và tác động tiêu cực. Khi mà QHSX phù hợp với yêu
cầu khách quan của việc bảo tồn, khai thác, sử dụng, tái tạo và phát triển của
LLSX thì nó có tác dụng tích cực tác động tích cực thúc đẩy LLSX phát triển;
ngược lại, nếu trái với nhu cầu khách quan đó thì nhất định sẽ diễn ra quá
trình tác động tiêu cực.
Trong đời sống hiện thực kinh tế, có ba tiêu thức cơ bản để nhận định sự
phù hợp của QHSX với LLSX:
1.LLSX hiện có của xã hội cũng như của mỗi chủ thể tham gia hoạt động
trong nền kinh tế có được bảo tồn – duy trì hay không.
2.LLSX của xã hội, của mỗi chủ thể kinh tế có được huy động tối đa về
lượng và sử dụng hiểu quả về chất hay không.
3.Do đó LLSX có được thường xuyên tái tạo và phát triển hay không.
Trong thực tiến kinh tế, các tiêu thức cơ bản này lại có thể được chi tiết
hoá và có thể có những thước đo hoặc các chỉ số đánh giá cụ thể như: GDP,
GNP, HDI… để xác định theo các thời kì nhất định của mỗi quốc gia chẳng
hạn theo chu kỳ mỗi năm.
Nhóm 1 -QLKT
Page 4
Triết Học Nâng Cao
Thứ tư: Sự vận động mâu thuẫn giữ LLSX và QHSX – nguồn gốc động
lực cơ bản của sự vận động phát triển các phương thức sản xuất trong lịch sử.
Mỗi quan hệ LLSX và QHSX là mỗi quan hệ phạm trù mâu thuẫn trong
phép biện chứng duy vật, tức là mối qua hệ thống nhất của hai xu hướng có
khả năng vận động trái ngược nhau. Sự vận động của mâu thuẫn này là đi từ
sự thống nhất đến những khác biệt căn bản và dẫn đến sự xung đột giữ như
cầu phát triển của LLSX và QHSX kìm hãm sự phát triển đó, khi đó bắt đầu
nhu cầu của những cuộc cải cách hoặc cao hơn là cuộc cách mạng, nhằm thực
hiện cải biển những QHSX theo hướng làm cho phù hợp với nhu cầu phát
triển của LLSX, nhờ đó tái thiết lập sự phù hợp mới của LLSX và QHSX.
Khi phân tích sự vận động của LLSX và QHSX, Mác nhận định “tới một
giai đoạn phát triển nào đó của chúng, các LLSX vật chất của xã hội mâu
thuẫn với nhưng QHSX hiện có, hay đây chỉ là biểu hiện pháp lý của những
QHSX đó – mâu thuẫn với những quan hệ sở hữu, trong đó từ trước đến nay
các LLSX đều phát triển. Từ chỗ là hình thức phát triển của LLSX, những
QHSX trở thành xiềng xích của các LLSX. Khi đó bắt đầu thời đại của các
cuộc cách mạng”.
Sợ dĩ mối quan hệ LLSX và QHSX là mối quan hệ thống nhất giữ các
mặt đối lập là vì có sự khác nhau về tính chất biến đổi của LLSX và QHSX.
LLSX có xu hướng động ngược lại QHSX có xu hướng tĩnh. Xu hướng động
và tĩnh của hai phương diện LLSX và QHSX đều là khách quan. Trong điều
khiện bình thường thì chỉ có trong sự ổn định tương đối của những hình thức
kinh tế nhất định, LLSX mới có thể duy trì, khai thác, tái tạo, sử dụng và phát
triển. Nhưng chính sự phát triển không ngừ của LLSX trong phạm vi ổn định
của QHSX lại dẫn đến khả năng ngày càng bộc lộ sự sung đột với những hình
thức kinh tế hiện thời và tất yếu đòi hỏi phải có những thay đổi nhất định của
QHSX mà lâu nay LLSX phát triển trong đó mới có thể có được sự phát triển
hơn nữa của LLSX. Như vậy, sự vẫn động của mâu thuẫn biện chứng giữa
LLSX và QHSX là đi từ sự thống nhất đến xung đột và khi xung đột đó được
giải quyết thì lại thiết lập sự thống nhất mới; quá trình này lặp đi lặp lại trong
lịch sử tạo ra quá trình vận động và phát triển của phương thức sản xuất – của
nền sản xuất xã hội và sự phát triển của lịch sử xã hội loài người.
Nhóm 1 -QLKT
Page 5
Triết Học Nâng Cao
Sự vận động mâu thuẫn của LLSX và QHSX cho thấy: chỉ trong sự
thống nhất, phù hợp của nhưng QhSX hiện thực mới có thể tạo ra những điều
kiện thích hợp cho sự phát triển của LLSX; tuy nhiên, sự phù hợp giữa chúng
chỉ là tương đối, tạm thời trong một giai đoạn phát triển nhất định, còn
khuynh hướng vẫn động tuyệt đối của LLSX lại phá vỡ sự phù hợp đó, tạo ra
khả năng tái thiết lập sự phù hợp trong giai đoạn phát triển mới.
3.Vai trò của việc vận dụng quy luật giữa quan hệ sản xuất và lực
lượng sản xuất vào việc xây dựng nền kinh tế thị trường.
Ở nước ta, nền kinh tế trị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được Đảng
ta xác định từ Đại hội VII: “Phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần
theo định hướng xã hội chủ nghĩa” và được tiếp tục khẳng định qua các Đại
hội VIII, IX và X.
Do điểm xuất phát đi lên chủ nghĩa xã hội (CNXH) của nước ta còn thấp
cả về LLSX và QHSX, nên việc xây dựng từng bước QHSX mới để thúc đẩy
sản xuất phát triển và xã hội phát triển là một yêu cầu tất yếu. Trong thời kỳ
quá độ lên CNXH tính đan xen tác động lẫn nhau trong QHSX thể hiện ở chỗ
sự tồn tại của nhiều QHSX: Kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân,
kinh tế tư bản nhà nước và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đã phát huy tác
dụng và đã thúc đẩy nền kinh tế nước ta phát triển.
Trong các thành phần kinh tế trên, Đảng ta đã xác định kinh tế nhà nước
phải đóng vai trò chủ đạo. Kinh tế nhà nước phải thực sự nắm giữ những
ngành, những lĩnh vực kinh tế trọng yếu, mũi nhọn phải đi đầu trong việc
nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu qủa. Kinh tế nhà nước phải không
ngừng tăng cường, cũng cố và phát triển làm chỗ dựa để nhà nước thực hiện
có hiệu lực chức năng điều tiết, quản lý vĩ mô nền kinh tế theo định hướng
XHCN. Cùng với kinh tế hợp tác (nòng cốt là hợp tác xã) dần dần trở thành
nền tảng của nền kinh quốc dân và chế độ xã hội mới. Đối với kinh tế tập thể,
đây là thành phần kinh tế dựa trên hình thức sở hữu tập thể về TLSX. Kinh tế
tập thể phát huy được sức mạnh tập thể mà từng cá nhân không thể có được.
Kinh tế tập thể sẽ không ngừng củng cố và phát triển, cùng với kinh tế nhà
nước sẽ trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân. Phải đổi mới kinh tế tập
thể làm cho nó trở nên đa dạng phong phú hơn, có như thế mới huy động vốn
dưới nhiều hình thức và làm ăn có hiệu quả hơn.
Nhóm 1 -QLKT
Page 6
Triết Học Nâng Cao
Một đất nước vừa phát triển theo định hướng XHCN lại vừa thừa nhận
sự tồn tại và phát triển của thành phần kinh tế tư bản chủ nghĩa. Điều đó
không phải là nghịch lý, vấn đề đặt ra ở đây chúng ta sử dụng nó như thế nào
để nhanh chóng phát triển LLSX mà vẫn xây dựng đất nước theo định hướng
XHCN. Thành phần kinh tế tư bản nhà nước được Đảng ta chủ trương áp
dụng rộng rãi phổ biến các hình thức kinh tế tư bản nhà nước để phát triển
LLSX theo định hướng XHCN. Đối với các thành phần kinh tế khác, Đảng ta
xác định cần có sự hướng dẫn, hướng kinh tế cá thể, tiểu chủ theo lợi ích thiết
thân và nhu cầu phát triển, từng bước đi vào làm ăn hợp pháp một cách tự
nguyện, hoặc làm vệ tinh cho các doanh nghiệp nhà nước hay hợp tác xã. Mặt
khác, khuyến khích kinh tế tư bản tư nhân đi vào con đường liên doanh với
nhà nước, bán cổ phần cho người lao động trong doanh nghiệp, tạo mối quan
hệ hợp tác cùng có lợi cho chủ và thợ. Để thực hiện công nghiệp hoá (CNH),
hiện đại hoá (HĐH) đất nước, chúng ta cần sử dụng kinh tế tư bản nhà nước
như một công cụ hữu hiệu, bắt nhà tư bản phải cày trên “mảnh đất vô sản”
biến thành phần kinh tế tư bản nhà nước thành “một trợ thủ đắc lực cho
CNXH”. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài là thành phần kinh tế mới xuất
hiện trong những năm gần đây ở nước ta, sự phát triển của thành phần kinh tế
này cho phép chúng ta tranh thủ được khối lượng to lớn từ nước ngoài về vốn,
công nghệ hiện đại, kinh nghiệm tổ chức quản lý kinh tế, mở rộng thị trường
nước ngoài, giải quyết việc làm, trong nước, góp phần khai thác và sử dụng
hiệu quả hơn tiềm năng kinh tế ở nước ta.Vì thế, chủ chương của nhà nước là
tạo điều kiện thuận lợi cho thành phần kinh tế này phát triển; hướng vào xuất
khẩu.
Như vậy, chính sách phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần
của Đảng ta thật sự khơi dậy tiềm năng của các thành phần kinh tế. Tính tích
cực chủ động sáng tạo của của nhân dân được phát huy, sản xuất, kinh doanh
phát triển và đã thật sự thúc đẩy LLSX phát triển, đời sống nhân ổn định và
phát triển. Đại hội lần thứ VIII của Đảng đã chỉ rõ: “Nếu CNH, HĐH tạo nên
LLSX cần thiết cho chế độ mới thì việc phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều
thành phần chính là để xây dựng hệ thống QHSX phù hợp”.
Tuy nhiên, trong quá trình xây dựng và phát triển QHSX chúng ta cũng
có những thiếu sót, đúng như Đại hội VIII của Đảng ta đã đánh giá: “Trong
Nhóm 1 -QLKT
Page 7
Triết Học Nâng Cao
thời gian qua việc lãnh đạo QHSX, vừa có phần lúng túng, vừa có phần buông
lỏng, chậm tháo gở các vướng mắc về cơ chế, chính sách, để tạo động lực và
điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp nhà nước, nâng cao hiệu quả hoạt động,
phát huy vai trò trong nền kinh tế quốc dân. Việc thí điểm cổ phần hóa doanh
nghiệp nhà nước là chậm, chưa quan tâm tổng kết thực tiễn, chưa kịp thời chỉ
ra phương hướng, biện pháp đổi mới kinh tế hợp tác xã để hợp tác xã ở nhiều
nơi tan rã hoặc chỉ còn hình thức, cản trở sản xuất phát triển. Chưa giải quyết
tốt một số chính sách để khuyến khích kinh tế tư nhân phát huy tiềm năng,
đồng thời chưa quản lý tốt thành phần kinh tế này, quản lý liên doanh với
nước ngoài còn nhiều sơ hở”. Vì thế, để phát triển QHSX khai thác tốt vai trò
của QHSX đối với sự phát triển kinh tế ở nước ta, cần phải có những giải
pháp thích hợp.
Nhóm 1 -QLKT
Page 8
Triết Học Nâng Cao
Phần II. Vận dụng quy luật quan hệ sản xuất –
lực lượng sản xuất vào việc xây dựng nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam.
1.Sự hình thành và phát triển của nền kinh tế thị trường theo định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Sau đại hội VI (1986) do đổi mới nói chung và sự đổi mới trong nhận
thức xã hội, Đảng ta nhận định rằng để phát triển theo kịp các nước trong khu
vực và thế giới thì phải phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định
hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của nhà nước.
Bởi vì hiện nay nước ta các điều kiện của sản xuất hàng hóa vẫn còn
đang tồn tại. Phân công lao động ở nước ta: ở nước ta đang tồn tại hệ thống
phân công lao động do lịch sử để lại với ngành nghề. Với sự phát triển khoa
học kỹ thuật hiện đại, nhiều ngành nghề mới xuất hiện làm cho sự phân công
lao động ở nước ta trở nên phong phú hơn, nó tạo điều kiện cho hàng hóa phát
triển. Ở nước ta cũng đang tồn tại quan hệ sở hữu đa dạng về tư liệu sản xuất
và ứng với nó là nền kinh tế nhiều thành phần. Điều đó tạo nên sự độc lập về
mặt kinh tế giữa các thành viên, doanh nghiệp. Nó cũng có tác dụng làm cho
hàng hóa phát triển.
Mặt khác kinh tế hàng hóa phát triển, nó thúc đẩy quá trình phân công
lao động, quá trình chuyên môn hóa và hiện đại hóa. Qua đó thiết lập được
mối quan hệ kinh tế giữa các vùng xóa bỏ tình trạng tự cung, tự cấp. Đẩy
mạnh quá trình xã hội hóa sản xuất. Nó thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung
vốn và lao động thể hiện ở quy mô của các doanh nghiệp, quy mô về kinh tế
ngày càng tăng.
Kinh tế hàng hóa góp phần tăng năng xuất lao động thực hiện dân chủ
hóa đời sống kinh tế. Nó khai thác được thế mạnh từng ngành, từng địa
phương để làm ra nhiều sản phẩm cho xã hội, tạo tiền đề cho việc mở rộng
liên kết, lien doanh cả trong nước và nước ngoài. Mở rộng phạm vi giao lưu
hàng hóa giữa nước ta và các nước khác. Là điều kiện thúc đẩy sự phát triển
của một số ngành, lĩnh vực khác.
Nhóm 1 -QLKT
Page 9
Triết Học Nâng Cao
Trong bất cứ hình thái kinh tế - xã hội nào cũng có phương thức sản
xuất giữ vị trí chi phối. Ngoài ra, còn có phương thức sản xuất tàn dư của xã
hội trước và phương thức sản xuất mầm mống của xã hội tương lai. Các
phương thức sản xuất này ở vào địa vị lệ thuộc, bị chi phối bởi phương thức
sản xuất thống trị.
Trong một hình thái kinh tế xã hội có nhiều phương thức sản xuất biểu
hiện thành phần kinh tế. Trong thời kỳ quá độ chưa có thành phần kinh tế nào
giữ vai trò thống trị, chi phối các thành phần kinh tế khá, mà chúng chỉ là
những mảnh, những bộ phận hợp thành kết cấu kinh tế xã hội trong một hệ
thống thống nhất biện chứng. Mỗi thành phần kinh tế có kiểu tổ chức sản xuất
kinh doanh của nó hợp thành nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần.
Nền kinh tế thời kỳ quá độ tồn tại nhiều thành phần kinh tế là vì:
Thứ nhất, khi giai cấp công nhân và nhân dân lao động giành chính
quyền, tiếp quản nền kinh tế chủ yếu dựa trên chế độ tư hữu về tư liệu sản
xuất . Trên thực tế có hai loại tư hữu là tư hữu lớn và tư hữu nhỏ. Tư hữu lớn:
nhà máy, hầm mỏ, doanh nghiệp, đồn điền…của các chủ tư bản trong nước và
ngoài nước đó là kinh tế tư bản chủ nghĩa. Tư hữu nhỏ: gồm những nguười
nông dân cá thể, những người buôn bán nhỏ đó là sản xuất nhỏ cá thể.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thực chất là nền kinh tế
hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của
Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Kinh tế hàng hoá tạo ra động lực thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển.
Do cạnh tranh giữa những người sản xuất hàng hoá, buộc mỗi chủ thể sản
xuất phải cải tiến kỹ thuật, áp dụng công nghệ mới vào sản xuất để giảm chi
phí sản xuất đến mức tối thiểu nhờ đó có thể cạnh tranh được về giá cả, đứng
vững trong cạnh tranh. Quá trình đó thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển,
nâng cao năng suất lao động xã hội.
Trong nền kinh tế hàng hoá, người sản xuất phải căn cứ vào nhu cầu của
người tiêu dùng, của thị trường để quyết định sản xuất sản phẩm gì, với khối
lượng bao nhiêu, chất lượng như thế nào. Do đó kinh tế hàng hoá kích thích
tính năng động, sáng tạo của chủ thể kinh tế, kích thích việc nâng cao chất
lượng, cải tiến mẫu mã, cũng như tăng khối lượng hàng hoá và dịch vụ.
Nhóm 1 -QLKT
Page 10
Triết Học Nâng Cao
Phân công lao động xã hội là điều kiện ra đời và tồn tại của sản xuất
hàng hoá, đến lượt nó sự phát triển kinh tế hàng hoá sẽ thúc đẩy sự phân công
lao động xã hội và chuyên môn hoá sản xuất. Vì thế phát huy được tiềm năng,
lợi thế của từng vùng, cũng như lợi thế của đất nước có tác dụng mở rộng
quan hệ kinh tế với nước ngoài.
Sự phát triển của kinh tế thị trường sẽ thúc đẩy quá trình tích tụ và tập
trung sản xuất, do đó tạo điều kiện ra đời của sản xuất lớn, xã hội hoá cao;
đồng thời chọn lọc được những người sản xuất, kinh doanh giỏi, hình thành
đội ngũ cán bộ quản lý có trình độ, lao động lành nghề, đáp ứng nhu cầu phát
triển của đất nước.
Như vậy, phát triển kinh tế thị trường là một tất yếu kinh tế đối với nước
ta, một nhiệm vụ kinh tế cấp bách để chuyển nền kinh tế lạc hậu của nước ta
thành nền kinh tế hiện đại, hội nhập vào sự phân công lao động quốc tế. Đó là
con đường đúng đắn để phát triển lực lượng sản xuất, khai thác có hiệu quả
tiềm năng của đất nước vào sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Thực tiễn những năm đổi mới đã chứng minh rằng, việc chuyển sang nền
kinh tế thị trường nhiều thành phần là hoàn toàn đúng đắn. Nhờ phát triển nền
kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, chúng ta đã bước đầu khai thác được tiềm
năng trong nước và thu hút được vốn, kỹ thuật, công nghệ của nước ngoài,
giải phóng được năng lực sản xuất, góp phần quyết định vào việc bảo đảm
tăng trưởng kinh tế với nhịp độ tương đối cao trong thời gian qua.
Trình độ phát triển của kinh tế thị trường có liên quan mật thiết với các
giai đoạn phát triển của lực lượng sản xuất. Về đại thể, kinh tế hàng hoá phát
triển qua ba giai đoạn tương ứng với ba giai đoạn phát triển của lực lượng sản
xuất: sản xuất hàng hoá giản đơn, kinh tế thị trường tự do, kinh tế thị trường
hiện đại.
Nước ta đang thực hiện chuyển đổi nền kinh tế, chuyển từ nền kinh tế kế
hoạch hoá tập trung sang kinh tế hàng hoá. Mô hình kinh tế của Việt Nam
được xác định là nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ
chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, định hướng xã hội chủ nghĩa (nói
ngắn gọn là kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa).
Nhóm 1 -QLKT
Page 11
Triết Học Nâng Cao
2. Thực tiễn việc vận dụng quy luật quan hệ sản xuất – lực lượng sản
xuất vào việc xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam
Ở nước ta trong thời kỳ từ Đại hội IV (năm 1976) đến trước Đại hội VI
(năm 1986) của Đảng, chúng ta đã mắc phải bệnh chủ quan duy ý chí, nóng
vội và bệnh bảo thủ trì trệ do vi phạm các quy luật khách quan, đặc biệt là quy
luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Chúng ta đã thoát ly khỏi điều kiện thực tiễn của một đất nước kinh tế kém
phát triển, còn nghèo nàn lạc hậu nhưng lại muốn tạo ra một quan hệ sản
xuất tiên tiến đi trướcđể mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển. Nhưng
hậu quả thì ngược lại.
Đúng như văn kiện Đại hội VI đã khẳng định: “Kinh nghiệm thực tế chỉ
rõ: lực lượng sản xuất bị kìm hãm không chỉ trong trường hợp quan hệ sản
xuất lạc hậu, mà cả khi quan hệ sản xuất phát triển không đồng bộ, có những
yếu tố đi quá xa so với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất”(3). Lúc đó
chúng ta đã chủ quan muốn tạo ra một quan hệ sản xuất vượt trước trình độ
lực lượng sản xuất, làm cho mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ
sản xuất trở nên gay gắt, đưa đất nước lâm vào khủng hoảng kinh tế - xã hội.
Chúng ta đã có những biểu hiện nóng vội muốn xóa bỏ ngay các thành phần
kinh tế phi xã hội chủ nghĩa, nhanh chóng biến kinh tế tư bản tư nhân thành
quốc doanh; mặt khác, duy trì quá lâu cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, kìm
hãm sự phát triển của đất nước. Chúng ta vừa chủ quan nóng vội, vừa bảo thủ
trì trệ, hai mặt đó cùng tồn tại và cản trở bước tiến của cách mạng.
Sự nhận thức sai quy luật chứng tỏ sự lạc hậu về nhận thức lý luận và
vận dụng quy luật đang hoạt động trong thời kỳ quá độ; thành kiến không
đúng những quy luật của sản xuất hàng hóa; coi nhẹ việc tổng kết kinh
nghiệm thực tiễn. Cuộc sống dạy cho chúng ta một bài học thấm thía là không
thể nóng vội làm trái quy luật.
Công cuộc đổi mới là quá trình ngày càng nhận thức và vận dụng
đúng đắn hơn quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển
lực lượng sản xuất trong điều kiện thực tiễn Việt Nam và quốc tế.
Nhóm 1 -QLKT
Page 12
Triết Học Nâng Cao
Tại Đại hội VI - Đại hội khởi đầu công cuộc đổi mới, Đảng ta đã phê
phán bệnh chủ quan duy ý chí do vi phạm quy luật khách quan mà trước
hết và chủ yếu là quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất. Từ đó Đại hội đã rút ra bài học quan trọng là “Đảng phải
luôn luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật khách
quan”, phải “làm cho quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của
lực lượng sản xuất, luôn luôn có tác dụng thúc đẩy sự phát triển của lực lượng
sản xuất”. Công cuộc đổi mới xét về thực chất chính là quay trở về với quy
luật, với những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lê-nin phù hợp với
thực tiễn đất nước và thời đại.
Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, phù hợp hơn với quy luật khách
quan, trong gần 30 năm qua nhân dân ta đã đạt được những thành tựu to lớn,
có ý nghĩa lịch sử trên con đường xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trong đó có
thành tựu về nhận thức và vận dụng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất ở nước ta.
Chúng ta đã nhận thức rõ hơn quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản
xuất và quan hệ sản xuất, sự phù hợp và mâu thuẫn giữa chúng trong từng giai
đoạn phát triển. Về đặc trưng kinh tế trong xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân
dân ta xây dựng, đã chuyển từ công thức “có nền kinh tế phát triển cao dựa
trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất
chủ yếu” (Cương lĩnh năm 1991) sang công thức “có nền kinh tế phát triển
cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp”
(Cương lĩnh bổ sung, phát triển năm 2011). Sự “phù hợp” ở đây trước hết là
phù hợp với trình độ phát triển lực lượng sản xuất, phù hợp với thực tiễn Việt
Nam và định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Không ngừng hoàn thiện chủ trương phát triển nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần
kinh tế, hình thức tổ chức kinh doanh và hình thức phân phối. Các thành phần
kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành quan trọng của nền
kinh tế, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh
tranh lành mạnh.
Thực hiện chủ trương trên, trong những năm đổi mới, Đảng và Nhà nước
ta đã ban hành nhiều chính sách và luật pháp nhằm đa dạng hóa các hình thức
Nhóm 1 -QLKT
Page 13
Triết Học Nâng Cao
của quan hệ sản xuất để khuyến khích, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển,
giải phóng mọi tiềm năng của sản xuất, tạo thêm động lực cho người lao
động. Đó là những chính sách, pháp luật liên quan đến đổi mới, nâng cao chất
lượng, hiệu quả của kinh tế nhà nước, nhất là doanh nghiệp nhà nước, đến
việc củng cố và phát triển kinh tế tập thể, đến phát huy vai trò động lực của
kinh tế tư nhân, thu hút mạnh mẽ và phát huy hiệu quả của kinh tế có vốn đầu
tư nước ngoài, nâng cao chất lượng và hiệu quả cổ phần hóa doanh nghiệp
nhà nước, phát triển kinh tế hỗn hợp...
Đảng và Nhà nước cũng đã ban hành nhiều chính sách và pháp luật để
hoàn thiện các mặt của quan hệ sản xuất mới theo định hướng xã hội chủ
nghĩa về sở hữu, tổ chức - quản lý và phân phối. Đã ban hành Luật Đất đai
(sửa đổi năm 2013), quy định về sở hữu và đại diện chủ sở hữu, phân định
quyền của người sở hữu, quyền của người sử dụng tư liệu sản xuất và quyền
quản lý của Nhà nước trong lĩnh vực kinh tế; xác định vai trò quản lý kinh tế
của Nhà nước thông qua định hướng, điều tiết, kế hoạch, quy hoạch, chiến
lược, chính sách, chương trình phát triển và các lực lượng vật chất. Thực hiện
đa dạng hóa các hình thức phân phối theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế,
đồng thời theo mức đóng góp vốn, trí tuệ và các nguồn lực khác và phân phối
thông qua hệ thống an sinh xã hội, phúc lợi xã hội.
- Đảng và Nhà nước có nhiều chủ trương, biện pháp để đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa nhằm phát triển lực lượng sản xuất, tạo “cốt vật
chất” cho quan hệ sản xuất mới. Đã đầu tư để xây dựng kết cấu hạ tầng đồng
bộ với một số công trình hiện đại, tập trung vào hệ thống giao thông và hạ
tầng đô thị lớn, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện
đại hóa; phát triển một số ngành công nghiệp cơ khí, đóng tàu, vận tải, khai
thác vật liệu, xây dựng, chế biến; ứng dụng những thành tựu khoa học - công
nghệ hiện đại, nhất là công nghệ thông tin; phát triển nguồn nhân lực, nhất là
nguồn nhân lực chất lượng cao... Thực hiện đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ
cấu lại nền kinh tế; đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển
kinh tế tri thức, nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế, doanh nghiệp và
hàng hóa dịch vụ.
- Chủ động và tích cực hội nhập quốc tế để phát huy cao độ nội lực,
tranh thủ ngoại lực, tiếp thu những thành tựu về khoa học - công nghệ, về
Nhóm 1 -QLKT
Page 14
Triết Học Nâng Cao
kinh tế tri thức, văn minh của thế giới; kinh nghiệm quốc tế... để phát triển,
hiện đại hóa lực lượng sản xuất và củng cố, hoàn thiện quan hệ sản xuất mới.
Trong những năm đổi mới, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương,
chính sách, biện pháp để tăng cường, mở rộng hợp tác quốc tế, tham gia các
quan hệ song phương và tổ chức đa phương, như ASEAN, APEC, ASEM,
WTO..., thu hút mạnh mẽ vốn đầu tư nước ngoài (FDI, ODA...), xúc tiến
mạnh thương mại và đầu tư, mở rộng thị trường xuất nhập khẩu, khai thác
hiệu quả các cơ chế hợp tác quốc tế, các nguồn lực về vốn, khoa học - công
nghệ, trình độ và kinh nghiệm quản lý tiên tiến. Việt Nam đã thiết lập quan hệ
ngoại giao với 170 nước, quan hệ thương mại với 230 nước và vùng lãnh thổ,
ký trên 90 hiệp định thương mại song phương, gần 60 hiệp định khuyến khích
và bảo hộ đầu tư. Hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam ngày càng sâu rộng.
Tuy nhiên trong nhận thức và giải quyết mối quan hệ giữa lực lượng sản
xuất và quan hệ sản xuất trong thời gian qua bên cạnh những thành tựu đạt
được cũng bộc lộ nhiều hạn chế, yếu kém, xuất hiện những mâu thuẫn mới, sự
không phù hợp mới giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, làm cản trở
sự phát triển của cả lực lượng sản xuất và cả quan hệ sản xuất.
Mặc dù đất nước đã ra khỏi tình trạng kém phát triển, bước vào nước có thu
nhập trung bình thấp, song thực chất vẫn là nước nghèo, kinh tế còn lạc hậu,
nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với thế giới và khu vực ngày càng lớn.
Mục tiêu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo
hướng hiện đại khó có thể đạt được. Hiện nay các ngành công nghiệp cơ khí,
chế tạo, chế tác, phụ trợ... còn kém phát triển, chiếm tỷ lệ rất nhỏ trong GDP.
Năng suất lao động, hiệu quả, chất lượng, sức cạnh tranh thấp, yếu tố năng
suất tổng hợp (TFP) rất thấp. Lực lượng sản xuất yếu kém như vậy sẽ quy
định trình độ, chất lượng của quan hệ sản xuất mà chúng ta gọi là quan hệ sản
xuất xã hội chủ nghĩa cũng không thể hoàn thiện được.
Chúng ta chưa chú ý toàn diện, đồng bộ trong xây dựng, hoàn thiện các
mặt của quan hệ sản xuất. Vẫn còn xu hướng nặng về thay đổi chế độ sở hữu
hơn là cải tiến, đổi mới quan hệ quản lý và phân phối sản phẩm. Chưa thể gọi
quan hệ sản xuất hiện nay ở nước ta là quan hệ sản xuất xã hội chủ
nghĩa (theo đúng nghĩa của từ đó) bởi vì nước ta đang trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội, đang thực hiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
Nhóm 1 -QLKT
Page 15
Triết Học Nâng Cao
nghĩa, chưa có lực lượng sản xuất công nghiệp hiện đại làm cơ sở cho quan hệ
sản xuất mới. Vì vậy không nên nóng vội trong xây dựng quan hệ sản xuất,
song cũng không được coi nhẹ việc xây dựng quan hệ sản xuất từng bước
theo định hướng xã hội chủ nghĩa, phù hợp với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất.
Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) và trong Hiến pháp năm 2013 đều xác
định vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước. Tuy nhiên trong thực tế hiện nay
kinh tế nhà nước chưa thực sự giữ vai trò chủ đạo, bởi vì nhìn chung năng
suất, chất lượng, hiệu quả thấp, chưa làm gương để dẫn dắt các thành phần
kinh tế khác, nhiều doanh nghiệp nhà nước rơi vào tình trạng sản xuất, kinh
doanh thua lỗ, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, làm thất thoát tài sản nhà nước,
gây nhiều bức xúc trong dư luận xã hội. Doanh nghiệp nhà nước hiện chiếm
tới 70% vốn đầu tư toàn xã hội, 50% vốn đầu tư nhà nước, 60% tín dụng các
ngân hàng thương mại và 70% vốn ODA,... nhưng khu vực này chỉ đóng góp
37% - 38% GDP.
Các doanh nghiệp nhà nước có hệ số ICOR cao hơn nhiều so với khu
vực tư nhân (trong giai đoạn 2006 - 2010 nếu tính toán từ vốn đầu tư, hệ số
ICOR của khu vực nhà nước là 9,68 còn khu vực ngoài nhà nước là 4,01, tăng
hơn giai đoạn 2000 - 2005 theo vị trí tương ứng là 6,94 (nhà nước) và 2,93
(ngoài nhà nước). Suất sinh lời trên vốn của doanh nghiệp nhà nước thấp hơn
doanh nghiệp tư nhân.
Quản lý doanh nghiệp nhà nước còn nhiều lỏng lẻo, phân định không rõ
thẩm quyền và trách nhiệm của chủ sở hữu và đại diện chủ sở hữu, nhất là
trong quản lý vốn, do đó thời gian qua nhiều doanh nghiệp đầu tư tràn lan,
ngoài ngành nhiều, bị “lợi ích nhóm” chi phối, vi phạm pháp luật, nợ xấu tăng
lên (tính đến cuối năm 2012, nợ xấu của doanh nghiệp nhà nước chiếm
11,82% tổng nợ xấu của các tổ chức hệ thống tín dụng và 5,05% dư nợ đối
với doanh nghiệp nhà nước).
Khu vực kinh tế tập thể còn nhỏ bé, yếu kém, nhiều hợp tác xã trong
nông nghiệp mang tính hình thức, chỉ làm khâu dịch vụ đầu vào và đầu ra của
sản xuất, quỹ không chia trong hợp tác xã rất nhỏ bé, trình độ khoa học - công
nghệ, quy mô và trình độ quản lý rất thấp, không cạnh tranh được với các hộ
Nhóm 1 -QLKT
Page 16
Triết Học Nâng Cao
sản xuất cá thể. Tỷ trọng của kinh tế tập thể trong GDP nhỏ bé, giảm liên tục
từ 10,1% năm 1995 xuống còn 5,22% năm 2011.
Khu vực kinh tế tư nhân được xác định là một động lực quan trọng của
nền kinh tế, đóng góp nhiều vào tăng trưởng GDP và giải quyết việc làm cho
người lao động. Tuy nhiên các doanh nghiệp tư nhân chủ yếu là doanh nghiệp
nhỏ và vừa nên gặp nhiều bất lợi về cạnh tranh, nguồn vốn và cả bị phân biệt
đối xử trong thực tế do cơ chế, chính sách.
Khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài là thành phần kinh tế quan
trọng trong đóng góp vào tăng trưởng GDP, thu hút nguồn lao động. Tỷ trọng
của khu vực FDI đã tăng liên tục từ 4,2% năm 1991 lên 18,97% năm 2011.
Tuy nhiên khu vực này cũng có những hạn chế, như chưa đầu tư vào các lĩnh
vực có công nghệ cao, công nghệ nguồn, phần lớn còn là công nghệ trung
bình, thậm chí lạc hậu, gia công, lắp ráp, ít đầu tư vào khu vực nông nghiệp,
nông thôn là lĩnh vực có lợi nhuận kém hấp dẫn.
Công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn về kinh tế thị trường, về
quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong điều kiện một nước
lạc hậu đi lên chủ nghĩa xã hội, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đổi mới, hội
nhập... còn rất nhiều hạn chế, bất cập, nhiều vấn đề phải mò mẫm. Nhận thức
trên một số vấn đề thuộc chủ trương, quan điểm tuy đã được khẳng định trong
nghị quyết của Đảng song vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau (chẳng hạn, vấn đề
kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, vấn đề sở hữu và sử dụng đất đai, vấn đề
quan hệ giữa Nhà nước và thị trường, giữa kinh tế thị trường và định hướng
xã hội chủ nghĩa...). Chính vì nhận thức còn khác nhau ở tầm quan điểm nên
trong việc thực hiện nghị quyết, chính sách còn ngập ngừng, không nhất quán,
không kiên quyết.
Bên cạnh đó, tư duy phát triển kinh tế - xã hội và phương thức lãnh đạo
của Đảng còn chậm đổi mới; nhận thức trên nhiều vấn đề cụ thể còn thiếu
thống nhất; tổ chức thực hiện còn thiếu kiên quyết, dễ làm khó bỏ; quản lý
nhà nước còn nhiều yếu kém; không thể chế hóa kịp thời các quan điểm, chủ
trương của Đảng thành các chính sách, biện pháp. Đồng thời có một số chủ
trương chưa đủ rõ hoặc chưa phù hợp, chưa có sự thống nhất và thông suốt ở
các cấp, các ngành.
Nhóm 1 -QLKT
Page 17
Triết Học Nâng Cao
Một số cán bộ, đảng viên rơi vào suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo
đức, lối sống, tham nhũng, tiêu cực, “lợi ích nhóm”, năng lực và phẩm chất
không đáp ứng được yêu cầu của công cuộc đổi mới.
3. Phương hướng đề ra để vận dụng được hiệu quả quy luật quan hệ
sản xuất – lực lượng sản xuất vào việc xây dựng nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Từ thực tiễn phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
trong thời gian qua và căn cứ vào yêu cầu phát triển trong thời gian tới, có thể
xác định những phương hướng, nhiệm vụ cơ bản phát triển nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam như sau:
1.Phải tiếp tục thực hiện một cách nhất quán chính sách phát triển kinh
tế nhiều thành phần, coi các thành phần kinh tế kinh doanh theo pháp luật đều
là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. Không
nên có thái độ định kiến và kỳ thị đối với bất cứ thành phần kinh tế nào.
Kinh tế nhà nước phải phát huy được vai trò chủ đạo trong nền kinh
tế quốc dân, là nhân tố mở đường cho sự phát triển kinh tế, là lực lượng vật
chất quan trọng và là công cụ để Nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô nền
kinh tế. Doanh nghiệp nhà nước giữ những vị trí then chốt; đi đầu ứng dụng
tiến bộ khoa học và công nghệ; nêu gương về năng suất, chất lượng, hiệu quả
kinh tế – xã hội và chấp hành pháp luật.
Đẩy mạnh việc củng cố, sắp xếp, điều chỉnh cơ cấu của các doanh
nghiệp nhà nước; đồng thời tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách để tạo động
lực phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước
theo hướng xóa bao cấp; doanh nghiệp thực sự cạnh tranh bình đẳng trên thị
trường, tự chịu trách nhiệm về sản xuất, kinh doanh; nộp đủ thuế và có lãi;
thực hiện tốt quy chế dân chủ trong doanh nghiệp.
Kinh tế tập thể gồm các hình thức hợp tác đa dạng, trong đó hợp tác
xã là nòng cốt. Các hợp tác xã dựa trên sở hữu của các thành viên và sở hữu
tập thể, liên kết rộng rãi những người lao động, các hộ sản xuất, kinh doanh,
các doanh nghiệp nhỏ và vừa, không giới hạn quy mô, lĩnh vực và địa bàn;
liên kết công nghiệp và nông nghiệp, doanh nghiệp nhà nước và kinh tế hộ
nông thôn. Nhà nước giúp hợp tác xã đào tạo cán bộ, ứng dụng khoa học và
Nhóm 1 -QLKT
Page 18
Triết Học Nâng Cao
công nghệ, thông tin, mở rộng thị trường, xây dựng các quỹ hỗ trợ phát triển
hợp tác xã.
Kinh tế cá thể, tiểu chủ cả ở nông thôn và thành thị có vị trí quan
trọng lâu dài. Nhà nước tạo điều kiện và giúp đỡ phát triển, bao gồm cả các
hình thức tổ chức hợp tác tự nguyện, làm vệ tinh cho các doanh nghiệp hoặc
phát triển lớn hơn.
Kinh tế tư bản tư nhân được khuyến khích phát triển rộng rãi trong
những ngành nghề sản xuất, kinh doanh mà pháp luật không cấm. Tạo môi
trường kinh doanh thuận lợi về chính sách, pháp lý để kinh tế tư bản tư nhân
phát triển trên những định hướng ưu tiên của Nhà nước, kể cả đầu tư ra nước
ngoài; chuyển thành doanh nghiệp cổ phần, bán cổ phần cho người lao động;
liên doanh, liên kết với nhau, với kinh tế tập thể và kinh tế nhà nước. Xây
dựng quan hệ tốt giữa chủ doanh nghiệp và người lao động.
Tạo điều kiện để kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài phát triển thuận lợi,
hướng vào các sản phẩm xuất khẩu, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội
gắn với thu hút công nghệ hiện đại, tạo thêm nhiều việc làm. Cải thiện môi
trường kinh tế và pháp lý để thu hút mạnh vốn đầu tư nước ngoài.
Phát triển đa dạng kinh tế tư bản nhà nước dưới dạng các hình thức liên
doanh, liên kết giữa kinh tế nhà nước với kinh tế tư bản tư nhân trong nước và
ngoài nước, mang lại lợi ích thiết thực cho các bên đầu tư kinh tế. Chú trọng
các hình thức tổ chức kinh doanh đan xen, hỗn hợp nhiều hình thức sở hữu,
giữa các thành phần kinh tế với nhau, giữa trong nước và ngoài nước. Phát
triển mạnh hình thức tổ chức kinh tế cổ phần nhằm huy động và sử dụng rộng
rãi vốn đầu tư xã hội.
2.Tiếp tục tạo lập đồng bộ các yếu tố thị trường; đổi mới và nâng cao
hiệu lực quản lý kinh tế của Nhà nước. Nhìn chung, kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam mới được bắt đầu, trình độ còn thấp, chất
lượng, hiệu quả, khả năng cạnh tranh chưa cao. Nhiều thị trường còn sơ khai,
chưa đồng bộ. Vì vậy, phải đổi mới mạnh mẽ tư duy hơn nữa, đẩy mạnh việc
hình thành các loại thị trường. Đặc biệt quan tâm các thị trường quan trọng
nhưng hiện chưa có hoặc còn sơ khai như: thị trường lao động, thị trường
chứng khoán, thị trường bất động sản, thị trường khoa học và công nghệ, đáp
ứng nhu cầu đa dạng và nâng cao sức mua của thị trường trong nước, cả ở
Nhóm 1 -QLKT
Page 19
Triết Học Nâng Cao
thành thị và nông thôn, chú ý thị trường các vùng có nhiều khó khăn. Chủ
động hội nhập thị trường quốc tế. Hạn chế và kiểm soát độc quyền kinh
doanh.
Mặt khác, phải đổi mới sâu rộng cơ chế quản lý kinh tế, phát huy những
yếu tố tích cực của cơ chế thị trường, triệt để xóa bỏ bao cấp trong kinh
doanh, tăng cường vai trò quản lý và điều tiết vĩ mô của Nhà nước, đấu tranh
có hiệu quả chống các hành vi tham nhũng, lãng phí, gây phiền hà. Nhà nước
tạo môi trường pháp lý thuận lợi, bình đẳng cho các doanh nghiệp cạnh tranh
và hợp tác để phát triển; bằng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và chính sách,
kết hợp với sử dụng lực lượng vật chất của Nhà nước để định hướng phát
triển kinh tế – xã hội, khai thác hợp lý các nguồn lực của đất nước, bảo đảm
cân đối vĩ mô nền kinh tế, điều tiết thu nhập; kiểm tra, thanh tra mọi hoạt
động kinh doanh theo quy định của pháp luật, chống buôn lậu, làm hàng giả,
gian lận thương mại.
Tiếp tục đổi mới các công cụ quản lý vĩ mô của Nhà nước đối với nền
kinh tế, trong đó đặc biệt coi trọng việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống các
cơ chế chính sách, luật pháp, đổi mới công tác kế hoạch hóa, nâng cao chất
lượng công tác xây dựng các chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển
kinh tế – xã hội; tăng cường công tác thông tin kinh tế – xã hội trong nước và
quốc tế, công tác kế toán, thống kê; ứng dụng rộng rãi các thành tựu khoa học
và công nghệ trong công tác dự báo, kiểm tra tình hình thực hiện ở cả cấp vĩ
mô và doanh nghiệp.
3.Giải quyết tốt các vấn đề xã hội, hướng vào phát triển và lành
mạnh hóa xã hội, thực hiện công bằng xã hội, coi đây là một nội dung rất
quan trọng của định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tính ưu việt của chế độ
xã hội mới. Điều đó chẳng những tạo động lực mạnh mẽ nhằm phát triển sản
xuất, tăng năng suất lao động mà còn thực hiện bình đẳng trong các quan hệ
xã hội, khuyến khích nhân dân làm giàu chính đáng và hợp pháp, điều tiết các
quan hệ xã hội.
Trong tình hình cụ thể hiện nay ở Việt Nam, phải bằng nhiều giải pháp
tạo ra nhiều việc làm mới. Chăm lo cải thiện điều kiện làm việc, bảo đảm an
toàn vệ sinh lao động, phòng chống tai nạn và bệnh nghề nghiệp cho người
lao động. Từng bước mở rộng hệ thống bảo hiểm xã hội và an sinh xã hội.
Nhóm 1 -QLKT
Page 20
Triết Học Nâng Cao
Sớm xây dựng và thực hiện chính sách bảo hiểm cho người lao động thất
nghiệp. Cải cách cơ bản chế độ tiền lương đối với cán bộ, công chức, khuyến
khích người có tài, người làm việc giỏi, khắc phục tình trạng lương và trợ cấp
bất hợp lý; tôn trọng thu nhập hợp pháp của người kinh doanh.
Tiếp tục thực hiện chương trình xóa đói, giảm nghèo, chăm sóc những
người có công với nước, thương binh, bệnh binh, cha mẹ, vợ con liệt sĩ, gia
đình chính sách – một yêu cầu rất lớn đối với một đất nước phải chịu nhiều
hậu quả sau chiến tranh. Đồng thời đẩy mạnh cuộc đấu tranh phòng chống tội
phạm, giữ gìn trật tự và kỷ cương xã hội, ngăn chặn và bài trừ các tệ nạn xã
hội, nhất là tệ nạn ma tuý, mại dâm, lối sống không lành mạnh, những hành vi
trái pháp luật và đạo lý. Kiên quyết đấu tranh với tệ tham nhũng, hối lộ, làm
giàu bất chính, kinh doanh không hợp pháp, gian lận thương mại… cùng với
những tiêu cực khác do mặt trái của cơ chế thị trường gây ra. Kết quả cụ thể
của cuộc đấu tranh này là thước đo bản lĩnh, trình độ và năng lực quản lý của
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân.
4. Đầu tư vào việc nghiên cứu, ứng dụng KHCN. Trong tình trạng
nước ta còn thiếu thốn trầm trọng khoa học kĩ thuật như hiện nay, nhà nước
cần phải hỗ trợ kinh phí nhiều hơn nữa cho các viện nghiên cứu, các đề tài
khoa học, thực hiện cơ chế đặt hàng trực tiếp giữa nhà nước, doanh nghiệp
với các cơ sở nghiên cứu khoa học. Tăng kinh phí đào tạo, nhất là đào tạo mới
và đào tạo bổ sung nguồn lao động chất lượng cao, đặc biệt chú trọng đào tạo
công nhân lành nghề, làm chủ được công nghệ.
5. Giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản . Đây là
vấn đề có tính nguyên tắc và là nhân tố quyết định nhất bảo đảm định hướng
xã hội chủ nghĩa của kinh tế thị trường, cũng như toàn bộ sự nghiệp phát triển
của đất nước. Đây cũng là một trong những bài học lớn nhất được rút ra trong
những năm đổi mới.
Càng đi vào kinh tế thị trường, thực hiện dân chủ hóa xã hội, mở rộng
hợp tác quốc tế càng phải tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng Cộng
sản. Thực tế ở một số nước cho thấy, chỉ cần một chút mơ hồ, buông lỏng sự
lãnh đạo của Đảng là lập tức tạo điều kiện cho các thế lực thù địch dấn tới phá
rã sự lãnh đạo của Đảng, cướp chính quyền, đưa đất nước đi con đường khác.
Nhóm 1 -QLKT
Page 21
Triết Học Nâng Cao
Hiện nay, có ý kiến cho rằng, đã chuyển sang kinh tế thị trường – tức là
nền kinh tế vận động theo quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh
tranh… thì không cần phải có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Ý kiến này
không đúng và thậm chí rất sai lầm. Bởi vì như trên đã nói, Việt Nam chủ
trương phát triển kinh tế thị trường nhưng không phải để cho nó vận động một
cách tự phát mà phải có lãnh đạo, hướng dẫn, điều tiết, phát huy mặt tích cực,
hạn chế mặt tiêu cực, vì lợi ích của đại đa số nhân dân, vì một xã hội công
bằng và văn minh. Người có khả năng và điều kiện làm được việc đó không
thể ai khác ngoài Đảng Cộng sản – là đảng phấn đấu cho mục tiêu lý tưởng xã
hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa, thật sự đại diện và bảo vệ lợi ích của
giai cấp công nhân và nhân dân lao động.
Đảng lãnh đạo có nghĩa là Đảng đề ra đường lối, chiến lược phát triển
của đất nước nói chung, của lĩnh vực kinh tế nói riêng, bảo đảm tính chính trị,
tính định hướng đúng đắn trong sự phát triển kinh tế, làm cho kinh tế chẳng
những có tốc độ tăng trưởng và năng suất lao động cao, có lực lượng sản xuất
không ngừng lớn mạnh mà còn đi đúng định hướng xã hội chủ nghĩa, tức là
hạn chế được bất công, bóc lột, chăm lo và bảo vệ lợi ích của đại đa số nhân
dân lao động. Trên cơ sở đường lối, chiến lược đó, Đảng lãnh đạo toàn bộ hệ
thống chính trị và guồng máy xã hội, trước hết là Nhà nước, tổ chức thực hiện
bằng được phương hướng và nhiệm vụ đã đề ra.
Đương nhiên, để có đủ trình độ, năng lực lãnh đạo, Đảng phải thực sự
trong sạch, vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức, gắn bó chặt chẽ
với nhân dân, được nhân dân tin cậy và ủng hộ. Đặc biệt, trong tình hình hiện
nay, đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng phải có bản lĩnh chính trị vững vàng,
kiên định mục tiêu lý tưởng, có trí tuệ, có kiến thức, giữ gìn đạo đức cách
mạng và lối sống lành mạnh, đấu tranh khắc phục có hiệu quả tệ tham nhũng
và các hiện tượng thoái hóa, hư hỏng trong Đảng và trong bộ máy của Nhà
nước.
Nhóm 1 -QLKT
Page 22
Triết Học Nâng Cao
Phần III. Kết Luận
1.Nhận Xét về việc vận dụng quy luật quan hệ sản xuất – lực lượng
sản xuất vào việc xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam hiện nay
1.1. Thực trạng đất nước ta trước khi Đảng tiến hành đổi mới (từ năm
1986 trở về trước) Trước năm 1986, cơ chế nền kinh tế nước ta vẫn còn quan
liêu, bao cấp. Vì thế nó kìm hãm sự phát triển của nền sản xuất vật chất, tạo
cho con người thói ỷ lại. Do đó, nền kinh tế nước ta lúc bấy giờ là nền kinh tế
lạc hậu, trì trệ và kém phát triển. So với các nước phát triển trên thế giới lúc
bấy giờ thì nền kinh tế nước ta đã tụt hậu xa. Trước tình hình đó đặt ra cho
Đảng và nhà nước ta yêu cầu cấp bách là phải có một chính sách kinh tế sao
cho phù hợp với yêu cầu của thời đại và thúc đẩy được sự phát triển của lực
lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, sớm đưa nước ta thoát khỏi tình trạng
kém phát triển. Tại đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV (12/1976) đã vạch ra
đường lối rằng: “đẩy mạnh công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa nước nhà, xây
dựng cơ sở vật chất kĩ thuật của chủ nghĩa xã hội , đưa nền kinh tế nước ta từ
sản xuất nhỏ lên thành sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, kết hợp phát triển lực
lượng sản xuất với xác lập và hoàn thiện quan hệ sản xuất mới”( Đảng Cộng
Sản Việt Nam, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần IV, nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội, 1976, tr.32 ). Với phương châm lãnh đạo sáng suốt của
Đảng, nhân dân ta đã đạt được nhiều thành tựu kinh tế đáng kể. Tuy nhiên sai
lầm của Đảng ta trong quyết định này đó là chưa xác định được chặng đường
đầu tiên để tiến lên chủ nghĩa xã hội, nóng vội tả khuynh trong việc cải tạo và
xây dựng chủ nghĩa xã hội (CNXH) ở một nước vốn có nền nông nghiệp lạc
hậu trải qua mấy chục năm chiến tranh , đất nước bị tàn phá nặng nề. Đến
tháng 3/1982 tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần V của Đảng đã đề ra nhiệm vụ
chủ yếu về kinh tế-xã hội trong 5 năm: “Để chuyển biến cơ bản thực trạng
kinh tế phải tạo cho được một lực lượng sản xuất mới, năng suất lao động xã
hội cao hơn ngay trong khi chưa có nền công nhgiệp tương đối phát triển.
Đồng thời phải đảm bảo sự phù hợp giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản
xuất”. Đại hội đã có những bước tìm tòi trên con đường đi lên CNXH, trước
Nhóm 1 -QLKT
Page 23
Triết Học Nâng Cao
hết là về mặt kinh tế. Song đại hội chưa thấy được sự cần thiết phải duy trì
nền kinh tế nhiều thành phần trong suốt thời kì quá độ, chưa xác định được
những quan điểm cụ thể về kết hợp kế hoạch với thị trường, công tác quản lí
lưu thông, phân phối vẫn một chiều do kế hoạch nhà nước quyết định, chưa
có những chính sách, giải pháp cụ thể và đồng bộ để giải phóng các lực lượng
sản xuất trong nông nghiệp. Đi kèm những sai lầm trên là những quan điểm
chủ quan, nóng vội, đốt cháy giai đoạn trong việc thực hiện các kế hoạch 5
năm và các cuộc cải cách. Đặc biệt là sai lầm trong cuộc cải cách giá, tiền
lương được tiến hành lần 2 vào ngày 14-9-1985 đã dẫn đến tình trạng lạm
phát “phi mã” trong 3 năm 1986-1988. Chính vì vậy, nhà nước đã phải lùi lại
một bước , thực hiện chính sách 2 giá năm 1985. Đặc điểm của nền kinh tế
nước ta lúc này là trì trệ, kém phát triển. Lực lượng sản xuất Việt Nam với
trình độ chuyên môn thấp, công cụ lao động thô sơ chưa đạt đến trình độ tinh
xảo, tổ chức quản lí không chặt chẽ , quy mô phân tán nhỏ hẹp. Phân phối sản
phẩm còn theo cơ chế bao cấp tràn lan. Hậu quả là tách rời con người với tư
liệu sản xuất, công cụ lao động bị phá hoại một cách nghiêm trọng, đời sống
người dân thấp. Từ thực tế trên cho thấy tầm quan trọng của việc xác định
đúng đắn mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, quy luật
chi phối lẫn nhau của chúng. Qua đó vận dụng một cách đúng đắn và sáng tạo
vào công cuộc đổi mới ở đất nước ta trong thời kì tiến lên CNXH.
1.2. Từ năm 1986 đến nay Đối với đất nước của chúng ta, đi lên chủ
nghĩa xã hội là con đường hợp với xu thế của thời đại và điều kiện cụ thể của
nước ta. Tuy nhiên, chúng ta tiến lên chủ nghĩa xã hội từ một nền kinh tế phổ
biến là sản xuất nhỏ, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, nên phải trải qua thời kỳ
quá độ. Đi lên chủ nghĩa xã hội, nước ta thực hiện chính sách từng bước đổi
mới đất nước,đưa đất nước phát triển tiến lên mục tiêu đã đề ra. Tại Đại hội
lần thứ VI (năm 1986), Đảng ta đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất
nước, trong đó lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm với nội dung cơ bản là phát
triển nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Từ đó
đến nay, đất nước ta đã có những bước phát triển vượt bậc, thoát khỏi cuộc
khủng hoảng kinh tế - xã hội và luôn đạt mức tăng trưởng cao. Những thành
tựu đó khẳng định tính đúng đắn của đường lối đổi mới nói chung và chủ
trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần nói riêng. Điểm nổi lên là kinh
Nhóm 1 -QLKT
Page 24
Triết Học Nâng Cao
tế của chúng ta còn quá nghèo nàn, lạc hậu … vì vậy khâu trọng yếu mà
chúng ta phải xây dựng đó là phát triển lực lượng sản xuất, đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã
hội.Tuy nhiên cũng không phải đạt được kết quả ngay tức thì,mặc dù lực
lượng sản xuất của nước ta không ngừng phát triển, trình độ của người lao
động không ngừng được nâng lên công tác giáo dục và đào tạo được chú
trọng… nhưng chưa đúng yêu cầu của thời kì đổi mới, không có tính cạnh
tranh.Tư liệu sản xuất tuy phát triển song vẫn còn thấp kém, lạc hậu, không
đều,sở hữu tư liệu sản xuất dẫn đến tình trạng phân hóa giàu nghèo.Nhưng
Đảng và Nhà nước nhạy bén trước thời cuộc khắc phục tình hình,với việc đưa
ra quan hệ sản xuất bằng con đường đúng đắn với cơ chế tồn tại nhiều thành
phần kinh tế do đó tồn tại cùng một lúc nhiều quan hệ sản xuất khác nhau
tương ứng với trình độ phát triển cao, thấp khác nhau, với lực lượng sản xuất
thấp kém không đồng đều nước ta sử dụng quan hệ sản xuất không đồng đều,
khắc phục tình trạng lực lượng sản xuất thấp kém lại sử dụng quy luật quan 5
hệ sản xuất quá cao hoặc không phù hợp diều này hợp quy luật bước đầu vận
dụng đúng quy luật. Hiện nay, Đảng ta đang lãnh đạo đất nước thực hiện công
cuộc công nghiệp hóa - hiện đại hóa, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ.
Muốn làm tốt trọng trách này, thì phải tạo điều kiện cho bản thân nền kinh tế,
trong đó thành phần kinh tế tư nhân là một thành phần rất năng động, hiệu
quảTrong suốt quá trình đổi mới 25 năm qua, Ðảng ta không ngừng tìm tòi,
phát triển nhận thức về mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản
xuất trên tổng thể và đối với từng yếu tố cấu thành của quan hệ sản xuất. Ðó
là một quá trình vận động, phát triển liên tục về nhận thức thông qua lãnh đạo,
chỉ đạo thực tiễnCông cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta trong
thời gian qua đã đạt được những thành tựu to lớn: 1986-1990: GDP tăng
4,4%/năm. Đây là giai đoạn chuyển đổi cơ bản cơ chế quản lý cũ sang cơ chế
quản lý mới, thực hiện một bước quá trình đổi mới đời sống KTXH và giải
phóng sức sản xuất Giai đoạn 2005-2010: Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình
quân 5 năm đạt 7%. Mặc dù khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn
cầu, nhưng thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào nước ta đạt cao. Trong 5 năm,
tổng vốn FDI thực hiện đạt gần 45 tỉ USD, vượt 77% so với kế hoạch đề ra.
Tổng số vốn đăng ký mới và tăng thêm ước đạt 150 tỉ USD, gấp hơn 2,7 lần
Nhóm 1 -QLKT
Page 25