xây dựng
nhà nớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
và ý nghĩa của nó đối với việc phát huy vai trò
của quân đội ta hiện nay.
Xây dựng Nhà nớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là một quá
trình lâu dài, trên cơ sở hình thành đầy đủ các tiền đề và nền tảng của mô hình
mới về Nhà nớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa cả trong lý luận cũng nh thực tiễn.
Đây là một vấn đề đợc Đảng và Nhà nớc ta rất quan tâm. Sự quan tâm đợc thể
hiện rõ nhất trong các nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc từ lần thứ VI đến lần
thứ X của Đảng và trong các kì họp Quốc hội. Vấn đề xây dựng Nhà nớc pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đều đợc đặt ra rất cấp bách và cần thiết, nhất là
trong giai đoạn cách mạng hiện nay. Vậy, xây dựng Nhà nớc pháp quyền xã hội
chủ nghĩa ở Việt nam hiện nay đợc dựa trên những cơ sở khoa học nào? Đây có
thể nói vẫn là vấn đề mang tính thời sự nóng hổi bởi sau khi các nớc xã hội chủ
nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, các nhà lý luận t sản phản động đã dùng tất
cả mọi chiêu bài bỉ ổi nhất để công kích các nớc xã hội chủ nghĩa còn lại, trong
đó chúng coi Việt Nam là một trọng điểm. Chúng cho rằng, Nhà nớc xã hội chủ
nghĩa chỉ là quái thai do bị đẻ non; Nhà nớc xã hội chủ nghĩa chỉ là bớc đệm
cho nhà nớc t sản mà thôi... nói tóm lại là chúng phủ nhận toàn bộ lý luận Mác Lênin về vấn đề Nhà nớc.
Đứng vững trên quan điểm duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, t tởng Hồ Chí Minh và thực tiễn lịch sử xã hội loài ngời để xem xét vấn đề xây
dựng Nhà nớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam có hiện thực hay không,
hay chỉ là quái thai, là bớc đệm mà các nhà lý luận t sản đã rêu rao? Trong
phạm vi tiểu luận này, tác giả xin đợc làm rõ một số cơ sở lý luận và thực tiễn để
chứng minh cho vấn đề đó. Trên cơ sở đó liên hệ với việc phát huy vai trò của
Quân đội ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Nhà nớc pháp quyền Việt Nam
xã hội chủ nghĩa hiện nay.
1. Tính tất yếu khách quan sự ra đời của nhà nớc nói chung và Nhà
nớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam nói riêng
Nhà nớc ra đời từ bao giờ? nguồn gốc và bản chất của nhà nớc đợc biểu
hiện nh thế nào? Đây là vấn đề quan trọng của các khoa học xã hội và là vấn đề
2
cơ bản trong mọi thời đại tồn tại giai cấp. Vì vậy, nó là đối tợng của cuộc đấu
tranh t tởng gay gắt từ xa đến nay. Các nhà triết học t sản đa ra nhiều lý thuyết cố
tình biện hộ cho sự thống trị của giai cấp bóc lột, xoá nhoà bản chất của nhà nớc.
Nhng dẫu che đậy và xuyên tạc đến đâu, nhà nớc trớc sau vẫn là bộ máy để duy
trì sự thống trị của giai cấp này đối với giai cấp khác.
Nguồn gốc ra đời của nhà nớc, từ xa đến nay có nhiều quan điểm khác
nhau. Thuyết thần học cho rằng: Nhà nớc do trời sinh ra, vua là con trời, là thiên
tử, không đợc xâm phạm. Hê-ghen nói, nhà nớc là sự ngao du của trời trong thiên
hạ. Theo thuyết gia trởng, (Arixtốt là đại biểu) cho rằng: Nhà nớc cần thiết cho
xã hội cũng nh trong gia đình có cha - ngời có quyền lực cao nhất trong gia đình.
Thuyết bạo lực thì cho rằng, sự hình thành nhà nớc gắn liền với sự ra đời của bộ
máy bạo lực, gắn liền với chiến tranh xâm lợc. Thuyết khế ớc xã hội lại cho rằng,
mọi ngời sinh ra đều có quyền tự nhiên, tự do làm tất cả, dẫn đến xã hội sẽ vô
chính phủ, vì vậy tất yếu phải có nhà nớc. Chủ thể quyền lực là nhân dân, các
công dân khế ớc với nhau, nếu nhà nớc vi phạm khế ớc thì nhân dân có quyền lật
đổ nhà nớc. Đây là quan điểm tiến bộ, tuy nhiên hạn chế của quan điểm này là:
họ cho rằng nhà nớc là sản phẩm tự do của ý chí, mang tính chất duy tâm siêu
hình. Còn quan điểm của các nhà t sản thì cho rằng: nhà nớc xuất hiện do phân
chia giai cấp đối kháng. Nhà nớc ra đời nhằm điều hoà mâu thuẫn giai cấp, vì vậy
nhà nớc cần thiết và tồn tại vĩnh viễn trong xã hội. Đây là quan điểm hết sức phản
động, sai trái nhằm lừa bịp, đánh tráo khái niệm của giai cấp t sản.
Lý luận khoa học về nhà nớc, về nguồn gốc và bản chất của nhà nớc chỉ
có thể có đợc khi vận dụng quan điểm duy vật về lịch sử vào việc nghiên cứu sự
phát triển của xã hội. Nhà nớc là một tổ chức đặc biệt của quyền lực chính trị có
nhiệm vụ cỡng chế và quản lý xã hội nhằm bảo vệ lợi ích, trớc hết của giai cấp
thống trị trong xã hội. Trong nhiều tác phẩm của mình, tập trung nhất là các tác
phẩm Nguồn gốc của gia đình, của chế độ sở hữu và của nhà nớc, Nhà nớc và
cách mạng, Chủ nghĩa Mác về vấn đề nhà nớc..., các nhà kinh điển của chủ
nghĩa Mác - Lênin đã chứng minh rằng, không phải lúc nào xã hội cũng có nhà
nớc. Nhà nớc là một phạm trù lịch sử, ra đời và phát triển gắn liền với sự phát
triển của kinh tế, xã hội. Trong xã hội cộng sản nguyên thuỷ không có nhà nớc,
vì lúc đó xã hội đợc sự quản lý của những tộc trởng, thủ lĩnh quân sự. Họ quản lý
xã hội bằng sức mạnh, uy tín và đạo đức của mình. Do sản phẩm xã hội là của
chung nên họ không có đặc quyền, đặc lợi gì cả. Họ không bắt ngời dân phục vụ
3
cho lợi ích riêng của mình. Hay nói cách khác, quyền hành của họ cha mang tính
chính trị. Xã hội lúc này mang tính tự quản rất cao, họ làm chung, ăn chung và sử
dụng của cải chung. Ph.Ăngghen viết: Với tất cả tính ngây thơ và giản dị của
nó, chế độ thị tộc đó quả là một tổ chức đẹp biết bao! Không có quân đội, hiến
binh và cảnh sát, không có quý tộc và vua chúa, tổng đốc trởng quan và quan toà,
không có nhà tù, không có những vụ xử án, thế mà mọi việc đều trôi chảy 1.
Chế độ cộng sản nguyên thuỷ tan rã dẫn đến sự ra đời của nhà nớc. Nhà
nớc lúc đầu nh một t tởng, một học thuyết, sau đó nh một thực tiễn có lịch sử của
nó. Ph.Ăngghen cho rằng, nhà nớc ra đời là do: sự phát triển của lực lợng sản
xuất, trớc hết là công cụ lao động, đã cho phép có thể tiến hành sản xuất, tơng
đối độc lập, sản xuất gia đình có lợi hơn sản xuất cộng đồng và vì vậy các gia
đình đã tách ra khỏi cộng động để độc lập trong sản xuất, sở hữu chung trở thành
vật cản đối với sự phát triển của sản xuất. Với sự phát triển công cụ sản xuất,
năng suất lao động tăng lên nhanh chóng và có của d. Đây là cơ sở khách quan
làm cho những ngời có chức, có quyền khát vọng chiếm đoạt sản phẩm lao động
của ngời khác. Nh vậy, sự phát triển của lực lợng sản xuất đã làm cho chế độ sở
hữu chung bị thay thế bởi chế độ t hữu t nhân về t liệu sản xuất và đồng thời xuất
hiện chế độ ngời bóc lột ngời ra đời.
Chế độ ngời bóc lột ngời xuất hiện và xã hội phân chia thành giai cấp,
quan hệ áp bức thay thế quan hệ bình đẳng, hợp tác. Đồng thời, lúc này chiến
tranh ăn cớp giữa các bộ lạc, thị tộc thờng xuyên diễn ra, địa vị của các thủ lĩnh
quân sự càng đợc củng cố và mở rộng, họ bóc lột nhân dân rất thậm tệ. Các cơ
quan tổ chức của thị tộc, bộ lạc dần dần thoát khỏi nhân dân, trở thành cơ quan
chuyên nghiệp để quản lý xã hội và trong một số hoàn cảnh nhất định thậm chí
còn đối lập với cộng đồng ấy 2. Có áp bức ắt sẽ có đấu tranh, cuộc đấu tranh đối
kháng lần đầu tiên đã xuất hiện giữa chủ nô và nô lệ. Cuộc đấu tranh ngày càng
mạnh mẽ có nguy cơ tiêu diệt lẫn nhau và tiêu diệt luôn cả xã hội. Để thảm hoạ
không xảy ra, một cơ quan quyền lực đặc biệt đã ra đời - đó là nhà nớc.
Nh vậy, nguyên nhân trực tiếp dẫ đến sự ra đời nhà nớc là do mâu thuẫn
giữa hai giai cấp không thể điều hoà đợc và nguyên nhân sâu xa là do chế độ sở
hữu t nhân về t liệu sản xuất. Điều này đã đợc V.I.Lê nin khẳng định: Nhà nớc
là sản phẩm và biểu hiện của những mâu thuẫn giai cấp không thể điều hoà đợc.
1
2
C.Mác. Ph.Ăngghen. Toàn tập. NXB CTQG. Hà Nội. 1995. Tập 21. Tr.147.
V.I.Lênin. Toàn tập. NXB Tiến bộ. Mátxcơva. 1976. Tập 33. Tr.9.
4
Bất cứ ở đâu, hễ lúc nào và chừng nào, về mặt khách quan, những mâu thuẫn giai
cấp không thể điều hoà đợc, thì nhà nớc xuất hiện. Và ngợc lại: sự tồn tại của nhà
nớc chứng tỏ rằng những mâu thuẫn giai cấp là không thể điều hoà đợc3.
Nhà nớc ra đời nh thể đứng ngoài xã hội, xã hội tồn tại do sự quản lý của
nhà nớc. Nhng thực chất nhà nớc là cơ quan quyền lực của giai cấp thống trị, giai
cấp có thế lực trong xã hội. Dựa vào nhà nớc một tổ chức chuyên đợc dùng để
trấn áp, giai cấp thống trị mới có thể duy trì đợc ách áp bức bóc lột của mình đối
với giai cấp bị trị. Nh vậy, nhà nớc là một tổ chức đặc biệt của quyền lực chính trị
có nhiệm vụ cỡng chế và quản lý xã hội nhằm bảo vệ lợi ích trớc hết là của giai
cấp thống trị trong xã hội, cho nên sự ra đời của nhà nớc là một tất yếu khách
quan. Nhà nớc đợc lập ra và việc sử dụng bộ máy nhà nớc phải là của giai cấp
thống trị về mặt kinh tế và cũng chính vì vậy, nó cũng trở thành giai cấp thống trị
về mặt chính trị. Trên cơ sở đó, giai cấp thống trị có thêm phơng tiện để đàn áp
và bóc lột giai cấp bị trị. Hay nói cách khác, nhà nớc chỉ là công cụ chuyên chính
của một giai cấp, Nhà nớc chẳng qua chỉ là một bộ máy của một giai cấp này
dùng để trấn áp một giai cấp khác 4. Không thể có nhà nớc đứng trên giai cấp
hay nhà nớc đứng ngoài giai cấp, hoặc nhà nớc chung của nhiều giai cấp. Ph.
Ăngghen đã chỉ rõ: Nhà nớc hiện đại (nhà nớc t sản) dầu hình thức của nó là nh
thế nào chăng nữa, về thực chất cũng vẫn là một bộ máy t bản chủ nghĩa, là nhà
nớc của các nhà t bản, là t bản tập thể lý tởng. Nhà nớc ấy càng chuyển nhiều lực
lợng sản xuất thành tài sản của nó bao nhiêu thì nó lại biến thành nhà t bản tập
thể thực sự bấy nhiêu và càng bóc lột nhiều công nhân bấy nhiêu5.
Trong khi đó các nhà triết gia t sản luôn lớn tiếng biện hộ cho sự thống
trị của giai cấp t sản, xoá nhoà ranh giới giữa giai cấp t sản và giai cấp vô sản.
Mục đích của chúng là làm cho giai cấp công nhân và nhân dân lao động mơ hồ
với những vấn đề mâu thuẫn giai cấp trong xã hội; tìm mọi cách xuyên tạc nguồn
gốc, bản chất của nhà nớc. Chúng đã ra sức tán dơng nhà nớc t sản hiện đại, mô
tả nó là một nhà nớc siêu giai cấp, nhà nớc nhân dân tự do6. Nh vậy, nhà nớc
chỉ là công cụ chuyên chính của một giai cấp, không bao giờ có nhà nớc đứng
trên giai cấp, đứng ngoài giai cấp, nhà nớc nhân dân tự do nh các nhà triết gia
t sản từng biện hộ.
V.I.Lênin. Toàn tập. NXB Tiến bộ. Mátxcơva. 1976. Tập 33. Tr.9.
C.Mác. Ph.Ăngghen. Toàn tập. NXB CTQG. Hà Nội. 1995. Tập 22. Tr.290-291.
5
C.Mác. Ph.Ăngghen. Toàn tập. NXB CTQG. Hà Nội. 1994. Tập 20. Tr.387.
6
C.Mác. Ph.Ăngghen. Toàn tập. NXB CTQG. Hà Nội. 1994. Tập 20. Tr.390.
3
4
5
Thực tế lịch sử đã chứng minh, dù đợc che dấu bản chất t hữu, bóc lột
tinh vi nh thế nào, dù có sự điều chỉnh thích nghi ra sao, nhà nớc trong mọi xã
hội có giai cấp đối kháng cũng chỉ là công cụ bảo vệ lợi ích cơ bản của giai cấp
thống trị, cũng chỉ là một bộ máy trấn áp của một giai cấp này đối với một giai
cấp khác.
Nhà nớc pháp quyền t sản đợc ra đời từ rất sớm, đi cùng với nó là các học
thuyết, các nhà t tởng t sản nhằm bảo vệ cho học thuyết nhà nớc pháp quyền
chống lại sự chuyên chế quyền lợi và sự thống trị của nhà t bản. Nhà triết học cổ
điển Đức - Kant với học thuyết nhà nớc pháp quyền, ông cho rằng: cần phải có
một nhà nớc pháp quyền chống lại sự chuyên chế phi pháp luật của nhà nớc
phong kiến. Nhà nớc là sự liên kết của mọi ngời trong khuôn khổ pháp luật nhằm
giám sát và bảo đảm bình đẳng cho mọi công dân. Nhà nớc là sự liên kết của mọi
ngời trong khuôn khổ pháp luật nhằm giám sát và bảo đảm cho mọi công dân.
Hình thức cầm quyền của nhà nớc phải phù hợp với ý chí của xã hội, phải có nghị
viện, bầu cử tự do, có quyền ban hành các đạo luật, bản thân nhà nớc phải tự hạn
chế trong khuôn khổ pháp luật.
Giônlôccơ và Môngtexkiơ với học thuyết phân quyền, họ đề cao dân chủ
t sản chống lại nhà nớc phong kiến. Thực chất của học thuyết này là dùng quyền
lực để khống chế quyền lực và dàn xếp mâu thuẫn trong nội bộ t sản. Trong tổ
chức nhà nớc cần phân chia độc lập các quyền lập pháp, hành pháp, t pháp, nhng
quyền lực thống trị của nhà t sản chỉ là một.
Thuyết dân chủ đa nguyên của giai cấp t sản cho rằng, nhà nớc là một thể
chế dân chủ trung lập, vô t, cân bằng lợi ích. Các nhóm đại diện có cơ hội tham
gia công việc của nhà nớc. Đây thực chất là luận điệu lừa bịp của giai cấp t sản
nhằm biện hộ cho sự tồn tại của nhà nớc t sản chống lại học thuyết về nhà nớc
của chủ nghĩa Mác Lênin.
Nh vậy, t tởng về nhà nớc pháp quyền trong lịch sử đã có nhiều nhà t tởng đề cập đến và có nhiều trờng phái khác nhau. Mặc dù có sự khác nhau về
mục đích, bản chất, nhng nhìn chung các nhà t tởng đều khẳng định, nhà nớc cần
phải có pháp luật để quản lý xã hội.
Chủ nghĩa Mác Lênin khẳng định: Không bao giờ có một nhà nớc
trung lập, vô t, cân bằng lợi ích. Nhà nớc t sản bất kỳ dới hình thức nào cũng chỉ
là công cụ, là bộ máy áp bức, bóc lột đối với giai cấp vô sản và nhân dân lao
6
động. Theo V.I.Lê nin: Nhà nớc không phải là cái gì khác hơn là một bộ máy áp
bức của một giai cấp này đối với một giai cấp khác là trong một nớc cộng hoà
dân chủ cũng hệt nh trong một nớc quân chủ, nhà nớc vẫn chỉ là nh vậy thôi7.
Ngày nay, pháp luật của nhà nớc t sản thờng có vẻ bề ngoài nh là một cơ
cấu cho phép nhân dân tỏ rõ ý chí của mình một cách định kỳ, nhng những hình
thức và thể chế dân chủ đó hoàn toàn không làm thay đổi bản chất của nhà nớc t
sản. Đối với nhà nớc pháp quyền t sản, đặc trng quan trọng của nó là tính tối cao
về mặt hình thức của các đạo luật pháp quyền. Nhà nớc pháp quyền t sản có vẻ
nh đặt ra tình trạng mà trong đó không phải nhà nớc đứng trên pháp luật mà pháp
luật đứng trên nhà nớc. Nhà nớc t sản tuyên bố quyền bình đẳng trớc pháp luật
của mọi công dân, nhng trong thực tế, đó chỉ là quyền bình đẳng t sản, bảo đảm
lợi ích của nhà t sản. Mặc dù trong luật bầu cử của các nhà nớc t sản đều thừa
nhận quyền của ngời lao động, đợc ứng cử vào các cơ quan quản lý của nhà nớc.
Nhng trong một số trờng hợp, luật đó đã đa ra những điều kiện mà ngời lao động
khó vợt qua và trong những cuộc bầu cử. Giai cấp t sản nắm trong tay mình bộ
máy tuyên truyền đồ sộ, chi những khoản tiền khổng lồ để cổ động cho những
ứng cử viên của đảng mình. Vậy thử hỏi, những ngời công nhân, nhân dân lao
động nghèo có đủ khả năng để tranh cử hay không? Đó là kiểu dân chủ của
nhà nớc t sản nền dân chủ của thiểu số bọn bóc lột. Nhà nớc t sản cũng đặt ra
chế độ dân chủ cho nhân dân nhng không bao giờ đợc thực hiện trên thực tế. Nó
vẫn là một chế độ dân chủ chật hẹp bị cắt xén, giả hiệu, giả dối, một thiên đờng
cho bọn giàu có8. Nhà nớc t sản dân chủ ở chỗ: nó cho phép giai cấp t sản
quản lý các công việc nhà nớc, song bản chất chủ yếu của dân chủ t sản là sự
chuyên chính không hạn chế đối với ngời lao động. Nền dân chủ t sản đang
chồng chất nhiều sự bất công không thể giải quyết đợc, ở đó, không ít những yêu
cầu dân chủ sơ đẳng nhất của ngời lao động vẫn bị chà đạp và sự bóc lột của chủ
nghĩa t bản đối với công nhân đợc che đậy rất tinh vi với sự bình đẳng nhất của
ngời lao động vẫn bị chà đạp và sự bóc lột của chủ nghĩa t bản đối với công nhân
và cũng cho phép ngời công nhân tự do bán sức lao động của mình cho nhà t bản.
Vì vậy, chỉ có thể đạt đợc một nhà nớc thực sự dân chủ của nhân dân, một khi
xóa bỏ đợc nhà nớc t sản để xác lập nhà nớc xã hội chủ nghĩa nhà nớc vô sản.
7
8
V.I.Lênin. Toàn tập. NXB Tiến bộ.Mátxcơva. 1976. Tập 33. Tr.98.
V.I.Lênin. Toàn tập. NXB Tiến bộ.Mátxcơva. 1976. Tập 37. Tr.305.
7
Nhà nớc vô sản là nhà nớc mà tất cả quyền lực thuộc về nhân dân. Chế
độ dân chủ là cho nhân dân. Nhà nớc vô sản là nhà nớc của dân, do dân, vì dân.
Nền dân chủ của nhà nớc vô sản đợc dựa trên nền tảng của khối liên minh công nông và đội ngũ trí thức do Đảng cộng sản lãnh đạo, mang bản chất giai cấp công
nhân. Lợi ích của giai cấp công nhân thống nhất với lợi ích toàn dân tộc, vì vậy
nền dân chủ đợc bảo đảm trên thực tế. Đúng nh Lê nin đã chỉ rõ: nền dân chủ xã
hội chủ nghĩa gấp triệu lần dân chủ t sản. Đồng thời, nhà nớc vô sản kết hợp bạo
lực trấn áp và tổ chức xây dựng, trong đó tổ chức xây dựng là chủ yếu; thống
nhất giữa tính dân tộc và tính quốc tế.
Theo chủ nghĩa Mác Lê nin, cuộc đấu tranh giai cấp tất yếu dẫn đến
chuyên chính vô sản. Có nghĩa là giai cấp vô sản đập tan bộ máy nhà nớc t sản
thiết lập quyền thống trị của mình. Chuyên chính vô sản thực chất là nhà nớc của
giai cấp vô sản. Nhà nớc t sản tuy đã bị lật đổ nhng vẫn còn mang những dấu vết
của những thây ma thối rữa của xã hội cũ, nh Ph.Ăngghen đã nói. Nó vẫn còn
tồn tại sự bất bình đẳng trong xã hội. Lê nin viết: Nhà nớc vẫn cha tiêu vong
hẳn, vì vậy còn duy trì pháp quyền t sản là pháp quyền xác nhận bất bình đẳng
trong thực tế9. Chính vì vậy, nhà nớc vô sản tất yếu phải thiết lập nền chuyên
chính vô sản, phải quản lý xã hội bằng pháp luật. Nhng nhà nớc đó hoàn toàn
khác về chất đối với nhà nớc t sản, đây là nhà nớc kiểu mới, một nhà nớc đặc biệt
nhà nớc không nguyên nghĩa, là nhà nớc nửa nhà nớc. Sau khi những cơ sở
kinh tế, xã hội của nhà nớc mất đi thì nhà nớc sẽ không còn. Sự mất đi của nhà nớc vô sản không phải bằng con đờng thủ tiêu hay xoá bỏ mà bằng con đờng
tự tiêu vong và đó là một quá trình lâu dài. Ph.Ăngghen đã chỉ ra con đờng đấu
tranh cho giai cấp vô sản là giai cấp vô sản chiếm lấy chính quyền nhà nớc và
biến t liệu sản xuất trớc hết thành sở hữu nhà nớc. Nhng chính vì thế mà giai cấp
vô sản cũng tự thủ tiêu với t cách là giai cấp vô sản, chính vì thế mà nó cũng xoá
bỏ mọi sự phân biệt giai cấp và mọi đối kháng giai cấp và cũng xoá bỏ nhà nớc
với t cách là nhà nớc10.
Lý luận về nhà nớc là một trong những nội dung cơ bản của chủ nghĩa
duy vật lịch sử. Từ những cơ sở lý luận và thực tiễn đã phân tích ở trên, một lần
nữa chúng ta khẳng định: nhà nớc vô sản ra đời và tồn tại là tất yếu khách quan.
Trên cơ sở đó, để đập tan mu toan của các nhà lý luận t sản phản động ra sức biện
9
10
V.I.Lênin. Toàn tập. NXB Tiến bộ.Mátxcơva. 1976. Tập 33. Tr.117.
V.I.Lênin. Toàn tập. NXB CTQG. Hà Nội. 1994. Tập 20. Tr.389.
8
hộ cho sự thống trị của giai cấp t sản, cố tình làm lu mờ bản chất t hữu, bóc lột
của giai cấp t sản; tìm mọi cách xuyên tạc nguồn gốc, bản chất của nhà nớc; ra
sức tán dơng nhà nớc t sản hiện đại, mô tả nó là một nhà nớc tự do, nhà nớc
toàn dân. Nguy cơ làm cho giai cấp công nhân và nhân dân lao động trên toàn
thế giới mơ hồ với vấn đề đáu tranh giai cấp, dẫn đến thỏa hiệp, hữu khuynh.
Từ lý luận và thực tiễn về nguồn gốc, bản chất của nhà nớc mà chủ nghĩa
Mác - Lênin đã chỉ ra, chúng ta có thể rút ra ý nghĩa và phơng pháp luận là: Phải
xem xét nhà nớc chỉ là một phạm trù lịch sử, không có nhà nớc tồn tại vĩnh hằng,
nhà nớc chung chung. Nhà nớc là bộ máy thống trị của giai cấp này đối với một
giai cấp khác, vì vậy nhà nớc mang bản chất giai cấp sâu sắc, không có nhà nớc
chung cho nhiều giai cấp.
Nhà nớc của giai cấp t sản là nhà nớc đại diện cho lợi ích của giai cấp
bóc lột, thống trị giai cấp vô sản và nhân dân lao động, bản chất của nó vẫn là t
hữu và bóc lột. Vì vậy, giai cấp vô sản không bao giờ đợc mơ hồ ảo tởng trong
cuộc đấu tranh giai cấp. Kiên quyết đấu tranh với những quan điểm cho rằng: nhà
nớc đứng trên giai cấp, ngoài giai cấp, siêu giai cấp, nhà nớc chung của xã hội,
nhà nớc tự do, chủ nghĩa t bản tự do, hoặc cho nhà nớc là quan toàn điều hoà giai
cấp. Hoặc, nguy hiểm hơn nữa là chúng cho rằng: nhà nớc ta là nhà nớc đảng trị,
đòi xoá bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng đối với nhà nớc, đòi đa nguyên, đa đảng.
Cụ thể là chúng đòi bỏ điều 4 trong Hiến pháp Nớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam (sửa đổi) năm 1992 Đảng cộng sản Việt Nam là lực lợng lãnh đạo
Nhà nớc và xã hội11. Hay chúng cho rằng: nhà nớc pháp quyền là nhà nớc riêng
có của chế độ t bản, ta chỉ có nhà nớc xã hội chủ nghĩa. Đây là những quan điểm
sai lầm, cứng nhắc, bảo thủ và bịp bợm nhằm cố tình che đậy bản chất t hữu, bóc
lột của nhà nớc t sản.
Nhà nớc và pháp luật ở Việt Nam xuất hiện rất sớm. Cũng giống nh sự ra
đời của các nớc khác trên thế giới, sự ra đời và phát triển của nhà nớc Việt Nam
là một tất yếu lịch sử. So với các nhà nớc khác thì nhà nớc Việt Nam có những
nét đặc thù riêng về chế độ t hữu và phân hoá giai cấp. Trong xã hội Việt Nam,
chế độ t hữu khác với các nớc phơng Tây, Trung Quốc hay ấn Độ. Vấn đề nàu
đợc biểu hiện, nớc ta không có sở hữu t nhân về ruộng đất mà ruộng đất thuộc sở
hữu của nhà nớc (của Vua), chỉ có sơ hữu về t liệu sinh hoạt. ở Việt Nam, giai
11
Hiến pháp Việt Nam từ 1946 đến năm 2001. NXB Thành phố Hồ Chí Minh. 2002. Tr.197.
9
cấp bóc lột xuất hiện không phải từ chế độ sở hữu t nhân về t liệu sản xuất mà
giai cấp bóc lột xuất hiện từ kiến trúc thợng tầng. Biểu hiện là: nhà nớc có chính
sách khai hoang ruộng đất, lập điền trang; phân phong, ban thởng ruộng đất cho
những ngời có công; tất cả sự ban thởng và tịch thu ruộng đất đều do Vua quyết
định.
Cùng với sự phát triển của lực lợng sản xuất, quá trình phân hoá giai cấp
ở Việt Nam cũng diễn ra từ từ và không sâu sắc. Hơn nữa, ở Việt Nam không có
hình thái kinh tế chiếm hữu nô lệ. Theo các tài liệu nghiên cứu thì xã hội có giai
cấp đầu tiên ở Việt Nam là chế độ phong kiến và nó đợc diễn ra khoảng vào cuối
thời kỳ Hùng Vơng.
Việt Nam là một đất nớc thuần nông, vì vậy nhu cầu của việc xây dựng,
quản lý các công trình trị thuỷ và thuỷ lợi đều cần đến vai trò tổ chức và điều
hành của nhà nớc. Mặt khác, Việt Nam là một quốc gia luôn bị các nhà nớc phơng Bắc xâm chiếm, cho nên việc tổ chức đấu tranh của nhà nớc để chống ngoại
xâm luôn luôn đợc chú trọng. Bên cạnh đó, do sự phát triển của các quan hệ giai
cấp va sự phức tạp hoá các quan hệ xã hội cũng là một trong những yếu tố dẫn
đến sự ra đời của nhà nớc Việt Nam.
Lịch sử hình thành và phát triển của nhà nớc Việt Nam trải qua nhiêu giai
đoạn và nhiều loại hình nhà nớc khác nhau nh: nhà nớc Văn Lang, Âu Lạc,
Chiêm Thành, Chân Lạp... điều đó thể hiện: nớc ta là một quốc gia đa dân tộc, đa
tôn giáo và văn hoá hết sức phong phú và phức tạp. Quá trình hình thành và phát
triển của nhà nớc Việt Nam luôn gắn liền với cuộc đấu tranh dựng nớc và giữ nớc
của dân tộc. Trải qua hàng ngàn năm lịch sử, dân tộc ta không những không bị
đồng hoá bởi văn hoá và luật pháp hà khắc của các thế lực ngoại bang mà nhà nớc và pháp luật của chúng ta không ngừng đợc củng cố và phát triển.
Nhà nớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là sự kế tục các nhà nớc
Việt Nam trong lịch sử, là sự phát triển lên một tầm cao mới trên nền tảng nhà n ớc dân chủ nhân dân. Nhà nớc cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ra đời là kết
quả tất yếu của cuộc đấu tranh cách mạng của giai cấp vô sản và của nhân dân
lao động dới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Ngay từ cơng lĩnh năm
1930, Đảng ta đã chỉ ra con đơng cách mạng là phải đánh đổ bọn thực dân phong
kiến, xây dựng nhà nớc công - nông dới sự lãnh đạo của Đảng. Cách mạng tháng
Tám năm 1945 thắng lợi , chính quyền về tay nhân dân, nhân dân lập nên Nhà n-
10
ớc Việt Nam dân chủ cộng hoà, Nhà nớc dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam
á. Thế nhng, trớc đó việc lựa chọn một mô hình nhà nớc nh thế nào cho đất nớc
không phải là điều dễ dàng. Các nhà yêu nớc của phong trào Cần Vơng với mô
hình nhà nớc phong kiến thối nát; Phan Bội Châu và Quốc dân đảng với mô hình
nhà nớc t sản; Phan Chu Trinh với mô hình nhà nớc cộng hoà Pháp... tất cả các
loại hình đó đều đã lỗi thời và phản động không đáp ứng đợc sự đòi hỏi của lịch
sử và nguyện vọng của nhân dân. Trong sự khủng hoảng đó, xuất hiện mô hình
Nhà nớc xã hội chủ nghĩa Xô Viết ở Nga, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tiếp thu và
vận dụng một cách sáng tạo trong việc xây dựng một Nhà nớc kiểu mới, mô hình
Nhà nớc cộng hoà dân chủ nhân dân Nhà nớc của dân, do dân, vì dân, một nhà
nớc mang bản chất giai cấp công nhân. Từ đó đến nay, Nhà nớc Việt Nam liên
tục phát triển và ngày càng hoàn thiện, thực sự là trụ cột của hệ thống chính trị, là
căn cứ chủ yếu để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân. Hiện nay, xây dựng
Nhà nớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam đang là một đòi hỏi tất yếu
khách quan của công cuộc đổi mới, của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiên đại hoá,
xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc. Đúng nh Dự thảo báo cáo chính trị tai Đại hội X
của Đảng đã chỉ rõ: Xây dựng Nhà nớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân là yêu cầu bức thiết của xã hội12
Một số đặc điểm của xã hội Việt Nam và bản chất của Nhà nớc pháp
quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa cần nắm vững.
Để xây dựng Nhà nớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa vững mạnh, chúng ta
cần lu ý một số đặc điểm của xã hội Việt Nam nh sau:
Một là, xã hội và con ngời Việt Nam luôn có ý thức tiếp cận và tiếp thu
có chọn lọc tinh hoa văn hoá nhân loại, đó là sự thuận lợi trong việc tiếp nhận
những cơ sở lý luận về học thuyết xây dựng nhà nớc pháp quyền tiên tiến trên thế
giới. Đó cũng có thể coi là quá trình giao lu văn hoá chung giữa nớc ta với các nớc khác. Trong giao lu văn hoá cần tránh hai khuynh hớng: một là, thái độ kỳ thị
với các hiện tợng văn hoá nớc ngoài, tự tôn, ngạo mạn, thái quá; hoặc tự ti dân
tộc, dẫn đến đóng cửa, khép kín. Khuynh hớng thứ hai là: sùng ngoại quá mức
dẫn đến miệt thị, coi thờng văn hoá dân tộc mình . Vì vậy, sự tiếp nhận, vận dụng
một cách sáng tạo có chọn lọc những điểm tích cực của học thuyết nhà nớc pháp
quyền trên thế giới phù hợp với điều kiện lịch sử và văn hoá Việt Nam là rất cần
12
ĐCSVN. Dự thảo báo cáo chính trị tại đại hội X của Đảng (Báo QĐND 3-2-2006 tr.B)
11
thiết. Đây là một trong những nội dung mà Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc
biệt coi trọng và thực hiện đạt nhiều thành tựu trong quá trình lãnh đạo cách
mạng Việt Nam.
Thứ hai là, ngời Việt Nam chúng ta nói chung có lối sống cha quen tuân
thủ pháp luật, điều đó đã cản trở việc xây dựng Nhà nớc pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam hiện đại. Từ hàng ngàn đời nay, ngời Việt Nam truyền cho nhau
cái ý chí không tuân thủ pháp luật của nhà nớc phong kiến phơng Bắc. Sự
không chấp hành luật pháp của kẻ xâm lợc là lẽ sống, là hành động cao thợng của
ngời Việt Nam. Hơn 1000 năm Bắc thuộc cũng là thời gian đủ để hình thành tập
quán sống theo lệ làng, chứ không tuân theo pháp luật. Trong thời kỳ phong kiến,
với pháp luật hà khắc của các triều đại vua chúa cũng đã góp phần tạo nên lòng
căm thù và thái độ tiêu cực của nhân dân đối với pháp luật. Vì vậy, có thể nói
trong nhân dân ta đến nay vẫn tồn tại thói quen sống không tuân theo pháp luật.
Việc xây dựng Nhà nớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đòi hỏi phải khắc
phục tinh trạng phép Vua thua lệ làng, phải xây dựng một hệ thống pháp luật
đáp ứng đợc quyền lợi của đông đảo quần chúng nhân dân, đồng thời phải tăng cờng công tác giáo dục tuyên truyền pháp luật là một trong những giải pháp quan
trọng.
Th ba là, Nớc ta là một nớc nông nghiệp, làng xã là đơn vị hành chính
quan trọng ở cơ sở và có hơn 80% dân số sinh sống ở đây. Việc xây dựng nhà nớc pháp quyền chỉ có thể thực hiện đợc trên cơ sở con ngời.. Vì vậy, chiến lợc
xây dựng nhà nớc pháp quyền phải đợc bắt đầu từ làng xã. Trải qua hàng ngàn
năm lịch sử, các làng xã Việt Nam có xu hớng khép kín, có bờ cõi, phong tục tập
quán riêng. Tính chất khép kín của làng xã Việt Nam một mặt tạo ra bớc thuận
lợi cho việc xây dựng nhà nớc pháp quyền kiểu mới. Mặt khác, có thể gây cản trở
lớn cho quá trình đó. Vì vậy, trong quá trình xây dựng Nhà nớc pháp quyền xã
hội chủ nghĩa Việt Nam, chúng ta cần phải tiến hành đồng bộ nhiều giải pháp,
trong đó có những giải pháp không phải cứ dùng pháp luật là thành công, mà
điều đáng quan tâm là làm sao cho trình độ dân trí, trình độ am hiểu pháp luật
của nhân dân và cả cộng đồng đợc nâng lên, mọi ngời dân phải thấy đợc sống và
làm việc theo Hiến pháp và Pháp luật vừa là nghĩa vụ, đồng thời vừa là quyền
lợi. Khi đó, việc xây dựng nhà nớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa mới thu đợc
nhiều kết quả. Mặt khác, việc thực hiện quyền dân chủ phải phù hợp với trình độ
dân trí, trình độ am hiểu pháp luật của nhân dân. Bởi lẽ, nếu nhân dân do hạn chế
12
về khả năng, năng lực mà sử dụng dân chủ không đúng lúc, đúng chỗ sẽ rất nguy
hiểm, bởi vì đây là một mũi nhọn mà kẻ thù thờng lợi dụng để xuyên tạc, chống
phá cách mạng nớc ta.
Bản chất Nhà nớc ta là nhà nớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do
dân, vì dân, mang bản chất giai cấp công nhân. Chủ nghĩa Mác Lê nin đã
khẳng định, trong xã hội có giai cấp, giai cấp nào nắm quyền thống trị về kinh tế
thì đồng thời nắm quyền thống trị xã hội về chính trị thông qua bộ máy nhà nớc.
Do đó, nhà nớc ta bao giờ cũng mang bản chất của giai cấp thống trị. Trong chế
độ ta, giai cấp công nhân giữ vai trò lãnh đạo xã hội thông qua sự lãnh đạo của
bộ tham mu chiến đấu của mình là Đảng Cộng sản, vì vậy, Nhà nớc ta mang bản
chất giai cấp công nhân, vấn đề này đợc thể hiện:
Nhà nớc ta là nhà nớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì
dân. Nhà nớc đợc xây dựng trên nền tảng liên minh giữa giai cấp công nhân với
giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt
Nam. Quyền lực nhà nớc là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ
quan nhà nớc trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và t pháp. Từ tổ
chức, cơ chế hoạt động đến những nguyên tắc và chính sách pháp luật của nhà nớc đều quán triệt t tởng, quan điểm của giai cấp công nhân, đó là chủ nghĩa Mác
Lê nin, T tởng Hồ Chí Minh và đờng lối, chính sách của Đảng nhằm xây dựng
thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa. Nhà nớc ta là công cụ để thc hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
Việt Nam và là công cụ chủ yếu để thc hiện quyền làm chủ của nhân dân lao
động.
Nhà nớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa, đó là một nhà nớc phục vụ, đáp
ứng những nhu cầu, đòi hỏi của xã hội pháp quyền, tức là bảo đảm cho sự thống
trị của pháp luật và không cho phép sự can thiệp hành chính vào các quá trình tự
điều chỉnh trong xã hội. Nhà nớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam trớc
hết phải là một nhà nớc dân chủ, một nền dân chủ trong thực tế, không phải chỉ
giới hạn ở những biểu hiện bên ngoài của nó nh: mít tinh, diễu hành, cổ động,
tranh cử, báo chí, tự do... Nền dân chủ của nhà nớc ta là nền dân chủ chân chính,
có những cơ chế pháp luật để thực hiện, có trình độ nhất định về văn hoá chính trị
và văn hoá pháp luật để vận hành. Bất cứ một nền dân chủ nào cũng đòi hỏi sự
tồn tại và phát triển các quy tắc, các trình tự, các quy phạm pháp luật và nền dân
chủ của Nhà nớc ta cũng vậy. Vấn đề củng cố Nhà nớc pháp quyền dân chủ xã
13
hội chủ nghĩa Việt Nam liên quan mật thiết với các vấn đề nâng cao uy tín của
nhà nớc, thực hiện nguyên tắc tính tối cao của pháp luật và bảo đảm tuân thủ
pháp luật nghiêm minh.
Để theo kịp với tiến trình lịch sử của thế giới, nhà nớc pháp quyền hiện
đại của nớc ta phải là một nớc có khả năng giải quyết những vấn đề chung của cả
xã hội Việt Nam, của toàn thể nhân dân Việt Nam. Chúng ta không đợc mơ hồ về
bản chất giai cấp công nhân của nhà nớc ta; đồng thời cũng phải nhấn mạnh yếu
tố dân tộc, yếu tố cộng đồng, yếu tố toàn dân của Nhà nớc Việt Nam.
Tính nhân dân, tính dân tộc của Nhà nớc ta đợc thể hiện là, lợi ích cơ bản
của giai cấp công nhân và nhân dân lao động là thống nhất.Nhà nớc ta mang bản
chất giai cấp công nhân, đại biểu cho lợi ích chung của toàn thể nhân dân lao
động và của cả dân tộc. Vì vậy, Nhà nớc ta có tính nhân dân và tính dân tộc sâu
sắc. Tính nhân dân của Nhà nớc ta thể hiện ở chỗ: Chính quyền nhà nớc và quyền
lực nhà nớc thực sự thuộc về nhân dân lao động, đại biểu cho lợi ích, ý chí và
nguyện vọng của nhân dân. Chính quyền do nhân dân bầu ra, nhân dân tham gia
quản lý, giám sát và bãi miễn. Nhà nớc ta hoạt động vì lợi ích của nhân dân. Cán
bộ, công chức nhà nớc là công bộc của dân và là đầy tớ của nhân dân, phải lấy
việc phục vụ nhân dân làm mục tiêu cao nhất. Sức mạnh của Nhà nớc ta bắt
nguồn từ sức mạnh của nhân dân, của khối đại đoàn kết toàn dân do Đảng cộng
sản Việt Nam lãnh đạo. Nhà nớc đoàn kết, tập hợp mọi lực lợng, tạo điều kiện
cho mọi ngời, mọi tầng lớp phát huy mọi khả năng của mình vào sự nghiệp
chung của đất nớc.
Tính dân tộc của Nhà nớc thể hiện: Nhà nớc ta ra đời trong cuộc đấu
tranh giải phóng dân tộc, với mục tiêu phấn đấu vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa
xã hội. Trong tổ chức và hoạt động, Nhà nớc ta kế thừa và phát huy những truyền
thống, bản sắc tốt đẹp của các dân tộc và con ngời Việt Nam. Nhà nớc ta có
chính sách dân tộc đúng đắn, thực hiện bình đẳng dân tộc, chăm lo lợi ích mọi
mặt của các dân tộc trong cộng đồng ngời Việt Nam và thực hiện đại đoàn kết
dân tộc. Nhà nớc ta đại diện cho quyền lợi dân tộc luôn luôn giữ vững quan điểm
độc lập tự chủ, tự lực, tự cờng trong quan hệ đối ngoại. Kết hợp đúng đắn chủ
nghĩa yêu nớc với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân.
Cùng với tính nhân dân, tính dân tộc, dân chủ xã hội chủ nghĩa, chúng ta
luôn coi dân chủ xã hội chủ nghĩa vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách
14
mạng xã hội chủ nghĩa, của công cuộc đổi mới theo định hớng xã hội chủ nghĩa
hiện nay. Nhà nớc ta là đại biểu quyền lợi của nhân dân, đồng thời là công cụ chủ
yếu để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân. Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa của
nhà nớc ta đợc thể hiện là: Mọi quyền lực của Nhà nớc thuộc về nhân dân và do
nhân dân làm chủ. Nhà nớc ta thực hiện dân chủ với đa số nhân dân lao động dới
sự lãnh đạo của Đảng và chuyên chính với các thế lực xâm phạm đến lợi ích của
Tổ quốc, của nhân dân. Quyền làm chủ của nhân dân lao động đợc thực hiện trên
mọi mặt của đời sống xã hội, đợc bảo đảm bằng hiến pháp, pháp luật, chính sách,
cơ chế và điều kiện thực hiện; đợc hoàn thiện và nâng cao trong quá trình phát
triển kinh tế xã hội, phát triển con ngời toàn diện cả về trí tuệ, đạo đức và
năng lực hành động. Quyền con ngời đợc Nhà nớc tôn trọng và bảo đảm. Các
quyền và lợi ích của cá nhân, tự do cá nhân nếu không xâm phạm đến lợi ích tự
do của ngời khác và của cộng đồng trong khuôn khổ pháp luật đều đợc Nhà nớc
tôn trọng và bảo vệ. Nhà nớc ta do nhân dân lập ra thông qua tổng tuyển cử toàn
dân, đặt dới sự kiểm soát của nhân dân. Nhân dân có quyền bãi miễn những đại
biểu của dân nếu họ không có đủ phẩm chất và năng lực. Dân chủ đi đôi với kỷ
luật, kỷ cơng, quyền lợi và trình độ dân trí, truyền thống, lịch sử, văn hoá dân tộc.
Quyền dân chủ không đợc quá giới hạn của pháp luật, dân chủ có sự lãnh đạo của
Đảng.
Nh vậy, bản chất của Nhà nớc ta thống nhất giữa bản chất giai cấp công
nhân, tính nhân dân, tính dân tộc và dân chủ xã hội chủ nghĩa đặt dới sự lãnh đạo
của giai cấp công nhân thông qua đội tiền phong là Đảng cộng sản, đồng thời là
công cụ chủ yếu để nhân dân lao động thực hiện quyền làm chủ của mình. Chính
vì vậy, Nhà nớc ta thực sự là Nhà nớc của dân, do dân, vì dân và có vai trò to lớn
trong công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và góp phần vào sự nghiệp chung của
nhân loại tiến bộ trên thế giới.
Xây dựng Nhà nớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một tất yếu
khách quan và hợp với quy luật lịch sử. Chủ nghĩa Mác - Lê nin đã khẳng định:
giữa xã hội t bản chủ nghĩa và xã hội cộng sản chủ nghĩa là một thời kỳ cải biến
cách mạng từ xã hội nọ sang xã hội kia, thích ứng với thời kỳ ấy là một thời kỳ
quá độ chính trị và nhà nớc của một thời kỳ ấy không thể là cái gì khác hơn là sự
chuyên chính cách mạng của giai cấp vô sản 13. Thực tiễn lịch sử nớc ta đã chứng
minh, Nhà nớc Việt Nam dân chủ cộng hoà ra đời năm 1945 là do mồ hôi, xơng
13
C.Mác và Ph.Ăngghen. Toàn tập. NXB CTQG. Hà Nội. 1995. Tập 19. Tr.47.
15
máu của giai cấp công nhân cùng toàn thể dân tộc Việt Nam dới sự lãnh đạo sáng
suốt của Đảng cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Tình hình thực tiễn và một số yêu cầu nội dung cơ bản của việc xây dựng
Nhà nớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.
Hiện nay, chủ nghĩa đế quốc đứng đầu là đế quốc Mỹ và các thế lực thù
địch đang ra sức tăng cờng chống phá các nớc xã hội chủ nghĩa còn lại bằng
chiến lợc Diễn biến hoà bình và chúng coi Việt Nam là một trọng điểm chống
phá. Bên cạnh đó, với chiêu bài chống khủng bố, nhân đạo, nhân quyền, tôn
giáo... đế quốc Mỹ sẵn sàng cấm vận, dùng đòn đánh phủ đầu nhằm lật đổ bất kì
một quốc gia dân tộc nào nếu không nghe theo cái gậy chỉ huy của chúng.
Thực tế, trong thời gian qua ở Việt Nam, đế quốc Mĩ và các thế lực thù địch và
đang tiếp tay cho bọn phản động trong và ngoài nớc ra sức chống phá cách mạng
nớc ta bằng nhiều thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt. Một trong những thủ đoạn chúng
thờng dùng là xuyên tạc đờng lối, chính sách của Đảng và nhà nớc, kích động
vấn đề dân tộc, tôn giáo nh; đòi ly khai, thành lập nhà nớc Đề -ga độc lập ở Tây
nguyên; các nhà nớc tự trị ngay trong lòng Tổ quốc Việt Nam. Mục đích của
chúng là chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tạo cớ nhằm can thiệp, xoá bỏ sự
lãnh đạo của Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa ở nớc ta.
Mặt khác, công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xớng và lãnh đạo 20 năm
qua đã thu đợc nhiều thành tựu to lớn. Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin
cậy của các nớc trong cộng đồng quốc tế14, trong điều kiện hội nhập, giao lu, mở
cửa toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới. Vì vậy, chúng ta phải có hệ thống pháp luật
đủ mạnh để tạo hành lang pháp lý và bảo vệ lợi ích cho các thành phần kinh tế
làm ăn có hiệu quả không bị thua thiệt. Đặc biệt, phải giữ vững sự ổn định về
chính trị, đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nớc trên tất cả các
lĩnh vực của đời sống xã hội. Chính vì vậy, xây dựng Nhà nớc pháp quyền xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam là vấn đề cơ bản và cấp bách hiện nay.
Trong những năm qua, hoạt động của các cơ quan quyền lực nhà nớc đã
có nhiều tiến bộ. Nhà nớc tiếp tục đợc xây dựng và thực tiễn, nền hành chính đợc cải cách một bớc. Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân tiếp tục đổi mới
nội dung và phơng thức hoạt động. Quyền làm chủ của nhân dân trên các lĩnh
Đảng cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX. NXB CTQG. Hà
Nội. 2001. Tr.119.
14
16
vực đợc phát huy; một số chính sách và quy chế bảo đảm quyền dân chủ của
nhân dân, trớc hết ở cơ sở, bớc đầu đợc thực hiện15.
Tuy vậy, một số cơ chế chính sách còn thiếu, cha nhất quán, cha sát với
cuộc sống, thiếu tính khả thi. Nhiều cấp, nhiều ngành cha thay thế, sửa đổi.
Những quy định về quản lý Nhà nớc không còn phù hợp.. có những chính sách
đúng bị biến dạng qua nhiều tầng nấc hành chính quan liêu. Việc ban hành các
văn bản pháp quy, hớng dẫn thi hành luật rất chậm16; Tình trạng tham nhũng,
quan liêu, mất đoàn kết nội bộ, vừa vi phạm quyền làm chủ của nhân dân, vừa
không giữ đúng kỷ cơng phép nớc xảy ra ở nhiều nơi, có những nơi nghiêm
trọng. Chức năng, nhiệm vụ của các bộ phận trong hệ thống chính trị cha đợc xác
định rành mạch, trách nhiệm không rõ; nội dung và phơng thức hoạt động chậm
đổi mới, còn nhiều biểu hiện của cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp, đội ngũ cán
bộ còn chắp vá17.
Từ thực trạng tình hình nêu trên, việc xây dựng Nhà nớc pháp quyền xã
hội chủ nghĩa Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá hiện nay là
một yêu cầu đòi hỏi khách quan; là một trong những nhiệm vụ trung tâm của hệ
thống chính trị của chúng ta. Đó là nhà nớc thể hiện bản chất thực sự của nhân
dân, do nhân dân, vì nhân dân và chúng ta dứt khoát phải quản lý xã hội bằng
pháp luật18.
Pháp luật là công cụ chủ yếu của Nhà nớc ta để điều tiết các quan hệ xã
hội cơ bản giữa các giai cấp, các tầng lớp nhân dân và quản lý xã hội. Quản lý xã
hội bằng pháp luật là yêu cầu khách quan của một xã hội văn minh, công bằng,
dân chủ, là phơng thức chủ yếu bảo đảm hiệu lực của nhà nớc. Đây cũng là một
trong những khâu bộc lộ yếu kém hiện nay của Nhà nớc ta. Đồng thời, là yêu cầu
búc xúc trong quá trình cải cách tổ chức và hoạt dộng của Nhà nớc Việt Nam.
Nhà nớc quản lý xã hội bằng pháp luật là phải bảo đảm tăng cờng hiệu lực của
pháp luật trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội bảo đảm toàn xã hội tuân theo
pháp luật. Nhà nớc phải bảo vệ đợc quyền lợi hợp pháp, danh dự, nhân phẩm của
mọi công dân, khắc phục sự tuỳ tiện, lạm quyền của các cơ quan và cán bộ nhân
viên nhà nớc. Mọi công dân phải chịu trách nhiệm và thực hiện nghĩa vụ của
Đảng cộng sản Việt Nam. Sđd. Tr.71.
Đảng cộng sản Việt Nam. Sđd.Tr.75,76.
17
Đảng cộng sản Việt Nam. Các Nghị quyết hội nghị lần thứ 5, BCHTW Khoá IX. NXB CTQG.
Hà Nội. 2002. Tr.83.
18
Đỗ Mời. Đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới vì xã hội chủ nghĩa. NXB ST. H. 1993. Tr.96,97.
15
16
17
mình trớc nhà nớc và xã hội. Nhà nớc phải kiểm tra, giám sát việc thi hành mọi
quyết định đã ban hành, kiểm tra giám sát việc tuân thủ pháp luật, xử lí nghiêm
minh, kịp thời mọi hành vi vi phạm pháp luật, dù đó là ai và ở bất cứ cơng vị nào.
Để tăng cờng pháp chế xã hội chủ nghĩa, quản lý xã hội bằng pháp luật,
xây dựng Nhà nớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong sạch, vững
mạnh, có hiệu lực và hiệu quả, cùng toàn Đảng, toàn dân, toàn quân thực hiện đợc mục tiêu: Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; dân giàu, nớc mạnh,
xã hội công bằng, dân chủ, văn minh19. Theo tinh thần nghị quyết Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng, chúng ta phải thực hiện tốt một số nội dung
cơ bản sau đây:
Một là, Xây dựng nhà nớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa dới sự lãnh đạo
của Đảng. Từ cơ sở phơng pháp luận đã chỉ ra là, nhà nớc mang bản chất giai cấp
sâu sắc và thực chất bản chất giai cấp của nhà nớc là bản chất của đảng cầm
quyền. Vì vậy, tăng cờng bản chất giai cấp của nhà nớc nghĩa là phải tăng cờng
sự lãnh đạo của Đảng đối với nhà nớc. Sự lãnh đạo của Đảng đối với nhà nớc là
điều kiện tiên quyết bảo đảm cho nhà nớc về nội dung, phơng hớng chính trị.
Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo Nhà nớc cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam
đợc quy định rõ trong điều 4 của Hiến pháp nớc cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam. Nhà nớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam dới sự lãnh đạo của Đảng
là Nhà nớc của dân, do dân, vì dân, nhng không phải nhà nớc toàn dân. Nhà nớc đặt dới sự lãnh đạo của Đảng, thực hiện đờng lối chính trị của Đảng thông qua
Hiến pháp, pháp luật; chứ không phải Đảng hoá Nhà nớc hay Nhà nớc hoá
Đảng. Đảng lãnh đạo nhà nớc bằng đờng lối chính trị, thông qua hệ thống tổ
chức và thông qua đội ngũ cán bộ đảng viên của Đảng, chứ Đảng không bao
biện, làm thay công việc của Nhà nớc. Việc nâng cao chất lợng của hệ thống
phấp luật có quan hệ mật thiết, không tách rời với việc nâng cao chất lợng của đờng lối, chính sách lãnh đạo của Đảng. Vì vậy, nâng cao chất lợng của đờng lối,
chính sách của Đảng có ý nghĩa quyết định đến việc nâng cao chất lợng của hệ
thống pháp luật.
Hai là, cải cách thể chế và phơng thức hoạt động của nhà nớc. Kiện toàn
tổ chức, đổi mới phơng thức và nâng cao hiệu quả hoạt động của các đại biểu
Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp. Tăng cờng công tác lập pháp, hành pháp
19
Đảng cộng sản Việt Nam. Văn kiện đại hội ĐBTQ lần thứ IX. NXB CTQG. H. 2001. Tr.86.
18
và t pháp. Chúng ta phải đổi mới, nâng cao chất lợng công tác lập pháp và giám
sát tối cao của Quốc hội đối với toàn bộ hoạt động của nhà nớc; xây dựng và
hoàn chỉnh hệ thống pháp luật; cải cách nền hành chính nhà nớc, bao gồm cải
cách thể chế hành chính, tổ chức bộ máy và kiện toàn đội ngũ cán bộ, công chức
có phẩm chất, có năng lực, kịp thời thay thế những cán bộ công chức yếu kém và
thoái hoá biến chất; cải cách mạnh mẽ tổ chức và hoạt động lập pháp. Điều đó đã
nói lên rằng, Đảng và Nhà nớc ta luôn luôn rất coi trọng và quan tâm đến việc cải
cách nền hành chính nhà nớc, làm cho bộ máy của nhà nớc hoạt động ngày càng
có hiệu lực, hiệu quả.
Ba là, mở rộng dân chủ nhng phải đi đôi với tăng cờng kỷ luật, kỷ cơng
pháp chế, quản lí xã hội bằng pháp luật; quyền lợi đi đôi với trách nhiệm, nghĩa
vụ; dân chủ phải đợc thể chế hoá thành pháp luật, dân chủ trong khuôn khổ pháp
luật; kịp thời đấu tranh với những hành vi vi phạm pháp luật và tội phạm. Khắc
phục tình trạng vô kỷ luật, dân chủ cực đoan hoặc dân chủ hình thức, lợi dụng
dân chủ để gây rối. Thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở, mở rộng dân chủ trực
tiếp ở cơ sở, tạo điều kiện để nhân dân tham gia quản lý xã hội, thảo luận và
quyết định những vấn đề quan trọng của đất nớc; bảo đảm để dân biết, dân bàn,
dân làm, dân kiểm tra.
Nâng cao chất lợng đại biểu Quốc hội, đại biểu hội đồng nhân dân, hoàn
thiện những quy định về bầu cử, ứng cử, về tiêu chuẩn và cơ cấu đại biểu Quốc
hội và hội đồng nhân dân trên cơ sở thật sự phát huy dân chủ. Chăm lo con ngời,
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mọi ngời; tôn trọng và thực hiện các điều ớc quốc tế về quyền con ngời mà Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia. Đổi mới cơ
chế, xác định trách nhiệm của các cấp, các cơ quan, cán bộ, công chức trong việc
giải quyết kịp thời khiếu nại, tố cáo của công dân. Phát huy dân chủ đi đôi với
giữ vững kỷ luật, kỉ cơng, tăng cờng pháp chế, quản lý xã hội bằng pháp luật,
tuyên truyền, giáo dục toàn dân nâng cao ý thức chấp hành pháp luật.
Bốn là, xây dựng đội ngũ cán bộ công chức trong sạch, có năng lực. Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã dạy: cán bộ là cái gốc của mọi công việc. Cán bộ là khâu
then chốt trong việc tổ chức thực hiện mọi đờng lối, chủ trơng chính sách của
Đảng và pháp luật của Nhà nớc. Nhân dân có tin theo Đảng và Nhà nớc hay
không trớc hết họ nhìn vào sự gơng mẫu, trong sạch của đội ngũ cán bộ công
chức của Đảng và Nhà nớc. Hiện nay Tình trạng tham nhũng, suy thoái về t tởng, chính trị, đạo đức, lối sống ở một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên là
19
rất nghiêm trọng20. Vì vậy, chúng ta phải nghiêm túc kiểm điểm, đánh giá chất
lợng cán bộ, kịp thời thay thế những cán bộ công chức yếu kém và thoái hoá biến
chất. Bên cạnh đó, phải tăng cờng cán bộ cho cơ sở. Có chế độ, chính sách đào
tạo, bồi dỡng, đãi ngộ đối với cán bộ xã, phờng, thị trấn.
Xây dựng Nhà nớc pháp quyền ở Việt Nam hiện nay là một quá trình
không ngừng hoàn thiện bộ máy nhà nớc thông qua các cuộc cải cách toàn diện
cả về thể chế, tổ chức bộ máy lẫn đội ngũ cán bộ công chức. Nhân tố con ngời
đóng mội vai trò đặc biệt, nhất là việc coi trọng, đề cao nhân tố con ngời. Vậy
nên, khi tiến hành cải cách thể chế cần giải quyết đúng đắn mối quan hệ pháp lý
giữa một bên là nhà nớc với bên kia là cá nhân, công dân.
Năm là, Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục cho mọi ngời dân
nâng cao ý thức chấp hành pháp luật và đấu tranh mạnh mẽ với bệnh quan liêu,
tham nhũng trong bộ máy Nhà nớc.
Tổ chức tốt việc học tập và thực hiện pháp luật trong toàn xã hội, bảo
đảm cho pháp luật đợc chấp hành nghiêm chỉnh. Pháp luật dù có nội dung và
hình thức tốt đến đâu, bản thân nó cũng không thể tự mình đi vào cuộc sống đợc.
Để pháp luật trở thành công cụ sắc bén bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và trở
thành ý chí chung của mọi ngời, đợc mọi ngời chấp hành một cách tự giác. Nhà
nớc phải Tăng cờng giáo dục ý thức pháp luật, sống và làm việc theo Hiến pháp
và pháp luật, bảo đảm cho pháp luật đợc thi hành một cách nghiêm minh, thống
nhất và công bằng21. Pháp luật chỉ có thể đợc tuân thủ và thực hiện tốt và trở
thành hiện thực trong cuộc sống khi hoạt động có tổ chức và việc thực hiện pháp
luật đợc coi trọng, đẩy mạnh. Vì vậy, chúng ta phải hớng dẫn cụ thể việc thi hành
các điều luật, đồng thời coi trọng việc tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức
pháp luật cho toàn dân, làm cho mỗi công dân có ý thức sống, làm việc theo Hiến
pháp và pháp luật. Chính phủ, các cơ quan hữu quan cần ban hành kịp thời, đầy
đủ các văn bản hớng dẫn thi hành luật và tổ chức tuyên truyền, phổ biến pháp
luật sâu rộng trong nhân dân22. Tích cực đấu tranh chống lại những hành vi vi
phạm pháp luật. Hiện nay, Đảng và Nhà nớc ta đã, đang rất quan tâm đến công
Đảng cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX. NXB CTQG. Hà
Nội. 2001.Tr.57,58.
21
Đảng cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX. NXB CTQG. Hà
Nội. 2001. Tr.57,58.
22
Nguyễn Văn An. Lời bế mạc tại Kỳ họp thứ 6. Quốc hội khoá X/. Báo Nhân dân ngày
04/12/2004. Tr.7.
20
20
tác tuyên truyền thông qua chơng trình của Đài tiếng nói Việt Nam, Chơng trình
truyền hình Quốc gia và các địa phơng và mỗi xã, phờng, thị trấn đều có tủ sách
pháp luật, t vấn pháp luật. Đây là một trong những biện pháp giáo dục, tuyên
truyền pháp luật có hiệu quả.
Đồng thời với công tác tuyên truyền, giáo dục, phải kiên quyết chống
tham nhũng trong bộ máy Nhà nớc và toàn bộ hệ thống chính trị ở các cấp, các
ngành. Đảng ta xác định, tham nhũng là một trong những nguy cơ trực tiếp quan
hệ đến sự sống còn của hệ thống chính trị nói chung, nhà nớc ta nói riêng. Vì
vậy, chúng ta cần phải kết hợp những giải pháp cấp bách với những giải pháp có
tầm chiến lợc nhằm vừa hoàn thiện cơ chế chính sách, kiện toàn tổ chức, chấn
chỉnh công tác quản lý cán bộ, khắc phục mọi sơ hở, xử lý nghiêm minh mọi sai
phạm trong đội ngũ cán bộ công chức của nhà nớc, làm trong sạch bộ máy. Cùng
với việc chống tham nhũng, phải gắn chặt với việc chống quan liêu, buôn lậu,
hành vi lợi dụng chức quyền, làm giàu bất chính của đội ngũ cán bộ, đảng viên.
Phát huy vai trò của quân đội trong xây dựng và bảo vệ Nhà nớc pháp
quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay.
Quân đội nhân dân Việt Nam là công cụ bạo lực sắc bén, là lực lợng
chính trị, lực lợng chiến đấu trung thành và tin cậy của Đảng và Nhà nớc xã hội
chủ nghĩa và của nhân dân ta.
Việc xây dựng nhà nớc pháp quyền đặt ra nhiều vấn đề mới trong xây
dựng, hoạt động của quân đội. Chúng ta phải xây dựng Quân đội nhân dân và
Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ và từng bớc hiện đại, có bản
lĩnh chính trị vững vàng; trung thành tuyệt đối với Tổ quốc, với Đảng và nhân
dân23, đủ sức bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ
an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội và nền văn hoá; bảo vệ Đảng, Nhà nớc,
nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ sự nghiệp đổi mới và lợi ích quốc
gia, dân tộc24. Giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa nâng cao hiệu lực quản lý
của nhà nớc về quốc phòng, quản lý nhà nớc đối với tổ chức và hoạt động của
Quân đội với tăng cờng sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối
với Quân đội; tăng cờng xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh
nhân dân, tạo cơ sở vững chắc để xây dựng Nhà nớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Đảng cộng sản. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX. NXB CTQG. Hà Nội. 2001.
Tr.118.
24
Đảng Cộng sản Việt Nam. S.đ.d. Tr.117.
23
21
đáp ứng với yêu cầu nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam trong sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nớc.
Để quân đội ta phát huy tốt vai trò trách nhiệm của mình đối với nhiệm
vụ xây dựng và bảo vệ Nhà nớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay,
cần thực tốt một số vấn đề cơ bản sau:
- Tăng cờng giáo dục chính trị t tởng, nâng cao nhận thức, trách nhiệm
của quân đội đối với nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ nhà nớc ta hiện nay.
Bảo vệ Nhà nớc và bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nớc có mối quan hệ biện chứng với nhau. Trong đó, bảo vệ nhà nớc
gắn liền với bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền, thống nhất và
toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ Đảng và
chế độ xã hội chủ nghĩa. Nh vậy, trong điều kiện hiện nay, bảo vệ Tổ quốc, thực
hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nớc cũng có nghĩa là
quân đội góp một phần quan trọng cùng toàn Đảng, toàn dân, vợt qua khó khăn,
thách thức, tận dụng tốt thời cơ, vận hội để xây dựng nhà nớc pháp quyền Việt
Nam xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân vững mạnh. Đây là vấn đề cần
đợc nhận thức nhất quán và sâu sắc hơn nữa trong Quân đội ta.
- Quân đội tích cực tham gia có hiệu quả cuộc đấu tranh trên mặt trận
chính trị xã hội, góp phần bảo vệ vững chắc Nhà nớc ta hiện nay.
Trong tình hình hiện nay, trớc âm mu thâm độc của các thế lực phản
động, đòi hỏi chúng ta: trong khi tập trung mọi nguồn lực để phát triển kinh tế,
thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nớc, chúng ta không đợc lơ là, mất
cảnh giác đối với nhiệm vụ bảo vệ tổ quốc, chống Diễn biến hoà bình, bạo loạn
lật đổ. Bằng bất cứ giá nào, quân đội cũng phải bảo vệ đợc Đảng, Nhà nớc và chế
độ xã hội chủ nghĩa. Do đó, cần coi trọng, giữ vững sự ổn định chính trị, xã hội,
coi đó là điều kiện tiên quyết cho sự phát triển kinh tế, thực hiện thành công sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nớc heo định hớng xã hội chủ nghĩa.
Cùng với đấu tranh chống chiến lợc diễn biến hoà bình, bạo loạn lật đổ
và âm mu phi chính trị hoá quân đội của các thế lực thù địch, quân đội ta cần
tích cực tham gia bảo vệ pháp luật nhà nớc, chống giặc nội xâm, đó là chống
các căn bệnh quan liêu, tham nhũng, buôn lậu, ma tuý, mại dâm; giúp dân xoá
đói, giảm nghèo, xoá mù chữ ở vùng sâu vùng xa, bài trừ mê tín dị đoan... góp
phần giữ nghiêm pháp luật nhà nớc.
22
- Quân đội tham gia lao động sản xuất, xây dựng kinh tế, cứu hộ, cứu
nạn, phòng chống lụt bão, góp phần xây dựng và bảo vệ nhà nớc ta.
Lao động sản xuất, xây dựng kinh tế là một chức năng cơ bản của quân
đội ta, là nét đẹp truyền thống của dân tộc ta từ ngàn xa để lại. Đây cũng là một
biểu hiện bản chất của quân đội cách mạng, của nhà nớc chuyên chính vô sản.
Trong những năm qua, cán bộ, chiến sỹ quân đội ta đã nêu cao truyền thống tốt
đẹp Bộ đội cụ Hồ, tích cực tham gia lao động, sản xuất, phát triển kinh tế,
phòng chống lụt bão. Đặc biệt, các đơn vị trong toàn quân đã tham gia xây dựng
các khu kinh tế kết hợp với quốc phòng ở các vùng chiến lợc, vùng sâu, vùng xa,
vùng biên giới, hải đảo, góp phần bảo vệ và khẳng định chủ quyền của Nhà nớc
ta.
Hiện nay, quân đội ta đang sở hữu một nguồn nhân lực dồi dào với những
u thế về phẩm chất chính trị, tính kỷ luật, trình độ học vấn, sức khoẻ. Với nguồn
lực quan trọng về con ngời, trang bị kỹ thuật quân sự, quân đội ta thực sự là lực lợng xung kích đi tiên phong trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Nhà nớc cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Để góp phần cho Quân đội hoàn thành tốt chức năng, nhiệm vụ của
mình, mỗi quân nhân phải tích cực học tập, rèn luyện mọi mặt, nâng cao bản lĩnh
chính trị, xây dựng ý chí quyết tâm cao, có năng lực hành động giỏi, hoàn thành
tốt nhiệm vụ đợc giao; phát huy quyền làm chủ, tích cực tham gia xây dựng nhà
nớc và chính quyền các cấp vững mạnh, nhất là chính quyền địa phơng nơi đơn vị
đóng quân; thực hiện tốt nghĩa vụ, trách nhiệm, quyền lợi của ngời công dân,
quân nhân, nh: tham gia bầu cử, kiểm tra, giám sát, chất vấn các đại biểu Quốc
hội, Hội đồng nhân dân các cấp. Ra sức học tập nâng cao hiểu biết về kỷ luật
Quân đội, pháp luật Nhà nớc, gơng mẫu chấp hành và tuyên truyền vận động
nhân dân thực hiện nghiêm đờng lối, chính sách của Đảng, Hiến pháp, Pháp luật
của Nhà nớc. Phát huy dân chủ, thực nhiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở, chấp
hành nghiêm kỷ luật của Quân đội, quy định của đơn vị, thực hiện nề nếp chính
quy, hành động theo điều lệnh. Kiên quyết đấu tranh ngăn ngừa và đẩy lùi các
hành vi vi phạm pháp luật Nhà nớc, điều lệnh, điều lệ, kỷ luật quân đội và các
tiêu cực, tệ nạn xã hội trong đơn vị.
23
Mỗi quân nhân trong quân đội cần nhận thức sâu sắc rằng: chỉ có đặt dới
sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nớc, sự cu mang đùm bọc của nhân
dân, Quân đội ta mới trởng thành và là đội quân bách chiến, bách thắng.
Kết luận: Xây dựng Nhà nớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là
một tất yếu khách quan phù hợp với quy luật phát triển của lịch sử, đáp ứng yêu
cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nớc theo định hớng xã hội
chủ nghĩa. Đồng thời, là sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, T tởng Hồ
Chí Minh về xây dựng Nhà nớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa, Nhà nớc của dân,
do dân, vì dân. Để xây dựng Nhà nớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
trong sạch, vững mạnh, có hiệu lực và hoạt động có hiệu quả, chúng ta phải ra
sức tổ chức thực hiện tốt các yêu cầu nội dung lớn nh đã nêu trên. Đồng thời, cần
phát huy vai trò, trách nhiệm của Quân đội ta trong thực hiện thắng lợi nhiệm vụ
xây dựng và bảo vệ Nhà nớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.