Tải bản đầy đủ (.doc) (33 trang)

SKKN môn toán lớp 1 năm 2015

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.08 MB, 33 trang )

PHẦN THỨ NHẤT: ĐẶT VẤN ĐỀ
1. CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA VẤN ĐỀ:
1.1 CƠ SỞ LÍ LUẬN:
Luật giáo dục năm 2005 đã xác định: “ Mục tiêu của giáo dục phổ thông
là giúp học sinh phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ và các
kĩ năng cơ bản, phát triển năng lực cá nhân, tính năng động và sáng tạo, hình
thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xây dựng tư cách và
trách nhiệm công dân; chuẩn bị cho học tiếp tục học lên hoặc đi vào cuộc sống
lao động, tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.”
Năm học 2014 - 2015, ngành giáo dục tiếp tục thực hiện phong trào thi
đua hai tốt theo đúng định hướng của Đảng ta " Tiếp tục nâng cao chất lượng
giáo dục toàn diện, đổi mới nội dung, phương pháp dạy và học. Phát huy tinh
thần độc lập suy nghĩ và sáng tạo của học sinh.” Muốn nâng cao được chất
lượng giáo dục toàn diện thì việc hướng dẫn học sinh lớp 1 viết chữ đẹp là cần
thiết và cấp bách vì “ Nét chữ, nết người” đúng như cố Thủ tướng Phạm Văn
Đồng đã từng nói: “Chữ viết cũng là một biểu hiện của nết người. Dạy cho học
sinh viết đúng, viết cẩn thận, viết đẹp là góp phần rèn luyện cho các em tính cẩn
thận, lòng tự trọng đối với mình cũng như đối với thầy và bạn đọc bài của
mình”.
Chữ đẹp nào phải hoa tay
Ta chăm luyện tập hàng ngày đâu quên
Gắng công ra sức chí bền
Gian nan rèn luyện mới nên con người.
Trẻ em đến trường là để được học đọc, học viết. Nếu phân môn tập đọc –
học vần giúp trẻ biết đọc thông thì phân môn tập viết sẽ giúp trẻ viết thạo. Trẻ
đọc thông, viết thạo sẽ giúp trẻ tiếp thu bài nhanh hơn, học tốt hơn.
Học sinh lớp 1 ngày đầu tiên đi học ở trường phổ thông còn rất nhiều bỡ
ngỡ. Việc làm quen với chữ viết đối với các em thật khó khăn bởi đôi tay còn
vụng về, lóng ngóng. Là giáo viên dạy lớp 1, tôi luôn trăn trở suy nghĩ một câu
hỏi : ở lớp 1 có nên tiến hành dạy các em viết đẹp ngay không ? Qua việc giảng
dạy môn Tập Viết tôi nhận thấy rằng đối với học sinh lớp 1 nếu cùng một lúc


đòi hỏi các em viết đúng, viết đẹp ngay là một điều không thực tế, khó có thể
thực hiện được. Do vây đối vói từng lớp, giáo viên cần lựa chọn mục tiêu trọng
tâm của môn học phù hợp với lứa tuổi để học sinh tiếp thu bài một cách vững
chắc nên tôi đã xác định muốn viết chữ đẹp thì việc đàu tiên cần làm ở lớp 1 là
rèn cho trẻ có nề nếp và kĩ thuật viết chữ đúng thì mới có cơ sở để viết chữ đẹp .


Đây chính là yêu cầu có tính quyết định trong việc rèn viết chữ đẹp cho suốt quá
trình học tập của học sinh.
Việc rèn chữ viết cho học sinh còn là môi trường quan trọng bồi dưỡng
cho trẻ những phẩm chất tốt như: tính cẩn thận, tinh thần kỷ luật và óc thẩm mỹ.
Nhưng muốn viết thạo trẻ phải gắng công khổ luyện dưới sự dìu dắt tận tình của
các thầy giáo, cô giáo.
Tập viết là một trong những phân môn có tầm quan trọng đặc biệt ở tiểu
học, Tập viết giúp học sinh viết chữ đẹp hơn. Phân môn Tập viết trang bị cho
học sinh bộ chữ La Tinh và những yêu cầu về kỹ thuật để sử dụng bộ chữ cái
này trong học tập và giao tiếp. Với ý nghĩa này, tập viết không những có quan
hệ mật thiết tới chất lượng học tập của các môn học khác mà còn góp phần rèn
luyện một trong những kỹ năng hàng đầu của việc học Tiếng Việt trong nhà
trường – kỹ năng chữ viết. Nếu viết đúng, viết đẹp, tốc độ nhanh thì học sinh có
điều kiện ghi chép bài học tốt, nhờ vậy kết quả học tập sẽ cao hơn. Viết xấu,
chậm sẽ ảnh hưởng không nhỏ tới chất lượng học tập.
Mặt khác Tập viết là phân môn có tính chất thực hành. Tính chất thực
hành có mục đích của việc dạy học tập viết cũng góp phần khẳng định vị trí
quan trọng của phân môn này ở trường tiểu học.
Đặc biệt theo chương trình sách giáo khoa mới ở tiểu học và theo quyết
định số 31/2002/QĐ-BGD&ĐT của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và đào tạo về mẫu
chữ viết trong trường tiểu học thì tính chất thực hành của phân môn tập viết
càng thể hiện rõ. Qua việc thực hành của học sinh, người giáo viên lại một lần
nữa rèn cho học sinh tính cẩn thận và khiếu thẩm mỹ của các em.

1.2. CƠ SỞ THỰC TIỄN:
Trong những năm gần đây, chữ viết của học sinh trong các nhà trường
Tiểu học là vấn đề các cấp lãnh đạo, các thầy cô giáo, các bậc phụ huynh hết sức
quan tâm. Các phong trào “ Giữ vở sạch, viết chữ đẹp” của giáo viên và học sinh
được duy trì thường xuyên và phát triển sâu rộng trong phạm vi toàn quốc.
Thật vậy, nhìn trang vở của học sinh với những dòng chữ đều tăm tắp,
sạch sẽ thì cả cha mẹ và thầy cô đều dấy lên một niềm vui. Chúng ta như đặt
niềm tin vào tương lai con trẻ.
Tuy nhiên chúng ta đang ở trong một thời đại mới, thời đại công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước. Thời đại thông tin bùng nổ, mọi người thường ngồi
với chiếc máy vi tính của mình để soạn thảo một văn bản thay vì cầm bút viết
trên giấy. Việc rèn chữ viết của mọi người bị chìm vào quên lãng. Và với xu
hướng học lên càng cao thì thi cử chủ yếu lại bằng hình thức trắc nghiệm, chính
điều này cũng đã tạo cho học sinh thói quen là trong các bài kiểm tra, hay thi cử,
chỉ cần đánh dấu vào các đáp án đúng là có điểm nên không có cơ hội và cũng
không cần rèn luyện kỹ năng viết.
2


Ở trong trường tiểu học cũng vậy, trong những năm học gần đây, học sinh
viết chữ xấu là một tình trạng đáng báo động. Hiện nay học sinh lựa chọn đủ các
loại bút để viết, đặc biệt là học sinh rất yêu thích với chiếc bút bi của mình hơn
là những loại bút chấm mực như ngày xưa. Mặt khác, chữ viết của khá nhiều
giáo viên chưa đúng quy định cũng ảnh hưởng rất nhiều đến việc rèn chữ viết
của học sinh. Mỗi thầy, cô giáo được xem như là một tấm gương phản chiếu để
học sinh soi rọi vào đó. Lứa tuổi của học sinh tiểu học là lứa tuổi hay “bắt
chước”, giáo viên viết như thế nào thì học sinh viết như thế đó.
Ở lớp 1 trong một năm học, học sinh được học Tập viết:
+ Học kì I: Sau mỗi bài học vần học sinh được luyện các chữ các em vừa
học à mỗi tuần có thêm 1 tiết Tập viết từ tuần 1 đến hết tuần 24. Học sinh học

viết các chữ cái, vần, tiếng, từ mới
+ Học kì II: Mỗi tuần có 1 tiết Tập viết, mỗi tiết 35 phút – 40 phút và học
sinh được làm quen với chữ hoa. Trong mỗi tiết tập viết, học sinh được hướng
dẫn và tập tô từng chữ cái viết hoa, sau đó tập viết vần cỡ chữ vừa, từ ngữ cỡ
chữ nhỏ. Song học sinh chỉ được luyện tô chữ hoa. Tuy nhiên, với học sinh lớp 1
học môn tập viết để viết đẹp là rất khó vì ở lớp 1 các em mới làm quen với chữ
hoa qua hình thức tập tô trong giai đoạn luyện tập tổng hợp ở học kỳ 2. Chính vì
vậy khi viết chính tả, chữ hoa của các em mới dừng ở mức độ gần giống với
hình dáng theo mẫu chữ qui định, một số em còn thao tác ngược hoàn toàn với
qui trình viết hoặc nhấc bút tuỳ tiện không biết đâu là điểm đặt bút, điểm nhấn
của con chữ để tạo độ mềm mại, đẹp. Còn một lý do nữa là trong giờ dạy tập
viết, còn nhiều giáo viên chưa chú ý và coi trọng tính luyện tập, thực hành của
học sinh, mà đi sâu quá vào việc giải thích qui trình viết chữ, nên học sinh
không được luyện viết nhiều và luyện viết còn mang tính hình thức. Vì vậy, để
học sinh lớp 1 viết đúng, tiến tới viết đẹp là mối quan tâm và trăn trở rất lớn của
tôi cũng như các đồng nghiệp.
Thực tế khi giảng dạy trên lớp, tôi thấy còn có học sinh thiếu tính kiên
trì, ý thức luyện chữ chưa cao. Do đặc điểm tâm lý lứa tuổi, sự tập trung chú ý
của học sinh lớp 1 còn yếu thiếu bền vững, các em mau quên lại chóng chán.
Chính vì vậy một số không ít học sinh còn có thái độ tiêu cực: lười biếng, cẩu
thả …khi viết. Có em chưa được sự quan tâm của gia đình nên khi đến lớp còn
quên bút, gãy ngòi, rồi bút hết mực, hỏng ngòi … đã ảnh hưởng không chỉ đến
chữ viết mà còn ảnh hưởng đến chất lượng học tập của các em.
Xuất phát từ cơ sở lí luận và thực tiễn trên, tôi mạnh dạn đưa ra đề tài: “
Biện pháp rèn kĩ năng viết chữ cho học sinh lớp 1”.
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU:
- Đề tài giúp giáo viên tìm ra nguyên nhân tại sao học sinh viết chữ chưa đẹp
để từ đó có biện pháp khắc phục.
3



- GV tìm ra những biện pháp tốt nhất nhất để giúp học sinh lớp 1C viết chữ
đúng và đẹp hơn.
- Thông qua việc nghiên cứu, tìm tòi và thực tế áp dụng, mỗi giáo viên sẽ mở
mang thêm được nhiều kiến thức, phương pháp và kinh nghiệm khi dạy tập viết
cũng như luyện chữ viết cho học sinh.
- Đề tài giúp các em HS có các kỹ năng viết chữ đúng, đẹp ngay từ lớp 1 và
nhằm nâng cao chất lượng chữ viết của học sinh lớp 1 nói riêng, học sinh Tiểu
học nói chung. Tạo cho các em có tác phong học tập và làm việc có kế hoạch,
có sáng tạo, có ý chí vượt khó khăn, cẩn thận, kiên trì, tự tin, có hứng thú khi
viết chữ.
3. ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI VÀ THỜI GIAN NGHIÊN CỨU:
1. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu:
Học sinh lớp 1C.
2. Thời gian nghiên cứu:
Năm học: 2013 – 2014; 2014 -2015.

PHẦN THỨ HAI: NỘI DUNG.
1. THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU:
Năm học 2014 - 2015 tôi được nhà trường phân công giảng dạy lớp 1C .
Trong năm học này lại có quy định mới về việc đánh giá đối với học sinh lớp
1. Sau khi làm quen với lớp, tôi nhận thấy còn nhiều hạn chế. Cụ thể:
- Nhiều học sinh ngồi sai tư thế khi viết, lưng không thẳng, mắt sát vào
vở như em Ngọc Anh, Phong, Quỳnh Anh,
- Tiếp thu chậm như: Quang, Trang.
- Còn có học sinh chưa thuộc hết bảng chữ cái Tiếng Việt như: Quang,
Như, Trang.
- Lớp còn có em đọc sai lỗi : âm đầu l - n, s - x, tr - ch, d - r - gi.
- Nếu ở lớp 1 mà không rèn được chữ đẹp thì lên lớp trên lại càng khó có
thể rèn các em viết chữ đẹp được. Các em lớp 1 cũng như những cây non,

muốn trở thành các cây vững chắc sau này thì phải được uốn nắn kịp thời ngay
từ những buổi đầu cầm bút.
- Do bộ giáo dục nhiều lần thay sách ảnh hưởng rất nhiều đến chữ viết
của học sinh. Vì một số học sinh được gia đình dạy trước ở nhà. Do gia đình
không nắm vững qui tắt chữ viết nên khi các em viết sai rồi rất khó sửa.
- Trong chương trình dạy không có rèn học sinh viết vở ô li. Không có
thời gian rèn học sinh viết vở ô li. Nhưng khi viết chính tả thì lại viết trên vở ô
li. Nếu giáo viên không chú ý rèn học sinh viết vở ô li ngay từ đầu thì học sinh
gặp nhiều khó khăn, lúng túng hơn khi viết.
4


- Đa số phụ huynh chưa quan tâm đến việc học của con em mình. Một số
cho rằng lớp 1 rất đơn giản chưa cần phải quan tâm.
Đặc biệt lớp 1 lại là lớp đầu cấp tiểu học, học sinh chưa có chút nề nếp
nào, chưa biết gì về viết chữ, lạ lẫm với trường, lớp, cô giáo và bạn bè.
ĐIỀU TRA KHẢO SÁT TRÌNH ĐỘ TẬP VIẾT CỦA HỌC SINH
LỚP 1C.
1- Khi tiến hành, tôi đã theo dõi và kiểm tra chất lượng tập viết đầu năm
của lớp, tôi kiểm tra bài tập sau:
Bài 1: Viết vở ô li.
Lễ, cọ, bờ, hổ (mỗi chữ một dòng)
Sau khi chấm chữa bài tôi thu được kết quả sau:
Kết quả bài 1: Chữ loại A:
7 em/40 em = 17,5%
Chữ loại B:
27 em/40 em = 67,5%
Chữ loại C:
6 em/40em = 15%
Đứng trước thực trạng này, tôi rất lo lắng về chất lượng chữ viết của lớp.

Hơn nữa, các em mới từ mẫu giáo lên lớp 1 nên kĩ năng viết đúng, đẹp là cần
thiết. Vì vậy năm học 2014 - 2015 tôi đã mạnh dạn đưa ra sáng kiến: “ Biện
pháp rèn kĩ năng viết chữ cho học sinh lớp 1”.
2. BIỆN PHÁP THỰC HIỆN:
2.1 . Biện pháp 1: Giáo viên phải nắm vững kiến thức, kỹ thuật viết
+ Giáo viên dạy cho học sinh biết đâu là dòng kẻ, đâu là đường kẻ ngang,
đường kẻ thẳng đứng. Dựa vào đây để rèn tính cẩn thận, kỷ luật và tính
thẫm mỹ cho học sinh
+ Cho học sinh xác định số đường kẻ từ đường kẻ ngang số 1 trở lên (có 6
đường kẻ ngang), số dòng kẻ (5 dòng kẻ). Biết được đường kẻ thẳng đứng tạo
thành các ô vuông với đường kẻ ngang.

Đường kẻ thẳng đứng

5


Dòng kẻ

Đường kẻ ngang 1
- Thống nhất các loại đồ dùng như bảng, vở tập viết, vở ô li có đường kẻ,
dòng kẻ...tương tự.
- Giáo viên dạy cho học sinh các nét cơ bản thật kỹ. Học sinh phải nắm
được các nét cơ bản đó. Để giúp cho học sinh viết đúng cỡ chữ, viết đẹp thì
không thể coi thường phần viết nét chữ cơ bản:
2.1.1. Các nét thẳng:
+ Thẳng đứng ( | ) : Nét có trong các chữ p, q...
+ Nét ngang ( ) Nét có trong các chữ đ, t...
+ Nét xiên: Xiên phải ( / ), xiên trái ( \ )
+ Nét hất ( ) : Nét có trong các chữ : i, u, ư...

2.1.2. Các nét cong:
+ Nét cong kín ( hình bầu dục đứng O ) : Nét có trong các chữ o, ô, ơ,
a,...
+ Nét cong hở: Cong hở phải ( c ), cong hở trái ( ɔ )...Nét có trong các
chữ x, c.
2.1.3. Các nét móc:
+ Nét móc ngược(
)Nét có trong các chữ như: a, ă, i, u,...
+ Nét móc xuôi ( ): Nét có trong các chữ: m, n, v.
+ Nét móc hai đầu có thắt ở giữa ( ): Nét có trong chữ k.
2.1.4. Nét khuyết:
+ Nét khuyết trên (
) : Nét có trong các chữ: b, h, k, l.
+ Nét khuyết dưới (
): Nét có trong các chữ: y, g.
2.1.5. Nét thắt: Nét có trong các chữ: b, r, s, v.
Ngoài ra còn một số nét bổ sung: Nét chấm ( trong chữ i). Nét gãy (trong
dấu phụ của chữ ă, â ), dấu hỏi ( ), dấu ngã ( )
Ngoài việc tôi cho các em luyện viết trên bảng con các nét trên, mỗi buổi
học tôi còn phô tô cho mỗi em một số bài mẫu về các nét cơ bản để các em
luyện viết cho đẹp.
Với 13 nét cơ bản này tôi yêu cầu học sinh học thuộc và viết chính xác.
Từ những nét cơ bản này học sinh viết sang các con chữ rất dễ dàng.
- Bên cạnh đó giáo viên cần giải thích các thuật ngữ như:
* Điểm đặt bút: Là điểm bắt đầu khi viết một nét trong chữ cái. Điểm đặt bút
có thể nằm trên đường kẻ ngang, hoặc không nằm trên đường kẻ ngang.
* Điểm dừng bút: Là vị trí kết thúc của nét chữ trong một chữ cái. Điểm
dừng có thể trùng với điểm đặt bút hoặc không nằm trên đường kẻ ngang.
6



*Cần chú điểm đặt bút, chiều cao, và dừng bút ở các chữ sau:
Chiều rộng con chữ nên viết ở 1ô rưỡi tính từ nét viết đầu tiên.
Chữ e: đặt bút trên đường kẻ thứ 1( 1/3 dòng kẻ thứ 1) và dừng bút ngay
trên đường kẻ 1( bằng ngang điểm đặt bút)
b, l, h, k: Đây là các chữ có nét khuyết trên cao 5dòng = 5ô li trong vở.
Điểm đặt bút và dừng bút ở đường kẻ thứ 2.
O, ô, ơ, a, ă, â, d, đ, q, g, x: những chữ có nét cong, cong tròn, đặt bút
ngay dưới đường kẻ ngang thứ 3, phía trên trong ô vuông của dòng thứ 2, đặt
bút vòng lên đụng đường kẻ thứ 3, vòng trái xuống dụng đường kẻ thứ 1, vòng
lên ngay điểm đặt bút, viết sao cho tròn đều.
x: đặt bút dưới đường kẻ thứ 3 viết nét cong trái, dừng bút giữa dòng kẻ
thứ 1, đặt bút và dừng bút tưng tự cho nét cong phải.
g: có nét khuyết dưới quay xuống 5 dòng
d, đ, q, p, những nét này có nét thẳng, quay lên hay quay xuống thì cao độ
vẫn 4 dòng.
V, n, m : những chữ này bắt đầu từ nét móc trên, đặt bút ở giữa dòng kẻ
thứ 2, có độ cao 2 dòng, dừng bút ngay đường kẻ 2.
I, u, ư (t): những chữ này bắt đầu là nét xiên trái. Đặt bút ngay đường kẻ
thứ 2, cao 2 dòng, dừng bút ngay đường kẻ thứ 2 ngang bằng với chỗ đặt bút.
(Riêng chữ t cao 3 dòng)
R, s, bắt đầu bằng nét xiên trái, đặt bút ngay đường kẻ 1 nét thắt đầu trên
đường kẻ 3, dừng bút ngay đường kẻ 2.
*Viết liền mạch: Là thao tác đưa ngòi bút liên tục từ điểm kết thúc của nét
đứng trước tới điểm bắt đầu của nét đứng sau.
Ví dụ: Khi viết e, u, ư, n, m, nh, ph hoặc chữ đứng trước liền với các nét
móc trên, móc dưới, nét xiên, nét khuyết như: (en, ưu, in, nhện) ên, un, um, im,
inh, ênh, phim....
* Lia bút: Để đảm bảo tốc độ trong quá trình viết một chữ cái hay viết nối
các chữ cái với nhau, nét bút được thể hiện liên tục nhưng dụng cụ viết (đầu

ngòi bút, phấn) không chạm vào mặt phẳng viết (giấy, bảng). Thao tác đưa bút
trên không gọi là lia bút.
Ví du: Khi viết chữ x, t, g, a, ă, â, d, đ, q, và các vần có nét cong đứng
trước; on, oc,....
* Rê bút: Đó là trường hợp viết đè lên theo hướng ngược lại với nét chữ vừa
viết. Ở đây xảy ra trường hợp dụng cụ viết (đầu ngòi bút, phấn) chạy nhẹ từ
điểm kết thúc của nét đứng trước đến điểm bắt đầu của nét liền sau.
Ví du: n, m, h, p, ph.
* Nhất bút: Là động tác kết thúc khi viết xong một chữ, ta nhấc bút bắt dầu
viết chữ kế tiếp.

7


- Giáo viên là người hướng dẫn kỹ thuật viết đúng viết đẹp. Người giáo
viên phải nắm vững và sử dụng chính xác thuật ngữ khi dạy tập viết. Bên cạnh
đó học sinh phải hiểu và thực hiện theo thật chính xác.
* Khi giáo viên hướng dẫn học sinh viết.
- Giáo viên viết mẫu trên bảng lớp, phải thường viết chậm để học sinh
100% được nhìn thấy tay cô viết từng nét chữ.
- Khi viết mẫu giáo viên nên thường xuyên nhắc lại điểm đặt bút, quy
trình viết các nét, độ cao, độ rộng, và cuối cùng là điểm dừng bút của các con
chữ.
- Trước khi cho học sinh viết bài vào vở, giáo viên cần hướng dẫn học
sinh về tư thế ngồi viết, cách cầm bút, để vở.
2. 2. Biện pháp 2: Rèn tư thế ngồi viết, cách cầm bút, cách để vở của
học sinh.
Để có chữ viết đẹp học sinh phải trải qua quá trình tập viết. Cho nên trong
quá trình dạy học các môn học ở lớp 1, đặc biệt là giờ phân môn Tập viết, tôi
hướng dẫn các em rất kĩ về tư thế ngồi viết, cách cầm bút, cách để vở cho các

em. Tôi vừa kết hợp làm mẫu vừa hướng dẫn các em . Tôi cũng nêu tác hại của
việc ngồi, viết không đúng tư thế.

8


9


2.2.1. Về tư thế ngồi viết:
Khi ngồi viết, học sinh phải ngồi ngay ngắn, lưng thẳng, ngực không tì
vào cạnh bàn, đầu hơi cúi, hai mắt cách vở bằng khoảng cách chống cánh tay,
không nhìn quá gần vở vì thiếu ánh sáng sẽ dẫn đến cận thị.
Để hai chân thoải mái, không để chân co, chân duỗi khiến cột sống phải
lệch vẹo và chữ viết sẽ xiên lệch theo.
Tay trái để xuôi theo chiều ngồi tì vào mép vở, giữ vở không xê dịch khi
viết đồng thời làm điểm tựa cho trọng lượng nửa người bên trái.
Những buổi đầu của năm học, trước khi học sinh viết bài, tôi thường
yêu cầu các em nhắc lại tư thế ngồi viết bằng câu hỏi: “ Muốn viết đẹp, con
phải ngồi như thế nào?”. Dần dần các em đã ngồi học đúng tư thế.

10


2.2.2. Về cách cầm bút khi viết:
Tôi đã hướng dẫn các em: Khi viết, các em cầm bút và điều khiển bút bằng
3 ngón tay của bàn tay phải: ngón trỏ, ngón cái và ngón giữa. Đầu ngón trỏ đặt
trên thân bút cách đầu ngòi bút khoảng hơn đốt ngón tay( vì lớp 1 chưa làm
quen với đơn vị cm), đầu ngón cái giữ bên trái thân bút; đầu ngón giữa tựa vào
bên phải thân bút. Nếu cầm bút sát ngòi hay xa ngòi quá thì việc điều khiển bút

khi viết sẽ khó khăn làm cho chữ xấu mà mực dễ bị mực giây ra tay, ra vở. Khi
viết 3 ngón tay này giữ bút, điều khiển bút dịch chuyển từ trái sang phải, các nét
đưa lên hoặc đưa sang ngang phải thật nhẹ tay, không ấn mạnh đầu bút vào mặt
giấy để tránh gai ngòi mà chữ lại không đẹp. Ngoài ra động tác viết cần sự phối
hợp của cổ tay, cánh tay, khuỷu tay .
Nếu các em cầm bút không đúng sẽ dẫn đến các dị tật như mỏi cơ gân bàn
tay, viết chóng mỏi tay, không thể viết lâu, viết nhanh được.

2.2.3. Về cách để vở của học sinh:
Khi viết chữ, vở viết cần đặt so với mép bàn một góc khoảng 30 độ
(nghiêng về bên phải). Sở dĩ phải đặt như vậy vì chiều thuận của vận động tay
khi viết chữ Việt là vận động từ trái sang phải.
Để học sinh có kĩ năng trên, tôi đã làm một số công việc sau:
- Ngoài việc giáo viên làm mẫu, tôi còn treo tranh mẫu tư thế ngồi viết và
cách cầm bút trong phòng học ở lớp, đồng thời thu nhỏ các hình ảnh này trên
một trang giấy, phát cho từng học sinh kẹp trong vở tập viết của mình để đánh
dấu trang cần viết và luôn quan sát được khi viết.
- Luôn nhắc nhở và uốn nắn tư thế viết ở tất cả giờ học chú trọng đặc biệt
trong giờ tập viết.
- Trao đổi cha mẹ học sinh về việc kiểm tra nhắc nhở con em khi tập viết
ở nhà ngay trong buổi họp phụ huynh đầu năm
11


Việc rèn tư thế ngồi viết, cách cầm bút, cách để vở cho học sinh là rất
quan trọng . Công việc này đòi hỏi mỗi giáo viên phải làm thường xuyên, giúp
học sinh có kĩ năng ngồi học đúng tư thế để các em vừa có thể viết đẹp vừa
tránh được dị tật sau này.
2.3. Biện pháp 3: Hướng dẫn thực hành, chữa bài cho học sinh
2.3.1. Khi học sinh thực hành viết.

- Khi học sinh viết tôi nên động viên khuyến khích các em tự viết.
- Không nên cầm tay học sinh để các em tự viết để các em tự rèn luyện,
các em sẽ tự tin hơn với chính mình.
- Giáo viên dùng phấn màu để sửa sai cho học sinh, hoặc viết mẫu lại
cho học sinh xem. Nhắc nhở học sinh viết đúng điểm đặc bút, qui trình viết, độ
cao, độ rộng, điểm dừng bút của các con chữ. Qua đó tạo thói quen cho học
sinh phải viết cẩn thận đúng yêu cầu của cô. Được sự động viên khuyến khích
của giáo viên thì học sinh sẽ cố viết đúng và đẹp hơn.
- Trong chương trình không bắt buột học sinh viết vở ô li nhưng giáo
viên phải hướng dẫn học sinh viết thêm vào vở ô li ở trường và ở nhà.
2.3.2. Giáo viên hướng dẫn cách viết vở ô li, giao việc về nhà cho học
sinh.
Cách tiến hành:
- Ở học kì I. Cho học sinh về nhà viết lại mỗi chữ (vần), tiếng (từ) vừa
học vào vở ô li viết 1 dòng.
+ Giáo viên viết mẫu 1 chữ (1tiếng ) cho học sinh ở 6 tuần đầu. Trong
thời gian này giáo viên phải tập luyện nhiều nhất cho các em nhận biết và viết
các con chữ; điểm đặt bút, qui trình viết, chiều cao, độ rộng, điểm dừng bút.
+ Từ tuần 6 trở về sau học sinh nhìn chữ mẫu của giáo viên trên bảng để
ghi chữ mẫu vào vở. Giáo viên chỉ chú sửa sai, nhắc nhở những em thường
viết chưa đẹp, chưa đúng. Những em được nhắc nhở sẽ viết lại cho đẹp hơn.
+ Bên cạnh đó giáo viên hướng dẫn cách để các em vừa đọc thông viết
thạo; khi viết mỗi chữ (vần), tiếng (từ) nào cũng phải đọc xem mình viết chữ
(vần), tiếng (từ) gì? Hình dung (nhớ lại xem chữ (vần), tiếng (từ) viết như thế
nào? Đặt bút ở đường kẻ nào? Qui trình viết, chiều cao, độ rộng, vị trí của dấu
phụ, dấu thanh đặt ở đâu? ...Khi viết nên đọc xem mình sẽ viết tiếng (từ)
gì?.Đánh vần nhẩm tiếng, từ cần viết, đánh vần như thế nào thì viết như thế đó,
viết trái sang phải, tiếng nào trước viết trước, khoảng cách giữa tiếng, từ.....
Viết xong bài phải đọc lại tất cả ít nhất 3 lần.
+ Giáo viên kiểm tra ôn lại các vần đã học; giáo viên đọc học sinh viết

lại các vần đã học trong tuần. Hoặc những vần có cùng âm cuối....(Kiểm tra vào
các tiết hướng dẫn học).
- Ở học kì II, giáo viên cho học sinh viết bằng viết mực (nên sử dụng
mực nước) nhìn sách chép lại các câu ứng dụng (học vần), tập đọc trong 15
12


phút truy bài buổi chiều. Viết xong đọc lại 3 lần để soát lỗi chính tả và củng cố
kỹ năng đọc.
Để khuyến khích các em luyện viết giáo viên cần kiểm tra cho mỗi bài
viết của các em. Sửa cụ thể trên bài của các em. Chữ của cô khi sửa phải chuẩn,
đúng và đẹp. Động viên nhắc nhở, khuyến khích những em viết chưa đẹp chưa
đúng. Qua đó hình thành cho học sinh kỹ năng đọc, viết, tính cẩn thận, tính kỉ
luật , thẩm mỹ của các em khi viết chữ.
Phụ huynh là người đôn đốc, kiểm tra cho các em trước khi đến lớp.
Giáo viên sẳn lòng trao đổi với phụ huynh khi phụ huynh cần.
2.4.

Biện pháp 4: Dạy cho học sinh các nét cơ bản tạo nên chữ viết
thường.
Để viết đúng mẫu, đảm bảo không gây nhầm lẫn các chữ cái với nhau,
học sinh phải nắm được hệ thống nét cấu tạo chữ cái La tinh ghi âm Tiếng Việt.
Đây không chỉ là điều kiện để học sinh viết đúng mẫu, đảm bảo không gây
nhầm lẫn các con chữ với nhau mà còn là cơ sở giúp học sinh viết nhanh, nâng
cao tính thẩm mỹ của chữ viết.
Ngay từ đầu năm học, ở một số tiết Hướng dẫn học Tiếng Việt tôi đã cho
học sinh ôn lại các nét cơ bản tạo nên chữ cái tiếng Việt.
2. 5. Biện pháp 5: Rèn kĩ năng viết đúng cho học sinh.
Nếu như ngôn ngữ nói nhằm mục đích truyền tải thông tin thì yêu cầu đầu
tiên của chữ viết là phải tường minh (rõ ràng). Yêu cầu về thẩm mỹ thì chữ viết

phải có sự thống nhất về font chữ, về độ nghiêng (hay đứng); có sự đồng đều về
kích cỡ chữ, khoảng cách giữa các chữ, dòng, sự ngay ngắn thẳng hàng; có sự
linh hoạt trong cách viết tạo ra nét viết vừa có sự mềm mại vừa có sự cứng cáp
nhờ lực điều khiển bút. Cao hơn nữa là thể hiện được những nét hoa mỹ, nét viết
có nét thanh; nét đậm, thể hiện được cảm xúc của người viết.
Chúng ta biết rằng muốn viết đẹp thì trước tiên là phải viết đúng mẫu chữ,
kích cỡ, độ cao, tốc độ viết đảm bảo.Vì thế trong các giờ tập viết, chính tả trên
lớp, tôi cung cấp cho học sinh những khái niệm cơ bản về đường kẻ, tên gọi các
nét chữ, cấu tạo chữ cái, vị trí dấu thanh, dấu phụ, các khái niệm liên kết nét chữ
hoặc liên kết chữ cái … Từ đó, hình thành ở các em những biểu tượng về hình
dáng, độ cao, sự cân đối, tính thẩm mĩ của chữ viết. Bên cạnh đó, tôi dạy học
sinh các thao tác viết chữ từ đơn giản đến phức tạp, bao gồm các kỹ năng viết
nét, liên kết nét tạo các chữ cái và liên kết chữ cái tạo thành chữ ghi tiếng. Đồng
thời giúp các em xác định khoảng cách, vị trí cỡ chữ trên vở kẻ ô li để hình
thành kỹ năng viết đúng mẫu, rõ ràng và cao hơn là viết nhanh và đẹp.
2.5.1. Rèn viết đúng khoảng cách:
Do thực trạng học sinh lớp 1 chưa biết cách ước lượng khoảng cách giữa
các con chữ, các em chưa quen kĩ thuật lia bút, dê bút nên khoảng cách giữa
13


các con chữ, giữa các chữ còn quá rộng hay quá hẹp. Vì vậy tôi quan tâm rèn
cho học sinh bằng hình thức trực quan.
Trong quá trình theo dõi học sinh viết, tôi còn thấy các em thường viết
sai khoảng cách trong các trường hợp:
- Nét nối từ o, ô, ơ sang n, từ o, ô, ơ sang c hay bị hẹp.
Ví dụ: con, cốc, sông…
Các trường hợp này tôi luôn lưu ý học sinh điều chỉnh nét dôi để nối hai
con chữ.
- Nét nối từ k sang h, n sang h, p sang h… rất hay bị rộng.

Ví dụ: nhà, phà, khênh,…
Với trường hợp này, tôi luôn nhắc học sinh điều chỉnh điểm dừng bút của
con chữ trước.
- Khoảng cách khi viết hai con chữ đằng trước không có nét hất sang.
Ví dụ: Ba Đình, Côn Đảo…
Trường hợp này tôi lưu ý các em để trống một khoảng rất nhỏ.
Như vậy để học sinh viết đúng khoảng cách giáo viên cần khắc sâu cho
học sinh: khoảng cách giữa các con chữ trong một chữ là một nửa thân con
chữ O, khoảng cách giữa các chữ với nhau là một thân con chữ O.
2.5.2. Rèn viết đúng kích thước, cỡ chữ:
Đầu năm học, tôi cho học sinh ôn lại kích thước của các chữ bằng cách khắc
sâu cho học sinh: kích thước của chữ viết thường được chia thành 5 nhóm,
đó là:
+ Nhóm chữ có độ cao một đơn vị: a, ă, â, c, e, ê, i, m, n, o, ô, ơ, ư, v, x.
+ Nhóm chữ có độ cao 1,25 đơn vị: r, s.
+ Nhóm chữ có độ cao 1,5 đơn vị: t.
+ Nhóm chữ có độ cao 2 đơn vị: d, đ, p, q.
+ Nhóm chữ có độ cao 2,5 đơn vị: g, h, l, k, b, y.
+ Các chữ viết hoa có độ cao giống nhau cao 2,5 đơn vị, trừ chữ G, Y cao
4 đơn vị.
Kích thước và cỡ chữ được lấy dòng kẻ trên giấy làm đơn vị đo độ cao
hoặc độ dài của một chữ , mỗi đơn vị đo độ cao tương ứng với khoảng cách giữa hai
dòng kẻ
Trong giờ Tập viết, khi giới thiệu chữ mẫu và câu ứng dụng, tôi luôn yêu cầu học
sinh nêu kích thước của các con chữ có trong trong câu ứng dụng, từ ứng dụng.
Ví dụ: Bài tập viết tuần 4: lễ, cọ, bờ, hổ, bi ve
hoặc bài tập viết tuần 17: tuốt lúa, hạt thóc, màu sắc, giấc ngủ, máy xúc, lọ mực, tôi yêu
cầu học sinh trả lời:
- Những con chữ nào cao 2 đơn vị? con chữ nào cao 2 đơn vị rưỡi?
- Hoặc: Em có nhận xét gì về độ cao của các con chữ?

Học sinh sẽ trả lời được: Con chữ l, h, g, y, cao hai đơn vị rưỡi.
Con chữ t cao một đơn vị rưỡi.
14


Con chữ s cao hơn một đơn vị.
Các con chữ còn lại cao một đơn vị.
Sau khi cho học sinh viết bảng con một số chữ, tôi nhận xét, sửa sai về kích
thước, cỡ chữ cho học sinh và nhắc các em không nên viết chữ quá to hay quá
nhỏ mà nên viết đúng cỡ chữ để chữ viết đúng và đẹp.
- Khi viết chữ số, các chữ số đều cao 2 đơn vị .
2.5.3. Rèn kỹ thuật viết liền mạch:
Ngoài việc giúp các em viết đúng mẫu, đúng cỡ, đúng kích thước thì việc
giúp các em viết liền mạch là rất quan trọng.
Tập trung rèn luyện kĩ thuật liên kết liền mạch chữ cái viết hoa với chữ cái
viết thường. Tôi đã phân loại các trường hợp viết liên kết như sau:
* Trường hợp viết nối thuận lợi: Nét móc cuối cùng của chữ cái đứng
trước nối với nét móc đầu tiên của chữ cái đứng sau.
VD: Bài 8: ( Vở Tập viết 1 tập 1).
Tôi hướng dẫn quy trình viết nối chữ lê, hè như sau:
Viết chữ cái l đã học. Từ điểm cuối của nét khuyết trên chữ l, rê bút nối với
nét xiên của chữ e, sau đó viết hoàn chỉnh chữ e, lia bút đánh dấu chữ ê.
Hoặc: quy trình viết nối chữ cử ( tương tự)
* Trường hợp viết nối không thuận lợi: đó là trường hợp nét cuối của chữ
cái đứng trước với điểm bắt đầu của chữ cái đứng sau không thể viết nét nối.
Ví dụ: Bài 9: ( Vở Tập viết 1 tập 1).
Quy trình viết chữ bò như sau:
Viết chữ b như đã học, từ điểm dừng bút của chữ b lia bút một khoảng
viết vừa chữ o, để viết tiếp chữ o rồi lia bút viết tiếp dấu huyền.
Hoặc viết chữ: tạ ( ở dưới)

Việc nối chữ chủ yếu được thực hiện ở các chữ cái viết thường khi
chúng đứng lại gần nhau. Dựa vào những nét cơ bản của chữ cái tiếng Việt, tôi
phân loại thành 4 trường hợp nối chữ (từ dễ đến khó) và lưu ý học sinh như
sau:

15


(*) Trường hợp 1: nét móc cuối cùng của chữ cái trước nối với nét móc
hoặc nét hất đầu tiên của chữ cái sau:
Ví dụ: c- ư ;
a – n = an;
i – m = im;
t – ư = tư...
Nhìn chung trường hợp này viết dễ dàng thuận lợi.
Lưu ý học sinh: Khi nối 2 nét móc ở hai chữ cái, cần điều tiết về độ
doãng (khoảng cách giữa 2 chữ cái) sao cho vừa phải, hợp lý để chữ viết đều
nét và có tính thẩm mĩ.
(*) Trường hợp 2: Nét cong cuối cùng của chữ cái sau với nét móc
(hoặc nét hất) đầu tiên của chữ cái sau.
Ví dụ: e - n = en; c – o = co... Trường hợp nối chữ này cũng tương
đối dễ dàng.

16


Lưu ý: Điều chỉnh khoảng cách giữa hai chữ cái sao cho không gần quá
hay xa quá (VD: en, co...) Hoặc chuyển hướng ngòi bút ở cuối nét cong (kín)
để nối sang nét móc (hoặc nét hất) sao cho hình dạng hai chữ cái vẫn rõ ràng,
khoảng cách hợp lý (VD: con, oi...)

(*) Trường hợp 3: Nét móc (hoặc nét khuyết) của chữ cái trước nối với
nét cong của chữ cái sau (VD: l- a = la, a – c = ac, h – o = ho, y – ê =
yê...) đây là trường hợp nối chữ tương đối khó, vừa đòi hỏi kỹ thuật lia bút
vừa yêu cầu việc ước lượng khoảng cách sao cho vừa phải, hợp lý.
Lưu ý học sinh:
+ Xác định điểm kết thúc (dùng bút) ở chữ cái trước để lia bút viết tiếp
chữ cái sau sao cho liền mạch tạo thành một khối các chữ cái.
+ Điều chỉnh phần cuối nét móc của chữ cái trước hơi doãng rộng một
chút để khi viết tiếp chữ cái sau sẽ có khoảng cách vừa phải (không gần quá)
Ví dụ: Khi hướng dẫn học sinh viết chữ“ao”, giáo viên lưu ý nhắc HS
điều chỉnh phần cuối nét móc của chữ a để khi viết tiếp chữ cái o sẽ có khoảng
cách giữa a và o không gần quá .
(*) Trường hợp 4: Nét cong của chữ cái trước nối với nét cong của chữ
cái sau VD: o – e = oe; o – a = oa; x - o = xo... Đây là trường hợp nối chữ
khó nhất vừa đòi hỏi các kỹ thuật rê bút, lia bút, chuyển hướng bút để tạo nét
nối vừa yêu cầu việc ước lượng khoảng cách hợp lý, trên cơ sở thói quen và kĩ
năng viết khá thành thạo của học sinh.
Lưu ý học sinh trường hợp viết chữ oe, oa:
+ Rê bút từ điểm cuối của chữ cái o chúc xuống để gặp điểm bắt đầu của
chữ cái e sao cho nét vòng ở đầu chữ cái không được to quá (oe). Rê bút từ
điểm cuối của chữ cái o sang ngang rồi lia bút viết tiếp chữ cái a (oa).
Ngoài ra tôi còn hướng dẫn các em cách viết liền mạch. Viết liền mạch
là viết tất cả các hình cơ bản của chữ cái trong một chữ ghi tiếng rồi sau đó
mới đặt dấu (kể cả dấu phụ của con chữ) và dấu ghi thanh.
Ví dụ: Viết chữ thuyền : Viết chữ liền mạch các hình cơ bản của chữ
cái thành thuyen sau đó đặt dấu mũ (dấu phụ) trên e và dấu huyền (dấu thanh)
trên ê để thành thuyền.
Như vậy, với việc phân tích cách liên kết, cách viết liền mạch ngay từ
những bài viết đầu tiên nhiều học sinh trong lớp đã nắm được quy trình viết
các từ ứng dụng. ở các bài tiếp theo, không cần sự hướng dẫn tỉ mỉ của cô

giáo các em cũng có thÓ viÕt ®óng ch÷ theo mÉu. Tốc độ viết chữ của cả lớp
nhanh dần. Chính vì vậy chất lượng học tập của các em được nâng lên một
cách rõ rệt.
2.5.4. Rèn kĩ năng viết dấu thanh:
Vị trí của dấu thanh có tác dụng khác biệt các chữ nghi tiếng. Dấu thanh
chỉ đặt vào chữ cái. Các dấu thanh: huyền (
), sắc ( ), hỏi ( ), ngã ( ) đặt
17


phía trên các chữ cái. Dấu nặng ( .) đặt phía dưới của chữ. Tuy nhiên vẫn có
nhiều học sinh đặt dấu thanh sai vị trí, điều đó ảnh hưởng không tốt đến chất
lượng bài viết của học sinh. Khi rèn chữ viết cho các em, tôi đã hướng dẫn các
em ghi từng loại dấu.
+ Ở các chữ ghi tiếng không có âm đệm và không có âm cuối vần, dấu
thanh đặt trên hoặc dưới âm chính.
Ví dụ: bà, mẹ, lá...
+ Ở các chữ ghi tiếng có âm chính là nguyên âm đơn và âm cuối vần
cũng là bán nguyên âm, dấu thanh đặt trên chữ nghi âm đơn làm âm chính.
Ví dụ: thảo, nối, thờn bơn…
+ Ở các chữ ghi tiếng có âm đệm đầu vần, dấu thanh đặt trên hoặc
dưới âm chính.
Ví dụ: quyển, xoá, thủy...
+ Trường hợp dấu thanh xuất hiện trong các tiếng có nguyên âm đôi ở
vần.
- Trong trường hợp chữ viết ghi tiếng có nguyên âm đôi mà không có âm
cuối vần thì dấu thanh được viết ở vị trí con chữ thứ nhất của nguyên âm đôi.
Ví dụ: mùa, lứa, mía…
- Trong trường hợp chữ viết ghi tiếng có nguyên âm đôi nhưng lại có âm
cuối vần thì dấu thanh được viết ở vị trí con chữ thứ hai của nguyên âm đôi.

Ví dụ: khướu, chuối,...
+ Trường hợp dấu thanh xuất hiện trong các tiếng mà nguyên âm ở phần
đầu có dấu phụ thì dấu thanh viết như sau:
- Ở các nguyên âm có dấu mũ ( A) : â, ê, ô dấu sắc ( / ) dấu huyền ( \ ),
dấu hỏi ( ? ) được viết hơi cao hơn và hơi lệch về phía phải của mũ.
Ví dụ: ổi, thuyền, …
- Ở các nguyên âm có dấu thanh ở vị trí phía trên của dấu ( v )
Ví dụ: nằm, trắng,...
Do ở tư thế nằm ngang nên khi xuất hiện trong các chữ mà phần vần có
nguyên âm mang dấu phụ, dấu ngã được viết trên các dấu phụ.
Ví dụ: đẵn, lẫm chẫm,...
Ngoài ra, tôi còn khắc sâu cho học sinh:
- Các dấu mũ của các con chữ của các con chữ ô, â, ă cần đánh rõ nét, cân
đối trên đầu con chữ.
- Các dấu râu của con chữ ơ, ư cần đánh nhỏ, ngay ngắn ở bên trái chữ.
- Các dấu chấm, dấu phảy cần đánh rõ ràng ở dòng kẻ thứ nhất.
- Khi hướng dẫn viết từ, câu ứng dụng trong phân môn Tập viết, tôi luôn hỏi:
Dấu thanh được đặt ở đâu?

18


Việc rèn kĩ năng đánh dấu thanh đúng cho học sinh cũng đòi hỏi giáo
viên phải rèn thường xuyên không chỉ trong giờ Tập viết mà còn có thể tổ chức
thành trò chơi ở tiết Hoạt động tập thể.
2.5.5. Rèn kĩ năng viết đúng cho học sinh qua một số mẹo chính tả.
Qua thực tế giảng dạy , tôi thấy học sinh lớp tôi nói riêng và học sinh ở Thị
Trấn nói chung rất hay nhầm lẫn giữa phụ âm đầu l và n. Để các em viết đúng
thì các em cần phải đọc đúng. Ngoài việc giáo viên hướng dẫn tỉ mỉ cho các em
cách phát âm thì giáo viên cũng cần dạy cho các em một số “ mẹo” viết đúng.

- Dựa vào khả năng kết hợp của l và n trong cấu trúc âm tiết có âm đệm
hay không có âm đệm o, u thì:
+ l: xuất hiện trong các âm tiết có âm đệm.
Ví dụ: loang lổ, loay hoay…
+ n: không xuất hiện trong các âm tiết có âm đệm ( trừ 2 từ: noãn, noa).
- Dựa vào hiện tượng đồng nghĩa hay cùng nghĩa để viết đúng chính tả. Nếu
gặp một từ hoặc tiếng chưa rõ nên viết l hay n nhưng từ đồng nghĩa với
tiếng đó có phụ âm đầu là nh thì viết là l.
Ví dụ:
Chữ viết với l ( không viết n)
Chữ âm tiết đồng nghĩa với l
lầm
lỡ
lố lăng
lớn
lời
lỡ làng

nhầm
nhỡ
nhố nhăng
nhớn
nhời
nhỡ nhàng

Những chữ chỉ hành động ẩn nấp thì viết n không viết l.
Ví dụ: náu, né, nấp, nép…
Ngoài ra tôi còn hướng dẫn các em một số mẹo viết đúng tiếng có âm đầu
d - gi - r, ch - tr, s - x.
* Với tiếng có âm đâm đầu s - x:

- x chỉ có thể viết với những từ có âm: oa, oă, oe, uê con s thì không.
Ví dụ: xuề xòa, xoa tay, xoăn tít…
- Những từ dùng để chỉ tên thức ăn món ăn hay dụng cụ làm bếp thường
bắt đầu bằng chữ x.
Ví dụ: xôi, xườn rán, …
Những từ còn lại thường viết s.
Ví dụ: Từ chỉ đồ vật: sọt rác, sợi dây…
Từ chỉ hiện tượng, sự vật thiên nhiên: sấm, sét, sao, suối…
19


* Với tiếng có âm đâm đầu tr - ch:
- Chỉ những người thân trong gia đình, họ hàng viết “ ch”
Ví dụ: chú, cha, chồng, chị , cháu , chắt...
- Những từ chỉ dụng cụ trong nhà của nông dân viết “ch”
Ví dụ: chậu, chõng, chạn, chổi...
- Tên muông thú.
Ví dụ: chim, chích choè, chiền chiện.
- Tên cây, hoa , quả: chanh, chuối...
- Tên các món ăn viết bằng ch : chả, cháo, chạo...
- Những từ chỉ không gian, thời gian viết bằng “tr”
Ví dụ: trên, trước, trong
* Với tiếng có âm đâm đầu d - gi - r:
- Những từ tả âm thanh, tiếng động thường viết bằng r.
Ví dụ: rào rào, rúc rích, róc rách, reng reng,…
- Khi gặp tiếng, từ có nghĩa gần giống với một tiếng, từ khác có phụ âm
đầu là tr, ch, t, k, c thì viết là gi.
Ví dụ: giành - tranh, giấu - che, giã từ - tạ từ….
- Khi gặp tiếng, từ có nghĩa gần giống với một tiếng, từ khác có phụ âm
đầu là đ, nh, th thì viết là d.

Ví dụ: dao - đao, dồi - nhồi, dư - thừa…
Trên đây là một số “mẹo” chính tả mà tôi đã dùng để chốt, khắc kiến thức
khi dạy các bài tập chính tả, trong các tiết học Luyện phát âm hay chơi các trò
chơi trong tiết Hoạt động tập thể với nội dung Vui học Tiếng Việt. Và tôi thấy
qua một thời gian, kết quả luyện phát âm của học sinh lớp tôi có sự chuyển
biến rõ nét.
Sau khi học sinh viết đúng hình dáng, cấu tạo, kích thước, cỡ chữ, viết
đúng dòng, đúng tốc độ quy định thì việc rèn kĩ năng viết phải được tiến hành
đồng bộ ở lớp cũng như ở nhà.. Khi dạy phân môn Tập viết, trong quá trình
luyện tập viết chữ hoa của học sinh, tôi thường lưu ý các hình thức luyện tập
sau:
Hình thức thứ nhất: Luyện các thao tác chuẩn bị viết chữ.
Học sinh dùng que chỉ “đồ” trên mẫu ở phần hướng dẫn qui trình viết;
viết bằng ngón tay vào khoảng không trước mặt, nếu cần có thể tập viết nét
khó, nét đặc biệt chú ý để chữ viết được đúng và đẹp.
Hình thức thứ hai: Luyện viết chữ trên bảng lớp.
Hình thức tập viết chữ trên bảng lớp có tác dụng kiểm tra sự tiếp thu
cách viết chữ và bước đầu đánh giá kỹ năng viết chữ của học sinh. Hình thức
này thường dùng trong một quá trình viết từ và cụm từ ứng dụng. Qua đó giáo
viên phát hiện chỗ sai của học sinh (về hình dáng, cách viết, thứ tự các nét...)
để uốn nắn chung cho cả lớp hoặc đánh giá, cho điểm.
20


Học sinh được luyện tập viết trên bảng lớp khi kiểm tra bài cũ và sau khi
giáo viên viết mẫu chữ ở bài mới.
Hình thức thứ ba: Luyện viết chữ trên bảng con của học sinh.
Học sinh luyện tập viết chữ bằng phấn trên bảng con trước khi học sinh
tập viết vào vở. Học sinh có thể tập viết chữ cái hoa, tập viết chữ ghi tiếng ứng
dụng (có chữ cái hoa). Viết vào bảng xong, học sinh cần giơ lên để giáo viên

kiểm tra, nhận xét, sửa lỗi vào ngay bảng của học sinh nếu có.
Hình thức thứ tư: Luyện tập viết trong vở tập viết 1.
Học sinh phải tô các chữ hoa, viết chữ ghi tiếng ứng dụng theo cỡ vừa và
cỡ nhỏ.
Muốn cho học sinh sử dụng vở tập viết có hiệu quả, giáo viên cần hướng
dẫn tỉ mỉ nội dung và yêu cầu kỹ năng của từng bài. Quá trình hướng dẫn học
sinh luyện tập viết chữ, giáo viên cần hết sức lưu ý rèn các thói quen cho học
sinh: ngồi viết đúng tư thế, để vở đúng qui cách và biết xê dịch vở khi viết,
cầm bút (viết) đúng qui định. Giáo viên nhắc học sinh viết từng dòng của bài
thực hành. Học sinh viết xong, giáo viên sửa lỗi sai cho HS (nếu có), tuyên
dương những bài viết đúng viết đẹp, nhắc nhở những bài viết chưa đẹp và đưa
ra cách giúp học sinh viết đúng, đẹp hơn.
Hình thức thứ năm: Luyện tập viết chữ hoa đầu khi học các môn học
khác
Ngoài các giờ tập viết, giáo viên còn phải luôn nhắc nhở học sinh tập viết
ở các môn (phân môn) khác. Có như thế việc luyện tập viết chữ mới được củng
cố đồng bộ thường xuyên, nhằm nâng cao chất lượng chữ viết và hình thành ở
học sinh những phẩm chất tốt như tính kiên trì, cẩn thận, khiếu thẩm mỹ. Việc
làm này đòi hỏi ở giáo viên ngoài những hiểu biết về chuyên môn còn cần sự
kiên trì, tính cẩn thận và lòng yêu nghề mến trẻ.
2.6. Biện pháp 6: Tổ chức các phong trào thi đua, các trò chơi học tập.
Để tạo thêm không khí sôi nổi, tạo hứng thú học tập cho học sinh, tôi
thường phát động các đợt thi đua rèn chữ giữ vở ở từng tuần, từng tháng hay
vào dịp các ngày lễ lớn như 20 - 11, 22 - 12, 8 - 3 bằng các hình thức như thi viết
một đoạn văn, đoạn thơ, tên một số địa danh. Tôi khuyến khích học sinh viết chữ
sáng tạo. Cuối mỗi đợt thi đua đều có tổng kết, nêu gương, khen thưởng kịp thời,
đồng thời cùng các em tìm rõ nguyên nhân vì sao bạn A viết đúng, viết đẹp, vì
sao bạn B viết còn xấu để từ đó học sinh có hướng phấn đấu. Hàng tháng, tôi xếp
loại vở sạch chữ đẹp cho từng học sinh, có sơ kết đánh giá.
Bên cạnh các phong trào thi đua của lớp, trường tôi cũng tổ chức thi vở sạch

chữ đẹp vào dịp cuối mỗi học kì, trao thưởng cho những lớp đạt giải. Đây cũng là
niềm động viên, khích lệ các em có ý thức rèn chữ cho đẹp hơn. Ngoài ra, theo
định kì hàng tháng trường tôi cũng có những bài khảo sát chữ viết cho toàn thể
học sinh trong trường nhằm nắm bắt, đánh giá chất lượng chữ viết của học sinh.
21


Việc xây dựng trò chơi học tập trong giờ chính tả, tập viết là một hình
thức tổ chức lớp học, hoạt động dưới dạng: “Học mà chơi – chơi mà học” tạo
hứng thú học tập cho học sinh. Trong trò chơi học tập, giáo viên giúp các em
củng cố lại những kiến thức rèn kỹ năng thực hành.Từ các trò chơi rèn kĩ năng
viết đúng các em sẽ viết đẹp hơn.
Trong giờ chính tả, tôi thường tổ chức cho học sinh chơi trò chơi “ Nối
chữ”. Trò chơi này ngoài việc rèn luyện kĩ năng đọc - viết còn phát triển vốn từ
cho trẻ.
Ví dụ: Khi dạy bài chính tả có cả nội dung phân biệt d - gi, tôi tổ chức
cho các em chơi vào cuối giờ học như sau.
Cách chơi: Giáo viên đưa ra 2 cột A và B. Cột A có các chữ r, gi. Cột B
là các từ ngữ chứa tiếng mang phụ âm đầu d, gi. Giáo viên yêu cầu học sinh nối
phụ âm đầu ở cột A với các từ ngữ chứa tiếng mang phụ âm đầu d, gi ở cột B
sao cho được từ đúng chính tả.
A
B
________________________________________
….ục giã
d
thúc …ục
bầu …ục
xúi …ục
gi

dặn …ò
…ò chả
chân …ò

Hình thức: Chơi tiếp sức .
Giáo viên tổ chức cho 2 đội chơi (mỗi đội 3 em), trong khoảng cùng
một thời gian nhất định đội nào nối nhanh và đúng đội đó thắng cuộc.
Với những bài chính tả có cả nội dung phân biệt l - n, ch - tr , s - x và
những tiết luyện phát âm của buổi học thứ hai tôi thường tổ chức cho học sinh
trò chơi Nối chữ , các em rất hứng thú tham gia.
* Trò chơi: Ai nhanh, ai đúng:
Trò chơi giúp học sinh phát hiện chữ viết sai và biết cách sửa sai.
Hình thức: Chơi cá nhân.
Cách chơi: GV gọi 3 - 4 học sinh lên bảng. Giáo viên đưa ra một số từ, có
từ viết sai, có từ viết đúng rồi yêu cầu học sinh tìm từ viết sai và viết lại từ sai
đó cho đúng. Em nào viết đúng và nhanh em đó chiến thắng. Mỗi lần chơi GV
gọi 3 - 4 học sinh lên bảng.
Ví dụ: GV đưa ra các từ: lúc lắc, nũ giặc, lời dải, rải rác, dố dành.
22


Học sinh sẽ tìm được từ sai: nũ giặc, lời dải và viết đúng là: lũ giặc, lời
giải.
Với phân môn Tập viết, khi dạy tô các chữ hoa tôi cũng tổ chức cho học
sinh chơi một số trò chơi .
* Trò chơi: Nối nét.
Giáo viên có thể dùng các nét rời, rồi cho học sinh thi ghép các nét chữ
với nhau để tạo thành những chữ cái đã học hoặc cho học sinh thi viết lại những
chữ cái trên bảng lớp.
Ví dụ: Để ghép được chữ A (kiểu 1), giáo viên chuẩn bị các tấm bìa, mỗi

bộ 3 tấm bìa theo 3 nét của chữ A: nét móc ngược trái, nét móc ngược phải và
nét lượn ngang… Sau đó, giáo viên gọi 4 em có chữ viết kém lên thi ghép chữ
với nhau.
Cách chơi: 4 em lên bảng đứng thành hàng ngang. Giáo viên phát cho mỗi
em một bộ các nét chữ A. Giáo viên hô “bắt đầu” thì mỗi em tự đính các nét chữ
A rời rồi ghép lại với nhau để thành chữ A hoàn chỉnh. Em nào ghép đúng và
nhanh thì được cả lớp vỗ tay tuyên dương.
* Trò chơi: Nét chữ thân quen.
Cách chơi: Giáo viên đưa ra bài viết mẫu do chính cô giáo viết ( bài viết
đẹp), đó là một số câu văn hoặc 1 - 2 dòng thơ, giáo viên yêu cầu học sinh viết
lại bài đó . Trong khoảng một thời gian, bạn nào viết giống bài mẫu bạn đó
thắng cuộc.
Với trò chơi này, giáo viên gọi đại diện các nhóm lên bảng thi đua
(em/nhóm)
Như vậy, khi vận dụng trò chơi, giáo viên cần lựa chọn những hình thức
sao cho phù hợp với học sinh của lớp mình để đem lại hiệu quả cao trong quá
trình dạy học.
Ngoài việc giáo viên đưa ra các biện pháp giúp học sinh có kĩ năng viết
đúng, viết đẹp thì điều kiện cơ sở vật chất của nhà trường cũng như một số đồ
dùng dạy học hay việc viết mẫu của giáo viên cũng góp phần quan trọng trong
việc giúp học sinh viết đẹp hơn. Đó là:
* Ánh sáng phòng học: Phòng học phải có đủ ánh sáng cho học sinh ngồi
học theo quy định của vệ sinh học đường.
* Bảng lớp: Bảng được treo ở độ cao vừa phải, có dòng kẻ, bảng chống lóa.
* Bàn ghế học sinh: Kích thước bàn ghế phải phù hợp với độ cao trung bình
của từng khối lớp.
* Bảng viết của học sinh: Đây là phương tiện ưu việt nhất để dạy viết cho
học sinh. Bảng của học sinh phải dễ viết, bảng có dòng kẻ, không trơn, viết rõ
chữ.
* Phấn viết bảng, khăn lau bảng, bút viết: Không cho học sinh sử dụng

phấn viết cứng quá hay phấn bở kém chất lượng. Khăn lau bảng cần sạch sẽ, có
độ ẩm. Bút viết cần trơn, dễ viết.
23


* Vở Tập viết: Sử dụng loại vở đồng bộ của ngành giáo dục và vở luyện viết
lớp 1. Ngoài ra, tôi còn khuyến khích học sinh sử dụng thêm vở luyện viết chữ
đẹp. Các loại vở này giấy viết đều không bị nhòe.
* Vở ô li: Cần dùng loại vở 4 li, dòng kẻ đều, giấy viết không nhòe.
Khi dạy Tập viết cho học sinh, ngoài việc tôi sử dụng bộ chữ mẫu của
nhà trường cho học sinh quan sát hàng ngày:

24


Tôi còn cho các em quan sát quy trình viết chữ , tô chữ hoa trên bảng .

- Việc viết mẫu của giáo viên trong giờ tập viết là một thao tác trực quan
trên bảng lớp giúp học sinh nắm bắt được quy trình viết từng nét của từng chữ.
Do vậy giáo viên phải viết chậm, đúng theo quy tắc, khi viết vừa giảng vừa phân
tích cho học sinh. Khi viết chữ cần tạo điều kiện cho học sinh nhìn thấy tay giáo
viên viết từng nét chữ.
- Giáo viên cần viết đúng chính tả, đúng mẫu, rõ ràng và ngay ngắn, cần
phải quy định cho tất cả giáo viên cách trình bày lề bảng, dòng chữ ghi ngày
tháng năm, tên môn, tên bài học cần được viết rất mẫu mực không qua loa và
tuyệt đối là không được sai chính tả. Bên cạnh đó là lời phê, lời nhận xét của
25



×