I. ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Phần mở đầu
Trong xây dựng cơ bản, khi xây một toà nhà cao tầng hiện đại thì việc xử
lý móng là hết sức quan trọng mà nền móng ngôi nhà lại là phần nằm sâu trong
lòng đất nên người ta thường chỉ nhìn thấy những tầng cao ở trên; chỉ có những
người xây dựng, những người có chuyên môn mới thấy rõ tầm quan trọng, giá trị
đích thực của nó. Bậc Tiểu học cũng được coi như cái nền móng của ngôi nhà tri
thức kia. Chính vì vậy mà bậc tiểu học là bậc học đầu tiên, bậc học nền tảng của
hệ thống giáo dục quốc dân. Bậc tiểu học đã tạo những cơ sở ban đầu rất cơ bản
và bền vững cho các em tiếp tục học các bậc học trên. Nội dung giảng dạy của
tiểu học luôn gắn liền với thực tiễn, phục vụ thiết thực cho cuộc sống, không chỉ
có thế mà mỗi môn học ở tiểu học đều góp phần vào việc hình thành và phát
triển nhân cách học sinh. Trong các môn học, môn tập đọc là một trong những
môn có vị trí rất quan trọng. Môn tập đọc giúp học sinh biết đọc và các nội
dung, kiến thức của môn tập đọc được sử dụng trong tất cả các môn học khác,
trong đời sống hàng ngày, ... Những kinh nghiệm của đời sống, những thành tựu
văn hóa, khoa học, những tư tưởng, tình cảm của các thế hệ trước và của cả
những người đương thời phần lớn đã được ghi lại bằng chữ viết. Nếu không biết
đọc thì con người không thể tiếp thu nền văn minh của loài người, không thể
sống một cuộc sống bình thường, có hạnh phúc được.
Biết đọc, con người đã nhân khả năng tiếp nhận lên nhiều lần, biết tìm
hiểu, đánh giá cuộc sống, nhận thức các mối quan hệ tự nhiên, xã hội, tư duy.
Biết đọc, con người sẽ có khả năng chế ngự một số phương tiện văn hóa cơ bản
giúp họ giao tiếp được với thế giới bên trong của người khác, thông hiểu tư
tưởng, tình cảm của người khác. Đặc biệt khi đọc các tác phẩm văn chương, con
người không chỉ được thức tỉnh về mặt nhận thức mà còn rung động tình cảm,
nảy nở những ước mơ tốt đẹp, được khơi dậy năng lực hành động, sức mạnh
sáng tạo cũng như được bồi dưỡng tâm hồn. Không biết đọc con người sẽ không
có điều kiện hưởng thụ sự giáo dục mà xã hội dành cho họ, không thể hình thành
được một nhân cách toàn diện. Đặc biệt trong thời đại bùng nổ thông tin thì biết
đọc càng quan trọng vì nó giúp chúng ta sử dụng các nguồn thông tin. Đọc chính
là học, học nữa, học mãi, đọc để tự học, học cả đời. Vì vậy dạy học sinh đọc,
đọc thuộc lòng có ý nghĩa vô cùng quan trọng.
Chính vì vậy mà Bộ Giáo dục và đào tạo đã xác định mục tiêu của môn
Tiếng Việt ở Tiểu học như sau:
a) Hình thành và phát triển ở học sinh các kĩ năng sử dụng tiếng Việt( nghe,
nói, đọc, viết) để học tập và giao tiếp trong các môi trường hoạt động của lứa
tuổi.
Thông qua việc dạy và học tiếng Việt, góp phần rèn luyện các thao tác của
tư duy.
1
b) Cung cấp cho HS những kiến thức sơ giản về tiếng Việt và những hiểu
biết sơ giản về xã hội, tự nhiên và con người, về văn hóa, văn học của
Việt Nam và nước ngoài.
c) Bồi dưỡng tình yêu tiếng Việt và hình thành thói quen giữ gìn sự trong
sáng, giàu đẹp của tiếng Việt, góp phần hình thành nhân cách con người Việt
Nam xã hội chủ nghĩa.
Để đạt được mục tiêu trên và nâng cao chất lượng giảng dạy trong nhà
trường nói chung và cho bậc tiểu học nói riêng đòi hỏi những nhà nghiên cứu
giáo dục luôn luôn phải điều chỉnh nội dung, phương pháp giảng dạy phù hợp
với nhận thức của từng đối tượng học sinh nhằm không ngừng nâng cao chất
lượng giáo dục toàn diện góp phần đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài cho quê
hương, đất nước.
Hiện nay vấn đề cải cách giáo dục không phải là một mối quan tâm của
một cá nhân nào mà là một nhiệm vụ chung của toàn xã hội. Đã có rất nhiều
những cải cách được đưa vào giảng dạy ở trường học. Sự đổi mới phương pháp
giáo dục đã sẽ đóng góp quan trọng cho việc thực hiện mục tiêu đào tạo của
ngành giáo dục là đào tạo con người mới một cách có hệ thống và vững chắc từ
bé đến lớn, đảm bảo thế hệ cách mạng cho đời sau.
Trong giai đoạn hiện nay, để thực hiện chương trình giáo dục đổi mới cần
cải tiến những điều kiện: Giáo viên, cơ sở vật chất, thiết bị dạy học, tổ chức
quản lý,... đồng thời đổi mới phương pháp dạy học ở bậc Tiểu học là làm sao để
giáo viên không chỉ là người truyền thụ kiến thức mà còn là người tổ chức,
hướng dẫn, định hướng cho học sinh hoạt động, để học sinh huy động vốn hiểu
biết và kinh nghiệm của bản thân vào việc chiếm lĩnh tri thức mới, làm sao giáo
viên giảng giải ít nhưng thường xuyên làm việc với học sinh và về phía học sinh
phải học tập cá nhân, học tập theo nhóm để tham gia giải quyết các tình huống
do giáo viên nêu ra dưới các hình thức khác nhau và giáo viên giải quyết linh
hoạt các tình huống ngoài dự kiến. Có như vậy mới phát huy khả năng, bản lĩnh
cá nhân của từng học sinh.
Trong dạy học, giáo viên cần phải biết tận dụng, kết hợp và đưa vào từng
môn học, tiết học, bài học những phương pháp dạy học sao cho phù hợp.
Riêng đối với dạy học thuộc lòng văn bản, để lưu giữ những tri thức là việc
làm cần thiết ở bậc tiểu học. Những tri thức được lưu giữ lại trong chương trình
là những bài văn, bài thơ có giá trị. Học thuộc lòng sẽ giúp học sinh tích lũy văn
chương, nói năng lưu loát, bồi dưỡng năng lực cảm thụ văn học cho học sinh và
gây hứng thú đối với môn học.
2. Lý do chọn đề tài
Qua nhiều năm giảng dạy ở bậc Tiểu học, tôi thấy phân môn tập đọc (học
thuộc lòng) là một phân môn rất quan trọng. Bước vào học bậc Tiểu học, học
sinh đã thật sự bước vào một quá trình học tập, rèn luyện để làm giàu dần vốn
2
hiểu biết của mình. Vốn hiểu biết ấy được làm giàu bằng nhiều cách. Các em có
thể dùng con mắt để quan sát, dùng cái tai để ghi nhận những âm thanh của đất
trời và có thể dùng trí tuệ để phân tích, đánh giá các hiện tượng tự nhiên, xã hội
theo một cách riêng. Bên cạnh đó, những trang sách của nhà trường cứ mỗi ngày
lại mang đến cho các em những điều mới mẻ. Nguồn kiến thức đến với các em
nhiều như vậy nhưng không hẳn các em đã ghi nhớ được hết và hiểu được ngay.
Việc dạy các em cách học thuộc lòng để lưu lại các tri thức là vô cùng quan
trọng và cần thiết. Tuổi các em còn nhỏ, sức ghi nhớ rất nhanh nhạy và năng
động. Vì vậy việc học thuộc lòng có ý nghĩa rất lớn đối với việc rèn luyện trí
nhớ cho các em. Vậy để dạy học thuộc lòng như thế nào cho học sinh có sự ghi
nhớ tốt? Là điều tôi băn khoăn và chọn đề tài này.
3. Đối tượng, mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Học sinh lớp 3C
3.2. Mục đích nghiên cứu
- Rèn luyện trí nhớ cho học sinh. Dạy cho các em biết ghi nhớ một cách có
phương pháp và rèn luyện trí nhớ qua các bài luyện tập, trò chơi.
- Giúp học sinh tích lũy dần vốn văn chương thông qua việc học thuộc lòng các
tác phẩm có giá trị cả về nội dung và nghệ thuật.
- Bồi dưỡng năng lực cảm thụ và thị hiếu thẩm mĩ cho các em thông qua việc
học thuộc lòng từng tác phẩm văn chương.
3.3. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Cơ sở lý luận
- Khảo sát đầu năm
- Nguyên nhân chủ yếu
- Biện pháp thực hiện
- Nội dung và kết quả thực hiện
- Thời gian thực hiện: Từ tháng 9/2014 đến tháng 3/ 2015
( năm học 2014 - 2015)
II. NỘI DUNG CỦA ĐỀ TÀI
1. Cơ sở lý luận
Trong thực tiễn dạy môn Tiếng Việt ở bậc Tiểu học, học thuộc lòng
không được coi là phân môn riêng biệt mà chỉ được coi như một yêu cầu, một
bài tập đặc biệt của giờ tập đọc. Giờ tập đọc - học thuộc lòng ngoài mục đích lưu
giữ tri thức cần thiết thì trên hết là nhằm rèn luyện trí nhớ, hình thành phương
pháp ghi nhớ cho học sinh. Do vậy, trong mỗi tiết tập đọc - học thuộc lòng
người giáo viên sau khi giúp học sinh hiểu bài, đọc được bài cần giúp cho học
sinh chỉ ra những dấu hiệu để ghi nhớ nhanh nhất. Những dấu hiệu chung nhất
của bài học thuộc lòng bao gồm các ý của bài, thể loại thơ, điệp từ, điệp ngữ, các
3
vần chân, vần lưng liên kết các câu thơ, khổ thơ… và có thể cả những dấu hiệu
ghi nhớ máy móc nhưng có tác dụng giúp học sinh tái hiện lại văn bản.
Thời gian luyện đọc trong tiết tập đọc được thay bằng thời gian luyện khả
năng ghi nhớ của học sinh trong tiết học thuộc lòng dưới nhiều hình thức hoặc tổ
chức trò chơi.
Như vậy, kết thúc tiết học mà có nhiều học sinh học thuộc bài tại lớp thì
mới là tiết dạy học đạt yêu cầu.
Với cách dạy học thuộc lòng như vậy trong suốt bậc tiểu học sẽ hình
thành cho học sinh phương pháp ghi nhớ khoa học mà sau này lên Trung học cơ
sở, Trung học phổ thông không ai giúp các em những điều như vậy.
2. Khảo sát đầu năm
Tình trạng thực tế khi chưa thực hiện:
Sau nhiều năm dạy những giờ tập đọc - học thuộc lòng ở lớp 3, qua khảo sát
thực tế đầu năm học, tôi thấy học sinh học bài thuộc lòng còn rất khó khăn, vất
vả. Nhiều học sinh đến lớp không thuộc bài, đọc bài hay quên dở chừng. Có
những em đọc chỉ để mà đọc nhưng không hiểu nội dung bài. Có em thì hiểu nội
dung tác phẩm nhưng đọc bài thì chưa chính xác, lúc thiếu từ, lúc thừa từ…
2.1. Số liệu điều tra trước khi thực hiện
Lớp có 38 học sinh thì:
Mức độ
Học sinh có trí
nhớ kém
Học sinh có trí
nhớ trung bình
Học sinh có trí
nhớ tốt
Số lượng
15
16
7
%
39,5
42,1
18,4
2.2. Nguyên nhân chủ yếu:
- Học thuộc lòng là một quá trình nắm vững nội dung và ý nghĩa của bài
học. Đó là quá trình hiểu bài và thuộc bài, cái nọ là tiền đề của cái kia. Học
thuộc lòng thực chất là sự ghi nhớ một cách chính xác tới từng tiếng, từng từ,
từng câu của tác phẩm.
- Cơ sở khoa học của sự ghi nhớ này chính là tâm lý học và trí nhớ. Khi
ghi nhớ điều gì tức là hình thành một hệ thống đường liên hệ thần kinh tạm thời
khá vững chắc, sau này có khả năng phục hồi lại được và quá trình này phải
được lặp đi lặp lại nhiều lần, củng cố thật vững cho nó khỏi mất đi.
4
- Với những học sinh bậc tiểu học thường có các loại ghi nhớ: Ghi nhớ
không có ý thức và ghi nhớ có ý thức.
+ Ghi nhớ không có ý thức: là không đặt trước cho mình nhiệm vụ phải
ghi nhớ và cũng không sử dụng biện pháp nào để trợ giúp cho việc ghi nhớ thêm
thuận lợi. Đây là loại ghi nhớ của các em có trí nhớ kém, trong lớp thường
không tập trung nghe giảng, khi giáo viên yêu cầu đọc tiếp hoặc trả lời câu hỏi
thì không thực hiện được.
+ Ghi nhớ có ý thức: là loại ghi nhớ có đặt mục đích từ trước. Loại ghi
nhớ này định rõ nhiệm vụ ghi nhớ. Đây là loại ghi nhớ của các em có trí nhớ tốt.
Trong giờ dạy, các em đều tập trung chú ý nghe giảng, thấu hiểu được nội dung
của bài và nắm chắc các “điểm tựa” có trong bài, nhiều khi các em có thể “tái
hiện” lại ngay nội dung của bài, tức là học thuộc lòng ngay tại lớp.
- Ghi nhớ máy móc và ghi nhớ logic:
+ Ghi nhớ máy móc: là loại ghi nhớ phải dựa vào dấu hiệu, sự liên hệ
bên ngoài. Đa số các bài học thuộc lòng là thơ. Bởi vì đặc điểm của thơ có sự
phối hợp của tiết tấu, âm vang của vần điệu, sự hài hoà của âm thanh. Học sinh
thường dựa vào đặc điểm này mà không cần hiểu nội dung tác phẩm, cứ đọc lặp
đi lặp lại nhiều lần là được. Đây là loại ghi nhớ của hầu hết học sinh bậc tiểu
học, kể cả học sinh có trí nhớ tốt lẫn không tốt.
+ Ghi nhớ logic: là loại ghi nhớ chủ yếu dựa vào sự hiểu biết nội dung ý
nghĩa của tác phẩm. Đây là loại ghi nhớ mà học sinh cần đạt được trong mỗi giờ
học. Sự ghi nhớ này giúp học sinh ghi nhận kiến thức đầy đủ, nhanh chóng và
bền vững hơn. Nếu các em có quên thì có thể dùng óc suy luận dựa vào các
điểm tựa để tìm ra các ý lớn, ý nhỏ và mối quan hệ giữa các ý… Ghi nhớ logic
có hạn chế là: vì hiểu nội dung bài nên nhiều khi học sinh không thuộc chính
xác tác phẩm, thường thêm hoặc bớt từ hoặc thay thế bằng các từ tương tự.
Vì vậy dựa vào các đặc điểm và nguyên nhân trên, người giáo viên cần
phải biết phối hợp các loại ghi nhớ trên và cần có phương pháp giảng dạy cho
phù hợp.
3. Những biện pháp thực hiện:
3.1. Biện pháp chung đối với cả lớp:
Biện pháp 1: Học sinh tự mình tri giác và ghi nhớ tác phẩm trước
Tôi đã đề ra cho học sinh ở lớp, mỗi em đều có vở soạn bài ở nhà trước
khi đến lớn. Mục đích của việc làm này là giúp học sinh hơn một lần ghi nhớ tác
phẩm. Trong quá trình soạn bài, học sinh phải đọc kỹ tác phẩm nhiều lần, sau đó
trả lời các câu hỏi yêu cầu của bài, tức là học sinh tự tìm hiểu nội dung tác
phẩm. Có thể có những em tìm hiểu đúng nội dung yêu cầu của bài, đọc nhiều
lần nên thuộc bài từ ở nhà. Nhưng cũng có những em do việc cảm thụ còn hạn
chế, chưa trả lời đúng, thuộc bài một cách thụ động, tôi cũng không coi trọng
lắm đến mức độ đúng, sai mà chủ yếu tôi muốn các em được làm quen với tác
phẩm trước khi hiểu tác phẩm. Có như vậy khi đến lớp, cô giáo giảng bài, học
sinh không bị ngỡ ngàng trước nội dung của bài, khi đọc và ghi nhớ sẽ được lặp
lại nội dung và khắc sâu hơn. Qua gần một năm, lớp tôi đã có 100% vở soạn bài.
5
Nhiều em soạn bài rất đầy đủ, chu đáo và cẩn thận. Khi đến lớp, nhiều em đã có
câu trả lời tốt, phát hiện ra những từ khó đọc, thể loại thơ, cách đọc diễn cảm,
nhiều em thuộc bài trước từ ở nhà. Thậm chí có em còn tự mình đặt ra câu hỏi
tìm hiểu bài.
Ví dụ:
Khi HS chuẩn bị bài “ Nhớ lại buổi đầu đi học ”
( Tiếng Việt 3 - tập 1), các em phải trả lời một số câu hỏi bắt buộc của
GV như sau:
Câu hỏi 1: Điều gì gợi tác giả nhớ những kỉ niệm của buổi tựu trường?
Câu hỏi 2: Trong ngày tựu trường đầu tiên, vì sao tác giả thấy cảnh vật
xung quanh có sự thay đổi lớn?
Câu hỏi 3: Tìm những hình ảnh nói lên sự bỡ ngỡ, rụt rè của đám học trò
mới tựu trường?
Câu hỏi 4: Nêu nội dung của bài?
Ngoài ra, GV khuyến khích HS tự nghĩ ra thêm các câu hỏi khác để hiểu bài
sâu hơn.
Khi giảng bài , giáo viên đưa ra các câu hỏi trên để các em trả lời theo sự
chuẩn bị, sau đó giáo viên chốt lại từng câu trả lời để học sinh hiểu đúng, hiểu
sâu hơn như sau:
Câu hỏi 1: Điều gì gợi tác giả nhớ những kỉ niệm của buổi tựu trường?
( Hằng năm, cứ vào cuối thu lá ngoài đường rụng nhiều…Khung cảnh này gợi
tác giả nhớ đến những kỉ niệm sâu sắc của buổi tựu trường đầu tiên của mình.)
Câu hỏi 2: Trong ngày tựu trường đầu tiên, vì sao tác giả thấy cảnh vật
xung quanh có sự thay đổi lớn?
( Ngày tựu trường đầu tiên với mỗi trẻ em và với gia đình của mỗi em đều là
ngày quan trọng, là một sự kiện, là một ngày lễ. Vì vậy, ai cũng hồi hộp trong
ngày đến trường, khó có thể quên kỉ niệm của ngày đến trường đầu tiên.)
Câu hỏi 3: Tìm những hình ảnh nói lên sự bỡ ngỡ, rụt rè của đám học trò
mới tựu trường?
( Mấy bạn học trò mới bỡ ngỡ đứng nép bên người thân, chỉ dám đi từng bước
nhẹ. Họ như con chim nhìn quãng trời rộng muốn bay nhưng còn ngập ngừng, e
sợ. Họ thèm vụng và ước ao được như những học trò cũ, biết lớp, biết thầy để
khỏi rụt rè trong cảnh lạ.)
Câu hỏi 4: Nêu nội dung của bài?
( Những kỉ niệm đẹp đẽ về buổi đầu đi học của nhà văn Thanh Tịnh.)
Biện pháp 2: Giúp học sinh ghi nhận đầy đủ các thông tin có trong bài
thông qua hình thức giáo viên giảng bài, học sinh chú ý lắng nghe.
6
+ Với bước này để gây hứng thú và sự chú ý cho học sinh, tôi thường
dùng lời giới thiệu bài ngắn gọn và hấp dẫn. Tôi thường hỏi các em có thích tác
phẩm này không? Vì sao? Sau đó yêu cầu học sinh ngồi học ngay ngắn, đúng tư
thế và chú ý nghe giảng. Đó là bước tạo tâm thế nghe giảng cho tốt. Có chú ý
nghe và hứng thú nghe giảng thì học sinh mới ghi nhớ được tốt. Đây cũng là tiền
để của sự ghi nhớ.
+ Tuỳ từng nội dung của bài mà tôi chọn lựa ra nội dung chính cần ghi
nhớ. Có bài chỉ ghi nhớ những điểm cơ bản, chủ yếu nhất. Có bài lại phải ghi
nhớ chính xác từng lời, phải nhớ trật tự của ý, các sự kiện. Để làm tốt bước này,
tôi cho học sinh tri giác toàn bộ bài cần đọc thuộc lòng với hình thức đọc thầm
hoặc đọc theo cặp. Giáo viên đọc mẫu rồi cho học sinh đọc để tìm tòi, phát hiện
những từ ngữ, những hình ảnh, những câu văn, câu thơ đặc biệt đáng lưu ý bằng
cách gạch chân những từ ngữ tìm được. Như vậy, các em đã tìm được “điểm
tựa” trong bài, có tự mình tìm được thì các em mới nhớ lâu.
VD:
Khi cho HS học thuộc lòng bài “ Một mái nhà chung”. Tác giả Định Hải
( Tiếng Việt 3 tập 2 – trang 100)
Tôi đã tiến hành như sau:
+ Giáo viên đọc mẫu, giọng diễn cảm để gây hứng thú cho HS cả lớp.
+ HS giỏi đọc đúng và hay.
+ Cả lớp đọc đồng thanh rồi đọc thầm.
+ Yêu cầu HS gạch dưới các mái nhà riêng, đặc điểm của các mái nhà
riêng đó. HS sẽ tìm được:
Mái nhà của chim: lợp nghìn lá biếc.
Mái nhà của cá: sóng xanh rập rình.
Mái nhà của dím: Sâu trong lòng đất.
Mái nhà của ốc: Tròn vo bên mình.
Mái nhà của em: giàn gấc đỏ.
Mái nhà của bạn: hoa giấy lợp hồng.
Dựa vào đặc điểm ghi nhớ của HS tiểu học thường là ghi nhớ máy móc và
dựa vào đặc điểm của tác phẩm thơ, tôi thường nhấn mạnh hình thức nghệ thuật
của tác phẩm. Bởi vì sự liên hệ bên ngoài của thơ thường dựa vào dòng thơ, nhịp
thơ, vần thơ.
* Dòng thơ:
Thường là dòng nọ tương hỗ dòng kia, trước hết có ý nghĩa lo gic, rồi đến
nhịp điệu, vần điệu.
VD:
Bài “ Cùng vui chơi ”
( Tiếng Việt lớp 3 tập 2 – trang 83)
Ngày đẹp lắm / bạn ơi //
Nắng vàng trải khắp nơi /
Chim ca trong bóng lá /
7
Ra sân / ta cùng chơi. //
+ Logic ở chỗ: ngày đẹp thì có nắng vàng, chim thì có lá cây.
+ Nhịp điệu: 3/2, 4/4, 2/3
+ Vần điệu: ơi - nơi - chơi, ca - lá - ra - ta
+ Cách đọc : giọng nhẹ nhàng, thoải mái, vui tươi, tưởng chừng như em nhỏ đá
cầu vừa chăm chú nhìn theo quả cầu, vừa hồn nhiên đọc bài thơ, nghỉ hơi dài
hơn giữa các ý thơ, nhấn giọng những từ ngữ gợi tả , gợi cảm.
*Vần thơ:
Nó như mắt nối các câu thơ với nhau, tạo nên một âm hưởng trọn vẹn cho
nhịp điệu thơ và góp phần nâng cao cảm xúc thẩm mĩ cho thơ. Các vần chủ yếu
phổ biến là vần chân( ở cuối câu), vần lưng ( ở giữa câu).
VD:
Bài “ Bàn tay cô giáo” của Nguyễn Trọng Hoàn
( Tiếng Việt lớp 3 tập 2- trang 25)
Một tờ giấy trắng
Cô gấp cong cong
Thoắt cái đã xong
Chiếc thuyền xinh quá.
Một tờ giấy đỏ
Mềm mại tay cô
Mặt trời đã phô
Nhiều tia nắng tỏa.
Vần “ ong, ô” được lặp lại giúp HS dễ thuộc hơn.
Bài “ Cùng vui chơi ”
( Tiếng Việt lớp 3 tập 2 - trang 84)
Quả cầu giấy xanh xanh
Qua chân tôi, chân anh
Bay lên rồi lộn xuống
Đi từng vòng quanh quanh.
Vần “ ua, anh, ôi” được lặp lại nhiều lần, các từ láy “ xanh xanh, quanh
quanh” giúp HS dễ thuộc hơn rất nhiều.
Vì nhấn mạnh được các dấu hiệu trên của thơ mà HS đã dựa vào những dấu
hiệu bên ngoài đó để dễ thuộc bài.
Biện pháp 3: Giúp học sinh hiểu bài, chọn những “điểm tựa” cơ bản nhất
trong bài để ghi nhớ được lâu. Tách những ý chính từ bước thu nhận thông
tin.
8
VD:
Bài “ Cái cầu” của Phạm Tiến Duật
( Tiếng Việt lớp 3 tập 2 - trang 34)
Tôi đã phân tích để HS hiểu bài và có những “ điểm tựa” chính về nội dung
để HS ghi nhớ bài.
+ Khổ thơ đầu: Cha làm nghề xây dựng cầu
+ Khổ thơ thứ 2: Từ chiếc cầu cha làm, bạn nhỏ nghĩ đến sợi tơ nhỏ như chiếc
cầu giúp nhện qua chum nước. Bạn nghĩ đến lá tre như chiếc cầu giúp kiến qua
ngòi Bạn nghĩ đến ngọn gió, như chiếc cầu giúp sáo sang sông.
+ Khổ thơ thứ 3: Từ chiếc cầu cha làm, bạn nghĩ đến chiếc cầu tre sang nhà bà
ngoại êm như võng trên sông ru người qua lại.
+ Khổ thơ thứ 4: Từ chiếc cầu cha làm, bạn nhỏ nghĩ đến chiếc cầu ao mẹ
thường đãi đỗ.
Để học sinh dễ dàng hiểu bài và nắm vững những điểm tựa về nội dung, tôi
đã sưu tầm, cung cấp thêm nhiều tranh, ảnh minh họa cho học sinh quan sát.
Bài “ Cái cầu”, tôi cho học sinh quan sát 4 tranh sau:
Tranh 1
Tranh 1 giúp học sinh có “ điểm tựa” là “ cái cầu cha xây dựng ” ở khổ
thơ đầu.
9
Tranh 2
Tranh 3
Tranh 2 và 3 giúp học sinh có “ điểm tựa” là “ sợi tơ nhỏ như chiếc cầu giúp
nhện qua chum nước, lá tre như chiếc cầu giúp kiến qua ngòi” ở khổ thơ thứ hai.
10
Tranh 4
Tranh 4 giúp học sinh có “ điểm tựa” là “ từ chiếc cầu cha làm, bạn nghĩ
đến chiếc cầu tre sang nhà bà ngoại, chiếc cầu ao mẹ thường đãi đỗ” ở khổ thơ
ba và bốn.
Bài “ Tiếng ru”, tôi cho học sinh quan sát thêm nhiều tranh, ảnh sau:
11
Con ong yêu hoa vì hoa giúp ong làm mật
Con cá yêu nước vì có nước cá mới sống được
12
Con chim yêu trời vì có bầu trời cao, rộng chim mới có chỗ bay lượn, ca hát
Qua việc quan sát tranh và có được những “ điểm tựa” về nội dung mà các
em dễ hiểu bài hơn, thuộc bài nhanh hơn và ghi nhớ lâu hơn.
Ngoài ra, học sinh còn dựa vào “ điểm tựa” là các tiếng, từ đầu mỗi dòng
thơ, khổ thơ để học thuộc bài.
VD:
Bài “ Cái cầu” của Phạm Tiến Duật
( Tiếng Việt lớp 3 tập 2 - trang 34)
Tôi ghi lên bảng những từ đầu dòng thơ để học sinh nhìn vào và đọc thuộc cả
bài.
Cha
Cha
Xe lửa
Con
Yêu
Như võng
Dưới cầu
Thuyền
Những
Yêu
13
Nhện
Con sáo
Con kiến
Là
Mẹ
Con
Biện pháp 4: Giúp học sinh lập mối liên hệ giữa các “điểm tựa” trong bài.
Nhờ vào mối liên hệ giữa các “điểm tựa” trong bài mà học sinh tái hiện lại
các ý, các phần của bài được thuận lợi. Đây là bước mà học sinh đã có thể thuộc
bài trên cơ sở hiểu bài từ các phần trước.
VD:
Bài “ Cái cầu” của Phạm Tiến Duật
( Tiếng Việt lớp 3 tập 2 - trang 34), tôi hướng dẫn HS dựa vào các điểm tựa sau:
+ Nghề của cha: chiếc ảnh cái cầu, cha vừa bắc xong, xe lửa sắp qua
+ Chiếc cầu giúp nhện qua chum nước: tơ nhỏ
+ Chiếc cầu giúp sáo sang sông: ngọn gió
+ Chiếc cầu giúp kiến qua ngòi: lá tre
+ Chiếc cầu tre: lối sang bà ngoại, như võng trên sông
+ Chiếc cầu ao: mẹ đãi đỗ.
+ Chiếc cầu Hàm Rồng sông Mã: cái cầu của cha
Biện pháp 5: Khắc sâu những điều đã học thuộc bằng việc củng cố ý nghĩa
của bài mà học sinh đã ghi nhận được, kể cả những nét đặc sắc về hình thức
của bài.
Để làm được bước này, tôi thường xuyên kiểm tra, cho học sinh đọc thuộc
lòng hàng ngày để lưu giữ chắc chắn những điều các em đã thuộc.
Để học sinh có được những hứng thú trong quá trình học tập, rèn luyện trí
nhớ được tốt, cuối mỗi giờ học tôi thường tổ chức cho học sinh chơi trò chơi.
Các trò chơi mà tôi thường sử dụng là: Đọc nhanh tiếp sức, thả thơ, tìm câu viết
lạc, tìm câu viết thiếu, tìm câu viết sai trật tự, tìm câu có từ kết hợp sai, đúng
hay sai, ... Vì vậy đã kích thích được sự chú ý và phát huy tính tích cực, sự ghi
nhớ của học sinh. Các em trong lớp đều tập trung chú ý, thi đua nhau ghi nhớ
nhanh để tham gia vào trò chơi được tốt.
VD:
+ Trò chơi 1 “ Đọc nhanh tiếp sức”:
Hình thức chơi: Chia HS thành 2 nhóm, cử giám khảo, trọng tài. Mỗi nhóm có
số HS tương ứng với số dòng thơ, câu thơ hoặc khổ thơ. Đánh số thứ tự cho
từng em theo số thứ tự câu thơ ( khổ thơ). Hai nhóm sẽ đọc bài từ số 1 đến hết.
Nhóm nào nhanh, đọc thuộc bài sẽ thắng.
+ Trò chơi 2 “ Thả thơ”:
Giáo viên đưa ra một câu thơ, 1 từ hoặc 1 dòng thơ viết sẵn. Chia HS làm 2
nhóm , một nhóm thả thơ, một nhóm đọc thơ theo khổ thơ, bài thơ.
VD:
14
Bài “ Cùng vui chơi”.
Yêu cầu HS đọc thuộc theo khổ thơ, bài thơ
- Để HS đọc thuộc lòng khổ thơ đầu tôi viết vào giấy như sau:
Tờ thứ nhất: Ngày đẹp lắm bạn ơi
Tờ thứ hai: Ngày
Học sinh nhìn vào những tờ giấy trên nhưng phải đọc được cả khổ thơ như
sau:
Ngày đẹp lắm bạn ơi
Nắng vàng trải khắp nơi
Chim ca trong bóng lá
Ra sân ta cùng chơi
Các khổ thơ khác tương tự
- Để HS đọc thuộc cả bài thơ tôi viết vào giấy mỗi khổ thơ 1 dòng thơ đầu của
khổ thơ đó như sau:
Ngày đẹp lắm bạn ơi
Quả cầu giấy xanh xanh
Anh nhìn cho tinh mắt
Trong nắng vàng tươi mát
Hoặc chỉ viết từ đầu tiên của mỗi khổ thơ:
Ngày
Quả
Anh
Trong
Học sinh nhìn vào những tờ giấy trên nhưng phải đọc được cả bài thơ như sau:
Ngày đẹp lắm bạn ơi
Nắng vàng trải khắp nơi
Chim ca trong bóng lá
Ra sân ta cùng chơi
Quả cầu giấy xanh xanh
Qua chân tôi, chân anh
Bay lên rồi lộn xuống
Đi từng vòng quanh quanh
Anh nhìn cho tinh mắt
15
Tôi đá thật dẻo chân
Cho cầu bay trên sân
Đừng để rơi xuống đất.
Trong nắng vàng tươi mát
Cùng chơi cho khỏe người
Tiếng cười xen tiếng hát
Chơi vui học càng vui.
Các bài thơ khác tương tự.
+ Trò chơi 3 “ Tìm câu viết lạc ”:
Giáo viên viết khổ thơ hoặc bài thơ nhưng có nhiều câu bị lạc chỗ. Yêu
cầu HS tìm những câu bị lạc đó. Trả những câu bị lạc đó về đúng chỗ của nó
trong khổ thơ, bài thơ
VD:
Bài “ Chú ở bên Bác Hồ”
Tôi viết bảng phụ rồi cho HS chơi:
Các khổ thơ sau có nhiều câu bị viết lạc chỗ. Hãy gạch chân dưới
những câu đó rồi sắp xếp lại các câu cho đúng
a) Chú Nga đi bộ đội
b) - Chú bây giờ ở đâu?
c) Nhớ chú, Nga thường nhắc:
d) Sao lâu quá là lâu!
e) Mẹ đỏ hoe đôi mắt
g) - Đất nước không còn giặc
h) Chú ở bên Bác Hồ.
i) Ba ngước lên bàn thờ:
Đáp án:
a) Chú Nga đi bộ đội
b) - Chú bây giờ ở đâu?
c) Nhớ chú, Nga thường nhắc:
d) Sao lâu quá là lâu!
e) Mẹ đỏ hoe đôi mắt
g) - Đất nước không còn giặc
h) Chú ở bên Bác Hồ.
i) Ba ngước lên bàn thờ:
( Phải hoán đổi câu b với câu d, phải đổi câu i về sau câu e)
Sắp xếp các câu theo đúng thứ tự là: a, d, c, b
e, i, g, h
Sau đó, GV yêu cầu HS đọc lại các câu thơ đã sắp xếp theo đúng thứ tự:
a) Chú Nga đi bộ đội
16
d) Sao lâu quá là lâu!
c) Nhớ chú, Nga thường nhắc:
b) - Chú bây giờ ở đâu?
e) Mẹ đỏ hoe đôi mắt
i) Ba ngước lên bàn thờ:
g) - Đất nước không còn giặc
h) Chú ở bên Bác Hồ.
Các khổ thơ khác tương tự
+ Trò chơi 4 “ Tìm câu viết thiếu ”:
Giáo viên đưa ra bài thơ hoặc khổ thơ có một câu viết thiếu. Hãy chỉ ra câu
thơ bị viết thiếu đó rồi viết bổ sung câu thơ bị thiếu đó
VD:
Bài “ Em vẽ Bác Hồ”
a) Em vẽ Bác Hồ
b) Trên tờ giấy trắng,
c) Em vẽ vầng trán
d) Trán Bác Hồ cao.
e) Em vẽ tóc râu
g) Chỉ vờn nhè nhẹ.
h) Em vẽ bác bế
i) Cháu Bắc bên này
k) Cháu Nam bên ấy.
Đáp án:
Câu thơ bị thiếu nằm sau câu h) Em vẽ Bác bế.
Bài thơ viết từng đôi hai câu. Câu h) này bị thiếu câu để thành đôi. Câu đó
nói rõ một cách khái quát hành động bế của Bác trước lúc kể cụ thể cháu Bắc,
cháu Nam được Bác bế.
Câu thơ bị thiếu là: Hai cháu trên tay
Các câu thơ đầy đủ như sau:
a) Em vẽ Bác Hồ
b) Trên tờ giấy trắng,
c) Em vẽ vầng trán
d) Trán Bác Hồ cao.
e) Em vẽ tóc râu
g) Chỉ vờn nhè nhẹ.
h) Em vẽ bác bế
Hai cháu trên tay
i) Cháu Bắc bên này
k) Cháu Nam bên ấy.
+ Trò chơi 5 “ Tìm câu viết sai trật tự ”:
17
Giáo viên đưa ra bài thơ hoặc khổ thơ có những câu bị sai lạc trật tự,
không đúng văn bản. Hãy chỉ ra câu thơ bị viết sai lạc. Hãy viết lại cho đúng
VD:
Bài “ Cùng vui chơi”
a)
b)
c)
d)
e)
g)
h)
i)
Quả cầu giấy xanh xanh
Bay lên rồi lộn xuống
Qua chân tôi, chân anh
Đi từng vòng quanh quanh.
Anh nhìn cho tinh mắt
Đừng để rơi xuống đất.
Cho cầu bay trên sân
Tôi đá thật dẻo chân
Đáp án:
+ Nhận xét:
Trong 4 câu đầu, câu viết sai trật tự là câu b) và c). Hai câu này phải viết
đổi chỗ cho nhau. Câu c) đổi chỗ cho câu b) và ngược lại.
Trong 4 câu cuối, 3 câu g), h), i) bị xáo trộn không đúng trật tự. Câu i) phải
viết ngay sau câu e). Câu h) phải viết trước câu g). Muốn vậy chỉ cần hoán đổi vị
trí câu i) và câu g)
+ Các câu thơ phải sắp xếp lại như sau:
a) Quả cầu giấy xanh xanh
c) Qua chân tôi, chân anh
b) Bay lên rồi lộn xuống
d) Đi từng vòng quanh quanh.
e) Anh nhìn cho tinh mắt
i) Tôi đá thật dẻo chân
h) Cho cầu bay trên sân
g) Đừng để rơi xuống đất.
+ Trò chơi 6 “ Tìm câu có vế câu kết hợp sai ”:
Giáo viên đưa ra khổ thơ hoặc bài thơ có những câu có vế câu kết hợp sai.
Hãy chỉ ra những câu văn có vế câu kết hợp sai đó. Hãy viết lại cho đúng.
VD:
Bài: Một mái nhà chung
a)
b)
c)
d)
e)
g)
h)
Mái nhà của chim
Sâu trong lòng đất
Mái nhà của cá
Tròn vo bên mình.
Mái nhà của dím
Lợp nghìn lá biếc
Mái nhà của ốc
18
i) Sóng xanh rập rình.
Đáp án:
Có sự kết hợp sai giữa các vế câu trong tất cả 8 câu, do không nắm chắc
đặc điểm sinh hoạt của các con vật được nói đến.
Chim làm tổ trên cây nên mái nhà của chim phải là “ Lợp nghìn lá biếc”.
Cá bơi lội dưới nước nên mái nhà của cá chính là “ Sóng xanh rập rình”.
Dím làm tổ trong lòng đất, nên mái nhà của dím phải “ sâu trong lòng
đất”.
Ốc lúc nào cũng kè kè cái vỏ to tướng nên đó chính là mái nhà của ốc ta.
Đoạn thơ cần sửa lại sự kết hợp các vế câu bằng cách hoán đổi vế câu b) và
g), hoán đổi vế câu d) và i) như sau:
a) Mái nhà của chim
g) Lợp nghìn lá biếc
c) Mái nhà của cá
i) Sóng xanh rập rình.
e) Mái nhà của dím
b) Sâu trong lòng đất
h) Mái nhà của ốc
d) Tròn vo bên mình.
+ Trò chơi 7 “ Tìm câu có từ kết hợp sai ”:
Giáo viên đưa ra khổ thơ hoặc bài thơ có vế câu kết hợp sai. Hãy chỉ ra
những câu có vế câu kết hợp sai đó rồi viết lại cho đúng.
VD:
Bài: Rừng cọ
a) Đã có ai lắng nghe
b) Tiếng ào ào trận gió
c) Như tiếng thác đổ về
d) Như mưa trong rừng cọ
e) Đã ai nhìn trời xanh
g) Giữa một buổi trưa hè
h) Gối đầu lên thảm cỏ
i) Lên rừng cọ lá che.
k) Đã có ai dậy sớm
l) Nhìn lên rừng cọ tươi
m) Lá xòe như mặt trời
n) Giống hệt từng tia nắng.
Đáp án:
a) Đã có ai lắng nghe
b) Tiếng mưa trong rừng cọ
c) Như tiếng thác đổ về
19
d) Như ào ào trận gió
e) Đã ai lên rừng cọ
g) Giữa một buổi trưa hè
h) Gối đầu lên thảm cỏ
i) Nhìn trời xanh, lá che.
k) Đã có ai dậy sớm
l) Nhìn lên rừng cọ tươi
m) Lá xòe từng tia nắng.
n) Giống hệt như mặt trời.
Với các trò chơi trên, trong mỗi tiết dạy tập đọc có yêu cầu học thuộc lòng,
giáo viên sẽ lựa chọn một, hai trò chơi phù hợp, hiệu quả nhất cho từng bài tập
đọc để giúp HS hứng thú học , thuộc bài và hiểu bài nhanh nhất.
Tóm lại:
Các biện pháp mà tôi thực hiện ở trên có những mục đích:
+ Các biện pháp 1, 2: Giúp học sinh từ chỗ ghi nhớ không có ý thức và
ghi nhớ có ý thức, tự mình có ý thức tìm hiểu bài, tạo tâm thế chú ý nghe giảng.
+ Các biện pháp 3, 4, 5: Giúp học sinh từ chỗ ghi nhớ máy móc bổ sung
thêm ghi nhớ logic: Từ ghi nhớ dựa vào dấu hiệu bên ngoài thành ghi nhớ nội
dung, ý nghĩa, cái cốt lõi bên trong tác phẩm.
3.2.Biện pháp riêng đối với từng loại đối tượng HS:
Thực tế không phải lớp học nào cũng có cùng một đối tượng. Trong lớp
tôi có nhiều đối tượng khác nhau. Vậy phải làm thế nào để cho các em trong lớp
có sự ghi nhớ tốt? Sau đây là những biện pháp cụ thể:
a) Đối với những em không hay chú ý, có sự ghi nhớ kém:
+ Trong khi giảng dạy tôi thường chú ý quan tâm nhiều nhất.
+ Bắt đầu giảng bài tôi “để mắt” tới các em này xem có chú ý lên bảng
không?... nếu không thì sẽ kịp thời nhắc nhở.
+ Trong khi giảng, tôi hay hỏi những em này về nội dung của bài, nếu
không nắm được, tôi cho các em khá giỏi trả lời, sau đó các em này phải nhắc
lại.
VD:
Bài “ Một mái nhà chung”
( Tiếng Việt lớp 3 tập 2 - trang 100)
- Khổ thơ đầu tôi hỏi như sau: Mái nhà của chim, của cá có nét gì đáng
yêu?
( Mái nhà của chim: lợp nghìn lá biếc
Mái nhà của cá: sóng xanh rập rình.)
- Khổ thơ thứ hai tôi hỏi như sau: Mái nhà của dím, của ốc có nét gì đáng
yêu?
( Mái nhà của dím: sâu trong lòng đất
Mái nhà của ốc: tròn vo bên mình.)
20
- Khổ thơ thứ ba tôi hỏi như sau: Mái nhà của em có gì đẹp và đáng yêu?
( Mái nhà của em có giàn gấc đỏ, có hoa giấy lợp hồng.)
- Khổ thơ thứ tư, thứ năm tôi hỏi như sau: Mái nhà chung của muôn vật là
gì?
( Mái nhà chung là bầu trời xanh)
+ Đối với những bài dài, khó học, tôi chỉ yêu cầu các em đọc một
đoạn( một khổ), lúc đầu thì đoạn ngắn( khổ ngắn) sau thì đoạn dài hơn. Như vậy
các em không ngại và sợ học.
VD:
Khi cho học sinh đọc thuộc lòng bài : Bài hát rồng cây
Lúc đầu, tôi yêu cầu các em này chỉ đọc khổ thơ đầu:
Ai trồng cây
Người đó có tiếng hát
Trên vòm cây
Chim hót lời mê say.
Sau khi các em đã thuộc khổ thơ trên thì giáo viên động viên, khuyến
khích các em đọc thuộc tiếp khổ thứ hai:
Ai trồng cây
Người đó có ngọn gió
Rung cành cây
Hoa lá đùa lay lay
Cứ như vậy cho đến hết cả bài
+ Giáo viên viết sẵn bài vào bảng phụ rồi xóa dần các từ, các câu chỉ để
lại một số từ làm điểm tựa, cuối cùng thì xóa hết cho HS học thuộc hoặc viết sẵn
mỗi dòng thơ một từ làm điểm tựa rồi xóa dần các từ đó.
+ Thường xuyên động viên kịp thời sự tiến bộ của các em này trước lớp
để các em phấn khởi, hào hứng hơn trong các bài sau.
Ngoài ra, để giúp các em nhanh thuộc bài, tôi còn cho học sinh quan sát
tranh, ảnh có liên quan đến những khổ thơ, bài thơ mà các em phải học thuộc
lòng. Qua việc nhìn tranh, ảnh các em sẽ nghĩ ngay ra những câu thơ để đọc.
VD:
Khi cho học sinh đọc thuộc lòng bài : Hai bàn tay em.
Tôi đã đưa ra một số tranh, ảnh sau:
21
Tranh 1
Nhìn vào tranh này , học sinh sẽ đọc ngay được khổ thơ đầu:
Hai bàn tay em
Như hoa đầu cành
Hoa hồng hống nụ
Cánh tròn ngón xinh
Với 4 khổ thơ còn lại tôi tiếp tục đưa ra 4 tranh để giúp học sinh đọc thuộc
bài dễ hơn.
22
Tranh 2
Đêm em nằm ngủ
Hai hoa ngủ cùng
Hoa thì bên má
Hoa ấp cạnh lòng.
23
Tranh 3
Tay em đánh răng
Răng trắng hoa nhài
Tay em chải tóc
Tóc ngời ánh mai.
24
Tranh 4
Giờ em ngồi học
Bàn tay siêng năng
Nở hoa trên giấy
Từng hàng giăng giăng
25