MỞ ĐẦU
Triết học là hệ thống tri thức lý luận chung nhất của con người về thế giới, về vị trí,
vai trò của con người trong thế giới ấy. Đối tượng của triết học chính là thế giới vật
chất và con người được nghiên cứu dưới dạng các quy luật chung và phổ biến của tự
nhiên, xã hội và tư duy. Ra đời từ thực tiễn, phụ thuộc vào tình hình kinh tế - xã hội,
nên trong quá trình phát triển của mình, đối tượng của triết học được thay đổi để phù
hợp theo từng giai đoạn của lịch sử cụ thể. Trong phạm vi bài viết, nhóm 2A1 sẽ phân
tích, trình bày và làm rõ quan niệm về đối tượng của Triết học thông qua từng giai
đoạn lịch sử. Do quá trình nghiên cứu khó có thể tránh được những thiếu sót, chúng
tôi rất mong muốn nhận được sự góp ý của thẩy cô tổ bộ môn và các bạn.
Chúng tôi xin chân thành cảm ơn!
NỘI DUNG
I, Khái niệm triết học và đối tượng nghiên cứu của triết học
1, Khái niệm triết học
Triết học ra đời vào khoảng thế kỷ thứ VIII đến thế kỷ thứ VI trước công nguyên
với các thành tựu rực rỡ trong triết học Trung Quốc, Ấn Độ và Hy Lạp cổ đại.
Về khái niệm Triết học, theo gốc từ chữ Hán là sự truy tìm bản chất của đối tượng,
là sự hiểu biết sâu sắc của con người, đi đến đạo lý của sự vật. Theo người Ấn Độ,
triết học là darshana. Điều đó có nghĩa là sự chiêm ngưỡng dựa trên lý trí, là con
đường suy ngẫm để dẫn dắt con người đến lẽ phải. Theo chữ Hy Lạp, triết học là
philosophia, có nghĩa là yêu thích sự thông thái. Nhà triết học được coi là nhà thông
thái, có khả năng nhận thức được chân lý, làm sáng tỏ được bản chất của sự vật. Như
vậy, dù ở phương Đông hay phương Tây, khi triết học mới ra đời, đều coi triết học là
đỉnh cao của trí tuệ, là sự nhận thức sâu sắc về thế giới, đi sâu nắm bắt được chân lý,
được quy luật, được bản chất của sự vật. Trải qua quá trình phát triển, đã có nhiều
quan điểm khác nhau về triết học. Trong các quan điểm khác nhau đó vẫn có những
điểm chung. Đó là, tất cả các hệ thống triết học đều là hệ thống tri thức có tính khái
quát, xem xét thế giới trong tính chỉnh thể của nó, tìm ra các quy luật chi phối trong
chỉnh thể đó, trong tự nhiên, xã hội và bản thân con người.
Khái quát lại, triết học là một hình thái ý thức xã hội. Đó là một hệ thống tri thức
lý luận chung nhất của con người về thế giới, về bản thân con người và vị trí của con
người trong thế giới đó.
1
2, Đối tượng nghiên cứu của triết học
Đối tượng nghiên cứu của triết học là toàn bộ thế giới trong một chỉnh thể, bao
gồm: giới tự nhiên, xã hội loài người và tư duy của con người.
Triết học ra đời từ thời cổ đại. Từ đó đến nay, triết học đã trải qua nhiều giai đoạn
phát triển. Trong quá trình phát triển đó, đối tượng của triết học cũng thay đổi theo
từng giai đoạn lịch sử.
-Thời kỳ cổ đại: Triết học bao gồm tri thức về tất cả các lĩnh vực như toán, vật lý,
hóa học, thiên văn, sinh vật, xã hội học, đạo đức học, mỹ học, …
-Thời kỳ trung cổ: Triết học kinh viện, có nhiệm vụ lý giải và chứng minh cho sự
đúng đắn của những nội dung trong kinh thánh.
-Thời kỳ cận đại: Sự phát triển mạnh mẽ của các khoa học cụ thể, tri thức của con
người phát triển phong phú, các môn khoa học dần dần tách ra thành các môn khoa
học độc lập trong đó có triết học. Sự phát triển mạnh mẽ của triết học duy vật thế kỷ
XVII – XVIII và sự phát triển của chủ nghĩa duy tâm; cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa
duy vật và chủ nghĩa duy tâm đã xóa bỏ tham vọng triết học là khoa học của mọi khoa
học, khẳng định đối tượng của triết học là xem xét thế giới như một chỉnh thể và tìm
cách đưa ra một hệ thống các quan niệm về chỉnh thể đó. Hay nói cách khác, triết học
nghiên cứu những vấn đề chung nhất của giới tự nhiên, của xã hội và con người, mối
quan hệ của con người nói chung của tư duy nói riêng với thế giới xung quanh.
II, Quan niệm về đối tượng triết học trong lịch sử
Theo quan niệm truyền thống, người ta phân kỳ lịch sử Triết học tương ứng với sự
phân kỳ lịch sử hiện thực. Trong quá trình phát triển, đối tượng của triết học thay đổi
theo từng giai đoạn lịch sử, cụ thể là:
1.Quan niệm về đối tượng triết học thời kỳ cổ đại
Thời cổ đại, khi mới bắt đầu có sự phân chia giữa lao động chân tay với lao động
trí óc, tri thức của loài người còn rất ít, chưa có sự phân chia giữa triết học với các
khoa học độc lập. Ở Trung Hoa, triết học gắn liền với những vấn đề chính trị - xã hội;
ở Ấn Độ triết học gắn liền với tôn giáo; ở Hy Lạp, triết học gắn liền với khoa học tự
nhiên và gọi là triết học tự nhiên. Cũng vì vậy, ở thời kỳ này đối tượng nghiên cứu của
triết học là mọi lĩnh vực tri thức. Đây cũng là nguyên nhân sâu xa về sau dẫn đến quan
niệm cho rằng: “Triết học là khoa học của các khoa học”.
2
Thời kỳ này, triết học đã đạt được nhiều thành tựu rực rỡ, đặt nền móng cho sự
phát triển về sau không chỉ đối với triết học mà còn đối với khoa học tự nhiên và khoa
học xã hội. Triết học phát triển ở cả phương Đông lẫn phương Tây với vô vàn quan
điểm, trường phái, triết gia muôn màu muôn sắc.
Ở phương Đông, các nền triết học Ấn Độ và Trung Quốc lâu đời cho phép chúng ta
hình dung quan niệm của con người đối với các vấn đề tự nhiên, xã hội, chính trị,…vô
cùng đa dạng thông qua các bộ thánh kinh Veda, Upanishad, các trường phái triết học
Mimansa, Samkhya, Phật giáo… của Ấn Độ, thông qua Nho giáo, Đạo gia, Pháp gia
… của Trung Quốc.
Với những tư tưởng triết học đượm màu sắc tôn giáo, các triết gia Ấn Độ cổ đại
đều đặt ra và tìm những phương hướng khác nhau để giải thoát cho con người; một số
triết gia đã tìm cách giải thích các sự vật hiện tượng xung quanh mình từ các yếu tố
quen thuộc đối với họ như đất, nước, lửa, gió hay khái quát hơn như nguyên tử, đặc
sắc nhất là quan niệm về một thế giới vô cùng vô tận tự nó sinh ra nó theo quy luật
nhân quả của triết học Phật giáo.
Nền triết học – chính trị Trung Quốc cổ đại trong bối cảnh xã hội loạn lạc thời
Đông Chu lại thiên về nghiên cứu và đề xuất những chủ trương trị nước khác nhau:
Đức trị, vô vi trị, pháp trị, …; gắn với các chủ trương trị nước đó là những yêu cầu có
tính chất chuẩn mực đặt ra đối với mối quan hệ giữa người với người trong xã hội;
những quan niệm về giới tự nhiên không nhiều và luôn hướng tới việc yêu cầu con
người phải giữ được sự đồng nhất với “đạo” hoặc tuân phục sự chi phối của “thiên
mệnh”. Các tư tưởng triết học đó đã trầm tích, từ tốn bổ sung, phát triển trong suốt
mấy nghìn năm và còn tồn tại, tác động ảnh hưởng đến bây giờ. Những Cakya Muni,
Khổng Tử, Lão Tử, Mạnh Tử… còn mãi mãi được nhớ tới bởi những tư tưởng triết
học sâu sắc, thâm thúy và trường tồn.
Phương Tây diễn ra sự phát triển sôi động, liên tục của triết học, biểu hiện ở các
giai đoạn kế tiếp nhau, mỗi giai đoạn phát triển với một đặc trưng riêng có, với những
trường phái, học thuyết triết học không lẫn lộn, lặp lại bất cứ trường phái nào trước
đó.
Ở thời kỳ cổ đại, các triết gia Hy Lạp khởi đầu từ Talet đến Heerraclit, Pitago, qua
Đêmôcrit, Xoocrat, Platon, Arixtot, với những cố gắng nghiền gẫm, suy tư, đã tìm
cách giải thích, cắt nghĩa cho con người về sự hình thành của thế giới, của vũ trụ, về
con người và nhiều vấn đề xã hội khác. Dù còn cảm tính, phỏng đoán, ngây thơ nhưng
3
những tư tưởng của họ thực sự là những viên gạch tri thức đầu tiên của toàn bộ nền
văn minh châu Âu.
Như vậy khi mới ra đời, triết học thời cổ đại được gọi là “ triết học tự nhiên”, bao
hàm trong nó toàn bộ tri thức của nhân loại. Do đó, đối tượng nghiên cứu của triết học
thời kỳ này là toàn bộ thế giới khách quan. Lúc bấy giờ, triết học và khoa học tự nhiên
có chung đối tượng nghiên cứu. Bên cạnh xu hướng nghiên cứu triết học với tư cách
là toàn bộ thế giới khách quan thì còn có xu hướng nghiên cứu triết học về con người.
Tuy nhiên, phần lớn các nhà triết học thời kỳ này lại lấy giới tự nhiên làm đối tượng
nghiên cứu, họ nghiên cứu về thế giới này một cách hoàn toàn trực quan và cảm tính,
tức là bằng việc quan sát một cách trực tiếp về thế giới.
2. Quan niệm về đối tượng nghiên cứu của Triết học thời kỳ trung cổ
Cơ sở của những quan niệm:
Như chúng ta đã biết, thời kỳ trung cổ là thời kỳ thống trị về mặt tư tưởng của đạo
Thiên chúa giáo và tôn giáo nói chung. Tôn giáo đã bắt những hình thái khác của của
ý thức xã hội phải phụ thuộc vào nó. Pháp luật, khoa học tự nhiên, triết học - tất cả nội
dung của các khoa học đó đều được trình bày sao cho phù hợp với học thuyết của nhà
thờ. Vai trò của tôn giáo biểu hiện đặc biệt ở chỗ nó làm chủ ý thức của quần chúng
nhân dân và dùng sự áp bức về tinh thần của nó để ủng hộ sự bóc lột của bọn phong
kiến.
Nhà thờ đạo Thiên chúa, như Ăng ghen nhận xét, là một tổ chức tập quyền hùng
mạnh, thống trị Châu Âu tinh thần và chính trị. Do đó, khoa học và triết học đã
không tìm được cho mình một con đường dộc lập. Việc nghiên cứu khoa học và thần
học chủ yếu tập trung trong các tu viện và trường học của nhà thờ. Còn các nhà khoa
học và thần học thì ít khi vượt khỏi sự bình luận và giải thích kinh thánh. Bởi vậy, tín
điều nhà thờ là điểm xuất phát của mọi tư duy, và thế giới quan thời kỳ này chủ yếu là
thế giới quan thần học bao trùm lên triết học, luật học và chính trị. Các lý thuyết triết
học từ đó chịu ảnh hưởng của nền triết học đạo Cơ đốc từ thế kỷ II đến thể kỷ IV. Vì
vậy, nghiên cứu triết học thời trung cổ không thể tách dời sự nghiên cứu giai đoạn triết
học đạo Cơ đốc.
Quan niệm về đối tượng triết học thời kỳ trung cổ
Do sự thống trị của tôn giáo mà lúc bấy giờ, triết học, kể cả khoa học tự nhiên có
sự thay đổi về đối tượng, nó không nghiên cứu về thế giới khách quan nữa mà nó
chuyển sang nghiên cứu về một cuốn sách, đó là cuốn kinh thánh. Cũng bởi do sự
4
thống trị của tôn giáo mà triết học thời kỳ này chỉ có một nhiệm vụ duy nhất là giải
thích, chứng minh cho những giáo lý trong kinh thánh là chân lý. Chính vì đối tượng
nghiên cứu của triết học là một cuốn sách cho nên người ta gọi triết học thời kỳ này là
triết học kinh viện, tức là xuất phát từ từ “school” - sách vở, trường học. Sự tồn tại và
phát triển mạnh mẽ của tư tưởng triết học kinh viện (chủ nghĩa kinh viện) cũng là một
nét nổi bật của thời kỳ Trung cổ ở Tây Âu mà theo Ăngghen, trong thời kỳ Trung cổ ở
Tây Âu, triết học chỉ là "đầy tớ", "con sen" cho thần học. Bởi vì, nhiệm vụ duy nhất
của triết học là giải thích đúng đắn và chứng minh về mặt hình thức cho những tín
điều tôn giáo do nhà thờ thiên chúa giáo thống trị, đứng đầu là Giáo hoàng La Mã đặt
ra.
Mặc dù tôn giáo không phải là triết học nhưng xét về mặt thế giới quan của tôn
giáo thì thế giới quan của tôn giáo là thế giới quan duy tâm khách quan, bởi vì nó thừa
nhận có một đấng sáng tạo tạo ra thế giới ở bên ngoài con người. Tuy nhiên, ở đây tôn
giáo không đồng nghĩa với chủ nghĩa duy tâm khách quan. Triết học duy tâm khách
quan khác với thế giới quan duy tâm khách quan của tôn giáo (xem phần các vấn đề
cơ bản của triết học).
Giai đoạn đầu của triết học Thiên chúa giáo trong thời kỳ Trung cổ là Patrixtica.
Trên cơ sở của Patrixtica, chủ nghĩa kinh viện đã thống trị trong các thế kỷ từ IX đến
XII. Chủ nghĩa kinh viện được coi là mục đích của triết học trong sự biện giải của các
nhà giáo điều. Trong các thế kỷ từ thế kỷ XI đến thế kỷ XIV xẩy ra cuộc tranh luận
giữa thuyết duy thực (thực thể luận) (đại diện là A.Kentơ rờ beri xki. Phôma
Ăcvinxki)- thuyết này khẳng định sự tồn tại nằm bên ngoài trí tuệ con người với
thuyết duy danh (đại diện là Rốt xelin, Đunxcốt, Occam)- thuyết này công nhận sự tồn
tại hiện thực chỉ của các sự vật đơn nhất. Kết quả của cuộc tranh luận trên là sự thể
hiện của cuộc đấu tranh giữa xu hướng duy vật và xu hướng duy tâm. Hướng chủ đạo
của triết học Ả rập thời Trung cổ là hệ thống triết học Peripatét phía Đông (xem:
trường phái Peripatét) với những người chỉ hướng và phát triển các học thuyết của
mình như: Kin đi, Pha ra bi, I bi, Xin na, Ibi Rusd.
Trong giai đoạn triết học này có những nhà triết học và thần học nổi tiếng như
Téctuliêng (khoảng 160-230), nhà triết học khởi xướng việc tách triết học khỏi tôn
giáo, theo ông trí tuệ không có khả năng sáng tạo mà tôn giáo mới bao hàm tất cả
Téctuliêng đối lập Chúa trời với chân lý của con người và đưa ra kết luận: ''tôi tin bởi
vì điều đó là vô lý''. Téctuliêng cho rằng lý trí chỉ nhận thức được giới tự nhiên còn
niềm tin tôn giáo thì vượt ra ngoài giới hạn đó với mục đích nhận thức Thượng đế.
Theo ông, “Thượng đế là không thể nhìn thấy, mặc dù Ngài ở khắp mọi nơi!không thể
5
cảm nhận thấy, mặc dù bằng sự ban thưởng của mình Ngài đã hiện hữu trong chúng
ta…”. Như vậy, tư tưởng cơ bản của nhà thần học Téctuliêng là hạ thấp tri thức và lý
trí, thù địch với triết học phi tôn giáo, ca ngời lòng tin mù quáng. Hay
Ôguytxtanh (354-430), nhà triết học, nhà văn, giáo chủ được phong thánh, ông bác
bỏ tính chất thần thánh trong các vật tự nhiên và kết luận: ''Không có Thượng đế trong
các sự vật cảm biết''. Ôguytxtanh cho rằng lý trí của con người là tự do nhưng chỉ
trong giới hạn định sẵn của Chúa và quá trình nhận thức của con người chính là quá
trình nhận thức Thượng đế. Thượng đế chính là chân lý tối cao.
Ưu điểm của những quan niệm về đối tượng triết học thời kỳ trung
cổ:
Xuất hiện các cuộc đấu tranh của các xu hướng duy vật trong triết học. Xã hội
phong kiến Tây Âu trung cổ và nền triết học của nó không phải là đứt đoạn hay sụp đổ
mà chứa đựng những nhân tố chuẩn bị cho sự khôi phục những học thuyết duy vật
thời cổ đại và phát triển chúng trong thời đại của chủ nghĩa tư bản.
Có thể nói, các hệ thống triết học đều được trở đi trở lại, giai đoạn sau dường như
quay lại điểm xuất phát của giai đoạn trước. Nằm trong quy luật đó, triết học Tây Âu
Trung cổ là sự phát triển kế tiếp của triết học Cổ đại, đồng thời là tiền đề cho triết học
Cận đại. Những tư tưởng triết học của Ôguýtxtanh, Tômát Đacanh cũng là sự kế thừa
và phát triển của triết học Platôn, Arixtốt thời kỳ Cổ đại, và có những tư tưởng còn
được luận giải sâu sắc hơn. ..Do vậy, không nên coi triết học Tây Âu Trung cổ là giai
đoạn “thụt lùi” của lịch sử tư duy nhân loại, cũng không phải là sự “đứt đoạn” của lịch
sử, mà chính trong giai đoạn này, nó đã hình thành cơ sở, nền móng cho sự phát triển
của các giai đoạn tiếp theo, cho dù triết học thời kỳ này bị xem là triết học kinh viện
Hạn chế của những quan niệm về đối tượng triết học thời kỳ trung
cổ:
Đây là thời kỳ lịch sử mà tiếng nói "trí tuệ và lương tri nhân loại" bị áp đảo bởi sự
tuyên truyền của giáo hội về đức tin nơi Thiên chúa. Những căn cứ để triết học kinh
viện "luận chứng" chính là những tín điều trong các cuốn kinh thánh của đạo Thiên
chúa, chứ không phải là những kiến thức khoa học, không phải là thực tiễn quan sát và
thí nghiệm của khoa học như giai đoạn sau này, cũng không phải là thực tiễn kinh tế
xã hội hiện thực.
Những luận chứng của triết học kinh viện mang tính "sáo rỗng" hình thức mà thiếu
đi nội dung hiện thực của cuộc sống sinh động. Triết học kinh viện là triết học chính
6
thức của giai cấp phong kiến, đã kìm hãm sự phát triển của khoa học và triết học duy
vật. Mục đích cao nhất của các trào lưu triết học là phục vụ tôn giáo và nhà thờ, xuyên
tạc học thuyết của các nhà triết học tiến bộ thời cổ đại như Arixtot. Triết học chính
thức của xã hội phong kiến Tây Âu trung cổ là chủ nghĩa kinh viện thấm nhuần tinh
thần duy tâm chủ nghĩa.
3. Quan niệm về đối tượng nghiên cứu của triết học thời kỳ phục hưng và cận
đại.
Cơ sở hình thành quan niệm về đối tượng nghiên cứu của triết học
thời phục hưng:
Đến cuối thế kỷ XV là thời kỳ xuất hiện phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, và
khi xuất hiện phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa thì người ta có nhu cầu là tạo ra
những công cụ lao động bằng máy móc để tiến hành sản xuất. Sự phát triển của nền
sản xuất vật chất, cuộc đấu tranh giai cấp trong phương thức sản xuất phong kiến ngày
càng trở nên gay gắt hơn đã dẫn tới điều tất yếu là chủ nghĩa tư bản phải thay thế chủ
nghĩa phong kiến. Do đòi hỏi của thực tiễn sản xuất vật chất, các ngành khoa học tự
nhiên bắt đầu phát triển và do nhu cầu của sản xuất thì khoa học tự nhiên lúc bấy giờ
tách ra khỏi triết học để trở thành ngành độc lập. Khi đó, nó sẽ có đối tượng nghiên
cứu riêng, phương pháp nghiên cứu riêng. Như ta đã biết, phương pháp nghiên cứu
của khoa học tự nhiên là phương pháp thực nghiệm, tức là chia đối tượng thành các
mặt, các bộ phận để nghiên cứu. Và khi phương pháp thực nghiệm này ảnh hưởng đến
tư duy của các nhà triết học thì nó trở thành phương pháp tư duy siêu hình. Bởi vậy,
triết học thời kỳ này là triết học siêu hình.
Những nhà tư tưởng triết học nổi tiếng:
Ảnh hưởng của khoa học tới sự phát triển của triết học Tây Âu giai đoạn này lớn
tới mức khó xác định được ranh giới giữa các lĩnh vực thế giới quan. Những nhà tư
tưởng lớn như Brunô, Galilê, Đềcáctơ, Lépnít, …đều là những người uyên bác cả về
phương diện triết học lẫn khoa học tự nhiên. Họ là những bộ óc bách khoa toàn thư
thể hiện trình độ phát triển trí tuệ nhân loại thời đó.
Mặc dù bản thân nhiều triết gia thời kỳ này không ý thức được sự tác động trở lại
của các khoa học trong việc giải quyết nhiều vấn đề triết học mà chỉ coi triết học như
một dạng thế giới quan đứng trên chúng, nhưng trên thực tế, chính sự phát triển của
các khoa học tự nhiên, đặc biệt là cơ học, đã tạo điều kiện cho sự thống trị của phương
pháp tư duy siêu hình. Sự phát hiện ra tuần hoàn của máu của Gavrê, phát hiện ra cơ
7
chế phản xạ của Đềcáctơ … đã làm cho các nhà triết học thời kỳ này lưu tâm tới vai
trò đặc biệt quan trọng của thể xác con người đối với tư duy và ý thức, tạo điều kiện
chấm dứt cái gọi là “vấn đề tâm – vật lý” ra khỏi diễn đàn triết học.
Tiêu biểu như Lêôna Đờ Vanhxi (1452-1519), ông phê phán các quan niệm của
thần học và giáo hội mà cao vai trò của kinh nghiệm trong nhận thức, ông luôn tìm
cách xây dựng một hệ thống thế giới quan khoa học thực sự dựa trên cơ sở của kinh
nghiệm và thực nghiệm. Đồng thời, tiếp thu tư tưởng của các nhà nhân đạo, Lêôna Đờ
Vanhxi khẳng định con người là vũ khí vĩ đại nhất của tạo hóa. Dựa trên các sự vật tự
nhiên, con người sáng tạo ra các sự vật mới phục vụ cho cuộc sống của mình. Tuy
nhiên, theo ông khoa học chỉ có khả năng khám phá ra các đặc tính thuộc về lượng
của các sự vật, phát hiện ra các quy luật chung của thế giới, chỉ có nghệ thuật mới có
thể nhận thức các đặc tính thuộc về chất của các sự vật. Đây cũng chính là điểm hạn
chế trong quan niệm của nhà danh họa này mặc dù nó vẫn mang yếu tố hợp lý nhất
định. Hay Brunô (1548-1600) một nhà triết học, nhà khoa học tự nhiên vĩ đại thời kỳ
phục hưng . Theo ông, vật chất phải là cái tích cực, nó vừa là cơ chất, vừa là thực thể
của mọi vật. Mọi hình dạng chẳng qua là hình dạng của vật chất mà thôi. Tiếp cận
được với quan niệm khẳng định tính thống nhất vật chất của vũ trụ, ông nhận thấy
chân lý: “mọi sự vật, hiện tượng đều nằm trong vũ trụ và vũ trụ nằm trong tất thảy
mọi vật. Chúng ta ở trong vũ trụ và vũ trụ nằm trong chúng ta”. Đề cập đến con người,
Bru nô đặc biệt đề cao khả năng nhận thức trí tuệ của con người. Ngoài ra, còn có
Galilê (1564-1642) người mở đầu cho sự phát triển khoa học thực nghiệm và toán học
cận đại. Các phát kiến khoa học của Galilê có ý nghĩa triết học sâu sắc. Chúng giúp
ông xây dựng quan niệm về thế giới một cách khách quan. Galilê cũng ví giới tự nhiên
và kinh thánh tựa như “hai cuốn sách” không liên quan tới nhau, mỗi “cuốn sách” trên
thích dụng cho con người ở một khía cạnh nhất định. Từ đó, ông khẳng định tôn giáo
và khoa học là hai lĩnh vực đời sống tinh thần cần thiết của con người. Điều này cho
thấy cách quan niệm mềm dẻo của Galilê về vấn đề này mang nhiều yếu tố hợp lý mà
đến nay đã được chứng minh.
Đối tượng nghiên cứu của triết học:
Trong thời kỳ này, khi khoa học tự nhiên tách ra thành ngành độc lập thì bản thân
các nhà khoa học tự nhiên vẫn nghiên cứu về triết học nên đối tượng nghiên cứu của
triết học thời kỳ này đã ra thế giới khách quan, nhưng thế giới khách quan lại được
nghiên cứu dưới góc độ khoa học tự nhiên, tức là nó bị chia cắt thành từng mặt, từng
bộ phận để nghiên cứu đã tạo nên cho triết học thời kỳ này mang tính máy móc và
siêu hình. Thời kỳ này chịu tác động mạnh mẽ của tư duy siêu hình, máy móc của cơ
8
học, cho rằng thế giới giống như một cỗ máy cơ giới khổng lồ mà mỗi bộ phận tạo
nên nó luôn ở trạng thái biệt lập, tĩnh tại.
Điểm tích cực là bảo vệ và phát triển chủ nghĩa duy vật , đấu tranh quyết liệt chống
lại chủ nghĩa duy tâm, nhà thờ, tôn giáo, thiên chúa. tuy nhiên, hạn chế của nó là tính
chất siêu hình máy móc. Các quan điểm này thống trị dai dẳng trong khoa học cho đến
thế kỷ 19 và ngày càng bộc lộ những nhược điểm của nó. Đặc biệt đến cuối thế kỷ 19
đầu thế kỷ 20, đứng trước những phát minh mới ra đời của khoa học kỹ thuật như
thuyết tế bào , thuyết tiến hoá, định luật bảo toàn và chuyển hoá năng lượng… thì các
quan điểm trên không đứng vững được nữa.
4. Quan niệm về đối tượng của triết học trong triết học cổ điển Đức
Đến cuối thế hỷ XVIII đầu thế kỷ XIX lại đặt ra vấn đề triết học có đối tượng
nghiên cứu riêng, khoa học có đối tượng nghiên cứu riêng thì nó có liên quan gì đến
nhau hay không? Trong khi triết học Hêghen là hệ thống triết học cuối cùng “ triết học
là khoa học của mọi khoa học”. Ta sẽ tìm hiểu quan niệm tiêu biểu về đối tượng của
triết học thời kỳ này trong học thuyết triết học cổ điển Đức.
Tác động của bối cảnh lịch sử đến sự ra đời của triết học cổ điển
Đức.
Nước Đức vào thế kỷ 18 đến đầu thế kỷ XIX vẫn còn là một quốc gia phong kiến
điển hình, với hơn 300 tiểu vương quốc tự lập trong một liên bang Đức, lạc hậu về
kinh tế và chính trị. Thủ công nghiệp, công nghiệp, nông nghiệp bị đình đốn. Triều
đình vua Phổ Phriđrich Vin Hem vẫn tăng cường quyền lực duy trì chế độ quân chủ,
cản trở đất nước phát triển theo con đường tư bản chủ nghĩa. Cả đất nước bao trùm
bầu không khí bất bình của đông đảo quần chúng. Trong khi đó, ở nước Pháp đã tiến
hành cuộc cách mạng tư sản, ở nước Anh thực hiện cuộc cách mạng công nghiệp làm
rung chuyển châu Âu, đưa châu Âu bước vào nền văn minh công nghiệp. Vì giai cấp
tư sản Đức và những lực lượng tiến bộ khác nằm rải rác ở những vương quốc nhỏ tách
rời nhau, yếu kém về kinh tế và chính trị lẫn lực lượng nên không thể tiến hành cách
mạng tư sản trong thực tiễn, mà chỉ tiến hành cách mạng về phương diện tư tưởng.
Trước đòi hỏi của quá trình phát triển phương thức sản xuất tư bản ở các nước Tây
Âu, khoa học tự nhiên đã đạt nhiều thành tựu lớn: phát hiện ra điện, phát hiện ra ôxy
và bản chất sự cháy của Lavoadie; việc phát hiện ra tế bào của Lơvenhuc; … Những
thành tựu đó chứng tỏ sự hạn chế của phương pháp tư duy siêu hình trong việc lý giải
bản chất của các hiện tượng tự nhiên và thực tiễn xã hội đang diễn ra. Nó đòi hỏi cần
9
có cách nhìn mới, phương pháp mới, quan niệm mới về vai trò và khả năng của con
người. Triết học cổ điển Đức ra đời và phát triển mạnh mẽ nhằm đáp ứng nhu cầu đó.
Đối tượng của triết học cổ điển Đức thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX
Triết học cổ điển Đức đề cao vai trò tích cực của hoạt động con người, coi con
người là một thực thể hoạt động, là nền tảng và điểm xuất phát của mọi vấn đề triết
học. Con người là chủ thể đồng thời là kết quả của quá trình hoạt động của chính
mình; tư duy và ý thức của của con người chỉ có thể phát triển trong quá trình con
người nhận thức và cải tạo thế giới. Hay nói cách khác, triết học cổ điển Đức quan
niệm đối tượng của triết học chính là nghiên cứu về con người, về thế giới khách
quan, về mối quan hệ giữa con người với thế giới khách quan.
Triết học cổ điển Đức xây dựng phép biện chứng trở thành phương pháp luận triết
học độc lập với phương pháp tư duy siêu hình trong lĩnh vực nghiên cứu các hiện
tượng tự nhiên và xã hội. Với cách nhìn bao quát, biện chứng, nhiều nhà triết học cổ
điển Đức thời kỳ này có tham vọng xây dựng một hệ thống triết học vạn năng không
những làm nền tảng cho thế giới quan của con người mà còn trở thành một thứ khoa
học của các khoa học.
Đại diện tiêu biểu của triết học cổ điển Đức.
Đại diện tiêu biểu cho triết học cổ điển Đức thời kỳ này là triết học Hêghen.
Hêghen xem triết học của mình là một hệ thống phổ biến của tri thức khoa học, mà
trong đó các ngành khoa học cụ thể chỉ là những móc khâu của triết học. Triết học
Hêghen quan niệm triết học là "khoa học của các khoa học".
Triết học Hêghen đã phê phán được thuyết siêu hình học chỉ xem xét sự vật trong
sự cô lập, phủ nhận mâu thuẫn nội tại trong sự vật. Hêghen cũng là người có công
trình bày một cách có hệ thống những nội dung quan trọng nhất của phương pháp biện
chứng. “Nền triết học Đức đã đạt tới đỉnh cao của nó trong hệ thống của Hêghen,
trong đó, lần đầu tiên - và đây là công lao to lớn của ông- toàn bộ thế giới tự nhiên,
lịch sử và tinh thần được trình bày như một quá trình, nghĩa là luôn luôn vận động,
biến đổi, biến hóa và phát 20 triển, ông đã cố vạch ra mối liên hệ nội tại của sự vận
động và sự phát triển ấy” ( C. Mác và Ph. Ăngghen, Toàn tập, tập 20, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 39)
Tuy nhiên, hạn chế bao trùm nhất trong triết học Hêghen là lập trường duy tâm
khách quan và chịu ảnh hưởng của tôn giáo. Theo Hêghen, tư duy, ý thức chỉ tồn tại tự
nó, có tính chất thần thánh mà không phải là sản phẩm cao nhất của thế giới vật chất.
10
Hêghen đã đồng nhất tư duy với tồn tại, thế giới hiện thực chỉ là sự sao chép ý niệm,
bắt đầu từ tinh thần và kết thúc ở tinh thần nên phép biện chứng của Hêghen là biện
chứng duy tâm.
Tuy phép biện chứng của Hêghen không triệt để bởi tính duy tâm của nó. Nhưng
phép biện chứng của Hêghen là một trong những thành tựu quý giá nhất của triết học
cổ điển Đức nói riêng và lịch sử triết học trước Mác nói chung. Sau này, C.Mác, Ph.
Ăngghen đã kế thừa phép biện chứng của Hêghen để xây dựng nên phép biện chứng
duy vật.
5. Đối tượng của Triết học thời kỳ hiện đại
Triết học Mác xuất hiện vào những năm 40 của thế kỷ XIX bởi các triết gia lỗi lạc
là Các Mác – Ăng ghen và Lê Nin, đối tượng nghiên cứu của triết học đã được thay
đổi, bởi vì các nhà triết học này đã chứng minh được rằng “triết học không phải là
khoa học của mọi khoa học mà là một khoa học độc lập” và khoa học độc lập này có
đối tượng nghiên cứu là toàn bộ giới tự nhiên, xã hội loài người và tư duy của con
người. Việc nghiên cứu này đem lại cho con người những quan điểm, quan niệm về
vấn đề chung nhất của thế giới. Và lúc bấy giơ cũng xuất hiện nhiều quan điểm, quan
niệm khác về đối tượng nghiên cứu của triết học hiện đại là cái mà tưởng rằng đã biết
nhưng lại chẳng biết gì…
Vào những năm 40 của thế kỷ XIX, trước yêu cầu cuộc đấu tranh của giai cấp vô
sản và sự phát triển của khoa học tự nhiên lúc bấy giờ, triết học Mác đã ra đời. Triết
học Mác đã đoạn tuyệt với quan niệm “triết học là khoa học của các khoa học” và xác
định đối tượng nghiên cứu của mình là tiếp tục giải quyết vấn đề mối quan hệ giữa vật
chất với ý thức trên lập trường duy vật; nghiên cứu những quy luật chung nhất của tự
nhiên, xã hội và tư duy. Từ đó định hướng cho hoạt động nhận thức, hoạt động thực
tiễn của co người nhằm cải tạo tự nhiên, cải tạo xã hội theo con đường tiến bộ.
Triết học Mác ra đời những năm 40 của thế kỷ XIX và được V.I.Lênin bổ sung,
phát triển đầu thế kỷ XX đã làm nên một bước ngoặt trong sự phát triển triết học; triết
học Mác - Lênin là hệ thống triết học duy vật và biện chứng, khắc phục được những
hạn chế của chủ nghĩa duy tâm và phép biện chứng trước Mác. Triết học Mác – Lê nin
cũng là triết học gắn liền với thực tiễn, nhằm mục đích cao nhất là cải tạo thế giới.
Đặc biệt, sự sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật lịch sử, từ luận điểm xuất phát: Sản xuất vật
chất là yếu tố quyết định sự phát triển của xã hội, triết học Mác – Lênin đã chỉ ra
những quy luật vận động cơ bản của xã hội loài người. Đó là các quy luật lực lượng
sản xuất – quan hệ sản xuất, cơ sở hạ tầng – kiến trúc thượng tầng, tồn tại xã hội – ý
11
thức xã hội, quy luật đấu tranh giai cấp,… Với những nội dung đã được khoa học
chứng minh và thực tiễn kiểm nghiệm, triết học Mác – Lênin đem lại cho con người
những lời giải đáp đúng đắn và khoa học về mọi vấn đề tự nhiên, xã hội và tư duy.
Gần 200 năm nay, triết học Mác – Lê nin đã và đang là cơ sở cho nhân loại tiến bộ
trong cuộc đấu tranh để xây dựng một thế giới hòa bình, một xã hội tốt đẹp hơn.
Song song với sự phát triển của triết học Mác – Lênin, trong điều kiện trong điều
kiện mới của chủ nghĩa tư bản thế giới từ giữa thế kỷ XIX đến nay, triết học của giai
cấp tư sản cũng có sự phát triển phong phú, đa dạng và phức tạp với những xu hướng
chủ đạo như triết học tôn giáo, triết học khoa học, triết học phi lý tính. Trên tinh thần
phê phán chủ nghĩa duy lý cổ điển, triết học phi lý tính (Sôpenhauơ, Huxec, Haiđơgơ
…) hướng vào những yếu tố “phi lý tính” như bản năng, vô thức, tự do sinh tồn cá
nhân; triết học khoa học (Côngtơ, Makhơ…) lấy đối tượng nghiên cứu là các môn
khoa học, tuyệt đối hóa vai trò của khoa học và thực nghiệm khoa học, phủ nhận ý
nghĩa thế giới quan của triết học; còn triết học tôn giáo (chủ nghĩa Tômát mới) ra sức
điều hòa tôn giáo với khoa học. Nhìn chung, tuy có những giá trị nhất định nhưng triết
học tư sản hiện đại chủ yếu bảo vệ cho lợi ích của giai cấp tư sản và sự tồn tại của chủ
nghĩa tư bản, trong học thuyết của họ chất chứa những mâu thuẫn, những yếu tố duy
tâm, thậm chí phản tiến bộ.
III, Ý nghĩa của việc nghiên cứu quan niệm về đối tượng của triết học trong
lịch sử
Trên cơ sở những phân tích, đánh giá quan niệm về đối tượng của triết học qua các
thời kỳ lịch sử cho phép ta rút ra kết luận sau:
+ Quan niệm về đối tượng của triết học luôn chịu sự quy định của điều kiện kinh tế
- chính trị - xã hội, sự phát triển khoa học và nhận thức của mỗi giai đoạn lịch sử. Đây
là một điều hiển nhiên vì với tư cách một hình thái ý thức xã hội, triết học phải chịu sự
quy định của tồn tại xã hội và nó là sự phản ánh tồn tại xã hội đó. Điều kiện sinh sống,
cách thức sản xuất vật chất, mối quan hệ vật chất giữa con người với con người,
những hiểu biết khoa học đã đạt được của mỗi thời đại sẽ được phản ánh, kết tinh
trong những tư tưởng triết học của thời đại đó. Kết luận này cho phép lý giải một cách
bản chất vì sao nếu vấn đề trọng tâm của triết học Ấn Độ cổ đại là giải thoát con
người thì ở Trung Quốc cổ đại nó lại là những chủ trương trị nước và việc xây dựng
các quan hệ xã hội; giúp chúng ta căn cứ xác thực để thông cảm với phương pháp tư
duy siêu hình, máy móc của các nhà triết học thế kỷ XVII, XVIII và tương tự là lời
giải thích sự ra đời tất yếu của phép biện chứng ở triết học cổ điển Đức thay thế cho
phép siêu hình trước đó.
12
Mặt khác, mặc dù chịu sự quy định của tồn tại xã hội nhưng triết học hoàn toàn
không thụ động mà thông qua hoạt động của những con người, các tổ chức, thiết
chế ..., triết học có sự tác động trở lại to lớn đối với tồn tại xã hội sinh ra nó.
+ Các quan niệm về đối tượng của triết học luôn có sự phát triển không ngừng theo
khuynh hướng ngày càng hoàn thiện. Những tinh thần duy vật từ khởi đầu mộc mạc,
chất phác thời cổ đại ở phương Đông và phương Tây đã ngày càng trở lên sâu sắc,
tinh tế với sự hỗ trợ của các thành tựu khoa học tự nhiên.
+ Có một trục trung tâm, đứng xương sống xuyên qua các giai đoạn phát triển của
triêt học, đặc biệt là triết học phương Tây, chính là cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy
vật và chủ nghĩa duy tâm, đấu tranh giữa phương pháp biện chứng và phương pháp
siêu hình, quan điểm vô thần và hữu thần, khoa học và tôn giáo.
KẾT LUẬN
Triết học nghiên cứu thế giới bằng phương pháp của riêng mình khác với mọi khoa
học cụ thể, xem xét thế giới như một chỉnh thể và tìm cách đưa ra một hệ thống các
quan niệm về chỉnh thể đó. Điều đó được thực hiện thông qua cách tổng kết toàn bộ
lịch sử của khoa học và lịch sử của bản thân tư tưởng triết học. Bởi tính đặc thù diễn
tả thế giới quan bằng lý luận, đối tượng triết học vẫn gây ra những cuộc tranh luận kéo
dài cho đến hiện nay. Nhiều học thuyết triết học hiện đại ở phương Tây muốn từ bỏ
quan niệm truyền thống về triết học, xác định đối tượng nghiên cứu riêng cho mình
như mô tả những hiện tượng tinh thần, phân tích ngữ nghĩa, chú giải văn bản...
Mặc dù vậy, cái chung trong các học thuyết triết học là nghiên cứu những vấn đề
chung nhất của giới tự nhiên, của xã hội và con người, mối quan hệ của con người nói
chung, của tư duy con người nói riêng và với thế giới xung quanh.
13
MỤC LỤC
14