Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

Học thuyết hình dạng của arixtốt, những hạn chế của học thuyết ấy và sự khắc phục củaph bêcơn, những đóng góp của ông trong vấn đề này

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (137.85 KB, 10 trang )

Học thuyết hình dạng của Arixtốt, những hạn chế của Học thuyết ấy và sự
khắc phục củaPh.Bêcơn, những đóng góp của ông trong vấn đề này.
MỞ ĐẦU
Arixtốt (384-322 TCN) là nhà triết học Hy Lạp cổ đại. Ông sinh ra ở
Stagirơ ở phía Bắc biển Egie, trong một gia đình thầy thuốc nhưng ông lại say
mê khoa học xã hội. Mác gọi Arixtốt là “nhà tư tưởng vĩ đại nhất thời cổ”,
Ăngghen đánh giá Arixtốt là “khối óc toàn diện nhất” trong số các nhà triết
học Hy Lạp cổ đại.
Tư tưởng triết học của Arixtốt là tư tưởng dao động giữa duy vật và
duy tâm. Về cơ bản ông là nhà triết học duy vật khi thừa nhận sự tồn tại khách
quan của thế giới vật chất và quan niệm sự vật, hiện tượng tồn tại là do bốn
nguyên nhân là vật chất, vận động, hình dạng và mục đích. Tuy nhiên, ông lại
không giữ được lập trường duy vật của mình đến cùng mà vẫn có lúc trượt
vào duy tâm. Điều này thể hiện trong học thuyết của Arixtốt về vật chất và
hình thức, hay còn gọi là học thuyết hình dạng.
Phranxi Bêcơn (1561-1625) là nhà triết học duy vật kiệt xuất, đại biểu
tư tưởng của lớp quý tộc mới và của giai cấp tư sản thời kỳ tích lũy tư bản.
Ông được đánh giá là người sáng lập “chủ nghĩa duy vật Anh và các ngành
khoa học thực nghiệm hiện đại”. Vấn đề trung tâm trong học thuyết của
Bêcơn là vấn đề tự nhiên và nhận thức tự nhiên. Theo đó, Bêcơn cho rằng giới
tự nhiên tồn tại khách quan, là điểm xuất phát của nhận thức con người. Thế
giới khách quan tồn tại độc lập đó là vật chất. Theo Bêcơn, mọi sự vật chỉ tồn
tại từ ba nguyên nhân là hình dạng, vật chất và vận động; và thực chất chúng
đều là bản tính của vật chất, trong đó hình dạng là ở bên trong sự vật, là bản
chất khách quan của sự vật.

1


Như vậy, ông đã cải biến thuyết bốn nguyên nhân của Arixtốt theo
hướng duy vật. Ông cho rằng, giới tự nhiên tồn tại khách quan, đa dạng và


thống nhất; con người là sản phẩm của thế giới, nó bao gồm thể xác và linh
hồn mang tính vật chất. Ông xóa bỏ nguyên nhân mục đích của sự vật và cho
rằng, mọi cái trên thế gian chỉ tồn tại từ ba nguyên nhân nêu trên.
Trong bài viết này, Nhóm 7 tập trung trình bày Học thuyết hình dạng
của Arixtốt, những hạn chế của Học thuyết ấy và sự khắc phục củaPh.Bêcơn,
những đóng góp của ông trong vấn đề này.

2


NỘI DUNG
1. Nội dung chính của Học thuyết hình dạng (hình thức) của
Arixtốt và các hạn chế của Học thuyết
1.1. Nội dung chính của Học thuyết hình dạng của Arixtốt
Trong siêu hình học truyền thống, quan niệm về sự tồn tại đã trở thành
vấn đề trung tâm và là đề tài của những cuộc tranh luận. Parménide là người
châm ngòi, Đêmôcrít bổ sung và phản bác, Sôcrát thắp lên ngọn đề khái niệm,
Platôn dựng thành tượng đài ý niệm và Arixtốt lại tiếp tục phát triển...Với tinh
thần “Thầy là quý nhưng chân lý còn quý hơn thầy” Arixtốt đã phê phán học
thuyết ý niệm về tồn tại của Platôn. Quan niệm tồn tại của Arixtốt hoàn toàn
đối lập với quan niệm của Platôn.
Arixtốt phân đôi hiện thực thành hai dạng tương ứng với hai khái niệm
triết học cơ bản là vật chất và hình dạng. Với Arixtốt các sự vật hiện tượng
của thế giới được hình thành từ hai khởi nguyên, đó là khởi nguyên vật chất
và khởi nguyên hình thức. Theo ông, từ khởi đầu trong vũ trụ đã có vật chất,
đó là vật chất thuần túy chưa bị giới hạn trong bất kỳ một hình thức nào.
Dạng vật chất này không do ai sinh ra mà cũng không mất đi, nó tồn tại vĩnh
viễn, bất biến. Trong mối quan hệ giữa vật chất và ý thức, Arixtốt thừa nhận
hình thức là bản chất của vật chất. Ông viết ‘‘ Hình thức đứng trước vật chất,
là cái quan trọng hơn nhiều so với vật chất’’.

Như đã trình bày ở trên, về mặt bản thể luận, tư tưởng triết học của
Arixtốt là tư tưởng dao động giữa duy vật và duy tâm.
Ông gắn cho vật chất “tính ỳ”, tức là vật chất chỉ tồn tại dưới dạng khả
năng trở thành một cái gì đó một cách thụ động. Hình dạng là cái làm cho vật
chất trở thành một sự vật cụ thể cảm tính nào đó. Tức là, vật chất có tính thụ
động, nó chỉ có thể trở thành sự vật cụ thể khi nó được tồn tại dưới hình thức
nhất định. Không có hình thức thì vật chất không là gì cả, không là sự thật,
không có tính hiện thực. Theo Arixtốt, hình thức là bản chất thứ nhất của vật
chất và hình thức là cái làm cho vật chất từ chỗ có tính ỳ chuyển thành năng
động, hình thức là linh hồn của cơ thể và thần thánh là hình thức cuối cùng
của mọi hình thức.
3


Khi thừa nhận thần thánh quy định hình thức, Arixtốt đã trượt vào tư
tưởng duy tâm. Ông coi hình thức là nhân tố tích dực, duy nhất còn vật chất
thì thụ động có tính ỳ. Ông đã tách rời vật chất và hình thức một cách siêu
hình và cuối cùng thừa nhận thần thánh quy định hình thức.
Arixtốt đưa ra ví dụ khá sinh động để minh chứng cho lập luận của
mình. Đất sét là một dạng vật chất, nhưng chỉ ở dạng tiềm năng, vì từ đất sét
đó, người ta có thể tạo nên nhiều sự vật khác nhau nhờ việc tạo cho chúng các
dáng vẻ khác nhau như ngói, gạch, lọ hoa, chum vại, hoặc các bức tượng với
hình dáng và ý nghĩa khác nhau.
1.2. Các hạn chế trong học thuyết hình dạng của Arixtốt
Thứ nhất, Arixtốt cho rằng sự vật (hay vật chất) tồn tại phải có hình
dạng, khi chưa có hình dạng thì vật chất tồn tại ở trạng thái “ỳ”, chính hình
dạng vật chất quyết định sự tồn tại của vật chất.
Đây chính là sai lầm căn bản của Arixtốt. Arixtốt đã tách rời hình dạng
ra khỏi vật chất, đặt hình dạng lên trước sự tồn tại của vật chất, coi vật chất
trở thành nguyên nhân thụ động vô hình còn hình thức là nguyên nhân tích

cực đi trước vật chất, những thiếu sót trong tư duy luận này đã dẫn đến sự
lệch hướng trong quan điểm nghiên cứu của Arixtốt sau này.

4


Thứ hai, khi lý giải về hình dạng của vật chất, Arixtốt trượt dần từ quan
điểm duy vật sang quan điểm duy tâm. Dù ông khẳng định hình dạng là bản
chất thứ nhất của vật chất, là nguyên nhân cho sự tồn tại của vật chất, nhưng
khi không thể lý giải được nữa, ông lại khẳng định “hình dạng của mọi hình
dạng là do thượng đế ban tặng”. Arixtốt tiếp tục đi trên vết xe đổ của các nhà
triết học thời kỳ đó khi cho rằng hình dạng của vật chất là do thượng đế - một
năng lực siêu nhiên ban tặng. Chính từ việc không gắn hình dạng với vật chất
mà coi hình dạng là cái có trước nên Arixtốt đã không thể lý giải được vấn đề
hình dạng. Như vậy, từ quan điểm duy vật ban đầu khi tiếp cận với hình dạng
của vật chất, đến đây Arixtốt đã trượt dần sang quan điểm duy tâm. Nhận thấy
hạn chế này trong cách tiếp cận của Arixtốt, Phranxi Bêcơn đã lý giải để đưa
hình dạng của vật chất về quan điểm duy vật ban đầu.
2. Quan điểm về hình dạng của Phranxi Bêcơn và sự khắc phục
hạn chế trong Học thuyết hình dạng của Arixtốt
Bêcơn coi hình dạng của sự vật là cái nằm chính trong bản thân sự vật,
là bản chất hoàn toàn khách quan của nó; không thể có cái gọi là “hình dạng
của hình dạng” phi vật chất, cũng như “vật chất đầu tiên” phi hình dạng là
không có thực; mọi “hình dạng” đều chỉ là “hình dạng” của vật chất. Cả ba
nguyên nhân “hình dạng”, “vật chất” và “vận động” thực chất đều là bản tính
của vật chất. Vì thế, vật chất có bản tính tích cực chứ không thụ động. Hình
dạng là nguyên nhân dẫn tới mọi sự khác biệt của các sự vật, là lý do đầy đủ
để sự vật xuất hiện, là bản chất chung của các sự vật cùng loại, là quy luật chi
phối sự vận động của chúng. Vật chất, hình dạng và vận động thống nhất với
nhau. Nhận thức bản chất của sự vật - vật chất là khám phá ra hình dạng, vạch

ra các quy luật vận động chi phối chúng.

5


Bêcơn không đưa ra định nghĩa vật chất. Ông làm sáng tỏ khái niệm vât
chất trong mối liên hệ và sự tác động lẫn nhau giữa các hiện tượng vật chất,
giữa vật chất với vận động và hình thức, nghĩa là dựa một phần vào học
thuyết của Arixtốt về bốn nguyên nhân, song loại bỏ những yếu tố duy tâm và
mục đích luận. Khái niệm “hình thức” hay “hình dạng” được lý giải khá đa
dạng: là bản chất sự vật, nguyên nhân và nguồn gốc bên trong, là cái xác định
hay phân biệt các sự vật, tính quy luật vận động thuần túy của vật chất. Theo
đó, các hạn chế trong thuyết hình dạng của Arixtốt được Bêcơn khắc phục lại
theo các khía cạnh sau:
Thứ nhất, hình dạng gắn liền với vật chất, không tách rời vật chất. Nói
cách khác hình dạng là những thuộc tính, là bản chất chung của một nhóm sự
vật, là quy luật vận động trong các sự vật. Chúng không phải là cái sinh ra
nhau hay cái có trước, cái có sau; mà chúng tồn tại song song. Ông coi chúng
là một thể “vốn dĩ không thể tách rời”, nhờ nó mà sự vật có thể tồn tại được.
Điều này có nghĩa là Bêcơn đã không tách rời hình dạng và vật chất như
Arixtốt đã làm trước đó. Theo đó, Bêcơn đã nhận thấy được “hình dạng” với
bản chất vốn có của nó - gắn với sự vật; chứ không phải do con người hay
thượng đế tạo ra như theo Arixtốt đã chỉ ra. Chính vì vậy, hình dạng của sự
vật theo tư duy của Bêcơn sẽ được nhìn nhận theo quan điểm duy vật.

6


Thứ hai, hình dạng là nguyên nhân, là cấu trúc và là phương thức tồn
tại của sự vật (là nguyên nhân để sự vật xuất hiện). Chính nhờ hình dạng mà

sự vật tồn tại được. Và nhờ đó, mà sự vật sẽ là chính nó chứ không phải là cái
khác. Khác với Arixtốt, ông coi hình dạng của sự vật là cái nằm trong chính
bản thân sự vật, là bản chất hoàn toàn khách quan của nó. Không thể có cái
gọi là “hình dạng của hình dạng” phi vật chất, cũng như “vật chất đầu tiên”
phi hình dạng là không có thực, mọi hình dạng đều chỉ là hình dạng của vật
chất.
Thứ ba, hình dạng là một phạm trù dùng để phân biệt bản chất của các
sự vật khác nhau (tức là nguồn gốc bên trong của mọi sự vật, nhờ nó mà sự
vật là nó chứ không phải là cái khác). Hay nói cách khác, thông qua hình
dạng con người sẽ phân biệt được nhóm sự vật này với các nhóm sự vật khác.
Bằng việc chỉ ra những hạn chế trong học thuyết của Arixtốt, Bêcơn đã
cải biến và phát triển các quan niệm duy vật thời cổ đại. Bêcơn đã khắc phục
thành công những hạn chế của Arixtốt trong học thuyết hình dạng, đưa sự vật
về đúng với bản chất vốn có của nó.

3. Đóng góp của Phranxi Bêcơn trong vấn đề khắc phục hạn chế
Học thuyết hình dạng của Arixtốt

7


Phranxi Bêcơn cho rằng sự phát triển của khoa học và triết học là nền
tảng của công cuộc cách tân đất nước, là cơ sở lý luận cho công cuộc xây
dựng phồn vinh đất nước, phát triển kinh tế, xóa bỏ bất công và tệ nạn xã hội.
Ông cũng khẳng định: “Mục đích của xã hội chúng ta là nhận thức các
nguyên nhân và mọi sức mạnh bí ẩn của các sự vật và mở rộng thống trị của
con người đối với thế giới tự nhiên trong chừng mực con người có thể làm
được.”
Trong quá trình xây dựng bản thể luận triết học của mình, Bêcơn đã
xuất phát từ lý luận của các nhà triết học duy vật cổ đại Hy Lạp như:

Democrite, Héraclite, Anaxagore…và cải biến học thuyết của Arixtốt theo
hướng duy vật. Trong quan niệm xây dựng bản thể luận triết học Bêcơn là
người đầu tiên thấy được tính bao quát về vật chất của thế giới. Không chỉ
tiếp thu quan điểm về hình dạng của Arixtốt, ông còn nhìn ra những hạn chế
trong học thuyết này và khắc phục chúng theo hướng hoàn thiện và bắt kịp
với sự phát triển của lịch sử. Đồng thời, Bêcơn không dừng lại ở những quan
điểm đó, mà làm phong phú quan niệm của mình về bản thể luận của triết học
bằng những kết luận mới của khoa học tự nhiên.
Mỗi thời đại lịch sử văn hóa đều đặt ra những vấn đề, những thách thức
nhất định đối với sự tồn tại của con người, đòi hỏi triết học phải luôn tìm câu
trả lời để đáp ứng cho những nhu cầu ấy. Chính vì vậy, Bêcơn đã không ngần
ngại chỉ ra những hạn chế của nhà triết học đi trước và khắc phục những hạn
chế đó. Về học thuyết hình dạng, khi Arixtốt đang trượt dần sang quan điểm
duy tâm thì Bêcơn đã nhận ra hạn chế đó và lý giải để đưa hình dạng vật chất
về quan điểm duy vật ban đầu. Ông đánh giá cao những nhà triết học cổ đại
có tử tưởng định nghĩa vật chất là một cái tích cực, không tạo khe hở cho
những tư tưởng thần bí len vào. Bêcơn là một trong những nhà triết học tiêu
biểu đưa triết học từng bước thoát khỏi ảnh hưởng của tôn giáo thần quyền
thời trung cổ, giải phóng tư tưởng nhân loại, sự vùng lên của triết học sau thời
kỳ trung cổ làm cho triết học duy vật thoát khỏi tấm áo choàng của thần học
và tôn giáo.
Ông là người đặt nền móng cho “chủ nghĩa duy vật kinh nghiệm” đòi
hỏi phải xây dựng một triết học mới. Triết học phải là khoa học của mọi khoa
học, có nhiệm vụ xóa bỏ những sai lầm, chủ quan, loại bỏ đi những niềm tin
mù quáng, nắm bắt trật tự thế giới để xây dựng và hiểu biết đúng thế giới.
8


Nghĩa là tư tưởng triết học và khoa học mới phải xuất phát từ tinh thần “tri
thức là sức mạnh” và “lý luận thống nhất với thực tiễn”. Với quan niệm thực

tiễn như vậy, ông đã giúp cho xã hội mở rộng nền sản xuất cơ khí và sử dụng
hiệu quả máy móc đã tạo cơ sở thực tiễn vững chắc thúc đẩy sự phát triển
nhanh chóng của cơ học trong giai đoạn này. Và tư tưởng tri thức là sức mạnh
thì cho đến thời đại ngày nay giá trị vẫn được chính minh một cách rõ ràng.
Sự trỗi dậy của quan điểm triết học duy vật thời kỳ này phù hợp với sự
phát triển của nền sản xuất mới đang hình thành, phù hợp với tư duy khoa
học, có ý nghĩa phản kháng lại các quan điểm của thần học và tôn giáo đã ngự
trị hàng nghìn năm. Nó báo hiệu một màn giáo đầu mới cho cuộc cách mạng
tương lai mà giai cấp tư sản sẽ khởi xướng. Vì thế triết học duy vật thời kỳ
này được giai cấp tư sản hết sức ủng hộ. Nó trở thành thế giới quan và
phương pháp luận của giai cấp cách mạng mới. Đây là bước chuẩn bị tiền đề
lý luận của cách mạng Tư sản khắp châu Âu. Giai cấp tư sản châu Âu đã tìm
thấy ở triết học duy vật vũ khí tư tưởng sắc bén để chống lại tư tưởng duy
tâm, tôn giáo đang ngự trị lúc bấy giờ. Điều này giúp ông đã trở thành nhân
vật tiêu biểu và điển hình nhất nền tảng triết học duy vật thời kì Phục Hưng.

KẾT LUẬN

9


Về học thuyết hình dạng, tư tưởng triết học của Bêcơn đã kế thừa và
khắc phục những sai sót trong tư tưởng Arixtốt. Từ đó góp phần loại bỏ niềm
tin mù quáng, để xây dựng và hiểu biết đúng vể thế giới. Trong khi đó,
phương pháp về khoa học mới của ông giúp khám phá quy luật thế giới, tăng
cường quyền lực tinh thần của con người làm chủ và cải tạo thiên nhiên.
Chính những tư tưởng của ông góp phần vào việc phát triển một nên công
nghiệp và thương nghiệp dựa trên sức mạnh của tri thức khoa học và tiến bộ
của kỹ thuật. Ông đã chủ trương cải tạo xã hội bằng con đường tri thức khai
sáng thông qua sự nghiệp giáo dục và đào tạo và giúp góp phần to lớn trong

ngành khoa học thực nghiệm. Các thành tựu khoa học tự nhiên thời cận đại
dùng các phương pháp nghiên cứu siêu hình của ông cũng đã phản ánh các
yếu tố biện chứng của tự nhiên. Chính triết học duy vật máy móc đã tiến hành
đấu tranh chống chủ nghĩa duy tâm và thần học một cách có hiệu quả, thúc
đẩy trào lưu triết học cùng khoa học phát triển mạnh mẽ, đẩy mạnh quá trình
nhận thức thế giới.
Một lần nữa, những đóng góp của ông trong việc khắc phục hạn chế
học thuyết hình dạng của Arixtốt đã để lại những ảnh hưởng tích cực tới sự
phát triển của triết học và khoa học, xứng đáng với nhận xét về tư tưởng triết
học của Bêcơn là Chủ nghĩa duy vật kinh nghiệm./.

10



×