Tải bản đầy đủ (.docx) (118 trang)

Giải pháp phát triển dịch vụ thanh toán tại ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (458.52 KB, 118 trang )

1

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
-------------***------------LUẬN VĂN THẠC SĨ
GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ THANH TOÁN TẠI
NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN
VIỆT NAM – CHI NHÁNH BẮC HÀ NỘI
Ngành: Tài chính - Ngân hàng - Bảo hiểm
Chuyên ngành: Tài chính - Ngân hàng
Mã số: 60340201
Họ và tên tác giả: NGUYỄN PHAN HẢI
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. VŨ ĐỨC CHÍNH

Hà Nội - 2014


2

LỜI CẢM ƠN
Trong thời gian nghiên cứu và thực hiện luận văn này, tôi đã
nhận được sự giúp đỡ nhiệt tình từ các cơ quan, tổ chức và cá nhân.
Tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc, lòng biết ơn chân thành đến các tập
thể, cá nhân đã tạo điều kiện và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình thực
hiện đề tài.
Trước hết tôi xin trân trọng cảm ơn Ban giám hiệu trường Đại
học Ngoại thương, Phòng Đào tạo và Khoa Sau đại học của trường
cùng tập thể các thầy cô giáo, những người đã trang bị kiến thức cho
tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu tại trường.
Em xin gửi lời cảm ơn trân trọng tới thầy Vũ Đức Chính, Vụ
trưởng Vụ Kế toán Nhà nước – Kho bạc Nhà nước– Bộ Tài chính,đã


hướng dẫn em hoàn thành luận văn này. Em cũng xin trân thành cảm
ơn Ban lãnh đạo Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt
Nam - Chi nhánh Bắc Hà nội đã tạo điều kiện để em được tiếp xúc và
nghiên cứu để hoàn thiện luận văn này.
Do những hạn chế về kinh nghiệm thực tiễn cũng như lý luận,
luận văn sẽ không tránh khỏi những thiếu sót, hạn chế. Rất mong nhận
được sự góp ý, phê bình của các thầy, cô giáo, các nhà quản lý, đồng
nghiệp và những người cùng quan tâm đến đề tài để nâng cao tính khả
thi của các giải pháp trong luận văn .
Xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 22 tháng 9 năm


3

2014
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Nguyễn Phan Hải

MỤC LỤC


4

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
-

Agribank: Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt


-

Nam
Agribank – Bắc Hà Nội: Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển

-

nông thôn Việt Nam – Chi nhánh Bắc Hà Nội
DVNH: Dịch vụ ngân hàng
NHNN: Ngân hàng nhà nước
NHTM: Ngân hàng thương mại
NHTMCP: Ngân hàng thương mại cổ phần
NHTMNN: Ngân hàng thương mại nhà nước
PGD: Phòng giao dịch


5

DANH MỤC BẢNG
Bảng 1.1: Cung cầu thanh khoản
Bảng 2.1: Nguồn vốn, sử dụng vốn từ năm 2010 đến năm 2013
Bảng 2.2: Kết quả kinh doanh tại Agribank - Bắc Hà Nội
Bảng 2.3: Kết quả tổng hợp dịch vụ thanh toán trong nước
Bảng 2.4: Tăng trưởng thẻ, thiết bị chấp nhận thẻ và thu dịch vụ từ thẻ
Bảng 2.5: Kết quả dịch vụ mobile banking và internet banking
Bảng 2.6: Doanh số thanh toán xuất nhập khẩu qua các năm
Bảng 2.7: Doanh số mua bán ngoại tệ
Bảng 2.8: Doanh số chi trả kiều hối



6

MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết phải nghiên cứu đề tài
Nền kinh tế Việt Nam ngày càng hội nhập sâu rộng vào nền kinh
tế thế giới, với việc gia nhập hàng lọat các tổ chức, các hiệp định về
kinh tế như: APEC, ASEM, ASEAN, WTO… đặc biệt chúng ta đang
tham gia đàm phán Đối tác Xuyên Thái Bình Dương (TPP). Việc tham
gia các tổ chức, các hiệp định là cơ hội cho việc mở cửa thị trường
nhưng cũng là thách thức đối những các hoạt động kinh tế của Việt
Nam.
Hoạt động Tài chính Ngân hàng cũng nằm trong bối cảnh chung
của hội nhập kinh tế. Các cam kết của Việt nam khi tham gia các tổ
chức, các hiệp định về hoạt động NHTM, vừa giúp các NHTM có cơ
hội hội nhập nhưng cũng tạo ra một áp lực cạnh tranh rất lớn do ưu
điểm vượt trội của các NHTM nước ngoài đó là vốn , công nghệ, con
người, truyền thống quản trị NHTM, uy tín cũng nhưng kinh nghiệm
làm việc đa quốc gia…
Trong bối cảnh khó khăn của nền kinh tế nói chung và của hệ
thống ngân hàng nói riêng, có thể nói, trong những năm qua đặc biệt
năm 2013 là một năm đầy khó khăn và thách thức đối với Agribank Bắc Hà Nội. Ban lãnh đạo và cán bộ nhân viên ngân hàng đã có những
nỗ lực cố gắng nhất định, quy mô nguồn vốn và dư nợ được duy trì ở
mức cao so với các ngân hàng khác trên cùng địa bàn, tuy nhiên chất


7

lượng kinh doanh vẫn không được cải thiện, không thực hiện được
những mục tiêu đề ra. Điều này phản ánh rất rõ ở kết quả kinh doanh
năm 2013 khi mà ngân hàng đã lỗ 16 tỷ đồng. Có thể nói, từ trước đến

nay hoạt động kinh doanhcủa Agribank – Bắc Hà Nội chủ yếu dựa vào
dịch vụ tín dụng truyền thống, các dịch vụ ngân hàng phi tín dụng, đặc
biệt là dịch vụ thanh toán chỉ chiếm tỷ lệ rất nhỏ trong cơ cấu doanh
thu. Vì vậy khi các doanh nghiệp hoạt động khó khăn, khiến cho nợ
xấu ngân hàng tăng lên, lập tức gây ảnh hưởng tiêu cự đến hoạt động
kinh doanh của ngân hàng. Trong khi đó, địa bàn hoạt động của
Agribank – Bắc Hà Nội là quận Ba Đình – quận trung tâm của thủ đô
Hà Nội, nơi đặt văn phòng, cơ quan đầu não của nhiều cơ quan nhà
nước, và của nhiều doanh nghiệp lớn trong và ngoài nước; đặc điểm
dân cư có thu nhập cao, có lối sống hiện đại; nơi tập chung nhiều trung
tâm thương mại, nhà hàng, khách sạn lớn… Vì vậy, nhu cầu về sản
phẩm dịch vụ ngân hàng, đặc biệt là dịch vụ thanh toán trên địa bàn là
rất lớn. Đây là điều kiện thuận lợi để Agribank – Bắc Hà Nội phát triển
sản phẩm dịch vụ thanh toán nói riêng và dịch vụ ngân hàng nói chung
nhằm đa dạng hóa hoạt động ngân hàng, gia tăng lợi nhuận và giảm
thiểu rủi ro.
Xuất phát từ đòi hỏi thực tiễn và ý nghĩa quan trọng nói trên em
đã lựa chọn và nghiên cứu đề tài: “Giải pháp phát triển dịch vụ thanh
toán tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam


8

– chi nhánh Bắc Hà Nội” làm đề tài cho luận văn Thạc sỹ Tài chính
Ngân hàng của mình.
2. Mục đích nghiên cứu:
Luận văn đi sâu vào phân tích nghiên cứu thực trạng cung ứng
dịch vụ thanh toán của Agribank – Bắc Hà Nội, qua đó đánh giá được
những kết quả đạt được cũng như những hạn chế còn tồn tại của ngân
hàng. Trên cơ sở đó đưa ra các giải pháp thiết thực, khả thi nhằm phát

triển dịch vụ thanh toán củaAgribank - Bắc Hà Nội .
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là “Hoạt động cung ứng
dịch vụ thanh toán của Agribank – Bắc Hà Nội”.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn tại Agribank - Bắc Hà Nội giai
đoạn từ năm 2011 – 2013 và 6 thánh đầu năm 2014, trọng tâm là năm
2013.
Hoạt động cung ứng sản phẩm dịch vụ ngân hàng rất đa dạng,
nhưng luận văn tập trung đi sâu nghiên cứu về hoạt động cung ứng
dịch vụ thanh toán, tuy nhiên cũng gắn liền với toàn bộ hoạt động cung
ứng dịch vụ của Agribank - Bắc Hà Nội vì hiện nay các dịch vụ ngân
hàng có nhiều mối tương đồng và liên hệ giàng buộc chặt chẽ với nhau
trên cơ sở đáp ứng nhu cầu dịch vụ trọn gói cho khách hàng.

4. Phương pháp nghiên cứu:


9

Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng,
chủ nghĩa duy vật lịch sử, các phương pháp được sử dụng trong quá
trình thực hiện luận văn bao gồm: phương pháp phân tích, phương
pháp tổng hợp, phương pháp thống kê, …
5. Kết cấu của đề tài:
Luận văn gồm 03 Chương:
Chương 1: Lý luận chung về dịch vụ thanh toán qua ngân hàng
Chương 2: Thực trạng cung ứng dịch vụ thanh toán của Agribank
– Bắc Hà Nội
Chương 3: Giải pháp phát triển dịch vụ thanh toán của Agribank
– Bắc Hà Nội



10

CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ DỊCH VỤ THANH TOÁN
QUA NGÂN HÀNG
1.1.
1.1.1.

Lý luận chung về dịch vụ thanh toán qua ngân hàng

Khái niệm dịch vụ thanh toán qua ngân hàng thương mại
Dịch vụ thanh toán qua ngân hàng thương mại là: Dịch vụ mà
Ngân hàng Thương mại cung cấp cho khách hàng để thực hiện quyền
nhận chi trả hoặc/và nghĩa vụ phải chi trả trong các giao dịch có liên
quan đến tiền tệ, theo đó ngân hàng sẽ đại diện cho khách hàng thực
hiện nghĩa vụ chi trả thay; thực hiện quyền được chi trả; hoặc là trung
gian chi trả cho các chủ thể trong quan hệ kinh tế.
Những lợi ích của việc thanh toán qua ngân hàng đối với cả ngân
hàng và khách hàng là rất rõ ràng. Cũng như thương mại đã chia sẻ
những khó khăn và lợi nhuận với nhà sản xuất, ngân hàng thương mại
cũng đã chia sẻ những khó khăn, tạo điều kiện thuận lợi cho các bên
trong các giao dịch phát sinh qua đó mang lại lợi nhuận cho bản thân
ngân hàng là cơ sở trước tiên cho sự tồn tại và phát triển ngày càng đa
dạng của các dịch vụ thanh toán ngân hàng.

1.1.2.

Hệ thống thanh toán của ngân hàng
Hệ thống thanh toán ngân hàng: Là hệ thống được tổ chức theo

quy tắc, điều kiện và tiêu chuẩn chung về thanh toán trên cơ sở thoả
thuận hoặc quy định giữa tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán chủ trì


11

hệ thống và các thành viên trực tiếp nhằm thực hiện việc chuyển giao
và quyết toán các nghĩa vụ thanh toán giữa các thành viên.
Hệ thống thanh toán là yếu tố vô cùng quan trọng để tạo ra chất
lượng dịch vụ cho mỗi đơn vị thanh toán trong đó. Nó liên kết các
ngân hàng hoặc các đơn vị của nội bộ một ngân hàng trong việc thực
hiện thanh toán.
Hiện nay, ở Việt Nam đang tồn tại 5 kiểu hệ thống thanh toán:
Thứ nhất: Hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng được thiết
kế theo giải pháp tập trung hoá tài khoản, mỗi ngân hàng thành viên
chỉ mở và sử dụng một tài khoản duy nhất tại NHNN. Các giao dịch
thanh toán được thực hiện qua hệ thống bù trừ điện tử trực tiếp.
Thứ hai: Hệ thống Chuyển tiền điện tử liên ngân hàng do
NHNN tự xây dựng và vận hành trước khi có hệ thống Thanh toán
điện tử liên ngân hàng. Đây là hệ thống chuyển tiền điện tử trong nội
bộ NHNN, được thiết kế theo giải pháp tài khoản phân tán, nghĩa là
mỗi chi nhánh của các NHTM tham gia hệ thống này phải mở tài
khoản thanh toán tại chi nhánh NHNN trên cùng địa bàn.
Thứ ba: Hệ thống thanh toán bù trừ (TTBT) tại tỉnh, thành phố
do chi nhánh NHNN tỉnh, thành phố chủ trì. Hệ thống này đang hoạt
động ở hai cấp độ kỹ thuật khác nhau. Một số tỉnh, thành phố thực
hiện chuyển lệnh thanh toán bằng các thiết bị điện tử (bù trừ điện tử),
số tỉnh còn lại vẫn thực hiện bù trừ giấy theo phương pháp thủ công,
hai phiên giao dịch mỗi ngày. Phần lớn các lệnh thanh toán được bù
trừ trong cùng địa bàn. Những khoản thanh toán ngoài địa bàn sẽ phải



12

chuyển qua hệ thống Chuyển tiền điện tử để thực hiện (ba hệ thống
này do NHNN quản lý và điều hành).
Thứ tư: Các hệ thống thanh toán điện tử của các NHTM. Các hệ
thống này được thiết lập khi các NHTM chưa tổ chức được hệ thống
Corbanking tập trung hoá tài khoản. Cách thức thiết kế kỹ thuật,
phương pháp hạch toán và vận hành có khác nhau nhưng nội dung
thực hiện đều là chuyển các lệnh thanh toán trong nội bộ mỗi NHTM,
từ chi nhánh về Hội sở chính hoặc từ chi nhánh này đến chi nhánh
khác.
Ngoài ra, để phục vụ thanh toán trực tiếp với nhau, các NHTM
còn xây dựng riêng hệ thống thanh toán song phương. Trong đó, các
ngân hàng trực tiếp mở tài khoản thanh toán của mình tại ngân hàng
đối tác và sử dụng các tài khoản này để thực hiện thanh toán.
Thứ năm: Hệ thống chuyển tiền quốc tế (S.W.I.F.T), thường gọi
là hệ thống thanh toán quốc tế. Đây mới chỉ đơn thuần là hệ thống
chuyển tiền quốc tế, vì đến thời điểm này, tại Việt nam chưa có hệ
thống thanh quyết toán vốn (Settlement) cho hệ thống chuyển tiền này.
Gần đây đã hình thành hệ thống thanh toán thẻ liên ngân hàng –
Banknet và Smartlink. Tham gia vào các hệ thống thanh toán thẻ này
các ngân hàng có thể cung cấp cho khách hàng một sự tiện lợi. Khách
hàng có thể thực hiện các giao dịch thanh toán thẻ từ bất cứ máy rút
tiền tự động của bất cứ ngân hàng nào trong hệ thống. Lợi ích của các
ngân hàng là có thể tiết kiệm chi phí cho việc mở rộng mạng lưới
ATM; nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống thanh toán thẻ; chia
sẻ dữ liệu, thông tin đảm bảo an ninh ngân hàng…



13

Hệ thống thanh toán ra đời đầu tiên là hình thái các ngân hàng là
đại lý của nhau trong việc thực hiện. Khi nhu cầu của khách hàng càng
phát triển, để đáp ứng yêu cầu các ngân hàng buộc phải hình thành
một mạng thanh toán rộng khắp. Mặc dù vậy, nó vẫn chỉ ở dạng thoả
thuận giữa các ngân hàng trong việc chi trả mà không có một tổ chức
điều hành cụ thể. Vấn đề đặt ra cho các ngân hàng là địa điểm, thời
gian, sự tiện lợi cho khách hàng, tính an toàn cho các giao dịch thanh
toán và từ đó hệ thống thanh toán hoàn thiện được hình thành với một
tổ chức đứng ra làm người điều hành. Người điều hành của hệ thống
có thể là Trụ sở chính của một ngân hàng, Ngân hàng trung ương hay
tổ chức phi ngân hàng độc lập tiêu biểu là SWIFT. Với hệ thống hoàn
chỉnh như vậy, các ngân hàng có cơ sở để xây dựng các chỉ tiêu chất
lượng sẽ được phân tích trong các phần sau.
1.1.3.

Các sản phẩm dịch vụ thanh toán chủ yếu của Ngân hàng thương
mại
1.1.3.1.

Cung ứng các loại hình tài khoản tiền gửi thanh toán

Tài khoản tiền gửi là tài khoản thanh toán do người sử dụng dịch
vụ thanh toán mở tại các ngân hàng với mục đích gửi, giữ tiền hoặc
thực hiện các giao dịch thanh toán qua ngân hàng bằng các phương
tiện thanh toán. Tài khoản tiền gửi yêu cầu ngân hàng phải thanh toán
ngay lập tức các chỉ thị của khách hàng cho một cá nhân, tổ chức hoặc
cho một bên thứ ba được chỉ rõ là người hưởng thụ trong các chứng từ



14

giao dịch. Do tính chất linh hoạt mà tài khoản tiền gửi có nhiều tiện
ích:
-

Về phía ngân hàng: Giúp thu hút được nhiều nguồn vốn đặc
biệt là nguồn vốn nhàn rỗi tạm thời phục vụ cho hoạt động chi
trả kể cả là cho vay; Nhiều dịch vụ đi kèm với nó ngày càng
xuất hiện nhiều đem lại nguồn thu có xu hướng ngày càng
tăng; Giúp thuận tiện cho dịch vụ cơ bản khác của ngân hàng
như tín dụng – thu lãi, gốc vay tự động khi đến thời hạn từ tài

-

khoản tiền gửi thanh toán...
Về phía khách hàng: Thuận tiện trong thanh toán mà không
dùng trực tiếp tiền mặt; xoá đi những chi phí và bất tiện của
việc giữ tiền; Có thể được hưởng lãi - đối với loại hình tiền

gửi hưởng lãi...
Có nhiều cách thức để phân loại các loại hình tiền gửi thanh toán.
- Theo từng đối tượng khách hàng, tài khoản tiền gửi có thể mở
theo các hìnhthức sau đây:
(1) Tài khoản tiền gửi của tổ chức: là tài khoản mà chủ tài
khoản là người đại diện theo pháp luật hoặc đại diện theo uỷ
quyền của tổ chức mở tài khoản.
(2) Tài khoản tiền gửi của các đồng chủ tài khoản: là tài khoản

có ít nhất hai người trở lên cùng đứng tên mở tài khoản. Đồng
chủ tài khoản có thể là cá nhân hoặc người đại diện hợp pháp
của Tổ chức.
(3) Tài khoản tiền gửi của cá nhân: Là tài khoản mà chủ tài
khoản là một cá nhân độc lập đứng tên mở tài khoản.Tiền gửi


15

giao dịch tạo tiền đề cho sự ra đời nhiều dịch vụ mới sau này
-

và nó giúp cải thiện đáng kể hiệu quả của quá trình thanh toán.
Theo tính chất của tài khoản tiền gửi, tiền gửi thanh toán bao
gồm tiền gửi không hưởng lãi và tài khoản hưởng lãi. Mục
đích của tài khoản tiền gửi thanh toán là phục vụ cho các hoạt
động thanh toán của khách hàng, lãi xuất không phải là đặc
trưng bản chất của nó. Tuy nhiên trong cuộc cạnh tranh giữa
các ngân hàng và giữa ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác
đã làm xuất hiện một hình thức thu hút tiền gửi thanh toán của
các ngân hàng bằng cách trả lãi cho các khoản tiền gửi thanh
toán kể các không kỳ hạn. Việc xuất hiện tài khoản tiền gửi
thanh toán có hưởng lãi ban đầu cũng có nhiều tranh cãi. Từng
có quan điểm cho rằng trả lãi làm tăng rủi ro cho hoạt động
ngân hàng. Nhìn vào thực tế có thể thấy tài khoản tiền gửi có
hưởng lãi cũng có hàm chứa vấn đề. Xuất phát từ tính chất
không ổn định của tiền gửi thanh toán cùng với lãi tiền gửi
làm cho dự báo về khối lượng nguồn vốn và nhu cầu chi trả
trở lên khó đo lường. Thêm nữa là kỳ hạn tiềm năng của tiền
gửi thanh toán cũng là ngắn nhất và khó dự báo nhất.


1.1.3.2.
a.

Dịch vụ chuyển tiền trong nước và quốc tế

Chuyển tiền trong nước
Chuyển tiền trong nước là nghiệp vụ truyền thống của các

NHTM nhằm đáp ứng nhu cầu chuyển tiền của khách hàng, cả doanh
nghiệp và cá nhân, từ nơi này sang nơi khác hoặc từ tài khoản này


16

sang tài khoản khác nhằm giải quyết các trách nhiệm thanh toán và các
trách nhiệm khác. Hiện nay, tất cả các NHTM đều có cung cấp dịch vụ
này. Tuy nhiên dịch vụ này chỉ phát triển mạnh và thuận lợi ở những
NHTM nào có hệ thống chi nhánh rộng khắp và phân bổ theo địa giới
hành chính. Do vậy, có thể thấy dịch vụ này phát triển thuận lợi nhất ở
các NHTMNN, đặc biệt là hệ thống Agribank.
Riêng mảng dịch vụ chuyển tiền, hiện nay các NHTM Việt Nam
có ưu điểm hơn các NHTM liên doanh và chi nhánh NHTM nước
ngoài do hệ thống NHTM Việt Nam có ưu thế hơn trong việc mở rộng
chi nhánh. Tuy nhiên, ưu thế này trong tương lai không còn nữa vì hai
lý do chính:
- Các NHTM hiện đại hóa dần công nghệ và tiến tới sử dụng
dịch vụ ngân hàng trực tuyến, khi ấy khách hàng có thể gửi
tiền ở một chi nhánh nào đó và có thể rút tiền ở bất kỳ chi
nhánh nào khác trong phạm vi cả nước, và có thể chuyển tiền

trên các kênh ngân hàng trực tuyến như internet banking,
-

mobile banking.
Trong quá trình hội nhập, các NHTM nước ngoài dần dần sẽ
được phép mở chi nhánh và kinh doanh đầy đủ các dịch vụ

b.

như NHTM Việt Nam.
Chuyển tiền quốc tế
Bên cạnh nghiệp vụ thanh toán quốc tế áp dụng để thanh toán các

hợp đồng xuất nhập khẩu, các NHTM còn cung cấp dịch vụ chuyển
tiền quốc tế áp dụng cho nhu cầu chuyển tiền hay thanh toán các khoản
thanh toán phi mậu dịch. Chuyển tiền quốc tế là nghiệp cụ chuyển tiền


17

giữa một khách hàng ở trong nước và khách hàng ở nước ngoài, các
khách hàng này có thể là tổ chức hoặc cá nhân.
Dịch vụ chuyển tiền quốc tế rất phổ biến ở các nước phát triển và
ở những nước có đồng tiền tự do chuyển đổi và hệ thống quản lý ngoại
hối được tự do hóa. Ngược lại ở những nước có chế độ quản lý ngoại
hối chặt chẽ như Việt Nam, thì việc chuyển tiền quốc tế thường được
quản lý và kiểm soát chặt chẽ hơn. Do vậy, khi thực hiện nghiệp vụ
này ngân hàng cần nắm vững và hiểu rõ những quy định liên quan
được nêu ra trong các văn bản pháp luật về quản lý ngoại hối.
1.1.3.3.


Dịch vụ thanh toán ủy nhiệm thu, nhờ thu

Uỷ nhiệm thu là một dịch vụ ngân hàng cung cấp cho khách hàng
theo đó ngân hàng nhận sự uỷ nhiệm của khách hàng thu hộ số tiền
cho khách hàng. Đối với hai lĩnh vực thanh toán trong nước và quốc
tế, thanh toán ủy nhiệm thu có một số khác biệt nhất định.
a. Thanh toán ủy nhiệm thu trong nước
Ủy nhiệm thu là giấy ủy nhiệm do khách hàng lập theo mẫu của
ngân hàng để ủy nhiệm cho ngân hàng thu hộ tiền từ bên chi trả sau
khi đã cung cấp hàng hóa hoặc cung ứng dịch vụ. Sau khi được lập, ủy
nhiệm thu được gửi cho ngân hàng phục vụ bên thụ hưởng để ngân
hàng này thực hiện thu hộ tiền từ bên chi trả.
Thể thức thanh toán ủy nhiệm thu trong nước thường được sử
dụng trong trường hợp hai bên mua bán hàng hóa và cung ứng dịch vụ
có sự tín nhiệm lẫn nhau, hoặc trong trường hợp thanh toán dịch vụ
cung cấp có phương tiện đo đếm chính xác bằng đồng hồ như điện,
nước, điện thoại. Tuy nhiên khi áp dụng thể thức thanh toán này bên


18

cung ứng cần lưu ý bên nhận cung ứng có thể không đủ khả năng
thanh toán dẫn tới bị chậm hoặc không nhận được thanh toán. Do vậy,
nếu không rõ uy tín thanh toán của bên nhận cung ứng thì không nên
áp dụng thể thức thanh toán này.
b. Thanh toán nhờ thu trong thương mại quốc tế
Phương thức nhờ thu được tiến hành dựa trên cơ sở những quy
định của “Điều lệ thống nhất về nhờ thu” (The Uniform Rules for
Collection) do văn phòng thương mại quốc tế ICC phát hành, số xuất

bản No.522 có hiệu lực từ 1/1/1996 và căn cứ vào hối phiếu do người
xuất khẩu lập ra. Nhờ thu có hai phương thực là nhờ thu trơn và nhờ
thu chứng từ.
Nhờ thu trơn
Là phương thức nhờ thu trong đó người xuất khẩu ủy thác cho
ngân hàng thu hộ tiền từ người nhập khẩu căn cứ vào hối phiếu do
mình lập ra, còn chứng từ hàng hóa thì gửi thẳng cho người nhập khẩu.
Phương thức này liên quan đến hai loại chứng từ là chứng từ
thương mại (hóa đơn thương mại, vận tải đơn, và các loại giấy chứng
nhận liên quan đến hàng hóa) và chứng từ tài chính (hối phiếu). Trong
nhờ thu trơn, chứng từ thương mại và chứng từ tài chính tách rời nhau.
Trong phương thức này ngân hàng chỉ đóng vai trò trung gian
trong thanh toán bởi vì bộ chứng từ hàng hóa đã giao cho người nhập
khẩu nên ngân hàng đại lý không thể khống chế người nhập khẩu
được. Ngân hàng không có cam kết hay đảm bảo gì đối với người xuất
khẩu và người nhập khẩu mà chỉ đơn thuần là xử lý theo chỉ dẫn trên
chỉ thị nhờ thu và hối phiếu. Việc người xuất khẩu nhận được thanh
toán hay không phụ thuộc chủ yếu vào thiện chí của người nhập khẩu,


19

vì vậy người xuất khẩu chỉ nên áp dụng phương thức này trong trường
hợp có quan hệ kinh doanh lâu dài và tín nhiệm người nhập khẩu. Để
tránh rủi ro hơn, người xuất khẩu có thể thương lượng và yêu cầu
người nhập khẩu áp dụng phương pháp nhờ thu kèm chứng từ.
Nhờ thu kèm chứng từ
Nhờ thu kèm chứng từ hay còn gọi là nhờ thu hối phiếu kèm
chứng từ ra đời nhằm bổ sung nhược điểm của phương thức nhờ thu
trơn.

Nhờ thu hối phiếu kèm chứng từ là phương thức nhờ thu trong
đó người xuất khẩu, sau khi hoàn thành nghĩa vụ giao hàng hay cung
ứng dịch vụ tiến hành ủy thác cho ngân hàng phục vụ mình thu hộ tiền
ở người nhập khẩu, không chỉ căn cứ vào hối phiếu mà còn căn cứ vào
bộ chứng từ hàng hóa gửi kèm theo với điều kiện nếu người nhập khẩu
thanh toán hoặc chấp nhận trả tiền ngân hàng mới trao bộ chứng từ cho
người nhập khẩu để nhận hàng hóa.
Về nội dung, phương thức nhờ thu kèm chứng từ cũng tương tự
như nhờ thu trơn chỉ khác mấy điểm sau: người xuất khẩu không
chuyển bộ chứng từ hàng hóa trực tiếp cho người nhập khẩu mà chỉ
giao hàng, còn bộ chứng từ gửi cho ngân hàng kèm với hối phiếu và
chỉ thị nhờ thu; khi xuất trình hối phiếu đòi tiền, ngân hàng không trao
bộ chứng từ cho người nhập khẩu mà giữ bộ chứng từ để khống chế và
yêu cầu người nhập khẩu:
+ Trả tiền ngân hàng mới trao bộ chứng từ để người nhập khẩu
lấy hàng hóa, nếu hối phiếu ghi trả tiền theo điều kiện D/P


20

+ Chấp nhận thanh toán ngân hàng mới trao bộ chứng từ để
người nhập khẩu lấy hàng, nếu hối phiếu ghi trả tiền theo điều kiện
D/A.
Qua nội dung phương thức nhờ thu kèm chứng từ, ta thấy rằng
người xuất khẩu ngoài việc ủy thác cho ngân hàng thu tiền còn nhờ
ngân hàng thông qua việc khống chế bộ chứng từ hàng hóa để buộc
người xuất khẩu phải trả tiền hoặc chấp nhận trả tiền. Nhờ vậy,
phương thức này đảm bảo khả năng thu tiền hơn so với phương thức
trả tiền sau hoặc nhờ thu trơn. Tuy nhiên, thông qua bộ chứng từ, ngân
hàng đại lý mới khống chế hàng hóa chứ chưa chắc chắn khống chế

được việc trả tiền của người nhập khẩu. Ví dụ, gặp tình huống thị
trường sau khi giao hàng mà biến động không thuận lợi khiến cho
người nhập khẩu bị thua lỗ,trong trường hợp này, người nhập khẩu sẽ
không tha thiết với việc nhận hàng, và việc khống chế bộ chứng từ trở
lên vô nghĩa.
1.1.3.4.

Dịch vụ thanh toán ủy nhiệm chi

Ủy nhiệm chi là lệnh chi tiền do chủ tài khoản lập theo mẫu của
ngân hàng để yêu cầu ngân hàng trích tiền từ tài khoản của người lập
chuyển vào tài khoản của người thụ hưởng. Sau khi lập, ủy nhiệm chi
có thể được chuyển đến cho ngân hàng thông qua người lập hoặc
người thụ hưởng. Nhận được ủy nhiệm chi, ngân hàng tiến hành kiểm
tra xem tài khoản người lập, đồng thời là người chi trả, có đủ số dư để
thực hiện lệnh chi hay không. Nếu đủ ngân hàng sẽ ghi nợ vào tài


21

khoản người chi trả và ghi có vào người thụ hưởng thông qua nghiệp
vụ kế toán thanh toán của ngân hàng. Nếu không đủ số dư thì xem
khách hàng được thấu chi hay không? Nếu được phép thấu chi thì tiếp
tục xử lý thanh toán cho người thụ hưởng, nếu không thì ngân hàng từ
chối thực hiện thanh toán ủy nhiệm chi.
Thể thức thanh toán bằng ủy nhiệm chi có thể được sử dụng
trong thanh toán hàng hóa, dụng vụ cung ứng hoặc sử dụng để chuyển
tiền từ tài khoản này sang tài khoản khác. Tuy nhiên, trong thanh toán
ủy nhiệm chi cần lưu ý rằng ngân hàng chỉ có thể thực hiện chi trả khi
nào số dư trên tài khoản của bên lập ủy nhiệm chi có đủ để thực hiện

giao dịch. Do vậy nếu bên lập ủy nhiệm chi không đủ số dư do gặp
khó khăn tài chính hay do sự cố lập ủy nhiệm chi thì bên thụ hưởng sẽ
bị thiệt hại. Để tránh tình trạng này xảy ra, bên thụ hưởng nên kiểm tra
và xem xét uy tín và tình hình tài chính của bên lập ủy nhiệm chi kỹ
lưỡng trước khi giao dịch.
1.1.3.5.

Dịch vụ thanh toán bằng Séc

Theo công ước Giơ-ne-vơ về séc năm 1931 thì séc là một lệnh
trả tiền của người ký phát trả tiền cho người thụ hưởng trong thời gian
hiệu lực của tờ séc đó. Séc được lập theo mẫu in của ngân hàng.
Séc là một phương tiện thanh toán tương đối đơn giản và phản
ánh sự thoả thuận giữa các bên. Để sử dụng séc, người ký phát séc cần
điền các nội dung cần thiết vào tờ séc như: số tiền trả, tên người thụ
hưởng, ngày ký phát... và ký tên vào tờ séc. Người thụ hưởng khi nhận


22

được tờ séc cần quan tâm tới một số yếu tố như: thời hạn hiệu lực,
ngân hàng thanh toán, sự chính xác của các yếu tố trên tờ séc.
Theo quyết định số 101/QĐ-NH do thống đốc NHNN ban hàng
ngày 30/7/1991. Séc được coi là một trong bốn hình thức thanh toán
tiền mặt. Trong đó có ba loại séc đó là: Séc chuyển khoản, séc bảo chi
và séc định mức. Đến ngày 21/12/1994 Thống đốc NHNN đã ký quyết
số 22/QĐ-NH bổ sung thêm một loại séc nữa là séc cá nhân.
Séc chuyển khoản:
Séc chuyển khoản là loại séc do chủ tài khoản phát hành để thanh
toán tiền hàng, dịch vụ và các khoản khác. Phạm vi áp dụng của séc

chuyển khoản là giữa các khách hàng mở tài khoản tại cùng một chi
nhánh ngân hàng. Nếu thanh toán khác chi nhánh ngân hàng thì các chi
nhánh ngân hàng đó phải tham gia thanh toán bù trừ trên cùng địa bàn
tỉnh, thành phố.
Séc bảo chi:
Séc bảo chi là tờ séc chuyển khoản thông thường nhưng được
ngân hàng kiểm tra trước và đảm bảo khả năng chi trả bằng cách trích
trước số tiền trên séc từ tài khoản tiền gửi của người trả tiền sang tài
khoản riêng nhằm đảm bảo khả năng thanh toán cho tờ séc đó.
Séc bảo chi có phạm vi thanh toán rộng hơn séc chuyển khoản.
Nó được sử dụng để thanh toán giữa các chủ thể mở tài khoản thanh
toán tại cùng một chi nhánh, tại hai chi nhánh ngân hàng có tham gia
thanh toán bù trừ trên địa bàn tỉnh thành phố. Ngoài ra séc bảo chi còn
được sử dụng để thanh toán giữa khách hàng mở tài khoản tại các chi
nhánh ngân hàng trong cùng một hệ thống trong phạm vi cả nước.
Séc định mức:


23

Séc định mức là séc mà ngân hàng đảm bảo khả năng chi trả cho
cả quyển séc với tổng số tiền đã xác định trước.
Thủ tục phát hành, thanh toán séc định mứcgiống như séc bảo
chi. Tuy nhiên nó có một số điểm khác biệt so với séc bảo chi, đó là:
- Mức tối thiểu mở sổ séc định mức là 20 triệu đồng.
- Thời hạn hiệu lực của tờ séc là 30 ngày kể từ ngày mở sổ séc
- Người thụ hưởng phải có trách nhiệm kiểm tra số dư của
quyển séc định mức mỗi lần nhận séc
Séc cá nhân:
Được áp dụng đối với khách hàng có tài khoản tiền gửi đứng tên

cá nhân tại ngân hàng, dùng để thanh toán tiền hàng hoá, dịch vụ và
thanh toán khác. Hiện nay theo quy định của ngân hàng, séc cá nhân
có số tiền trên 5 triệu đồng thì người phát hành séc phải đến ngân hàng
làm thủ tục bảo chi séc. Người thụ hưởng séc cá nhân phải phải yêu
cầu người phát hành séc xuất trình giấy chứng minh thư để kiểm tra,
đồng thời chỉ nhận séc do đích thân người có tên trên mặt sau tờ séc
phát hành ký tại chỗ.
Séc cá nhân có hiệu lực tối đa là 10 ngày kể từ khi phát hành séc.
Séc cá nhân được thanh toán giữa các khách hàng có tài khoản tại cùng
một chi nhánh hoặc khác chi nhánh nhưng các chi nhánh có tham gia
thanh toán bù trừ và giao nhận chứng từ hàng ngày.
1.1.3.6.

Dịch vụ thanh toán tín dụng chứng từ

Tín dụng chứng từ là phương thức thanh toán, trong đó một ngân
hàng theo yêu cầu của khách hàng, cam kết sẽ trả một số tiền nhất định
cho người thụ hưởng hoặc chấp nhận hối phiếu do người này ký phát


24

trong phạm vi số tiền đó nếu người này xuất trình được bộ chứng từ
thanh toán phù hợp với những quy định đã nêu ra trong thư tín dụng.
Có thể nói, thư tín dụng (L/C) là văn bản quan trọng nhất trong
phương thức thanh toán tín dụng chứng từ.
L/C là văn bản pháp lý, trong đó một ngân hàng theo yêu cầu của
khách hàng đứng ra cam kết sẽ trả cho người thụ hưởng một số tiền
nhất định nếu người này xuất trình được bộ chứng từ phù hợp với quy
định đã nêu ra trong L/C.

Tham gia vào phương thức tín dụng chứng từ bao gồm các bên
sau đây:
(1)

Người xin mở thư tín dụng (Appliant) – là người nhập khẩu

hàng hóa
(2) Ngân hàng mở thư tín dụng (Issuing bank) – là ngân hàng
phục vụ người nhập khẩu; ngân hàng này cung cấp tín dụng và
đứng ra cam kết trả tiền cho người xuất khẩu.
(3) Người thụ hưởng (Beneficiary) – Là người xuất khẩu hay
người nào khác do người xuất khẩu chỉ định
(4) Ngân hàng thông báo thư tín dụng (Advising bank) – là ngân
hàng đại lý cho ngân hàng mở L/C và phục vụ người thụ
hưởng.
(5) Ngoài ra trong vài trường hợp đặc biệt có thể thêm các bên
khác tham gia như ngân hàng xác nhận (Confirming bank) và
ngân hàng trả tiền (Paying bank).
Về mặt thủ tục pháp lý, nội dung phương thức thanh toán tín
dụng chứng từ được thực hiện theo bản “Quy tắc và thực hành thống
nhất về tín dụng chứng từ - Uniform Customs and Practic for
Documentary Credits” do phòng Thương mại Quốc tế (ICC) ban hành.


25

Gần đây nhất ngày 25/6/2006, ICC đã công bố UCP 600 có hiệu lực từ
ngày 1/7/2007. UCP là văn bản pháp lý quốc tế không mang tính chất
bắt buộc các bên mua bán quốc tế phải áp dụng. Do đó, nếu áp dụng
UCP thì phải dẫn chiếu điều này trong thư tín dụng của mình. Hiện

nay, đã có hơn 160 nước trên thế giới công nhận và tuyên bố áp dụng
UCP. Điều đáng lưu ý là các văn bản ra đời sau không hủy bỏ các văn
bản trước đó, cho nên các văn bản đều có giá trị trong thanh toán quốc
tế. Ngoài ra khi thực hiện phương thức tín dụng chứng từ ta cần tham
khảo thêm:
+ Bản quy tắc thống nhất hoàn trả liên hàng theo tín dụng chứng
từ (The Uniform Rules for Bank – to – Bank Reimbursement under
Documentary Credits – URR 525-1995-ICC) có giá trị từ ngày
1/7/1996
+ Phụ bản của UCP bao gồm UCP 500.1 và UCP 500.2: UCP
500.1 hay còn gọi là eUCP (The Supplement to Uniform Customs and
Practic for Documentary Credits for Electronic Presentation) xuất bản
01/2002 áp dụng cho xuất trình chứng từ điện tử theo L/C; UCP 500.2
hay còn gọi là ISBP (The International Standard Banking Practice for
Examination of Documents under Documentary Credits) thực hành
nghiệp vụ ngân hàng theo tiêu chuẩn quốc tế về kiểm tra chứng từ theo
L/C xuất bản 10/2002.
+ Luật Các công cụ chuyển nhượng số 49/2005/QH11 ngày
29/11/2005 có hiệu lực pháp lý từ ngày 1/7/2006.
Phương thức thanh toán tín dụng chứng từ là phương thức thanh
toán sòng phẳng đảm bảo quyền lợi cho cả hai bên xuất khẩu và nhập


×