Tải bản đầy đủ (.pdf) (46 trang)

Giáo trình môn Văn hóa cộng đồng- Phần 1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (589.48 KB, 46 trang )

Trường Cao đẳng nghề Yên Bái

Giáo trình môn: Văn hóa cộng đồng

Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ VĂN HÓA CỘNG ĐỒNG
1. Khái niệm văn hóa, khái niệm gần văn hóa và khái niệm cộng đồng
1.1. Khái niệm văn hóa
Từ "văn hóa" có rất nhiều nghĩa. Trong tiếng Việt, văn hóa được dùng theo
nghĩa thông dụng để chỉ học thức (trình độ văn hóa), lối sống (nếp sống văn hóa);
theo nghĩa chuyên biệt để chỉ trình độ phát triển của một giai đoạn (văn hóa Đông
Sơn)... Trong khi theo nghĩa rộng thì văn hóa bao gồm tất cả, từ những sản phẩm
tinh vi hiện đại cho đến tín ngưỡng, phong tục, lối sống, lao động... Chính với cách
hiểu rộng này, văn hoá mới là đối tượng đích thực của văn hóa học.
Tuy nhiên, ngay cả với cách hiểu rộng này trên thế giới cũng có hàng trăm
định nghĩa khác nhau. Để định nghĩa một khái niệm, trước hết cần xác định được
những đặc trưng cơ bản của nó. Đó là những nét riêng biệt và tiêu biểu, cần và đủ
để phân biệt khái niệm (sự vật) ấy với khái niệm (sự vật) khác. Phân tích các cách
tiếp cận văn hóa phổ biến hiện nay (coi văn hóa như tập hợp, như hệ thống, như giá
trị, như hoạt động, như kí hiệu, như thuộc tính nhân cách, như thuộc tính xã hội...),
có thể xác định được 4 đặc trưng cơ bản mà tổng hợp lại, ta có thể nêu ra một định
nghĩa văn hoá như sau:
VĂN HOÁ là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do
con người sáng tạo và tích luỹ qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự
tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội.
Dưới đây, chúng ta đi vào xem xét từng đặc trưng của văn hóa được nói đến
trong định nghĩa cùng các chức năng của nó.
Các đặc trưng và chức năng của văn hóa
Văn hóa trước hết phải có tính hệ thống.
Đặc trưng này cần để phân biệt hệ thống với tập hợp; nó giúp phát hiện
những mối liên hệ mật thiết giữa các hiện tượng, sự kiện thuộc một nền văn hóa;
phát hiện các đặc trưng, những quy luật hình thành và phát triển của nó.


Nhờ có tính hệ thống mà văn hóa, với tư cách là một thực thể bao trùm mọi
hoạt động của xã hội, thực hiện được chức năng tổ chức xã hội. Chính văn hóa
thường xuyên làm tăng độ ổn định của xã hội, cung cấp cho xã hội mọi phương tiện
cần thiết để ứng phó với môi trường tự nhiên và xã hội của mình. Nó là nền tảng
của xã hội - có lẽ chính vì vậy mà người Việt Nam ta dùng từ chỉ loại “nền” để xác
định khái niệm văn hoá (nền văn hóa).
Đặc trưng quan trọng thứ hai của văn hóa là tính giá trị.
Văn hóa theo nghĩa đen nghĩa là "trở thành đẹp, thành có giá trị". Tính giá trị
cần để phân biệt giá trị với phi giá trị (vd: thiên tai, mafia). Nó là thước đo mức độ
1


Trường Cao đẳng nghề Yên Bái
Giáo trình môn: Văn hóa cộng đồng
nhân bản của xã hội và con người.
Các giá trị văn hóa, theo mục đích có thể chia thành giá trị vật chất (phục vụ
cho nhu cầu vật chất) và giá trị tinh thần (phục vụ cho nhu cầu tinh thần); theo ý
nghĩa có thể chia thành giá trị sử dụng, giá trị đạo đức và giá trị thẩm mĩ; theo thời
gian có thể phân biệt các giá trị vĩnh cửu và giá trị nhất thời. Sự phân biệt các giá
trị theo thời gian cho phép ta có được cái nhìn biện chứng và khách quan trong việc
đánh giá tính giá trị của sự vật, hiện tượng; tránh được những xu hướng cực đoan phủ nhận sạch trơn hoặc tán dương hết lời.
Vì vậy mà, về mặt đồng đại, cùng một hiện tượng có thể có giá trị nhiều hay
ít tùy theo góc nhìn, theo bình diện được xem xét. Muốn kết luận một hiện tượng có
thuộc phạm trù văn hóa hay không phải xem xét mối tương quan giữa các mức độ
"giá trị" và “phi giá trị" của nó. Về mặt lịch đại, cùng một hiện tượng sẽ có thể có
giá trị hay không tùy thuộc vào chuẩn mực văn hóa của từng giai đoạn lịch sử. Áp
dụng vào Việt Nam, việc đánh giá chế độ phong kiến, vai trò của Nho giáo, các
triều đại nhà Hồ, nhà Nguyễn... đều đòi hỏi một tư duy biện chứng như thế.
Nhờ thường xuyên xem xét các giá trị mà văn hóa thực hiện được chức năng
quan trọng thứ hai là chức năng điều chỉnh xã hội, giúp cho xã hội duy trì được

trạng thái cân bằng động, không ngừng tự hoàn thiện và thích ứng với những biến
đổi của môi trường, giúp định hướng các chuẩn mực, làm động lực cho sự phát
triển của xã hội.
Đặc trưng thứ ba của văn hóa là tính nhân sinh.
Tính nhân sinh cho phép phân biệt văn hoá như một hiện tượng xã hội (do
con người sáng tạo, nhân tạo) với các giá trị tự nhiên (thiên tạo). Văn hóa là cái tự
nhiên được biến đổi bởi con người. Sự tác động của con người vào tự nhiên có thể
mang tính vật chất (như việc luyện quặng, đẽo gỗ...) hoặc tinh thần (như việc đặt
tên, truyền thuyết cho các cảnh quan thiên nhiên...).
Như vậy, văn hóa học không đồng nhất với đất nước học. Nhiệm vụ của đất
nước học là giới thiệu thiên nhiên - đất nước - con người. Đối tượng của nó bao
gồm cả các giá trị tự nhiên, và không nhất thiết chỉ bao gồm các giá trị. Về mặt này
thì nó rộng hơn văn hoá học. Mặt khác, đất nước học chủ yếu quan tâm đến các vấn
đề đương đại, về mặt này thì nó hẹp hơn văn hóa học.
Do mang tính nhân sinh, văn hóa trở thành sợi dây nối liền con người với
con người, nó thực hiện chức năng giao tiếp và có tác dụng liên kết họ lại với nhau.
Nếu ngôn ngữ là hình thức của giao tiếp thì văn hóa là nội dung của nó.
Văn hóa còn có tính lịch sử.
Nó cho phép phân biệt văn hóa như sản phẩm của một quá trình và được tích
luỹ qua nhiều thế hệ với văn minh như sản phẩm cuối cùng, chỉ ra trình độ phát
triển của từng giai đoạn. Tính lịch sử tạo cho văn hóa một bề dày, một chiều sâu; nó
buộc văn hóa thường xuyên tự điều chỉnh, tiến hành phân loại và phân bố lại các
2


Trường Cao đẳng nghề Yên Bái
Giáo trình môn: Văn hóa cộng đồng
giá trị. Tính lịch sử được duy trì bằng truyền thống văn hóa. Truyền thống văn hóa
là những giá trị tương đối ổn định (những kinh nghiệm tập thể) được tích lũy và tái
tạo trong cộng đồng người qua không gian và thời gian, được đúc kết thành những

khuôn mẫu xã hội và cố định hóa dưới dạng ngôn ngữ, phong tục, tập quán. nghi lễ,
luật pháp, dư luận...
Truyền thống văn hóa tồn tại nhờ giáo dục. Chức năng giáo dục là chức năng
quan trọng thứ tư của văn hóa. Nhưng văn hóa thực hiện chức năng giáo dục không
chỉ bằng những giá trị đã ổn định (truyền thống), mà còn bằng cả những giá trị
đang hình thành. Hai loại giá trị này tạo thành một hệ thống chuẩn mực mà con
người hướng tới. Nhờ nó mà văn hóa đóng vai trò quyết định trong việc hình thành
nhân cách (trồng người). Từ chức năng giáo dục, văn hóa có chức năng phái sinh là
đảm bảo tính kế tục của tịch sử: Nó là một thứ "gen" xã hội di truyền phẩm chất
con người lại cho các thế hệ mai sau.
1.2. Khái niệm gần văn hóa: Văn minh, văn hiến, văn vật
1.2.1. Văn minh
Lâu nay, không ít người vẫn sử dụng văn minh (civilization) như một từ đồng
nghĩa với văn hóa. Song thật ra, đây là hai khái niệm rất khác nhau. Trong các từ
điển, từ "văn minh" có thể được định nghĩa theo nhiều cách, song chúng thường có
một nét nghĩa chung là “trình độ phát triển": trong khi văn hóa luôn có bề dày của
quá khứ (tính lịch sử) thì văn minh là một lát cắt đồng đại, nó cho biết trình độ phát
triển của văn hóa ở từng giai đoạn. Nói đến văn minh, người ta còn nghĩ đến các
tiện nghi.
Văn minh là sự kết hợp đầy đủ các yếu tố tiên tiến tại thời điểm xét đến để
tạo nên, duy trì, vận hành và tiến hoá xã hội loài người. Các yếu tố của văn minh có
thể hiểu gọn lại là di sản tích lũy tri thức, tinh thần và vật chất của con người kể từ
khi loài người hình thành cho đến thời điểm xét đến. Đối nghịch với văn
minh là hoang dã, man rợ, lạc hậu. Từ văn minh trong tiếng Việt là từ gốc Nhật.
Như vậy, văn hóa và văn minh còn khác nhau ở tính giá trị: trong khi văn
hóa chứa cả các giá trị vật chất lẫn tinh thần, thì văn minh chủ yếu thiên về các giá
trị vật chất mà thôi.
Sự khác biệt của văn hóa và văn minh về giá trị tinh thần và tính lịch sự dẫn
đến sự khác biệt về phạm vi: Văn hoá mang tính dân tộc; còn văn minh thì có tính
quốc tế, nó đặc trưng cho một khu vực rộng lớn hoặc cả nhân loại, bởi lẽ cái vật

chất thì dễ phổ biến, lây lan.
Và sự khác biệt thứ tư, về nguồn gốc: Văn hoá gắn bó nhiều hơn với phương
Đông nông nghiệp, còn văn minh gắn bó nhiều hơn với phương Tây đô thị. Trong
quá trình phát triển của lịch sử nhân loại, tại cựu lục địa Âu-Á (Eurasia) đã hình
thành hai vùng văn hóa lớn là “phương Tây” và “phương Đông”: phương Tây là
khu vực tây-bắc gồm toàn bộ Châu Âu (đến dãy Uran); phương Đông là khu vực
đông-nam gồm châu Á và châu Phi. Các nền văn hóa cổ đại lớn mà nhân loại từng
3


Trường Cao đẳng nghề Yên Bái
Giáo trình môn: Văn hóa cộng đồng
biết đến đều xuất phát từ phương Đông: Trung Hoa, Ấn Độ, Lưỡng Hà, Ai Cập.
Nền văn hóa phương Tây sớm nhất là Hi-La (Hi Lạp và La Mã) cũng có nguồn gốc
từ phương Đông, nó được hình thành trên cơ sở tiếp thu những thành tựu của các
nền văn hóa Ai Cập và Lưỡng Hà. Các nền văn hóa phương Đông đều hình thành ở
lưu vực các con sông lớn là những nơi có địa hình và khí hậu rất thuận tiện cho sản
xuất nông nghiệp. Ở các ngôn ngữ phương Tây, từ “văn hóa” bắt nguồn từ chữ
cultus tiếng Latinh có nghĩa là “trồng trọt”, còn từ “văn minh” thì bắt nguồn từ chữ
civitas có nghĩa là “thành phố”
1.2.2. Văn hiến
Ở Việt Nam còn có các khái niệm văn hiến và văn vật. Từ điển thường định
nghĩa văn hiến là “truyền thống văn hóa lâu đời”, còn văn vật là “truyền thống văn
hóa biểu hiện ở nhiều nhân tài và di tích lịch sử”. Các định nghĩa này cho thấy văn
hiến và văn vật chỉ là những khái niệm bộ phận của "văn hóa", chúng khác văn hóa
ở độ bao quát các giá trị: Văn hiến là văn hoá thiên về “truyền thống lâu đời", mà
truyền thống lâu đời còn lưu giữ được chính là các giá trị tinh thần; còn văn vật là
văn hóa thiên về các giá trị vật chất (nhân tài, di tích, hiện vật). Chính vì vậy mà
ông cha ta thường nói đất nước 4000 năm văn hiến, nhưng lại nói Hà Nội - Thăng
Long ngàn năm văn vật. Phương Tây không có các khái niệm văn hiến, văn vật,

cho nên hai từ này không thể dịch ra các ngôn ngữ phương Tây được.
1.3. Khái niệm cộng đồng
1.3.1. Các dấu hiệu nhận biết
Cộng đồng phải là tập hợp của một số đông người.
Mỗi cộng đồng phải có một bản sắc riêng.
Các thành viên của cộng đồng phải tự cảm thấy có sự gắn kết với cộng đồng
và với các thành viên khác của cộng đồng.
Có thể có nhiều yếu tố tạo nên bản sắc và sức bền gắn kết cộng đồng, nhưng
quan trọng nhất chính là sự thống nhất về ý chí và chia sẻ về tình cảm, tạo nên ý
thức cộng đồng.
Mỗi cộng đồng đều có những tiêu chí bên ngoài để nhận biết về cộng đồng
và có những quy tắc chế định hoạt động và ứng xử chung của cộng đồng.
1.3.2. Khái niệm cộng đồng
Cộng đồng là một tập thể có tổ chức, bao gồm các cá nhân con người sống
chung ở một địa bàn nhất định, có chung một đặc tính xã hội hoặc sinh học nào đó
và cùng chia sẻ với nhau một lợi ích vật chất hoặc tinh thần nào đấy.
“Cộng đồng là tập thể người sống trong cùng một khu vực, một tình hoặc
một quốc gia và được xem như một khối thống nhất”; “Cộng đồng là một nhóm
người có cùng tín ngưỡng, chủng tộc, cùng loại hình nghề nghiệp, hoặc cùng mối
quan tâm”; “Cộng đồng là một tập thể cùng chia sẻ, hoặc có tài nguyên chung, hoặc
có tình trạng tương tự nhau về một số khía cạnh nào đó” (Tự điển Đại học Oxford)
4


Trường Cao đẳng nghề Yên Bái
Giáo trình môn: Văn hóa cộng đồng
Có thể phân ra 2 loại cộng đồng: Cộng đồng địa lý bao gồm những người
dân cư trú trong cùng một địa bàn có thể có chung các đặc điểm văn hoá xã hội và
có thể có mối quan hệ ràng buộc với nhau. Họ cùng được áp dụng chính sách chung
Cộng đồng chức năng gồm những người có thể cư trú gần nhau hoặc không gần

nhau nhưng có lợi ích chung. Họ liên kết với nhau trên cơ sở nghề nghiệp, sở thích,
hợp tác hay hiệp hội có tổ chức (NGO Training Project) 18 Như vậy, cộng đồng có
thể ở quy mô các cấp khác nhau từ lớn đến nhỏ, từ chung chung đến cụ thể. Thí dụ:
- Cộng đồng địa lý: Cộng đồng người Hoa, người Chăm, cộng đồng dân cư tại xóm
X - Cộng đồng chức năng: Hội đồng hương của tỉnh Quảng Ngãi; Cộng đồng học
sinh, sinh viên Việt Nam đang du học tại các nước;
Cộng đồng những công nhân nhập cư tại khu phố A;.. Một cộng đồng là một
nhóm xã hội của các cơ thể sống chung trong cùng một môi trường thường là có
cùng các mối quan tâm chung.
Trong cộng đồng người đó là kế hoạch, niềm tin, các mối ưu tiên, nhu cầu,
nguy cơ và một số điều kiện khác có thể có và cùng ảnh hưởng đến đặc trưng và sự
thống nhất của các thành viên trong cộng đồng. Theo Fichter cộng đồng bao gồm 4
yếu tố sau: (1) tương quan cá nhân mật thiết với nhau, mặt đối mặt, thẳng thắn chân
tình, trên cơ sở các nhóm nhỏ kiểm soát các mối quan hệ cá nhân; (2) có sự liên hệ
chặt chẽ với nhau về tình cảm, cảm xúc khi cá nhân thực hiện được các công việc
hoặc nhiệm vụ cụ thể; (3) có sự hiến dâng về mặt tinh thần hoặc dấn thân thực hiện
các giá trị xã hội được cả xã hội ngưỡng mộ; (4) có ý thức đoàn kết tập thể. Cộng
đồng được hình thành trên cơ sở các mối liên hệ giữa cá nhân và tập thể dựa trên cơ
sở tình cảm là chủ yếu; ngoài ra còn có các mối liên hệ tình cảm khác. Cộng đồng
có sự liên kết cố kết nội tại không phải do các quy tắc rõ ràng thành văn, mà do các
quan hệ sâu hơn, được coi như là một hằng số văn hóa.
2. Loại hình văn hóa
2.1. Loại hình văn hóa gốc nông nghiệp
So sánh các nền văn hóa trên thế giới, người ta thấy chúng vô cùng đa dạng
và phong phú. Song, cũng đã từ lâu, người ta nhận thấy giữa các nền văn hóa có
không ít nét tương đồng.
Để giải thích sự tương đồng này, đã có nhiều thuyết khác nhau. Thuyết
khuếch tán văn hóa (cultural diffusion) phổ biến ở châu Âu với quan niệm văn hóa
được hình thành từ một trung tâm rồi “lan tỏa" ra các nơi khác. Thuyết vùng văn
hóa (cultural areas) phổ biến ở Mĩ với quan điểm về khả năng tồn tại nhiều nền văn

hóa của các dân tộc khác nhau trên cùng một vùng lãnh thổ. Thuyết loại hình kinh
tế - văn hóa phổ biến trong dân tộc học Xô viết cho rằng trong lịch sử nhân loại
từng tồn tại ba nhóm loại hình kinh tế - văn hóa: săn bắt - hái lượm - đánh cá; nông
nghiệp dùng cuốc và chăn nuôi; nông nghiệp dùng cày với sức kéo động vật. Các
thuyết trên thực ra không mâu thuẫn mà bổ sung cho nhau, mỗi thuyết thích hợp
cho những điều kiện khác nhau. Thật vậy, nếu các dân tộc xuất phát từ cùng một
5


Trường Cao đẳng nghề Yên Bái
Giáo trình môn: Văn hóa cộng đồng
gốc thì giữa văn hóa gốc và các nền văn hóa này có thể có quan hệ lan tỏa. Nếu các
nền văn hóa gần gũi nhau về địa lí thì chúng có thể từ tiếp xúc đến giao lưu với
nhau, tạo nên những vùng văn hoá. Nếu các nền văn hóa tuy ở cách xa nhau và
chưa bao giờ gặp gỡ nhau nhưng lại nằm trong những điều kiện tự nhiên và xã hội
tương đồng thì chúng cũng có thể có những nét giống nhau. Sản phẩm của hai
trường hợp này là những đặc trưng loại hình. Đặc trưng loại hình càng mạnh và rõ
ở các nền văn hóa cùng gốc và/hoặc gần gũi nhau về địa lí.
Việt Nam do ở góc tận cùng phía đông-nam nên thuộc loại văn hóa gốc nông
nghiệp điển hình. Vậy những đặc trưng chủ yếu của loại hình văn hóa gốc nông
nghiệp là gì?
Trong cách ứng xử với môi trường tự nhiên, nghề trồng trọt buộc người dân
phải sống định cư để chờ cây cối lớn lên, ra hoa kết trái và thu hoạch. Do sống phụ
thuộc nhiều vào thiên nhiên nên dân nông nghiệp có ý thức tôn trọng và ước vọng
sống hòa hợp với thiên nhiên. Người Việt Nam mở miệng là nói "lạy trời", "nhờ
trời", "ơn trời"...
Vì nghề nông, nhất là nghề nông nghiệp lúa nước, cùng một lúc phụ thuộc
vào tất cả mọi hiện tượng thiên nhiên (Trông trời, trông đất, trông mây; trông mưa,
trông gió, trông ngày, trông đêm...) cho nên, về mặt nhận thức, hình thành lối tư
duy tổng hợp). Tổng hợp kéo theo biện chứng - cái mà người nông nghiệp quan

tâm không phải là các yếu tố riêng rẽ, mà là những mối quan hệ qua lại giữa chúng.
Tổng hợp là bao quát được mọi yếu tố, còn biện chứng là chú trọng đến các mối
quan hệ giữa chúng. Người Việt tích lũy được một kho kinh nghiệm hết sức phong
phú về các loại quan hệ này: Quạ tắm thì ráo, sáo tắm thì mưa; Ráng mỡ gà, ai có
nhà phải chống; Được mùa lúa thì úa mùa cau, được mùa cau thì đau mùa lúa...
Về mặt tổ chức cộng đồng, con người nông nghiệp ưa sống theo nguyên tắc
trọng tình. Hàng xóm sống cố định lâu dài với nhau phải tạo ra một cuộc sống hòa
thuận trên cơ sở lấy tình nghĩa làm đầu: Một bồ cái lí không bằng một tí cái tình.
Lối sống trọng tình cảm tất yếu dẫn đến thái độ trọng đức, trọng văn, trọng phụ nữ.
Trong truyền thống Việt Nam, tinh thần coi trọng ngôi nhà à coi trọng cái
bếp à coi trọng người phụ nữ là hoàn toàn nhất quán và rõ nét: Phụ nữ Việt Nam là
người quản lí kinh tế, tài chính trong gia đình - người nắm tay hòm chìa khóa.
Chính bởi vậy mà người Việt Nam coi Nhất vợ nhì trời; Lệnh ông không bằng cồng
bà...; còn theo kinh nghiệm dân gian thì Ruộng sâu trâu nái, không bằng con gái
đầu lòng. Phụ nữ Việt Nam cũng chính là người có vai trò quyết định trong việc
giáo dục con cái: Phúc đức tại mẫu, Con dại cái mang. Vì tầm quan trọng của người
mẹ cho nên trong tiếng Việt, từ cái với nghĩa là "mẹ" đã mang thêm nghĩa "chính,
quan trọng": sông cái, đường cái, đũa cái, cột cái, trống cái, ngón tay cái, máy
cái...Tư tưởng coi thường phụ nữ là từ Trung Hoa truyền vào (Nhất nam viết hữu,
thập nữ viết vô; Nam tôn nữ ti; Tam tòng;); đến khi ảnh hưởng này trở nên đậm nét
(từ lúc nhà Lê tôn Nho giáo làm quốc giáo), người dân đã phản ứng dữ dội về việc
đề cao "Bà chúa Liễu" cùng những câu ca dao như: Ba đồng một mớ đàn ông, Đem
6


Trường Cao đẳng nghề Yên Bái
Giáo trình môn: Văn hóa cộng đồng
bỏ vào lồng cho kiến nó tha, Ba trăm một mụ đàn bà, Đem về mà trải chiếu hoa cho
ngồi !
Không phải ngẫu nhiên mà vùng nông nghiệp Đông Nam Á này được nhiều

học giả phương Tây gọi là "xứ sở Mẫu hệ" (le Pays du Matriarcat). Cho đến tận bây
giờ, ở các dân tộc ít chịu ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa như Chàm hoặc hoàn
toàn không chịu ảnh hưởng như nhiều dân tộc Tây Nguyên (Êđê, Giarai...), vai trò
của người phụ nữ vẫn rất lớn: phụ nữ chủ động trong hôn nhân, chồng về ở đằng
nhà vợ, con cái đặt tên theo họ mẹ... Cũng không phải ngẫu nhiên mà cho đến nay,
người Khmer vẫn gọi người đứng đầu phum, sóc của họ là mê phum, mê sóc (mê
gọi như mẹ), bất kể đó là đàn ông hay đàn bà.
Lối tư duy tổng hợp và biện chứng, luôn đắn đo cân nhắc của người làm
nông nghiệp cộng với nguyên tắc trọng tình đã dẫn đến lối sống linh hoạt, luôn biến
báo cho thích hợp với từng hoàn cảnh cụ thể, dẫn đến triết lí sống Ở bầu thì tròn, ở
ống thì dài; Đi với Bụt mặc áo cà-sa, đi với ma mặc áo giấy...
Sống theo tình cảm, con người còn phải biết tôn trọng và cư xử bình đẳng,
dân chủ với nhau. Đó là nền dân chủ làng mạc, nó có trước nền quân chủ phong
kiến phương Đông và nền dân chủ tư sản phương Tây. Lối sống trọng tình và cách
cư xử dân chủ dẫn đến tâm lí coi trọng cộng đồng, tập thể. Người nông nghiệp làm
gì cũng phải tính đến tập thể, luôn có tập thể đứng sau.
Mặt trái của tính linh hoạt là thói tùy tiện biểu hiện ở tật co giãn giờ giấc (giờ
cao su), sự thiếu tôn trọng pháp luật... Lối sống trọng tình làm cho thói tùy tiện
càng trở nên trầm trọng hơn: Một bồ cái lí không bằng một tí cái tình... Nó dẫn đến
tệ "đi cửa sau" trong giải quyết công việc: Nhất quen, nhì thân, tam thần, tứ thế...
Trọng tình và linh hoạt làm cho tính tổ chức của người nông nghiệp kém hơn so với
cư dân các nền văn hóa gốc du mục.
Trong lối ứng xử với môi trường xã hội, tư duy tổng hợp và phong cách linh
hoạt còn quy định thái độ dung hợp trong tiếp nhận: ở Việt Nam không những
không có chiến tranh tôn giáo mà, ngược lại, mọi tôn giáo thế giới (Nho giáo, Phật
giáo, Đạo giáo, Thiên chúa giáo...) đều được tiếp nhận. Đối phó với các cuộc chiến
tranh xâm lược, người Việt Nam luôn hết sức mềm dẻo, hiếu hòa. Ngày xưa, trong
kháng chiến chống ngoại xâm, mỗi khi thế thắng đã thuộc về ta một cách rõ ràng,
cha ông ta thường dừng lại chủ động cầu hòa, "trải chiếu hoa" cho giặc về, mở
đường cho chúng rút lui trong danh dự.

2.2. Loại hình văn hóa gốc du mục
Trong lịch sử ở cựu lục địa Âu-Á đã hình thành hai vùng văn hóa lớn là
"phương Tây" và "phương Đông" : Phương Tây là khu vực tây-bắc gồm toàn bộ
châu Âu (đến dãy Uran) ; phương Đông gồm châu Á và châu Phi; nếu trừ ra một
vùng đệm như một dải đường chéo chạy dài ở giữa từ tây- nam lên đông-bắc thì
phương Đông điển hình sẽ là khu vực đông-nam còn lại. Hai vùng này có sự khác
biệt rõ rệt về mọi mặt: Trong khi các ngôn ngữ phương Tây biến hình thì các ngôn
7


Trường Cao đẳng nghề Yên Bái
Giáo trình môn: Văn hóa cộng đồng
ngữ phương Đông chủ yếu là đơn lập; trong khi người phương Tây coi trọng cá
nhân thì người phương Đông coi trọng cộng đồng; trong khi người phương Tây
chìa tay ra bắt lúc gặp nhau thì người phương Đông khoanh tay cúi đầu.
Môi trường sống của cư dân phương Đông (gọi là đông nam) là xứ nóng sinh
ra mưa nhiều (ẩm), tạo nên các con sông lớn với những vùng đồng bằng trù phú.
Còn phương Tây (gọi là tây bắc) là xứ lạnh với khí hậu khô, không thích hợp cho
thực vật sinh trưởng, có chăng chỉ là những vùng đồng cỏ mênh mông. Hai loại địa
hình này khiến cho cư dân hai khu vực phải sinh sống bằng hai nghề khác nhau:
trồng trọt và chăn nuôi.
Nghề chăn nuôi ở phương Tây phổ biến đến mức trong Kinh Thánh, từ "cừu"
được nhắc tới trên 5.000 lần, tín đồ được gọi là "con chiên", Chúa là người "chăn
chiên". Lịch sử cho biết người phương Tây xưa chủ yếu nuôi bò, cừu, dê ; ăn thịt và
uống sữa bò ; áo quần dệt bằng lông cừu hoặc làm bằng da thú vật. W.Durant trong
cuốn Nguồn gốc văn minh (1990, tr. 33) cho biết: "Tại những bộ lạc săn bắn và
mục súc, loài bò là một đơn vị giá trị rất tiện... Vào thời đại Homer ở Hi Lạp, người
ta đánh giá người và vật bằng số bò: bộ binh giáp của Diomède đáng giá 9 con bò,
một người nô lệ khéo tay đáng giá 4 con. Người La Mã cũng vậy, họ dùng hai danh
từ gần giống nhau - pecus và pecunia - để trỏ bò và tiền bạc". Về sau, các dân tộc

ven biển thì phát triển thương nghiệp buôn bán, các dân tộc trong lục địa thì làm
nông nghiệp, nhưng chăn nuôi vẫn là mối quan tâm chủ yếu của họ. Trong Hồi kí
về cuộc chiến tranh ở Gôlơ, Xêda viết rằng vào thế kỉ II trước Công nguyên, người
Giécmanh vẫn sống cuộc đời du mục ; đến giữa thế kỉ I trước Công nguyên, người
Giécmanh đã cấy trồng, song họ "không chí thú với cuộc sống định cư, sau mỗi
năm lại chuyển đi nơi khác", họ "đặc biệt không chăm làm nông nghiệp mà sống
chủ yếu bằng sữa và súc vật". Còn nhà sử học La Mã nổi tiếng K. Taxit (54-120 sau
Công nguyên) trong tập Giécmani thì cho biết Giécmanh là đất nước "giàu gia súc",
người Giécmanh "thích có nhiều gia súc" vì đó là "hình thức của cải duy nhất và dễ
chịu nhất". Bộ Luật Salica cho biết vào đầu thế kỉ VI người Frăng làm nông nghiệp
nhưng vẫn đặc biệt coi trọng chăn nuôi (bò, lợn), công xã có bãi chăn nuôi chung...
(dẫn theo Pôlianxki, 1978, tr. 30-44).
Như vậy, mặc dù sau này các dân tộc phương Tây đã chuyển sang thương
nghiệp, rồi phát triển công nghiệp và đô thị, những cái gốc du mục đã để lại dấu ấn
quan trọng trong đời sống văn hóa của họ. Do đó, căn cứ vào nguồn gốc của hai
khu vực văn hóa, ta có thể nêu ra khái niệm về hai loại hình văn hóa: loại hình văn
hóa gốc nông nghiệp và loại hình văn hóa gốc du mục.
Loại hình văn hóa gốc du mục thường có đặc trưng trái ngược: Trong ứng xử
với tự nhiên thì nghề chăn nuôi buộc người dân phải đưa gia súc đi tìm cỏ, sống du
cư, và do nay đây mai đó, ít phụ thuộc vào thiên nhiên nên sinh ra coi thường tự
nhiên, dẫn đến tham vọng chinh phục tự nhiên (cho nên phương Tâm đạt được
nhiều thành tựu trong lĩnh vực này). Trong lĩnh vực nhận thức thì thiên về tư duy
phân tích (theo lối khách quan, lí tính và thực nghiệm, dẫn đến kết quả là khoa học
8


Trường Cao đẳng nghề Yên Bái
Giáo trình môn: Văn hóa cộng đồng
phương Tây phát triển), đồng thời chú trọng các yếu tố (dẫn đến lối sống thực dụng,
thiên về vật chất). Trong tổ chức cộng đồng thì coi trọng sức mạnh (kéo theo trọng

tài, trọng võ, trọng nam giới), coi trọng vai trò cá nhân (dẫn đến lối sống ganh đua,
cạnh tranh nhau một cách khốc liệt), ứng xử theo nguyên tắc (khiến cho người
phương Tây có được thói quen sống theo pháp luật từ khá sớm). Trong ứng xử với
môi trường xã hội thì độc đoán trong tiếp nhận, cứng rắn, hiếu thắng trong đối phó.
3. Những thành tố của văn hóa
3.1. Ngôn ngữ
Ngôn ngữ là một hệ thống tín hiệu. Hiểu theo nghĩa rộng, ngôn ngữ là một
thành tố văn hóa nhưng là một thành tố chi phối đến nhiều thành tố khác, mặc dù
ngôn ngữ là hiện tượng trực tiếp của tư tưởng “về mặt hình thành, ngôn ngữ và văn
hóa đều là những thiết chế xã hội mang tính ước định”.
Vấn đề mà chúng ta cần phải quan tâm là vấn đề nguồn gốc của tiếng Việt.
Đây là vấn đề khoa học khá phức tạp mà cho đến nay giới nghiên cứu khoa học xã
hội chưa có sự thống nhất. Ý kiến của GS.TS. Phạm Đức Dương là ý kiến đáng lưu
ý.
- Tiếng Việt - Mường được hình thành bởi nhiều yếu tố thuộc dòng ngôn ngữ
ở Đông Nam Á, kể cả dòng Mã Lai, Tạng - Miến,... Trong đó có 2 yếu tố chính:
Môn - Khơ-me và Tày - Thái.
- Quan hệ giữa 2 yếu tố chủ đạo đó là Môn - Khơ me đóng vai trò cơ tầng,
Tày - Thái đóng vai trò cơ chế.
- Quá trình chuyển hóa đó là một quá trình hội tụ văn hóa và tộc người đã
diễn ra ở châu thổ sông Hồng. Một cộng đồng mới bao gồm nhiều bộ tộc trong đó
tộc người nói tiếng Môn - Khơ me chiếm số đông đã dần biến đổi tiếng nói của
mình và tạo nên một ngôn ngữ mới vận hành theo cơ chế Tày - Thái: ngôn ngữ Việt
- Mường chung.
Thời điểm hình thành tiếng Việt, cũng GS. TS. Phạm Đức Dương khẳng định:
“Vào khoảng thiên niên kỉ thứ 2 trước công nguyên, do sự “dồn tọa” từ phương
Bắc xuống, do sức ép của sự phát triển dân số vùng núi và chân núi trên bậc thềm
cổ quá hẹp của các dòng sông và nhất là do sự kích thích của năng suất lúa nước và
cuộc sống tương đối ổn định của xã hội nông nghiệp lúa nước đã được thể nghiệm
ở vùng thung lũng hẹp chân núi, hàng loạt các cộng đồng người đã ào ạt xuống

vùng trũng quanh vịnh Hà Nội, cộng cư với những người khác tại đây. Họ đã áp
dụng mô hình kinh tế - xã hội lúa nước của người Tày - Thái trong quá trình khai
phá đồng bằng sông Hồng và hình thành nên một cộng đồng mới: cư dân Việt Mường, chủ nhân của ngôn ngữ Việt - Mường chung.”
Trong tiến trình phát triển, tiếng Việt còn có sự tiếp xúc với các ngôn ngữ
Trung Quốc. Không kể sự tiếp xúc giữa người Lạc Việt và các bộ tộc Bách Việt ở
phía nam sông Dương Tử trở xuống, thời tiền sử, sự tiếp xúc giữa tiếng Việt và
9


Trường Cao đẳng nghề Yên Bái
Giáo trình môn: Văn hóa cộng đồng
tiếng Hán đã diễn ra trước và trong thời Bắc thuộc. Sự tiếp xúc này đã đem lại sự
thay đổi cho tiếng Việt. Nhiều từ ngữ Hán được người Việt vay mượn, nhưng xu
hướng Việt hóa là xu hướng mạnh nhất. Người Việt đã vay mượn cách phát âm mà
sau này các nhà nghiên cứu gọi là cách phát âm Hán - Việt để đọc toàn bộ các chữ
Hán. Sau đó, trong cách sử dụng và ý nghĩa của các từ ấy lài được Việt hóa. Nhiều
yếu tố của tiếng Hán đi vào tiếng Việt theo kiểu mở rộng hay thu hẹp nghĩa, hoặc
được cấu tạo lại theo kiểu rút ngắn, đổi vị trí... Tuy vậy, sự tiếp nhận các yếu tố của
tiếng Hán không làm mất đi bản sắc của tiếng Việt, trái lại, làm cho tiếng Việt giàu
có hơn.
Cuộc tiếp xúc lớn thứ hai là cuộc tiếp xúc giữa tiếng Việt và tiếng Pháp.
Thực dân Pháp cưỡng bức, đặt tiếng Pháp vào vị thế có ưu thế hơn cho tiếng Pháp.
Người Việt lại vay mượn những từ của tiếng Pháp, sao phỏng ngữ pháp của tiếng
Pháp. Tiếng Việt giai đoạn này vừa giữ được bản sắc của mình, vừa biến đổi nhanh
chóng, chuẩn bị cho sự phát triển của giai đoạn sau.
Từ năm 1954 đến nay, tiếng Việt được sử dụng trong mọi mặt của đời sống
xã hội. Nó có một vị thế xứng đáng, được Đảng và Nhà nước quan tâm, tạo điều
kiện phát triển cùng với ngôn ngữ của các dân tộc ít người.
Đặc điểm của tiếng Việt là:
- Ở tiếng Việt, dòng lời nói luôn được phân cắt thành các âm tiết, được tách

bạch rõ ràng. Do đó, tiếng Việt là tiếng phân tiết tính
- Các phương thức ngữ pháp của tiếng Việt là: trật tự từ, hư từ, ngữ điệu...
Về mặt chữ viết, cho đến nay, tiếng Việt đã trải qua một số hình thức chữ viết:
Chữ Hán, chữ Nôm và chữ Quốc ngữ. Riêng thời sơ sử, chữ viết ở thời kỳ này chưa
nhất quán.
Trước hết là chữ Hán. Đây là một thứ chữ ngoại sinh, nhưng một thời được
giai cấp thống trị sử dụng như một phương tiện chính thống.
Hình thức chữ viết thứ hai là chữ Nôm. Đây là chữ viết dduwwocj tạo ra từ ý
thức dân tộc. Tuy nhiên thời điểm sáng tạo ra và ai là người sáng tạo đến nay vẫn
chưa có sự thống nhất. Dừ sao, đây cũng là sự sáng tạo của người Việt. Chữ Nôm
đã dựa vào chữ Hán, từ là ghi âm bằng chữ Hán, mượn những tiếng Hán có âm và
đồng âm, đồng nghĩa âm na ná.... Chữ Nôm đã tồn tại và có nhiều đóng góp vào
ngôn ngữ nói riêng và văn hóa Việt nói chung.
Hình thức chữ viết thú ba đó là chữ Quốc ngữ. Ban đầu, chữ Quốc ngữ được
xây dựng dựa vào bộ chữ cái Latinh. Người Pháp xâm lược và cai trị Việt Nam đã
đưa chữ Quốc ngữ ra đời sống xã hội. Một số nhà nho ban đầu rất có ác cảm với
thứ chữ mà họ coi là ta đạo, nhưng lại chính các nhà nho yêu nước lại nhận ra ưu
thế của chữ Quốc ngữ nên đã cổ vũ cho việc sử dụng loại chữ này. Cách mạng
tháng Tam thành công, chữ Quốc ngữ đã có địa vị chính thức trong đời sống mọi
mặt của đất nước.
10


Trường Cao đẳng nghề Yên Bái
3.2. Tôn giáo
3.2.1. Nho giáo

Giáo trình môn: Văn hóa cộng đồng

Nho giáo (儒教), còn gọi là đạo Nho hay đạo Khổng là một hệ thống đạo đức,

triết lý và học thuyết chính trị do Đức Khổng Tử đề xướng và được các môn đồ của
ông phát triển để xây dựng một xã hội thịnh trị. Nho giáo rất có ảnh hưởng tại ở các
nước châu Á là Trung Quốc, Đài Loan, Nhật Bản, Triều Tiên, Hàn Quốc và Việt
Nam. Những người thực hành theo các tín điều của Nho giáo được gọi là các nhà
Nho hay Nho sĩ hay nho sinh.
Một số đặc trưng cơ bản của Nho giáo Việt Nam
* Một số đặc trưng cơ bản
Bản chất của một sự vật được bộc lộ ra phụ thuộc vào sự tiếp xúc của nó với
môi trường xung quanh. Cũng như vậy, đặc trưng của Nho giáo ở Việt Nam được
biểu hiện ra phụ thuộc vào các phương diện khảo sát khác nhau, mà từ mỗi một
phương diện đó lại có thể đi tới những nhận thức khác nhau. Ở đây, tôi lựa chọn
một số phương diện dễ thấy để tìm hiểu, đó là vai trò của Nho giáo đối với xã hội
Việt Nam, là chiều hướng và động lực vận động của Nho giáo Việt Nam và phong
cách tư duy do sự hoạt động đó đưa lại.
Thứ nhất, vai trò của Nho giáo đối với xã hội Việt Nam phong kiến, độc lập,
tự chủ.
Sau khi giành được độc lập dân tộc ở đầu thế kỷ X, Ngô Quyền đã xoá bỏ
chế độ quận huyện của nhà Hán và xây dựng nên một chính thể độc lập, tự chủ.
Nhưng, con người làm nên lịch sử Việt Nam lúc đó là dựa trên di sản của thời kỳ
Bắc thuộc để lại, gồm cơ cấu xã hội, con người, học thuyết, tín ngưỡng, trong đó có
Nho giáo.
Dù các triều đình Việt Nam đã xem xét và lựa chọn, kế thừa và cải tạo lý
luận của Nho giáo cho phù hợp với cuộc sống của mình và thải loại những gì không
phù hợp với mình, nhưng những nguyên lý cơ bản của nó thể hiện nên nội dung tư
tưởng của chế độ phong kiến phương Đông vẫn được bảo lưu và thực hiện. Các
nguyên lý như “mệnh trời”, “chính danh”, “tam cương, ngũ thường”, “trung hiếu lễ
nghĩa”, v.v. của Nho giáo Trung Quốc đã trở thành nền tảng tư tưởng cho các triều
đình Việt Nam tổ chức nên hệ thống cai trị, quy định nên các sinh hoạt chính trị,
kinh tế, tư tưởng, văn hoá, phong tục tập quán, v.v. mang sắc thái Việt Nam. Sau
một thời gian kế thừa và vận dụng Nho giáo, các triều đình phong kiến Việt Nam đã

cải biến mảnh đất này từ thân phận nô lệ và phụ thuộc vào đế quốc Hán trở thành
một xã hội phong kiến độc lập, có nhiều phương diện ngang hàng với nước Hán.
Sự kết hợp giữa giai cấp phong kiến thống trị của Việt Nam và Nho giáo
không những đã cải biến chế độ chính trị - xã hội còn nhiều yếu tố đơn sơ, chất
phác của thời kỳ Văn Lang - Âu Lạc, không những đã xóa bỏ những tàn tích nô lệ
và phụ thuộc của thời kỳ Bắc thuộc, biến Việt Nam thành một xã hội phong kiến
11


Trường Cao đẳng nghề Yên Bái
Giáo trình môn: Văn hóa cộng đồng
độc lập, mà còn góp phần thúc đẩy xã hội đó nhanh chóng đi đến chỗ tập quyền và
thống nhất. Song, loạn 12 sứ quân ở đầu thế kỷ X, hiện tượng nội bộ hai triều Đinh
và Tiền Lê luôn diễn ra cảnh giết chóc lẫn nhau để chiếm đoạt ngôi vua đã khiến
đất nước vừa mới độc lập lại có nguy cơ mất nước. Tình hình đó đòi hỏi phải có
một chính thể quân chủ tập trung, thống nhất thì mới khắc phục được. Nhà Lý đã
đáp ứng được yêu cầu này. Nho giáo với các lý thuyết như vua là do mệnh trời sắp
đặt, người làm vua phải có đức, vua ra vua, bề tôi ra bề tôi, bề tôi phải trung với
vua… đã giúp nhà Lý xác lập và củng cố chế độ phong kiến trung ương tập quyền,
đã tạo cho họ sức mạnh để ổn định được bên trong và đề kháng được bên ngoài.
Các triều đại Trần, Lê Sơ đã tiếp tục con đường thống nhất và tập quyền đó của
triều Lý, tiếp tục khai thác và sử dụng các yếu tố tập quyền và thống nhất của Nho
giáo để xây dựng triều đại. Như vậy, sự tác động của Nho giáo đã làm cho xu thế
vận động của xã hội từ phân tán đến tập trung quyền lực vào một triều đình ở Việt
Nam sớm trở thành hiện thực.
Nho giáo không những đã có công trong việc dựng nước Việt Nam về mặt
chế độ, mà còn cung cấp kiến thức cho các nhà Nho yêu nước đấu tranh cho độc
lập dân tộc, cho quyền tự chủ của quốc gia, cho sự ngang hàng với Trung Quốc
phong kiến. Đúng là Nho giáo không dạy người Việt Nam yêu nước như có người
đã quan niệm, nhưng nhiều mệnh đề, nhiều khái niệm của Nho giáo dùng trong hệ

thống thiết lập và củng cố chế độ phong kiến, khi được cấu trúc lại trên lập trường
của dân tộc và nhân dân, lập trường yêu nước Việt Nam, lại tỏ ra có sức mạnh để
chống trả kẻ thù dân tộc. “Thiên mệnh” (mệnh trời) của sách “Thượng thư”, “nhân”
của Khổng Tử, “nhân nghĩa” của Mạnh Tử, “đại trượng phu” của Mạnh Tử, “thời”
và “tuỳ thời” của “Kinh Dịch”, “hoà” của “Tả truyện”, v.v. đã đi vào tác phẩm của
Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Nguyễn Trãi,... và trở thành công cụ tinh thần
đắc lực, chiến đấu cho độc lập, tự do. Xét về mặt này, Nho giáo cũng có tác dụng
tích cực đối với các công cuộc cứu nước của dân tộc Việt Nam.
Đi liền với tác dụng về mặt chính trị là tác dụng về mặt văn hoá của Nho
giáo. Những yếu tố về văn hoá trong “Ngũ kinh” và “Tứ thư” đã là cơ sở tư tưởng
và học vấn để các triều đình Việt Nam lựa chọn người tài qua các kỳ thi Nho giáo.
Chúng được dùng làm tài liệu để giáo dục con người, nhằm không những làm cho
họ trở thành người có học vấn, tức là Nho sĩ, mà còn bồi dưỡng nên những con
người phi thường, đó là những đấng trượng phu, những người quân tử. Một khi
những danh hiệu đó đạt được thì quả trở thành nhân, bởi chính họ tác động trở lại,
làm cho xã hội đó được vững vàng hơn, bền chặt hơn.
“Lễ”, một tư tưởng quan trọng của Nho giáo, có vai trò đặc biệt đối với xã
hội. Khổng Tử nói: “Vi quốc dĩ lễ” (Làm việc nước thì dựa vào lễ - Luận ngữ).
Tuân Tử nói: “Lễ giả, cường quốc chi bản dã” (Lễ là gốc làm cho nước mạnh Tuân Tử). Nội dung của khái niệm lễ này rất rộng, nhưng xét về mặt văn hoá, nó đã
có những ảnh hưởng không nhỏ tới phong tục tập quán Việt Nam. Vào những năm
đầu công nguyên, tục lệ của Việt Nam còn khác nhiều so với tục lệ Hán. “Truyện
12


Trường Cao đẳng nghề Yên Bái
Giáo trình môn: Văn hóa cộng đồng
Mã Viện” trong “Hậu Hán thư” ghi rằng, Mã Viện tâu với Hán đế: “Luật Việt khác
với luật Hán, cần phải bác bỏ hơn 10 việc”(1) (luật đây có nghĩa là tục lệ, phong tục
- N.T.T.). Nhưng, bởi tư tưởng của kẻ thống trị là tư tưởng thống trị xã hội, nên
chẳng bao lâu sau, nhiều tập tục cổ của người Việt bị mất đi và thay thế vào đó là

tục lệ của Hán có trong Nho giáo.
Nhìn lại lịch sử, chúng ta thấy rõ rằng, nhiều phong tục tập quán của Việt
Nam thời Trung đại, từ tế lễ, cưới xin, ma chay, đến hội hè, tuần tiết,… đều mang
dấu ấn của những điều đã ghi trong sách “Lễ ký” của Nho giáo. Có thể nói, tục lệ
Hán truyền vào đã làm phong phú thêm cho tục lệ Việt. Tất nhiên, những tục lệ gắn
với lối sống của các tầng lớp cơ bản trong xã hội Việt, gắn với nghề trồng lúa nước
bản địa thì không thay đổi.
Tuy ra đời ở Trung Quốc, nhưng Nho giáo đã tồn tại phổ biến ở Việt Nam, vì
chế độ xã hội Việt Nam thời Trung đại giống như chế độ xã hội Trung Quốc, đều là
xã hội phong kiến. Vốn là công cụ thống trị của giai cấp phong kiến ngoài nước và
trong nước đối với dân tộc Việt Nam, nhưng Nho giáo cũng có sự phục vụ nhất
định cho sự tiến bộ của đất nước Việt Nam. Thể hiện ở chỗ, giai cấp phong kiến
Việt Nam lúc còn sứ mệnh lịch sử đã biết vận dụng và cải tạo những yếu tố tích cực
của Nho giáo, dùng chúng vào việc làm lợi cho đất nước mình, cho nhân dân mình.
Quá trình đó diễn ra dần dần, từng bước một, đến một độ nhất định, đã đưa Việt
Nam từ chỗ còn tương đối lạc hậu, trở thành một nước thi thư, một xã hội có văn
hiến, ngang hàng với các nước phương Đông khác.
Song, vai trò tích cực của Nho giáo ở Việt Nam là có giới hạn, chỉ kéo dài
khoảng 5 thế kỷ. Nếu cho một đồ thị về sự phát triển của Nho giáo Việt Nam thì đó
là một đường cong chúc xuống với điểm bắt đầu là triều Lý và đi tới đỉnh cao là
thời Lê Thánh Tông của triều Lê, sau đó là thời kỳ Nho giáo rơi vào khủng hoảng
cho đến tận cuối triều Nguyễn. Khi Lê Thánh Tông tự hào rằng, quan lại triều đình
đều từ nhà Nho mà ra và rằng, triều đại nhà Lê sẽ được dài lâu như triều đại nhà
Châu bên Trung Quốc: “Hưởng niềm vui thịnh trị 800 năm như nhà Châu” (Bát
bách Cơ Châu lạc trị bình)(2), thì đó cũng là lúc báo hiệu sự đi xuống của triều Lê
và của cả Nho giáo Việt Nam. Ông mất không bao lâu thì Mạc Đăng Dung cướp
ngôi nhà Lê, khiến cho tuổi thọ của triều Lê thuộc vào loại ngắn ở Việt Nam, thực
chất chỉ có 100 năm (1428 - 1527). Nguyên tắc trung với vua của Nho giáo không
còn hiệu lực. Hiện tượng đó không những với triều Lê, mà còn đối với các triều đại
phong kiến Việt Nam sau đó. Suốt 3 thế kỷ - XVI, XVII, XVIII, nhiều nhà Nho có

tâm huyết với đất nước đã cố tìm trong Nho giáo một ánh sáng của sự trị bình xã
hội, nhưng đều bất lực.
Đầu thế kỷ XIX, Nguyễn Ánh diệt được nhà Tây Sơn, thống nhất đất nước,
lên làm vua, lập ra triều Nguyễn. Gia Long (miếu hiệu của Nguyễn Ánh) và các vị
vua Nguyễn kế tiếp đều ra sức đề cao Nho giáo, phục hồi địa vị độc tôn của Nho
giáo. Nhưng, Nho giáo chính thống triều Nguyễn do đi vào chỗ khắc nghiệt, giáo
điều nên đã ngăn chặn sự nảy nở của các mầm mống tư tưởng thức thời và yêu
13


Trường Cao đẳng nghề Yên Bái
Giáo trình môn: Văn hóa cộng đồng
nước, đã từ chối khuynh hướng cải cách xã hội, khiến đất nước đánh mất cơ hội
mới để tiến kịp với thời đại.
Tất nhiên, Nho giáo là một học thuyết, một tư tưởng và do đó, sự vận dụng
nó phụ thuộc vào người sử dụng. Nhưng, khi người sử dụng quá tin vào hiệu lực
của nó mà quên mất rằng hoàn cảnh đã thay đổi thì học thuyết cũng phải thay đổi
theo, thì chính học thuyết đó tác động trở lại làm cho con người mê muội, làm theo
những điều đã lỗi thời. Bởi vậy, có thể nói, cả triều Nguyễn và Nho giáo đều phải
chịu trách nhiệm trước lịch sử dân tộc cuối thế kỷ XIX.
Thứ hai, chiều hướng và động lực phát triển của Nho giáo Việt Nam.
Nho giáo Việt Nam càng về sau càng có nội dung phong phú, càng có sự hoạt
động nhiều mặt và càng đi vào nền nếp. Điều đó hoàn toàn không phải là ngẫu
nhiên, cũng không phải là kết quả của một giai đoạn, mà là kết quả của cả một quá
trình và do các động lực bên trong và bên ngoài thúc đẩy.
Yêu cầu của hoạt động thực tiễn chính trị - xã hội trong nước là một động lực
mạnh mẽ thúc đẩy sự phát triển của Nho giáo Việt Nam. Yêu cầu này xuất phát từ
xu thế đi lên tập quyền và thống nhất của chế độ phong kiến Việt Nam. Trong ba
học thuyết của phương Đông là Nho, Phật, Lão, chỉ có Nho giáo với nội dung và
tính chất của nó là có thể đáp ứng được xu thế này. Các công việc của triều đình,

như quản lý thần dân, sắp xếp hệ thống quan lại, tổ chức thi cử để chọn người tài,
ấn định nội dung để giáo dục con người, xem xét việc tế lễ, cầu đảo thần thánh, v.v.
đều phải dựa vào Nho giáo. Dù Nho giáo gốc đã có sẵn những điều trên, nhưng đi
vào sự vận dụng vẫn có điều cần phải thêm bớt, vẫn có sự phải bổ sung, vẫn có chỗ
phải thuyết minh, nghĩa là vẫn còn có đất cho sự phát huy. Các triều đình phong
kiến Việt Nam và các nhà tư tưởng của nó đã làm được điều đó. Như việc giữ nước
và cứu nước, cho dù các triều đình phong kiến Việt Nam có sự ý thức rõ ràng về
tính độc lập, tự chủ của mình, nhưng vẫn phải có sự kết hợp với Nho giáo. Nho
giáo cho họ một số yếu tố nào đó để làm nền, cho họ một số phương pháp nào đó
để làm phương hướng của tư duy, tạo thuận lợi cho tư tưởng yêu nước xuất hiện.
Bằng các hoạt động như thế, tư tưởng Nho giáo Việt Nam từng bước trưởng thành
lên.
Hoạt động đối ngoại là cơ hội để người trong nước hiểu biết thêm về sự phát
triển của Nho giáo Trung Quốc và từ đó, tạo nên cú hích bên ngoài, làm nên sự tăng
trưởng của Nho giáo bên trong. Bang giao giữa Việt Nam và Trung Quốc là bang
giao thần thuộc, Việt Nam là thuộc quốc, Trung Quốc là thiên triều. Cứ hàng năm
hoặc vài năm, tuỳ theo tình hình mỗi lúc mà Việt Nam phải có đoàn tiến cống
Trung Quốc. Và cũng với thời gian tương tự, Trung Quốc có sứ giả sang Việt Nam
để thừa nhận và phong vương cho vua mới lên ngôi ở Việt Nam, hoặc yêu sách một
số việc cần kíp khác. Sự đi lại trên cũng là dịp để hai bên trao đổi về văn hoá, tư
tưởng, là dịp để Việt Nam hiểu thêm về Nho giáo Trung Quốc và vua Trung Quốc
ban phát tài liệu kinh điển Nho giáo cho Việt Nam. Nho giáo Hán, Đường, Tống,
Nguyên, Minh, Thanh qua con đường chính thức đó mà có mặt ở Việt Nam, mà gây
14


Trường Cao đẳng nghề Yên Bái
Giáo trình môn: Văn hóa cộng đồng
nên sự học tập không ngừng của Việt Nam đối với Nho giáo Trung Quốc. Kết quả
là, Nho giáo Việt Nam đã có sự tăng trưởng nhất định về số lượng kiến thức, về

những điều mới mẻ trong quá trình phát triển của Nho giáo Trung Quốc. Nhưng,
đây mới chỉ là sự tăng trưởng về số lượng, chứ chưa gây được sự biến đổi về chất
lượng của Nho giáo Việt Nam, do điều kiện và thời gian chưa đủ để thực hiện sự
chuyển hoá.
Sự tiếp xúc của nhân dân hai nước ở vùng biên giới Việt - Trung là điều kiện
để người trong nước biết được thông tin cập nhật về hoạt động Nho giáo ở Trung
Quốc. Điều đó đã có ảnh hưởng ít nhiều đến chiều hướng vận động của Nho giáo
Việt Nam. Song, ảnh hưởng đó là hạn chế, vì sự chậm chạp của sự truyền đạt thông
tin thời phong kiến, vì sự cấm đoán lan truyền tin tức khác với cái hiện có của triều
đình. Tuy vậy, những thông tin cập nhật từ bên ngoài đã gây nên sự thích thú tìm
hiểu của một số Nho sĩ Việt Nam. Bên cạnh đó, nó cũng tạo ra được tiền đề để tiếp
nhận những thành tựu trong các bước phát triển của Nho giáo Trung Quốc vào Việt
Nam khi có điều kiện, giúp cho sự tiếp nhận đó được dễ dàng.
Dù vậy, tất cả các động lực và hoàn cảnh trên vẫn không đủ điều kiện để tạo
nên những bước nhảy của Nho giáo Việt Nam. Việc vận dụng Nho giáo để giải
quyết các công việc đối nội và đối ngoại của các triều đình Việt Nam chỉ là việc
giải quyết các tình thế xã hội trên cơ sở của Nho giáo vốn có; việc chấp nhận các
trào lưu Nho giáo mới của Trung Quốc đưa vào chỉ là sự truyền bá, chứ chưa phải
là việc đổi mới của Nho giáo Việt Nam. Để đổi mới chất lượng Nho giáo Việt Nam
thì phải cần đến sự vận động tự thân của Nho giáo Việt Nam, cần có sự phản tỉnh
của Nho sĩ trong nước đối với Nho giáo của mình, xem cái gì còn thích hợp cần
duy trì, cái gì đã lỗi thời cần vứt bỏ. Nhưng, việc ấy chỉ có Hồ Quý Ly là thực hiện
được. Các Nho sĩ khác đều không dám!
Cải cách của Hồ Quý Ly ở cuối thế kỷ XIV và đầu thế kỷ XV, bao gồm các
cải cách chính trị, kinh tế và văn hoá tư tưởng, là hiện tượng đột xuất của lịch sử
Việt Nam. Xét về cải cách Nho phong, bản thân việc làm này mang tính chất cách
mạng. Ở đó, ông chủ trương Việt ngữ hoá Nho giáo, dịch các sách kinh điển của
nhà Nho ra chữ Nôm, như dịch thiên “Vô dật” của Kinh Thư, dịch Kinh Thi để cho
nhiều người Việt có thể hiểu được; ông phê phán lối học kinh viện, xa rời thực tế
của Đường Nho, Tống Nho. Chủ trương đó nếu được thực hiện đến cùng thì chắc

sẽ tạo ra nhiều điểm mới cho Nho giáo Việt Nam. Song, quân Minh xâm lược Việt
Nam đã cắt ngang việc làm đó của ông, chặn đứng sự cải cách của ông. Suốt năm
trăm năm sau Hồ Quý Ly, không ai nói tới sự cải cách nữa. Nho giáo chính thống ở
đất nước này đã không thể thoát ra khỏi dinh lũy của chủ nghĩa bảo thủ.
Trên một phương diện khác, Nho giáo Việt Nam thiếu sự xuất hiện các
trường phái học thuật. Chính sự lệ thuộc vào phương Bắc của triều đình và sự an
phận của các sĩ phu đã đưa đến tình trạng đó. Vì thiếu các học phái khác nhau, nên
Nho giáo Việt Nam vận động trong sự đơn điệu và một chiều, chứ không được
phong phú và đa dạng như Nho giáo Trung Quốc. Ở Trung Quốc, chỉ riêng giai
15


Trường Cao đẳng nghề Yên Bái
Giáo trình môn: Văn hóa cộng đồng
đoạn Tống Nho đã có bốn học phái khác nhau: Liêm học của Châu Đôn Di, Quan
học của Trương Tải, Lạc học của Trình Hạo, Trình Di và Mân học của Chu Hy.
Cùng là Nho, song giữa họ có sự lý giải khác nhau, quan niệm khác nhau, khiến
người trong cuộc có điều kiện rộng rãi để lựa chọn, để phát huy.
Để tồn tại, mỗi sự vật trong cùng một lúc diễn ra nhiều loại vận động và ở đó,
vận động bên trong mới là cái có ý nghĩa quyết định, là điều kiện để không ngừng
thải loại và đổi mới bản thân, để tiến lên không ngừng. Nho giáo Việt Nam thiếu sự
vận động bên trong, thiếu sự phản tỉnh bản thân, nên trì trệ là điều khó tránh khỏi.
Thứ ba, phong cách tư duy của Nho giáo Việt Nam.
Xét sự nhận thức và hoạt động tư tưởng của các nhà Nho Việt Nam, chúng ta
thấy không có sự nhầm lẫn với nhà Nho của các quốc gia khác, bởi ở họ đã hình
thành cốt cách riêng, phong cách riêng. Đại thể có những đặc điểm sau:
- Hướng tới cái thực tế, công lợi, xa lánh cái siêu hình, cao xa.
Đặc điểm này thể hiện trước tiên là ở mục đích học tập. Đa số nhà Nho Việt
Nam chỉ đặt cho mình mục đích học là để đi thi, thi đỗ thì ra làm quan, làm quan để
được giàu sang, sung sướng. Hoàn thành nhiệm vụ đó thì xem như việc học tập đã

kết thúc. Ít người có chí cao xa, như học để tham gia vào tranh luận những vấn đề
nổi lên của khu vực, học để làm việc cho đời, hoặc để làm cho văn hoá nước nhà
ngày một tăng tiến. Ngoài học tập, thái độ của Nho sĩ đối với học thuật cũng là điều
đáng chú ý. Khách quan mà nói, có một số Nho sĩ quan tâm đến học thuật, nhưng
thường là quan tâm đến vấn đề chính trị và đạo đức, ít bàn đến vấn đề siêu hình,
một lĩnh vực cao của tư duy, ở đó ẩn chứa những khả năng nhận thức sâu sắc và
hành động sáng tạo. Thậm chí, họ còn biến cái siêu hình thành cái thực tế, thực
dụng. Thí dụ, về khái niệm “thiên” trong mối quan hệ thiên - địa - nhân, họ không
xét khái niệm “thiên” với tư cách là một thực thể tự nhiên có bản chất như thế nào,
hoặc không xét đó là một thực thể tinh thần, thực thể siêu nhiên có vai trò đối với
vũ trụ như thế nào, mà chỉ xét ở góc độ làm lợi gì cho con người, như cho “thiên”
vận hành có thời, con người phải biết “thiên thời” để cấy trồng cho kết quả, hay xét
ở góc độ tôn giáo, tín ngưỡng, xem con người phải đối với ông trời như thế nào để
có lợi cho mình, từ đó chủ trương phải “kính thiên”, “thuận thiên”, “phụng thiên”,
“thừa thiên”, v.v.. Một thí dụ khác, Kinh Dịch nêu lên bản nguyên của thế giới là:
“Dịch hữu thái cực, thị sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh tứ tượng, tứ tượng sinh bát
quái, bát quái định cát hung, cát hung sinh đại nghiệp”, với Nho sĩ Việt Nam, sự
chú ý không phải là xem “thái cực”, “lưỡng nghi”, “tứ tượng” là gì, mà là thích thú
ở hai mệnh đề cuối “bát quái định cát hung, cát hung sinh đại nghiệp” (bát quát xác
định tốt xấu, tốt xấu sinh ra nghiệp lớn). Sự chú ý của họ là ở cái gì có thể đem lại
lợi ích trực tiếp.
Vì học tập và tư duy như thế nên họ ít có cống hiến to lớn. Hàng ngàn, hàng
vạn cử nhân và tiến sĩ đậu đạt, nhưng không mấy người làm được cho dân tộc và
đất nước những công trình đáng ghi nhớ, những sự nghiệp vẻ vang. Tất nhiên, Nho
16


Trường Cao đẳng nghề Yên Bái
Giáo trình môn: Văn hóa cộng đồng
giáo Việt Nam cũng có các nhà văn hoá lớn, như Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm,

Lê Quý Đôn, Nguyễn Du, nhưng đó là thuộc loại hiếm.
- Thói quen thích đơn giản và ngắn gọn.
Một số nhà Nho uyên thâm của Việt Nam khi đứng trước kho tàng đồ sộ và
uyên áo của Nho giáo Trung Quốc thường có ý thức từ trong kho tàng đó tóm lược
lấy những điều cốt yếu, biên soạn lại thành những tài liệu đơn giản và ngắn gọn để
dạy học trò cho dễ. Chẳng hạn, ở Trung Quốc có những bộ sách biên soạn đầy đủ
về một loại vấn đề nào đó, như “Tứ thư tập chú” của Chu Hy, “Tứ thư đại toàn” của
Tống, Nguyên, Minh, Thanh Nho, sang Việt Nam chỉ còn là “Thuyết ước” (tóm
lược học thuyết) và “Ước giải” (giải thích tóm tắt); hoặc như cuốn “Tính lý đại
toàn” của Hồ Quảng thời Minh, sang Việt Nam chỉ còn “Tiết yếu”. Việc này không
phải chỉ xảy ra ở một triều đại, mà còn là hiện tượng chung của nhiều triều đại
phong kiến Việt Nam. Nếu ở triều Trần có “Tứ thư thuyết ước” của Chu Văn An,
thì ở triều Lê - Trịnh có “Tứ thư ước giải” của Lê Quý Đôn, triều Nguyễn có “Tứ
thư trích giảng” của Nguyễn Văn Siêu; nếu ở triều Lê - Trịnh có cuốn “Tính lý tiết
yếu” của Bùi Huy Bích, thì ở triều Nguyễn cuốn đó vẫn còn được xem là cuốn sách
giáo khoa mẫu mực. Việc này cũng không chỉ diễn ra trên cả phương diện học tập,
thi cử, mà còn diễn ra trên cả phương diện hoạt động thực tiễn, trước hết là hoạt
động chính trị - xã hội. Khi quân Tống xâm lược Việt Nam ở cuối thế kỷ XI, quyết
tâm chiến đấu của quân dân nhà Lý rất cao, đấy là nguồn gốc của thắng lợi. Song, ý
chí quyết tâm đó chỉ được thể hiện trong mấy câu của bài thơ Nam quốc sơn hà
Nam đế cư được xem là của Lý Thường Kiệt. Mấy câu “Nam quốc sơn hà Nam đế
cư. Tiệt nhiên định phận tại thiên thư. Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm. Nhữ đẳng
hành khan thủ bại hư” (Núi sông nước Nam thì vua nước Nam ngự trị. Số phận rõ
ràng đã được ghi ở sách trời. Vì cớ gì bọn giặc đến xâm phạm. Chúng bay xem đấy
rồi sẽ chuốc lấy thất bại), về tinh thần quyết chiến, quyết thắng thì không cần phải
bàn cãi, nhưng về phần luận cứ, chỉ dùng bảy chữ “Tiệt nhiên định phận tại thiên
thư” thì vẫn còn một cái gì đó chưa đủ. Đơn giản trong suy nghĩ và việc làm lâu
dần đã trở thành thói quen của các nhà Nho Việt Nam.
Đơn giản và ngắn gọn có ưu điểm là dễ nhớ, dễ truyền đạt và dễ tiếp thụ.
Nhưng, trong lĩnh vực học thuật, thói quen đơn giản và ngắn gọn lại trở thành điểm

hạn chế. Vì đã là đơn giản và ngắn gọn thì phải bỏ bớt rất nhiều điều của học thuyết,
làm mất rất nhiều điểm có khả năng gợi mở của học thuyết, giản đơn hoá nội dung
phong phú và súc tích của học thuyết. Đấy là chưa nói đến việc tóm lược và tiết yếu
có khi bỏ mất nội dung cốt yếu mà chỉ khai thác nội dung thứ yếu. Người truyền
đạt hài lòng với đơn giản và ngắn gọn, người được truyền đạt cũng hài lòng với
cách làm đó thì mọi lối tư duy, mọi đường sáng tạo đều bị thu hẹp lại.
- Lối suy nghĩ chiết trung và dung hợp.
Nho Việt Nam không phải là thuần Nho, Nho Việt Nam đã pha trộn với tư
tưởng của Phật giáo, Đạo giáo và các tín ngưỡng dân gian khác. Điều này có thể
thấy được qua các thành tố cấu tạo nên tư tưởng của các nhà Nho dân tộc trong lịch
17


Trường Cao đẳng nghề Yên Bái
Giáo trình môn: Văn hóa cộng đồng
sử. Ở đó, chúng ta thấy vừa có yếu tố của Nho, vừa có yếu tố của Phật, vừa có yếu
tố của Lão. Điều này còn thấy trong các quan niệm của nhà Nho. Trịnh Huệ, trạng
nguyên Nho học ở thời Lê Cảnh Hưng, đã cho rằng, “Chỉ ư chí thiện” (dừng lại ở
điều chí thiện) của cuốn “Đại học” cũng là điều thiện của sách Phật, “trung hiếu”
của Nho cũng giống như “Tứ ân” của Phật (tác phẩm “Tam giáo nhất nguyên
thuyết” của Trịnh Huệ). Ngô Thì Sĩ cho “từ bi” của Phật, “thanh tịnh” của Lão cũng
như “nhân nghĩa trung chính” của Nho (bài văn bia ghi việc sửa lại đền Tam giáo
của Ngô Thì Sĩ). Phan Huy Ích cho “không hư tịch diệt” của Phật không khác gì
với “thành ý” của Nho (bài tựa quyển “Trúc Lâm đại chân viên giác thanh” của
Phan Huy Ích). Ở Trung Quốc và ở các nước Đông Á khác cũng có hiện tượng
“tam giáo đồng nguyên”, “tam giáo nhất thể”, nhưng không mang tính chất quán
triệt trong lịch sử như ở Việt Nam. Ở Trung Quốc có lúc còn bài Phật, như việc làm
của Thái Vũ Đế thời Bắc Nguỵ, Vũ Đế thời Bắc Châu, Vũ Tông thời Đường, v.v..
Nhưng, “Pháp nạn” này ở Việt Nam không có.
Đi đến chủ trương “tam giáo đồng nguyên” là một hiện tượng lạ, đã gây ra

một số giải thích khác nhau. Có người cho đó là do Việt Nam có truyền thống
“khoan dung tôn giáo”, có người cho đó là một việc làm để có sự “đối trọng” với
Nho giáo. Nhưng thực ra, đó chỉ là do sự hạn chế trong thế giới quan của Nho. Nho
chỉ nói tới chính trị, đạo đức, mà không nói tới các vấn đề sống chết, hoạ phúc,
không nói tới thế giới tâm linh, không nói tới sự thanh thản của con người trong
cuộc sống nghẹt thở của xã hội phong kiến và do đó, Nho cần được Phật giáo và
Lão giáo bổ sung
Nêu lên “tam giáo đồng nguyên” và chấp nhận chủ trương “tam giáo đồng
nguyên”, về thực chất, là thái độ chiết trung, dung hợp. Thái độ và cách làm này
tuy làm cho thế giới quan của nhà Nho được hoàn chỉnh, có được cơ sở để ứng phó
với mọi tình hình của cuộc sống, nhưng mặt khác, nó cũng tạo nên một thế giới
quan khép kín, khó tiếp cận với các trào lưu tư tưởng tiến bộ khác. Lịch sử cho thấy,
ở thời cận đại, rất nhiều nhà Nho Việt Nam lúng túng và phản đối trước xu thế lan
truyền của tư tưởng dân chủ và khoa học cận đại phương Tây. Trong nhiều nguyên
nhân, theo chúng tôi, có nguyên nhân của tư tưởng “tam giáo đồng nguyên”.
- Tập quán sùng bái thánh hiền, giáo điều và máy móc.
Trong con mắt của các nhà Nho Việt Nam, thánh hiền đạo Nho là các bậc tài
ba, sáng suốt, đủ để làm mẫu mực cho muôn đời. Nhận thức đó khiến văn chương
và lập luận của họ thường mào đầu bằng các chữ: “Tử viết” (Đức Khổng Tử nói),
“Thi viết” (Kinh Thi nói), “Thư viết” (Kinh Thư nói), v.v.. Họ không biết đến hiện
tượng Nho giáo đã từng bị Đạo gia, Mặc gia và nhất là các nhà Pháp gia phê phán,
càng không thể biết được rằng, lý thuyết của Nho chẳng qua là một loại sản phẩm
tinh thần của xã hội cổ đại, là giải pháp đối với xã hội đó, bản thân nó có những
điều không còn phù hợp với các xã hội sau. Vì vậy, các nhà Nho Việt Nam thường
lấy những lời nói của thánh hiền Nho, lấy các lời lẽ trong những tác phẩm của kinh
điển Nho gia làm lẽ phải cho muôn đời. Nặng nhất về vấn đề này là các sử gia
18


Trường Cao đẳng nghề Yên Bái

Giáo trình môn: Văn hóa cộng đồng
phong kiến. Với những người này, các triều đình, các sự kiện chính trị, các nhân vật
kiệt xuất, các biến thiên xã hội,… nếu diễn ra theo đúng lý thuyết của Nho thì tốt
đẹp và đáng ca ngợi, còn ngược lại thì đáng lên án, đáng phê phán. Cách thức tư
duy và nhìn nhận trên tác động vào xã hội và con người, lâu ngày thành thói quen
giáo điều, máy móc và xơ cứng trước các sự biến của cuộc sống.
Dựa vào Nho giáo, mục đích của các triều đình phong kiến Việt Nam và các
nhà tư tưởng của họ là nhằm ổn định nội bộ triều chính, xác lập trật tự xã hội, cố
kết quân dân, làm cho đất nước cường thịnh,… Nhưng, trong thực tế, các triều đại
luôn đổi thay, nhân tâm luôn ly tán, xã hội luôn rối loạn. Đó là điều không hay,
nhưng đối với đầu óc tỉnh táo thì đó có thể là những cơ hội để rút ra những nhận
thức mới, kết luận mới, bổ sung cho sự phát triển của học thuyết. Song, điều ấy đã
không xảy ra, vì người ta quá lệ thuộc vào tín điều đã có.
Tồn tại hàng nghìn năm trên lãnh thổ Việt Nam, Nho giáo đã tác động sâu
sắc đến xã hội và con người Việt Nam. Nó đã trở thành công cụ tinh thần của giai
cấp thống trị dùng để xây dựng chế độ phong kiến và thúc đẩy sự phát triển của chế
độ đó. Nó đã được giai cấp phong kiến Việt Nam lúc đang lên cải tạo và vận dụng
thành công vào việc xử lý một số công việc nội trị bên trong và kháng chiến chống
sự xâm lược bên ngoài. Nhưng, sự phát triển của Nho giáo Việt Nam là có hạn. Nó
chỉ đạt đến mức độ tầm tầm, vừa phải, chưa tạo được lý luận riêng, chưa xuất hiện
các học phái khác nhau. Phương pháp tư duy của nó thiên về bảo thủ, giáo điều.
Nhiều nhà nghiên cứu cận hiện đại Việt Nam đã phải bất bình và phê phán điều đó.
Nhưng, đó là kết quả của hàng loạt nguyên nhân chi phối.
* Nguyên nhân của tình hình
Tạo nên tình trạng trên là do nhiều nguyên nhân. Chủ yếu là do một số
nguyên nhân sau:
Một là, tự truyền bá và phát triển Nho giáo ở Việt Nam đã diễn ra trong điều
kiện không bình thường.
Nho giáo du nhập vào Việt Nam lúc ban đầu là do người Hán truyền vào.
Nho giáo đó phiến diện. Nội dung nào có lợi cho sự thống trị và thực hiện sự đồng

hoá mới được chú trọng.
Vào thời kỳ đầu của thuộc Hán, sứ mệnh truyền bá Nho giáo được giao cho
các quan cai trị là thứ sử, thái thú. Ở thế kỷ I, thái thú quận Giao chỉ là Tích Quang
“đem lễ nghĩa dạy dân” và thái thú quận Cửu Chân là Nhâm Diên dạy dân “cấy
trồng và cưới xin(3). Sự truyền bá này là một phần trong chức năng cai trị của họ.
Cách thức truyền bá ở đây là khẩu truyền và cầm tay chỉ việc, chưa có điều kiện để
giảng lý thuyết. Mục đích là để chuyển đổi phong tục, tập quán cho dễ bề cai trị.
Cuối thế kỷ II, đầu thế kỷ III, Sĩ Nhiếp là thái thú quận Giao Chỉ. Được
mệnh danh là “Nam Giao học tổ” (ông tổ việc học ở nước Nam), ông đã lập trường
học ở Giao Chỉ. Trường sở tuy ở Việt Nam nhưng nội dung học tập lại là những
điều cần cho người Hán vì loạn lạc ở Trung Quốc phải di cư sang Việt Nam và
19


Trường Cao đẳng nghề Yên Bái
Giáo trình môn: Văn hóa cộng đồng
nương nhờ Sĩ Nhiếp. Trong số này có người là Viên Huy, khi về Trung Quốc đã viết
thư cho bạn ca ngợi ông(4). Vấn đề Sĩ Nhiếp quan tâm là trị loạn ở Trung Quốc, là
những bài học cần rút ra ở các sách “Tả thị Xuân Thu” và “Kinh Thư” để có thể
vận dụng vào thời cuộc đương thời. Song, tuyệt đại đa số người Việt lúc bấy giờ
chưa đủ điều kiện để tiếp thu các tri thức trên và cũng chưa có nhu cầu phải trang bị
các kiến thức trên
Thời thuộc Đường, trình độ Hán học và Nho học ở người Việt đã tương đối
khá. Một số người đã đủ điều kiện học cao và thi cử ở trình độ cao. Thậm chí, trước
đó có người Việt đã lợi dụng kiến thức Nho học để chống lại sự cai trị của nhà
Lương ở Trung Quốc và thiết lập nên bộ máy cai trị của người Việt, như nhà Nho
Tinh Thiều đã tham gia vào cuộc khởi nghĩa của Lý Bí ở thế kỷ VI - cuộc khởi
nghĩa đã lập ra nhà nước Vạn Xuân của Việt Nam. Điều này làm cho nhà Đường
phải cảnh giác, đi đến hạn chế số người Việt Nam học tập và thi cử Nho học ở bậc
cao. Sử sách ghi chép rằng, đối với An Nam và một số địa phương khác ở nội địa

Trung Quốc về kinh đô thi, thì “Tiến sĩ không được quá 7 người, minh kinh không
được quá 10 người”(5). Do tình hình trên mà Nho giáo ở Việt Nam lúc này vẫn bị
các triều đại Trung Quốc khống chế.
Nhìn chung, thời kỳ Bắc thuộc, Nho giáo theo chân người Hán vào và trụ lại
được hơn 1000 năm. Nho giáo đã hỗ trợ cho sự thống trị của nhà Hán. Song, Nho
giáo cũng đã giúp cho một số người Việt giác ngộ về quyền độc lập, tự chủ, có
được những kiến thức để chống lại sự thống trị của nhà Hán và xây dựng nên triều
đại riêng. Do hai mặt trên của Nho giáo nên lúc này, sự phát triển của nó ở Việt
Nam chỉ đạt đến một chừng mực nhất định. Hiện tượng nào quá tầm kiểm soát thì
triều đình nhà Hán ngăn lại
Đầu thế kỷ X, Việt Nam giành được độc lập, lý thuyết chính trị - xã hội của
Nho giáo trở nên cần thiết cho chính quyền mới. Nhưng, lúc này, Việt Nam rơi vào
khủng hoảng thiếu Nho sĩ, vì cuối đời Đường ở Trung Quốc lâm vào cảnh loạn lạc,
còn ở Việt Nam do xuất hiện các cuộc vận động khởi nghĩa chống Hán, nên việc
học Nho bị ngừng trệ. Nhà sư phải thay thế nhà Nho đảm đương các nhiệm vụ làm
tham mưu chính trị cho các triều đình. Có hiện tượng này còn là do truyền thống
“tam giáo đồng nguyên” của phương Đông. Hơn nữa, nhà sư cũng có kiến thức về
Nho và Lão. Nhưng, do nhà sư vận dụng Nho và duy trì sự tồn tại của Nho nên Nho
giáo Việt Nam lúc này tiến triển chậm chạp. Năm 938 nước Việt đã có độc lập dân
tộc rồi mà mãi hơn 100 năm sau, vào năm 1070, nhà Lý mới cho sửa sang và mở
rộng văn miếu Thăng Long, đến năm 1075 mới mở kỳ thi Nho giáo đầu tiên. Cũng
do lực lượng duy trì sự tồn tại của Nho giáo là nhà sư, nên Nho giáo đó chỉ đạt đến
một độ phát triển nhất định.
Nhà Trần thay thế nhà Lý, cứ 7 năm tổ chức một lần thi. Việc học tập và thi
cử Nho giáo trở nên có nền nếp hơn. Nhưng, trong dân chúng vẫn chưa có sự ham
thích và hướng về Nho. Đến giữa thế kỷ XIV, nhà Nho Trương Hán Siêu đã phải
than thở về cảnh người đời lạnh nhạt với Nho: “Than ôi! Các bậc thánh hiền ngày
20



Trường Cao đẳng nghề Yên Bái
Giáo trình môn: Văn hóa cộng đồng
càng xa cách, chính đạo ngày càng lu mờ; những kẻ làm thầy, làm tướng đã không
có bậc Chu, Thiệu để dẫn đầu việc giáo hoá, các xóm thôn châu huyện lại không có
trường để dạy dỗ nghĩa hiếu thảo, hoà thân, như thế thì người ta tránh sao khỏi
hoang mang, ngoảnh nhìn rồi bỏ đi theo đường khác”(6). Lê Quát cũng có tâm
trạng tương tự: “Ta cũng thường dạo chơi nơi sông núi, dấu chân đã để lại trong
hầu nửa thiên hạ, thế mà chưa từng tìm thấy một trường học hay một văn miếu nào.
Chính vì vậy mà ta rất lấy làm hổ thẹn khi so sánh với tín đồ nhà Phật”(7). Sự khó
hiểu của hai nhà Nho trên hoàn toàn có thể giải thích được bằng thực tế. Ở xứ sở
nhiều thiên tai như Việt Nam, cuộc sống người nông dân luôn bấp bênh, vận rủi hay
xảy ra. Người ta phải trông cậy vào các vị thần có thể tạo phúc trừ hoạ. Nho giáo là
học thuyết trị người, không thể làm được điều đó. Chỉ có Phật giáo với lý thuyết
“cứu độ” mới thu hút được con người về mình. Vì thế, trong dân luôn có môi
trường học Phật, mà không có môi trường học Nho. Do không có môi trường học
Nho và thực hành đạo Nho, nên phát triển Nho là điều khó khăn. Không những thế,
những người xứng danh là nhà Nho như Trương Hán Siêu và Lê Quát cũng không
có điều kiện đi sâu vào lý thuyết và xây dựng nên các học phái.
Sang triều Lê và triều Nguyễn, cơ cấu của tầng lớp thống trị đã có sự thay
đổi ít nhiều. Ngoài quý tộc, bộ máy quan lại đã có thêm nhiều Nho sĩ. Triều đình
lấy Nho làm chuẩn mực để định đường lối chính trị và đào tạo nhân tài. Nho đã
thực sự được trọng dụng. Nhưng, Nho này là Nho của thời kỳ chuyên chế phong
kiến, cần tôn ti trật tự, cần sự phục tùng tuyệt đối của dưới đối với trên. Hán Nho
và Tống Nho lúc đó đã có mặt ở Việt Nam với lý thuyết “tam cương ngũ thường”
(Hán Nho), lý thuyết “tồn thiên lý, diệt nhân dục” (Tống Nho) đã đáp ứng được yêu
cầu trên. Đối với nhà Nho Việt Nam lúc bấy giờ, dường như vật liệu tư tưởng đã có
sẵn, chỉ việc vận dụng, không cần phải sáng tạo gì thêm. Trên thực tế, Nho giáo
Việt Nam đã không có sự sáng tạo gì.
Từ đầu đến cuối, Nho giáo Việt Nam đã đi qua những chặng đường không
bình thường, nhiều khó khăn, ít thuận lợi. Dưới thời kỳ Bắc thuộc, nó là hệ tư

tưởng xa lạ đối với đa số người Việt.
Trong thời kỳ độc lập, ở giai đoạn đầu, nó không thể cạnh tranh được với
Phật giáo; ở giai đoạn sau, do xã hội phong kiến Việt Nam đã bước vào thời kỳ tập
trung chuyên chế, nó không còn môi trường để phát huy. Sức sống của nó không
thể vượt qua sự cho phép của hoàn cảnh.
Hai là, chế độ phong kiến chuyên chế tông pháp ở Việt Nam chỉ cho phép
Nho giáo phát triển theo một chiều hướng và trong phạm vi có lợi cho sự thống trị
của triều đình.
Trong thời kỳ Bắc thuộc, Việt Nam là một quận của Trung Quốc. Cũng như
các quận khác trong nội địa Trung Quốc, chế độ xã hội ở Giao Chỉ là chế độ phong
kiến tập quyền chuyên chế tông pháp. Khi giành được độc lập, nhà nước phong
kiến Việt Nam do quan hệ kế thừa nên cũng xây dựng chế độ tập quyền chuyên chế
tông pháp.
21


Trường Cao đẳng nghề Yên Bái
Giáo trình môn: Văn hóa cộng đồng
Đặc điểm của chế độ phong kiến này là họ tộc được xem như yếu tố cơ bản
để cấu thành xã hội; họ tộc, hay gia tộc, dòng họ có vai trò quan trọng, kẻ cầm
quyền coi gia tộc mình cao hơn quốc gia và ở đó, sự thống trị xã hội của một ông
vua có tư cách là sự thống trị của một dòng họ đối với trăm họ. Để duy trì được sự
tồn tại của họ tộc, các triều đình thực hiện luật cha truyền con nối đối với quyền lực
và của cải. Con nối dõi bao giờ cũng là con trai trưởng; ở trong một nhà thì đó là
trưởng nam, ở trong triều đình, tức là dòng họ thống trị thì đó là thái tử. Dù người
đó là thông minh hay đần độn, khoẻ mạnh hay tật bệnh, hễ là trưởng thì hiển nhiên
được quyền kế thừa, đứng chủ một gia đình, một dòng họ, nếu là họ thống trị thì
làm chủ thiên hạ.
Để tăng thêm trách nhiệm của người trưởng đối với gia đình, dòng họ thì mọi
quyền lực chính trị, mọi lợi ích kinh tế đều tập trung vào người đó. Gia trưởng có

quyền quản lý phần lớn gia tài do ông cha để lại, thái tử có quyền thâu tóm mọi
quyền lực và lợi ích xã hội vào tay mình. Những người khác không ở vị trí trưởng
thì đều chịu thiệt thòi. Sự bất công này gây nên sự thèm khát quyền lực và địa vị
của đại đa số người và tạo nên những mâu thuẫn không thể khắc phục. Trong gia
đình, anh em giành giật lợi ích của nhau. Trong thiên hạ, các họ khác mưu mô lật
đổ họ thống trị. Sự bất ổn trong gia đình và sự loạn lạc trong xã hội liên tục xảy ra.
Song, xã hội rồi cũng phải đi vào trật tự. Bạo lực chính trị và ràng buộc tư
tưởng đều được các triều đại tính tới. Trách nhiệm tư tưởng ở đây thuộc về nhà Nho.
Nho giáo Trung Quốc đã xây dựng nên một hệ thống tư tưởng đủ để khuất phục
con người vào trật tự của một triều đại. Trong đó, nổi bật là tư tưởng “thiên mệnh”
và tư tưởng “tam cương”. “Thiên mệnh” để nói lên rằng, ngôi vua là do Trời định.
“Tam cương” có tính chất là dưới phải tuyệt đối phục tùng trên, bề tôi phải tuyệt
đối phục tùng vua, con phải tuyệt đối phục tùng cha, vợ phải tuyệt đối phục tùng
chồng. Theo như sự giải thích của Hán Nho và Tống Nho, “tam cương” cũng là do
Trời định. Là người đi sau, không có cách gì hơn, Nho giáo Việt Nam đã tận dụng
lý thuyết trị nước, quản lý đất nước của Nho giáo Trung Quốc.
Ba là, do nền nông nghiệp Việt Nam thấp kém nên đã không tạo ra được cơ
sở vật chất cần thiết cho sự phát triển của Nho giáo.
Lãnh thổ quốc gia Việt Nam tuy không nhỏ, song đa số là rừng núi, số ít là
đồng bằng. Ruộng đất đã ít lại phân tán, sở hữu nhỏ lẻ. Nông dân tư hữu chỉ vài ba
sào, địa chủ cũng chỉ vài mẫu. Đến thời cuối Trần, tuy tư hữu hoá ruộng đất được
đẩy mạnh, nhưng địa chủ là thứ dân không được quá 10 mẫu(8). Đã thế, lao động
lại thủ công, sức bỏ ra thì nhiều mà hoa lợi thu lại không được bao nhiêu. Thêm
vào đó, Việt Nam là một trong những nước chịu nhiều thiên tai nhất trên thế giới.
Bão lụt diễn ra hàng năm và lặp đi lặp lại nhiều lần trong năm. Bao nhiêu của cải
do lao động và tích luỹ mà có chỉ sau một trận lụt, hoặc một trận bão là mất hết,
phải làm lại từ đầu. Do đó, ít người Việt có điều kiện vật chất đầy đủ để học hành.
Việt Nam tuy là nước có truyền thống hiếu học, nhưng nhà Nho xuất thân từ
nông dân chỉ có vài ba cuốn sách để học và thi. Nhà Nho xuất thân từ địa chủ, quan
22



Trường Cao đẳng nghề Yên Bái
Giáo trình môn: Văn hóa cộng đồng
lại dù có chí học rộng cũng không có tài liệu gì nhiều để tham khảo. Họ không có
điều kiện sang Trung Quốc học tập, bàn luận, hoặc sưu tầm các loại tư liệu như các
Nho sĩ Nhật Bản và Triều Tiên. Vì vậy, tầm mắt của họ không có điều kiện để mở
rộng.
Sách kinh điển của Nho gia ở Việt Nam chủ yếu dựa vào hành trang của các
sứ giả, sứ Trung Quốc sang, hoặc sứ của triều đình đi tiến cống, được vua Trung
Quốc ban tặng(9). Thi thoảng mới có sứ giả Việt Nam có ít tiền mua sách đem về
nước. Đa số chỉ dựa vào các bản sao chép, vì công nghệ in ấn chưa có, mà sao chép
thì không được nhiều và không tránh khỏi những sai sót. Tóm lại, điều kiện nghèo
khó, tư liệu học tập ít, diện tiếp xúc lại hạn hẹp, đã ảnh hưởng lớn tới sự phát triển
của Nho học ở Việt Nam.
Không phải người Việt Nam không có năng lực sáng tạo. Để tồn tại cho đến
ngày nay, Việt Nam đã vượt qua được nhiều thử thách, làm nên nhiều kỳ tích mà
thế giới phải công nhận. Nhưng, do sự đặc thù của hoàn cảnh lịch sử mà sự truyền
bá, học tập và sáng tác Nho giáo ở Việt Nam thuộc dạng không bình thường. Nói
cách khác, Nho giáo Việt Nam không phát triển là có lý do của nó.
3.2.2. Phật giáo
Phật giáo Việt Nam là Phật giáo được bản địa hóa khi du nhập vào Việt Nam,
Phật giáo Việt Nam mang những đặc điểm tương đồng và khác biệt so với Phật
giáocủa các nước khác trên thế giới. Phật giáo là tôn giáo có ảnh hưởng sâu rộng nhất
ở Việt Nam. Theo thống kê của Ban Tôn giáo chính phủ Việt Nam năm 2009, hiện có
gần 6.802.318 tín đồ Phật giáo, còn theo số liệu thống kê của Giáo hội Phật giáo Việt
Nam, cả nước có gần 45 triệu tín đồ quy y tam bảo, có 839 đơn vị gia đình Phật tử và
khoảng 44.498 tăng ni, hơn 14.775 tự, viện, tịnh xá, tịnh thất, niệm Phật đường.
Chúng tôi muốn nói đến số liệu tín đồ Phật giáo do Ban Chỉ đạo Tổng điều tra dân số
thực hiện trong cuộc tổng điều tra dân số năm 2009 được nhiều tài liệu nghiên cứu

mới dẫn lại. Điều rất tiếc là số liệu của cuộc tổng điều tra này không được giới Phật
giáo quan tâm. Các cây bút Phật giáo hầu như đều sử dụng các nguồn số liệu tín đồ
Phật giáo khác đã cũ, không có tính cách chính thức.
Trong rất nhiều số liệu về tín đồ Phật giáo tại Việt Nam, con số thấp nhất chỉ
dừng lại ở mức khoảng 10 triệu người. Thế nhưng, điều giật mình là số liệu người
theo đạo Phật tại Việt Nam từ cuộc tổng điều tra dân số năm 2009, do Ban Chỉ đạo
Tổng điều tra dân số công bố vào năm 2010 đã cho thấy số lượng tín đồ Phật giáo
Việt Nam giảm đến mức chưa từng thấy: 6.802.318 người, chiếm 7,92% dân số. Như
vậy là giảm đến 1/3 so với con số thấp nhất trước đây, vào khoảng 10 triệu.
Trên bước đường truyền bá và hội nhập, Phật giáo luôn luôn cố gắng thực
hiện hai điều đó là khế lý và khế cơ. Nếu thiếu đi một trong hai yếu tố này Phật
giáo sẽ chẳng còn là Phật giáo nữa. Duy trì và phát triển hai yếu tố này, Phật giáo
được truyền vào Việt Nam và các nước khác.
Khế lý là nói về mặt tư tưởng nhờ khế lý nên dù ở thời gian và không gian
23


Trường Cao đẳng nghề Yên Bái
Giáo trình môn: Văn hóa cộng đồng
nào, giáo lý Phật-đà vẫn hợp với chân lý, tư tưởng vẫn luôn luôn phong phú, sâu
sắc mà vẫn giữ được bản chất của mình và chỉ có một vị đó là vị giải thoát.
Khế cơ thiên trọng về mặt lịch sử nhờ khế cơ nên dù trong hoàn cảnh và
quốc độ nào thì sự sinh hoạt, thể hiện, truyền đạt cũng luôn luôn đa dạng. Tùy theo
phong tục tập quán của mỗi quốc gia mà vẫn không hề mất gốc (Phật giáo). Nói
một cách khác thì có thể tùy nghi phương tiện theo từng vùng miền để truyền bá
giáo lý Phật đà nhưng không làm mất đi bản sắc của Phật giáo là ứng hợp với mọi
tầng lớp và căn cơ chúng sanh.
Tên gọi tuy có khác nhưng giáo lý vẫn là một nên gọi là khế lý, dù một mà
không phải một, nên có lắm tên Phật giáo Việt Nam, Phật giáo Tây Tạng, Phật giáo
Thái Lan, v.v. tất cả đều có tên chung là Phật giáo, bảo rằng giống cũng được

nhưng bảo rằng không thì là sai. Đây gọi là khế cơ là bản địa hóa, hay sắc thái Phật
giáo của từng vùng miền.
Khi Phật giáo được truyền vào Việt Nam đã được các vị thiền sư người Việt
bản địa hóa, khiến Phật giáo hòa mình vào lòng dân tộc tạo nên một sắc thái đặc
biệt của riêng Việt Nam. Phật giáo đã cùng sinh tồn cùng dân tộc. Điểm này dễ
dàng nhận thấy trong những thời đại hưng thịnh của đất nước như Đinh, Lê, Lý
Trần đều là những lúc Phật giáo cũng song hành hưng thịnh và các vị thiền sư có vị
trí quan trọng trong các triều đại đó. Dù được bản địa hóa để quyện mình vào lòng
dân tộc nhưng tam tạng kinh điển Phật giáo Việt Nam vẫn được truyền thừa trong
suốt hơn 2000 năm lịch sử Phật giáo Việt Nam.
Tính dung hòa
Dung hợp giữa Phật giáo với tín ngưỡng truyền thống
Phật giáo thờ Phật trong chùa, tín ngưỡng truyền thống Việt Nam là thờ thần
trong miếu và thờ Mẫu trong phủ, bốn vị thần được thờ nhiều nhất là Tứ pháp:
Mây-Mưa-Sấm-Chớp. Tuy nhiên bốn vị thần này đã được "Phật giáo hóa". Các pho
tượng này thường được gọi tượng Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi và Pháp Điện, trên
thực tế các tượng này hoàn toàn điêu khắc theo tiêu chuẩn của một pho tượng Phật.
Các hệ thống thờ phụ này tổng hợp với nhau tạo nên các ngôi chùa "tiền Phật, hậu
thần" hay "tiền Phật, hậu Mẫu". Người Việt Nam đưa các vị Thần, Thánh, Mẫu,
thành hoàng thổ địa, anh hùng dân tộc... vào thờ trong chùa. Đa số các chùa còn để
cả bia hậu, bát nhang cho các linh hồn đã khuất.
Dung hòa giữa các tông phái Phật giáo
Các tông phái Phật giáo Đại thừa sau khi du nhập vào Việt Nam trộn lẫn với
nhau. Dòng thiền Tỳ Ni Đa Lưu Chi pha trộn với Mật giáo. Nhiều vị thiền sư đời
Lý như Vạn Hạnh, Từ Đạo Hạnh, Nguyễn Minh Không,... đều giỏi pháp thuật và có
tài thần thông biến hóa. Thiền tông còn kết hợp với Tịnh Độ tông như là trong việc
tụng niệm Phật A Di Đà và Bồ Tát.
Các điện thờ ở chùa miền Bắc vô cùng phong phú các loại tượng Phật, bồ tát,
24



Trường Cao đẳng nghề Yên Bái
Giáo trình môn: Văn hóa cộng đồng
la hán và các tông phái khác nhau. Các chùa miền Nam còn có xu hướng dung hợp
hai truyền thống truyền thừa. Nhiều chùa mang hình thức Nam truyền (chỉ thờ Phật
Thích Ca Mâu Ni, sư đắp y vàng) nhưng lại theo giáo lý Đại thừa; bên cạnh Phật
Thích Ca Mâu Ni còn có các tượng Phật nhỏ khác, bên cạnh y vàng còn có áo nâu,
áo lam.
Hòa hợp giữa Phật giáo với Khổng, Lão
Tín ngưỡng truyền thống đã tiếp nhận Phật giáo ngay từ đầu Công nguyên.
Sau đó Phật giáo bắc truyền tiếp nhận Đạo giáo. Rồi cùng tiếp nhận Nho giáo để
làm nên "Tam giáo đồng nguyên" (cả ba tôn giáo có cùng một gốc) và "Tam giáo
đồng quy" (cả ba tôn giáo có cùng một mục đích) truyền vào Việt Nam qua đường
Bắc thuộc. Ba tôn giáo trợ giúp lẫn nhau: Nho giáo lo tổ chức xã hội, Đạo giáo lo
thể xác con người, Phật giáo lo tâm linh, kiếp sau của con người. Trong nhiều thế
kỷ, hình ảnh "Tam giáo tổ sư" với Thích Ca Mâu Ni ở giữa, Lão Tử ở bên trái,
Khổng Tử ở bên phải đã in sâu vào tâm thức mọi người Việt.
Ngoài ra giáo lý Phật giáo còn được hòa trộn với các tôn giáo khác để hình
thành Đạo Cao Đài vào thập niên 1920 với quan điểm là "Thiên nhân hợp nhất" và
"Vạn giáo nhất lý"
Phật giáo ảnh hưởng của mẫu hệ
Nó ảnh hưởng rất lớn đến Phật giáo Việt Nam làm cho Phật giáo Việt Nam
có phần nữ tính hóa.
Các vị Phật Ấn Độ xuất hiện với thân nam, khi vào Việt Nam bị biến thành
"Phật ông - Phật bà". Mẹ Quan Âm (Quán Thế Âm Bồ Tát) là vị "thần" cứu giúp
cho nhân dân, người miền biển còn gọi là Quan Âm Nam Hải (biển đông). Ngoài ra
người Việt còn có những vị "Phật-Mẫu" riêng của mình như Man Nương Phật Mẫu
(tên khác: Phật Mẫu), Quan Âm Thị Kính (tên khác: Quan Âm Tống Tử), Quan Âm
Diệu Thiện (tên khác: Phật Bà Chùa Hương, Bà chúa Ba).
3.3. Lễ hội

Cư dân Việt và cư dân các dân tộc ít người ở Việt Nam là những cư dân nông
nghiệp sống bằng nghề trồng lúa nước. Vòng quay của thiên nhiên và mùa vụ tạo ra
trong họ những nhu cầu tâm linh. Khoảng thời gian nghỉ ngơi này là dịp để người
dân vừa cảm ơn thần linh đã phù hộ cho họ mùa màng đã qua, vừa cầu xin phù hộ
cho mùa màng sắp tới. Dần dà, biến thiên thời gian đã lắng đọng nhiều phù sa văn
hóa trong lễ hội. Sinh hoạt văn hóa ấy của người dân được gọi là lễ hội.
Lễ hội bao giờ cũng gắn với một cộng đồng dân cư nhất định. Nếu Tết âm
lịch là sinh hoạt của cả cộng đồng thì ngày họi là ngày Tết của một cộng đồng dân
cư nhất định nào đó. Lễ hội gắn liền với từng làng quê, các làng quê khác nhau thì
ngày hội làng cũng khác nhau. Mặt khác, lễ hội mang tính tộc người rất rõ. Các dân
tộc khác nhau sẽ có những lễ hội khác nhau.
Nhân vật trung tâm được thờ phụng của cộng đồng là nhân vật chính của
25


×