BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC MỞ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
-------------------------------------------------
ĐOÀN TẤN KIỂU
PHÂN TÍCH CÁC YẾU TỐ ẢNH HƢỞNG ĐẾN CHỌN
ĐẦU TƢ VÀO KHU CÔNG NGHIỆP TRÊN ĐỊA BÀN
TỈNH BÌNH THUẬN
LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ HỌC
C u nn
n
M số c u n n
: Kinh tế học
n : 60 03 01 01
N ƣời ƣớn dẫn k oa ọc:
PGS TS Nguyễn Văn N
Thành phố Hồ Chí Minh, năm 2015
i
iii
TÓM TẮT
Đề tài “N
i n cứu các yếu tố ản
ƣởn đến chọn đầu tƣ v o k u côn
nghiệp tr n địa bàn tỉnh Bình Thuận” nhằm xác định, phân tích và đo lường các yếu
tố ảnh hưởng đến việc doanh nghiệp chọn đầu tư vào khu công nghiệp; đánh giá mức
độ ảnh hưởng của các yếu tố đối với việc doanh nghiệp chọn đầu tư vào khu công
nghiệp. Đề xuất các giải pháp, chính sách phù hợp nhằm tăng cường thu hút đầu tư
vào khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh Bình Thuận, góp phần giải quyết việc làm, tăng
thu nhập cho người lao động, ổn định nguồn thu ngân sách góp phần phát triển kinh tế
- xã hội, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Trên cơ sở phương pháp nghiên cứu định tính, nghiên cứu các khái niệm, các
cơ sở lý thuyết có liên quan đến địa lý kinh tế, lựa chọn lợi thế, thu hút đầu tư, địa kinh
tế mới, đầu tư vùng, địa điểm công nghiệp, các yếu tố tác động đầu tư của doanh
nghiệp, đặc biệt là các yếu tố nội sinh và ngoại sinh có tác động đến việc chọn dự án
đầu tư của doanh nghiệp, các nghiên cứu trước có liên quan, tổng quan tình hình thu
hút đầu tư và hoạt động của các khu công nghiệp tỉnh Bình Thuận và sử dụng phương
pháp nghiên cứu định lượng để thực hiện đề tài.
Nghiên cứu này đề cập đến các yếu tố ảnh hưởng đến việc doanh nghiệp chọn
đầu tư vào khu công nghiệp gồm: Ngành đầu tư, diện tích đất dự án, tổng vốn đầu tư,
thời gian hoạt động, thị trường tiêu thụ sản phẩm, hình thức sở hữu dự án đầu tư, tuổi
người đại diện pháp luật của doanh nghiệp, giới tính người đại diện pháp luật của
doanh nghiệp, bằng cấp nghề của người đại diện doanh nghiệp, hình thức chủ đầu tư,
tình trạng chủ đầu tư, lao động ban đầu khi thực hiện dự án, bảo hiểm xã hội. Sử dụng
mô hình hồi quy Binary Logistic với biến phụ thuộc là biến định danh mang hai giá trị
1 (đầu tư vào khu công nghiệp) và 0 (đầu tư ngoài khu công nghiệp).
Dữ liệu sử dụng cho nghiên cứu này là nguồn dữ liệu thứ cấp, được thu thập từ
số liệu thống kê, báo cáo của các cơ quan Nhà nước quản lý về đầu tư của Tỉnh như:
Cục Thống kê, Sở Kế hoạch và Đầu tư, Sở Công Thương, Sở Lao động – Thương binh
và Xã hội và Ban Quản lý các KCN từ năm 2000 đến năm 2014 với số lượng mẫu thu
thập được là 202 mẫu (tương ứng 202 dự án đầu tư). Qua thu thập, xử lý dữ liệu có
196 mẫu có ý nghĩa dùng để phân tích trong mô hình nghiên cứu. Nghiên cứu sử dụng
các công cụ chủ yếu như thống kê mô tả, hệ số tương quan, kiểm định đa cộng tuyến,
iv
kiểm định ý nghĩa hệ số hồi quy, kiểm định độ phù hợp của mô hình (Likelihood ratio
statistic), kiểm định giả thuyết hệ số hồi quy khác không (Wald Chi Square), kiểm
định độ phù hợp tổng quát của mô hình (kiểm định Chi - bình phương) để phân tích,
kiểm định các số liệu thu thập được.
Kết quả thống kê mô tả, phân tích tương quan và hồi quy Binary Logistic mô
hình nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến chọn đầu tư vào KCN trên địa bàn tỉnh
Bình Thuận đã xác định được 06 yếu tố có ý nghĩa đến việc doanh nghiệp chọn đầu tư
vào KCN, trong đó có 05 yếu tố ảnh hưởng dương gồm: (1) NGANH – Ngành đầu tư
(Doanh nghiệp có dự án đầu tư vào lĩnh vực sản xuất), (2) THOIGIAN_HD - Thời
gian hoạt động của dự án (Thời gian hoạt động lâu dài), (3) SOTHANGHOC_NDD –
Bằng cấp nghề người đại diện DN (Bằng cấp nghề của người đại diện DN cao), (4)
CHU_DT - Hình thức chủ đầu tư (Chủ đầu tư là người ngoài tỉnh), (5)
TINHTRANG_CDT - Tình trạng chủ đầu tư (Chủ đầu tư là tổ chức) và 01 yếu tố ảnh
hưởng âm đến việc DN chọn đầu tư vào KCN là: (1) DIENTICH – Diện tích đất dự án
(Doanh nghiệp có dự án đầu tư sử dụng đất với diện tích lớn). Từ kết quả này đã đề
xuất năm nhóm giải pháp nhằm tăng cường thu hút đầu tư vào khu công nghiệp.
Do đây là nghiên cứu hoàn toàn mới về lĩnh vực thu hút đầu tư vào khu công
nghiệp trên địa bàn tỉnh Bình Thuận, vì thế các yếu tố có ý nghĩa ảnh hưởng đến việc
doanh nghiệp chọn đầu tư vào khu công nghiệp và các giải pháp, khuyến nghị của
nghiên cứu này có thể sẽ đóng góp tích cực vào công tác thu hút đầu tư của tỉnh Bình
Thuận đặc biệt là thu hút đầu tư vào các KCN trong thời gian tới, đồng thời cũng là cơ
sở cho các nghiên cứu tiếp theo./.
v
MỤC LỤC
Trang
Lời cam đoan
i
Lời cảm ơn
ii
Tóm tắt
iii
Mục lục
v
Danh mục bảng
ix
Danh mục hình
x
Danh mục từ viết tắt
xi
C ƣơn 1: GIỚI THIỆU
1
1.1. Lý do chọn đề tài
1
1.2. Vấn đề nghiên cứu
3
1.3. Câu hỏi nghiên cứu
4
1.4. Mục tiêu nghiên cứu
4
1.5. Phương pháp nghiên cứu
4
1.6. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu
5
1.6.1. Giới hạn nghiên cứu
5
1.6.2. Phạm vi nghiên cứu
5
1.7. Kết cấu của luận văn nghiên cứu
5
C ƣơn 2: CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ CÁC NGHIÊN CỨU TRƢỚC
7
2.1. Cơ sở lý thuyết
7
2.1.1. Các khái niệm
7
2.1.2. Lý thuyết về địa lý kinh tế
9
2.1.3. Lý thuyết lựa chọn lợi thế
11
2.1.4. Lý thuyết thu hút đầu tư
11
vi
2.1.5. Lý thuyết Địa Kinh tế Mới (NEG)
13
2.1.6. Lý thuyết về đầu tư vùng
14
2.1.7. Lý thuyết về địa điểm công nghiệp
15
2.2. Khu công nghiệp và lợi ích của việc chọn đầu tư vào khu công nghiệp
15
2.2.1. Đặc điểm, phân loại và vai trò khu công nghiệp
15
2.2.1.1. Đặc điểm
15
2.2.1.2. Phân loại KCN
16
2.2.1.3. Vai trò của khu công nghiệp
17
2.2.2. Lợi ích của việc chọn đầu tư vào KCN
21
2.2.2.1. Lợi ích của địa phương có KCN
21
2.2.2.2 Lợi ích các dự án đầu tư có được từ KCN
22
2.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến việc chọn đầu tư của doanh nghiệp
23
2.3.1. Ngành đầu tư (NGANH) của dự án
23
2.3.2. Diện tích đất của dự án (DIENTICH)
24
2.3.3. Tổng vốn đầu tư (TONGVON) của dự án
25
2.3.4. Thời gian hoạt động của dự án (THOIGIAN_HD)
26
2.3.5. Thị trường tiêu thụ sản phẩm của dự án (THITRUONG_TT)
26
2.3.6. Hình thức sở hữu (HINHTHUCSOHUU) của dự án đầu tư
27
2.3.7. Các đặc tính về người đại diện pháp luật của DN thực hiện
28
dự án đầu tư
2.3.8. Các đặc tính của Chủ đầu tư
29
2.3.9. Số lao động trong DN tại thời điểm thành lập (LAODONG_BD)
31
2.3.10. Bảo hiểm xã hội (BHXH)
32
2.4. Các nghiên cứu trước
33
2.5. Tổng quan về tình hình hoạt động và kết quả thu hút đầu tư vào KCN
35
vii
2.5.1. Tình hình hoạt động của KCN Bình Thuận
35
2.5.2. Kết quả thu hút dự án đầu tư vào KCN
37
Tóm tắt c ƣơn 2
39
C ƣơn 3: MÔ HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ DỮ LIỆU
40
3.1. Quy trình thực hiện nghiên cứu
40
3.2 Mô hình nghiên cứu
43
3.3. Dữ liệu nghiên cứu
46
3.3.1. Cách lấy dữ liệu nghiên cứu
46
3.3.2. Mẫu nghiên cứu
47
3.3.3. Cách xử lý số liệu
48
Tóm tắt c ƣơn 3
48
C ƣơn 4: CÁC YẾU TỐ ẢNH HƢỞNG ĐẾN CHỌN ĐẦU TƢ VÀO
49
KHU CÔNG NGHIỆP TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH BÌNH THUẬN
4.1. Thống kê mô tả các biến của mô hình
49
4.2. Kiểm định sự tương quan và đa cộng tuyến của mô hình
53
4.2.1. Kiểm định sự tương quan
53
4.2.2. Kiểm định đa cộng tuyến của mô hình
55
4.3. Kết quả hồi quy
55
4.3.1. Kiểm định mô hình
56
4.3.1.1. Kiểm định tổng thể mô hình
56
4.3.1.2. Kiểm định ý nghĩa các hệ số hồi quy
57
4.3.1.3. Kiểm định khả năng giải thích của mô hình
57
4.3.2. Phân tích kết quả các biến trong mô hình hồi quy
58
4.3.2.1. Các biến có ý nghĩa trong mô hình nghiên cứu
58
4.3.2.2. Các biến không có ý nghĩa trong mô hình
64
Tóm tắt c ƣơn 4
65
viii
C ƣơn 5: KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
67
5.1. Kết luận
67
5.2. Khuyến nghị giải pháp, chính sách
68
5.3. Hạn chế của đề tài
73
Tài liệu tham khảo
74
Phụ lục
79
ix
DANH MỤC BẢNG
Trang
Bảng 2.1: Các chỉ tiêu kinh tế của các KCN từ năm 2001-2014
37
Bảng 2.2: Kết quả xây dựng và thu hút đầu tư vào KCN đến năm 2014
38
Bảng 3.1: Mô tả các biến trong mô hình nghiên cứu
45
Bảng 4.1: Thống kê mô tả các biến của mô hình
52
Bảng 4.2. Hệ số tương quan
54
Bảng 4.3: Kết quả hồi quy các biến trong mô hình
56
Bảng 4.4: Xác suất tác động của các yếu tố có ý nghĩa trong mô hình nghiên
58
cứu
x
DANH MỤC HÌNH
Trang
Hình 3.1: Sơ đồ quy trình nghiên cứu
42
Hình 3.2: Mô hình nghiên cứu đề nghị
44
xi
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
KCN
: Khu công nghiệp
KCX
: Khu chế xuất
CCN
: Cụm công nghiệp
CNH
: Công nghiệp hóa
HĐH
: Hiện đại hóa
NQ
: Nghị quyết
CP
: Chính phủ
DN
: Doanh nghiệp
DNTN
: Doanh nghiệp tư nhân
GDP
: Tổng sản phẩm quốc nội
WTO
: Tổ chức Thương mại Thế giới
USD
: Đô la Mỹ
VND
: Việt Nam đồng
UBND
: Ủy ban nhân dân
1
C ƣơn 1
GIỚI THIỆU
1.1. Lý do chọn đề tài
Khu công nghiệp (KCN), Khu chế xuất (KCX) hình thành và phát triển gắn liền
với công cuộc đổi mới, mở cửa nền kinh tế được khởi xướng từ Đại hội Đại biểu toàn
quốc Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VI (năm 1986). Đại hội VII đã tiếp tục đề ra
những đường lối, chủ trương đổi mới mạnh mẽ và toàn diện nền kinh tế, tiến hành
công nghiệp hóa (CNH), hiện đại hóa (HĐH) đất nước, được cụ thể hoá bằng Chiến
lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội 1991-2000. Tiếp đó, định hướng chiến lược
về quy hoạch phát triển và phân bố KCN, KCX được xác định cụ thể tại Nghị quyết
Đại hội Đảng lần thứ VIII (năm 1996): “Hình thành các KCN tập trung (bao gồm cả
KCX và khu công nghệ cao), tạo địa bàn thuận lợi cho việc xây dựng các cơ sở công
nghiệp mới. Phát triển mạnh công nghiệp nông thôn và ven đô thị. ở các thành phố, thị
xã, nâng cấp, cải tạo các cơ sở công nghiệp hiện có, đưa các cơ sở không có khả năng
xử lý ô nhiễm ra ngoài thành phố, hạn chế việc xây dựng các KCN mới xen lẫn với khu
dân cư”.
Báo cáo Chính trị Đại hội Đảng lần thứ IX (năm 2001) về Chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội 2001-2010 tiếp tục khẳng định: “Quy hoạch phân bố hợp lý công
nghiệp trên cả nước. Phát triển có hiệu quả các KCN, KCX, xây dựng một số khu công
nghệ cao, hình thành các cụm công nghiệp lớn và các khu kinh tế mở”. Báo cáo chính
trị tại Đại hội lần thứ X (năm 2006) một lần nữa khẳng định chủ trương “Phát triển
một số khu kinh tế mở và đặc khu kinh tế, nâng cao hiệu quả các KCN, KCX”, đồng
thời nhấn mạnh chủ trương tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển bền vững, trong đó
có phát triển bền vững KCN, KCX. Báo cáo chính trị Đại hội Đảng lần thứ XI (năm
2011) và Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020 đã định hướng phát triển
KCN, KCX bền vững và theo chiều sâu: “Bố trí hợp lý công nghiệp trên các vùng;
phát huy hiệu quả các khu, cụm công nghiệp hiện có và đẩy mạnh phát triển công
nghiệp theo hình thức cụm, nhóm sản phẩm, tạo thành các tổ hợp công nghiệp quy mô
lớn, hiệu quả cao”. Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020 đặt ra mục tiêu
đến năm 2020 “... tất cả các cụm, KCN, KCX có hệ thống xử lý nước thải tập trung”.
2
Các Nghị quyết của Đảng tại các kỳ Đại hội từ năm 1986 đến nay đã hình thành
hệ thống các quan điểm nhất quán của Đảng về phát triển KCN, KCX; khẳng định vai
trò của KCN, KCX là một trong những nền tảng quan trọng để thực hiện mục tiêu đến
năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại như Nghị
quyết Đại hội Đảng lần thứ X và XI đã nêu rõ. Đồng thời, chủ trương của Đảng là cơ
sở để Chính phủ triển khai xây dựng quy hoạch, kế hoạch, cơ chế, chính sách phát
triển KCN, KCX trong gần 30 năm qua và trong giai đoạn tới. Nghị quyết 10/NQ-CP,
ngày 24 tháng 4 năm 2012 về Chương trình hành động của Chính phủ triển khai thực
hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020 và Phương hướng, nhiệm vụ
phát triển đất nước 5 năm 2011 – 2015, trong đó có mục tiêu tổng quát liên quan đến
khu công nghiệp hiện nay: “cải cách cơ chế chính sách, quy hoạch, tập trung xây
dựng và phát triển các khu, cụm công nghiệp, đặc biệt là khu công nghệ cao quốc
gia”. Từ những mục tiêu và kế hoạch hành động đó đã định hướng cho việc phát triển
và thu hút đầu tư vào các khu công nghiệp trong tương lai. Sự phát triển bền vững của
công nghệ được sử dụng trong các khu công nghiệp mở ra cơ hội cho việc tạo ra công
ăn việc làm mới, nâng cao năng suất trong nước và duy trì môi trường cạnh tranh của
quốc gia (Markusen & Glasmeier, 1986)
Để hoàn thành mục tiêu đến năm 2020, Bình Thuận trở thành tỉnh công nghiệp dịch vụ theo hướng hiện đại, năng động; Cơ sở hạ tầng hiện đại, đồng bộ liên thông với cả
nước và quốc tế; Quan hệ sản xuất tiến bộ, đời sống nhân dân không ngừng được cải thiện,
nâng cao thì việc phát triển công nghiệp, thu hút đầu tư vào các Khu công nghiệp là nhiệm
vụ trọng tâm (Nguyễn Công Toàn, 2013). Tính đến nay, theo quy hoạch phát triển khu
công nghiệp của tỉnh đến năm 2020 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại công
văn số 1555/TTg-KTN ngày 30/9/2013, thì tỉnh Bình Thuận có 9 khu công nghiệp
(KCN), với tổng quy mô diện tích 3.016 ha, trong đó: Thành phố Phan Thiết và huyện
Hàm Thuận Bắc có 2 KCN (Phan Thiết giai đoạn 1 và Phan Thiết giai đoạn 2, có diện
tích 108 ha); huyện Hàm Thuận Nam có 2 KCN (Hàm Kiệm I và Hàm Kiệm II, có
diện tích 548 ha); huyện Hàm Tân có 3 KCN (Sơn Mỹ I, Sơn Mỹ II, Tân Đức, có diện
tích 1.910 ha); huyện Bắc Bình có 1 KCN (Sông Bình, có diện tích 300 ha); huyện
Tuy Phong có 1 KCN (Tuy Phong, có diện tích 150 ha).
Tuy nhiên, đến nay mới có 1 KCN (Phan Thiết giai đoạn 1) đã được lấp đầy đi
vào hoạt động ổn định, có 5 KCN ( Phan Thiết giai đoạn 2, Hàm Kiệm I, Hàm Kiệm
3
II, Sông Bình, Tuy Phong) vừa tiếp tục hoàn thiện kết cấu hạ tầng vừa thu hút đầu tư,
có 3 KCN (Sơn Mỹ I, Sơn Mỹ II, Tân Đức) đang thực hiện các công tác chuẩn bị đầu
tư, đền bù giải tỏa để khởi công xây dựng. Nhìn trên bình diện tổng thể, sự phát triển
kinh tế trong các KCN Bình Thuận đang tiềm ẩn nhiều khó khăn, thách thức đặc biệt
trong mục tiêu thu hút đầu tư những dự án có tầm cỡ.
Việc các doanh nghiệp (DN) chọn đầu tư vào KCN thì có rất nhiều yếu tố ảnh
hưởng, trong đó có những yếu tố quan sát được và không quan sát được. Vấn đề đặt ra
đối với các nhà hoạch định chính sách của tỉnh Bình Thuận cũng như Lãnh đạo Ban
Quản lý các Khu công nghiệp tỉnh là phải xác định được các yếu tố ảnh hưởng và đo
lường mức độ ảnh hưởng của các yếu tố đến việc các DN chọn đầu tư vào KCN trong
thời gian qua nhằm có thể kiến nghị và đưa ra các giải pháp giúp đẩy mạnh thu hút các
DN đầu tư vào KCN trong thời gian tới, góp phần đưa tỉnh Bình Thuận trở thành một
tỉnh công nghiệp-dịch vụ theo hướng hiện đại, năng động vào năm 2020. Việc phát triển
các khu công nghiệp là một yếu tố quan trọng đối với bất kỳ nền kinh tế nào tích cực
tham gia vào hệ thống kinh tế toàn cầu (Eugenia and Georgeta, 2014).
Để giúp cho nhà hoạch định chính sách của tỉnh Bình Thuận có cách nhìn tổng
quan về tình hình thu hút đầu tư vào KCN trong thời gian qua, cũng như xác định được
các yếu tố và mức độ ảnh hưởng của các yếu tố đến việc các DN chọn đầu tư vào KCN
tỉnh Bình Thuận. Tác giả nhận thấy cần thiết phải có một nghiên cứu cụ thể về việc
chọn đầu tư của các DN vào KCN trên địa bàn tỉnh Bình Thuận. Với những lý do trên,
tác giả chọn đề tài “Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến chọn đầu tư vào khu công
nghiệp trên địa bàn tỉnh Bình Thuận” nhằm tìm ra những yếu tố ảnh hưởng đến việc
các DN chọn đầu tư vào KCN, trên cơ sở đó đề xuất giải pháp thu hút đầu tư vào KCN
trong thời gian tới.
1.2. Vấn đề nghiên cứu:
Nghiên cứu này xác định và phân tích một số yếu tố chủ yếu ảnh hưởng đến
việc các doanh nghiệp chọn đầu tư vào KCN trên địa bàn tỉnh Bình Thuận; đồng thời
liên hệ đến kết quả thực tế các doanh nghiệp chọn đầu tư vào KCN, từ đó đề xuất các
giải pháp nhằm thu hút sự lựa chọn của các doanh nghiệp để đầu tư vào KCN trên địa
bàn tỉnh Bình Thuận trong thời gian tới.
4
1.3. Câu hỏi nghiên cứu
Để giải quyết vấn đề nghiên cứu trên, đề tài này tập trung vào các câu hỏi
nghiên cứu như sau:
- Các yếu tố nào ảnh hưởng đến chọn đầu tư vào KCN trên địa bàn tỉnh Bình
Thuận?
- Giải pháp nào thúc đẩy các doanh nghiệp chọn đầu tư vào KCN để khuyến
nghị các cấp có thẩm quyền xem xét, áp dụng trên địa bàn tỉnh Bình Thuận?
1.4. Mục tiêu nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến chọn đầu tư vào KCN trên địa bàn
tỉnh Bình Thuận thông qua việc thu thập dữ liệu từ các dự án hoạt động trong và ngoài
KCN với mục tiêu:
1. Đánh giá thực trạng việc các doanh nghiệp chọn đầu tư vào KCN hiện nay
trên địa bàn tỉnh Bình Thuận;
2. Xác định và phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến chọn đầu tư vào KCN Bình
Thuận;
3. Đề xuất một số giải pháp nhằm thu hút các doanh nghiệp đầu tư vào KCN để
tăng tỷ lệ lắp đầy cho KCN trên địa bàn tỉnh Bình Thuận;
1.5. P ƣơn p áp n
i n cứu
Nhằm đạt được mục tiêu nghiên cứu và không lặp lại các nghiên cứu trước, đề
tài sử dụng phương pháp phân tích định tính và định lượng nhằm phân tích các yếu tố
ảnh hưởng đến chọn đầu tư vào KCN trên địa bàn tỉnh Bình Thuận. Các đánh giá được
thực hiện thông qua phương pháp thống kê mô tả. Phương pháp nghiên cứu chính của
đề tài là sử dụng mô hình kinh tế lượng thông qua mô hình hồi quy Binary Logistic để
phân tích mối quan hệ giữa các biến độc lập và biến phụ thuộc.
Mục đích cuối cùng của phương pháp định tính là có kết quả phân tích và kết
luận phù hợp với thực trạng các dự án đầu tư vào KCN, làm cơ sở cho việc đưa ra mô
hình lý thuyết nghiên cứu định lượng; sử dụng mô hình hồi quy Binary Logistic để
phân tích, đánh giá các yếu tố ảnh hưởng đến chọn đầu tư vào KCN trên địa bàn tỉnh
5
Bình Thuận, chỉ rõ chiều hướng tác động và mức độ ảnh hưởng của các yếu tố, đồng
thời thực hiện các kiểm định phù hợp để cho kết quả chính xác nhất.
Nghiên cứu được thực hiện thông qua hai giai đoạn chính:
1. Nghiên cứu sơ bộ bằng phương pháp nghiên cứu định tính: nghiên cứu các
tài liệu thứ cấp và thảo luận với chuyên gia các sở, ngành tỉnh để xây dựng các biến
trong mô hình nghiên cứu, sau đó điều chỉnh và bổ sung các biến quan sát dùng để đo
lường các khái niệm nghiên cứu.
2. Nghiên cứu chính thức được thực hiện bằng phương pháp nghiên cứu định
lượng tiến hành ngay khi xác định được các biến trong mô hình nghiên cứu. Dữ liệu
trong nghiên cứu chính thức là dữ liệu thứ cấp được thu thập từ các cơ quan quản lý
nhà nước về đầu tư trên địa bàn tỉnh (Cục Thống kê, Sở Kế hoạch và Đầu tư, Sở Công
Thương, Sở Lao động – Thương binh và Xã hội và Ban Quản lý các KCN). Dữ liệu
thu thập được xử lý bằng phần mềm SPSS 18.0.
1.6. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu
1.6.1. Giới hạn nghiên cứu
Đề tài chỉ nghiên cứu các dự án công nghiệp đã được UBND tỉnh và Ban Quản
lý các KCN Bình Thuận cấp Giấy chứng nhận đầu tư trong giai đoạn từ năm 2000 đến
năm 2014 trên địa bàn tỉnh Bình Thuận.
1.6.2. Phạm vi nghiên cứu
- Để nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến chọn đầu tư vào KCN trên địa bàn
tỉnh Bình Thuận, đề tài tiến hành khảo sát tổng thể các dự án công nghiệp trong và
ngoài KCN đã được Ủy ban nhân dân tỉnh và Ban Quản lý các KCN Bình Thuận cấp
giấy chứng nhận đầu tư trong giai đoạn 2000 – 2014. Tổng số dự án được cấp giấy
chứng nhận đầu tư trong giai đoạn này là 202 dự án đầu tư, nghiên cứu này thu thập và
sử dụng số liệu tổng thể với 202 dự án đầu tư tương ứng với 202 mẫu quan sát.
- Đối với các doanh nghiệp đầu tư trước năm 2000 không thuộc phạm vi nghiên
cứu của đề tài.
1.7. Kết cấu của luận văn n
i n cứu
Kết cấu của luận văn gồm 5 chương, như sau:
6
C ƣơn 1: P ần giới thiệu. Chương này nêu khái quát những nội dung của đề
tài như: lý do chọn đề tài, trình bày vấn đề nghiên cứu, câu hỏi nghiên cứu, mục tiêu
nghiên cứu, phương pháp nghiên cứu, giới hạn và phạm vi nghiên cứu.
Chƣơn 2: Cơ sở lý thuyết và các nghiên cứu trƣớc. Chương này trình bày
cơ sở lý luận của đề tài; các khái niệm về KCN; các lý thuyết có liên quan đến luận
văn như: lý thuyết về địa lý kinh tế, lý thuyết về lựa chọn lợi thế, lý thuyết thu hút đầu
tư, lý thuyết Địa Kinh tế Mới (NEG), lý thuyết về đầu tư vùng, lý thuyết về về địa
điểm công nghiệp; khu công nghiệp và lợi ích của việc chọn đầu tư vào khu công
nghiệp; các yếu tố ảnh hưởng đến chọn đầu tư vào khu công nghiệp; các nghiên cứu
trước; tổng quan về tình hình hoạt động và kết quả thu hút đầu tư vào KCN.
C ƣơn 3: Mô hình nghiên cứu v cơ sở dữ liệu. Chương này chủ yếu nói về
các quy trình thực hiện nghiên cứu, mô hình nghiên cứu, cách thức thu thập, xử lý và
phân tích dữ liệu nghiên cứu.
C ƣơn 4: Các yếu tố ản
ƣởn đến chọn đầu tƣ v o KCN tr n địa bàn
tỉnh Bình Thuận. Thống kê mô tả các biến của mô hình nghiên cứu, tiến hành phân
tích hồi quy Binary Logistics và phân tích các kết quả nghiên cứu nhằm đánh giá mức
độ ảnh hưởng của các yếu tố đối với dự án đầu tư vào các KCN trên địa bàn tỉnh Bình
Thuận.
C ƣơn 5: Kết luận và khuyến nghị. Trình bày tóm tắt kết quả tìm thấy ở
chương 4, vận dụng kiến thức và các lý thuyết kinh tế để đưa ra giải pháp cụ thể về thu
hút đầu tư vào KCN và khuyến nghị cấp có thẩm quyền xem xét, áp dụng trên địa bàn
tỉnh Bình Thuận. Nêu ra hạn chế và hướng nghiên cứu tiếp của đề tài.
7
C ƣơn 2
CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ CÁC NGHIÊN CỨU TRƢỚC
Chương 1 đã khái quát lý do nghiên cứu, câu hỏi và mục tiêu nghiên cứu cũng
như phương pháp nghiên cứu, giới hạn và phạm vi nghiên cứu đề tài này. Chương 2 sẽ
tập trung đề cập đến các cơ sở lý luận của đề tài, các khái niệm về KCN, các lý thuyết
chính mà đề tài căn cứ để xây dựng mô hình nghiên cứu và các biến trong mô hình
nghiên cứu; đề tài cũng đánh giá tổng quan về tình hình hoạt động và công tác thu hút
đầu tư vào KCN của địa phương. Đồng thời, trình bày phương pháp tìm ra các yếu tố
ảnh hưởng đến việc doanh nghiệp chọn đầu tư vào KCN, các nghiên cứu trước, kết
luận có liên quan đến nội dung đề tài.
2.1. Cơ sở lý thuyết
2.1.1. Các khái niệm
Đầu tƣ là việc nhà đầu tư bỏ vốn bằng các loại tài sản hữu hình hoặc vô hình để
hình thành tài sản tiến hành các hoạt động đầu tư theo quy định của Luật Đầu tư và các
quy định khác của pháp luật có liên quan (Luật đầu tư, 2014) . Theo đó, tất cả các
doanh nghiệp (trong nước, nước ngoài) có đưa vốn (bằng tiền hoặc các loại tài sản có
giá trị) để thực hiện hoạt động tìm kiếm lợi nhuận đều được xem là một nhà đầu tư, và
các hoạt động trong quá trình đầu tư bao gồm các khâu chuẩn bị đầu tư, thực hiện và
quản lý dự án đầu tư nhằm tìm kiếm lợi nhuận của nhà đầu tư được gọi là hoạt động
đầu tư.
Moss David A (2007), đầu tư được hiểu là những chi tiêu nhằm tăng sản lượng
hàng hóa và dịch vụ cuối cùng trong tương lai. Nó bao gồm việc mua sắm phục vụ
kinh doanh như nhà xưởng, máy móc thiết bị, phần mềm, và tồn kho, cũng như chi phí
tiền công và tiền lương mà một đơn vị kinh doanh trả cho những người được thuê.
Blanchard (2000) (trích bởi Nguyễn Đình Sang, 2011), khái quát đầu tư với hai
quan điểm. Theo quan điểm của chủ đầu tư, đầu tư là hoạt động bỏ vốn kinh doanh để
thu được số vốn lớn hơn số vốn đã bỏ ra thông qua lợi nhuận. Theo quan điểm xã hội
(quốc gia), đầu tư là hoạt động bỏ vốn phát triển, để thu được các hiệu quả kinh tế xã
hội, vì mục tiêu phát triển quốc gia. Các nhà kinh tế học dùng thuật ngữ đầu tư để chỉ
việc mua hàng hóa vốn mới, chẳng hạn như máy móc, nhà xưởng, nhà ở.
8
Dự án đầu tƣ: là tập hợp các đề xuất bỏ vốn trung và dài hạn để tiến hành các
hoạt động đầu tư trên địa bàn cụ thể, trong khoảng thời gian xác định (Luật đầu tư,
2014).
Vốn đầu tƣ là tiền và các tài sản hợp pháp khác để thực hiện các hoạt động đầu
tư theo hình thức đầu tư trực tiếp hoặc đầu tư gián tiếp (Luật đầu tư, 2014).
Tài sản nói chung là bất cứ vật sở hữu nào mà có giá trị trong trao đổi. Tài sản
gồm có hai loại: tài sản hữu hình và tài sản vô hình. Tài sản hữu hình là những loại tài
sản mà giá trị của nó tùy thuộc vào những thuộc tính tự nhiên của nó, ví dụ như nhà
xưởng, đất đai, máy móc thiết bị, nguyên nhiên vật liệu …Tài sản vô hình là những
loại tài sản mà giá trị của nó không liên quan gì đến hình thức vật lý của nó mà dựa
vào quyền hợp pháp trên một lợi ích tương lai nào đó (Bùi Kim Yến và Nguyễn Minh
Kiều, 2011). Trong nghiên cứu này, tài sản được xem là hữu hình; căn cứ vào tài sản
(vốn, đất đai) để đánh giá quy mô của dự án.
Khu công nghiệp (KCN). Tùy điều kiện của từng nước khác nhau mà KCN có
những nội dung hoạt động kinh tế cũng như hướng phát triển khác nhau. KCN là khu
vực lãnh thổ rộng có nền tảng là sản xuất công nghiệp, dịch vụ sinh hoạt, vui chơi giải
trí, khu thương mại, văn phòng, nhà ở… KCN theo quan điểm này thực chất là khu
hành chính kinh tế đặc biệt. Khu công nghiệp là khu chuyên sản xuất hàng công
nghiệp và thực hiện các dịch vụ cho sản xuất công nghiệp, có ranh giới địa lý xác định.
KCN là khu vực lãnh thổ có giới hạn nhất định, ở đó tập trung các doanh nghiệp công
nghệ và dịch vụ sản xuất công nghiệp không có dân cư sinh sống. Theo quan điểm này
KCN được coi là khu kinh tế đặc biệt có tác động chính đến nền kinh tế của đất nước.
Khu công nghiệp có thể được hiểu là một phương thức tổ chức các hoạt động
sản xuất sản phẩm và cung ứng dịch vụ công nghiệp với những chế độ ưu đãi đặc biệt
so với các hoạt động sản xuất và cung ứng dịch vụ còn lại trên lãnh thổ của một nước
nhằm khuyến khích đầu tư, thúc đẩy xuất khẩu và thực hiện các mục tiêu chính sách
khác. KCN được thành lập không chỉ để nhằm thu hút đầu tư nước ngoài mà còn cả
thu hút đầu tư trong nước (Đặng Ngọc Giàu, 2007).
Theo Nghị định số 29/2008/NĐ-CP của Chính phủ, khu công nghiệp là khu
chuyên sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện các dịch vụ cho sản xuất công nghiệp,
có ranh giới địa lý xác định, được thành lập theo điều kiện, trình tự và thủ tục quy định
9
tại Nghị định này. Như vậy, KCN là một khu chuyên sản xuất các mặt hàng công
nghiệp tập trung, bao gồm nhiều doanh nghiệp khác nhau cùng tham gia hoạt động sản
xuất, kinh doanh trong một khu vực vị trí địa lý cụ thể, theo quy định của Chính phủ.
Đối với một quốc gia, KCN được xem là một phương tiện để thúc đẩy quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa và chuyển giao khoa học công nghệ (Nguyễn Duy Khương,
2014). Đánh giá tầm quan trọng của KCN trong phát triển kinh tế, Hakansson và
Johanson (1993) cho rằng KCN là một công cụ phát triển quan trọng thông qua nhiều
nước công nghiệp. Khi doanh nghiệp nhận thấy KCN giúp họ giảm chi phí và tăng
năng lực cạnh tranh thì họ sẽ đầu tư vào KCN (Phạm Thị Thanh Tuyền, 2011).
Các dự án đầu tư vào KCN được xác định thông qua việc dự án đó được cơ
quan có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận đầu tư. Trong điều kiện cụ thể ở địa
phương, các nhà đầu tư vào KCN sẽ được Ban Quản lý các KCN của tỉnh cấp giấy
chứng nhận đầu tư; thông qua giấy chứng nhận đầu tư chính là dự án đầu tư được địa
phương công nhận có giá trị pháp lý rõ ràng và là cơ sở pháp lý trong suốt thời gian
thực hiện dự án. Doanh nghiệp (DN) có thể sử dụng giấy chứng nhận đầu tư để huy
động vốn đầu tư thông qua hai hình thức là góp vốn của các nhà đầu tư khác và đi
vay tại các tổ chức tín dụng; giấy chứng nhận đầu tư còn giúp cho DN được hưởng
các ưu đãi đầu tư theo quy định của nhà nước, là điều kiện không thể thiếu trong hồ
sơ xuất, nhập khẩu của DN.
2.1.2. Lý thuyết về địa lý kinh tế
Theo Begg và ctg (2007), địa lý kinh tế có nghĩa là vị trí của hãng sản xuất ảnh
hưởng đến chi phí sản xuất của hãng; ảnh hưởng hướng ngoại có lợi của vị trí xảy ra
nếu chi phí của hãng giảm do được bố trí ở gần các hãng tương tự. Như vậy, một hãng
sản xuất sẽ giảm được chi phí sản xuất nếu nhà đầu tư chọn vị trí đầu tư gần với các
hãng tương tự. Vị trí đầu tư được xem là một nguyên nhân ảnh hưởng đến quyết định
đầu tư của DN. Tương tự, Krugman (1991), cho rằng lợi nhuận của DN tăng ảnh
hưởng đến địa lý kinh tế ở nhiều quy mô: Ở quy mô dưới, lợi thế tạm thời của ngành
công nghiệp phản ánh sự “khóa trong” về vị trí; với quy mô trung bình, sự phát triển
ngày càng tăng của các thành phố rõ ràng là do sự thuận lợi từ vị trí; ở cấp độ lớn, sự
phát triển không đều nhau của những vùng trong cùng khu vực là nguyên nhân sâu xa
của sự tăng trưởng. Ông cho rằng điều quan trọng nhất của địa lý kinh tế là sự tập
10
trung hoạt động, nhiều DN sản xuất tập trung tại cùng một khu vực sẽ có được lợi thế
là gần với các nhà sản xuất khác, điều này lý giải tại sao các nhà sản xuất thường tập
trung lại với nhau thành cụm hoặc khu. Krugman cho rằng mỗi nhà sản xuất đều muốn
sản xuất từ một địa điểm duy nhất, và để giảm thiểu chi phí, nhà sản xuất chọn một địa
điểm có nhu cầu trong nước lớn. Địa điểm này được lựa chọn chính xác thể hiện qua
việc phần lớn các nhà sản xuất xác định vị trí để đầu tư. Đây là điều kiện để một khu
hoặc cụm tồn tại theo thời gian.
Krugman cũng cho rằng, các DN có xu hướng xác định vị trí sản xuất của họ ở
những nơi trung tâm đông đúc dân cư và nguồn cung vốn, vì đây vừa là nơi cung cấp
lao động, vừa là nơi tiêu dùng. Dân cư sẽ càng di chuyển đến những trung tâm này vì ở
đó có tính lợi thế quy mô cao hơn cũng có nghĩa là giá cả hàng hóa rẻ hơn và sản
phẩm đa dạng hơn. Theo đó, vị trí đầu tư xây dựng KCN là cơ sở đầu tiên dẫn đến sự
thành công của KCN; dấu hiệu này được thể hiện qua việc KCN nằm ở vị trí thuận lợi
về cơ sở hạ tầng kỹ thuật như: đường sá, cầu, bến cảng, nhà ga, sân bay, hệ thống viễn
thông, điều kiện về nguồn nhân lực dồi dào, tính hấp dẫn đối với nhà đầu tư về vị trí
và điều kiện sinh hoạt; những đặc điểm nêu trên phải được xem xét trong điều kiện
hiện tại và sự duy trì điều kiện này trong tương lai (Phạm Thị Thanh Tuyền, 2011).
Việc xây dựng và kinh doanh hạ tầng KCN cũng tương tự như kinh doanh bất động
sản, thường tuân theo các quy tắc chung là phải chọn đúng địa điểm; lịch sử hình
thành và phát triển các KCN trên thế giới cũng như của Việt Nam đã cho thấy tất cả
các KCN thành công đều nằm ở vị trí thuận lợi nhất về địa lý – kinh tế (Đặng Ngọc
Giàu, 2007).
Lý thuyết về địa lý kinh tế được áp dụng trong việc phân tích tình hình đầu tư
của địa phương, ảnh hưởng của vị trí các KCN đến việc hình thành và phân bổ các dự
án đầu tư trong và ngoài KCN trên địa bàn tỉnh. Những KCN đã lấp đầy cho thấy rằng
vị trí đặt KCN là thuận lợi cho việc đầu tư của DN, những khu vực này thường là nơi
dân cư tập trung đông đúc, gần khu trung tâm của một địa phương, điều kiện về cơ sở
hạ tầng thuận lợi; những KCN có tỷ lệ lấp đầy thấp là do nằm ở vị trí không được
thuận lợi hay nói cách khác là do không nằm gần các khu trung tâm của địa phương và
điều kiện về cơ sở hạ tầng không được thuận lợi. Ngược lại, các DN đầu tư ở các địa
điểm ngoài KCN đã thể hiện rõ xu hướng xác định vị trí sản xuất của họ ở những nơi
11
trung tâm đông đúc dân cư và nguồn cung vốn, nhằm tìm nguồn cung lao động, có lợi
thế về cơ sở hạ tầng, tận dụng tính lợi thế nhờ quy mô (Nguyễn Duy Khương, 2014).
2.1.3. Lý thuyết lựa chọn lợi thế
Lý thuyết này do John H. Dunning, giáo sư trường đại học Reading ở Anh phát
triển và hoàn thiện trên cơ sở lý thuyết về tổ chức ngành nghề của Stephen Hymer. Lý
thuyết lựa chọn lợi thế đưa ra ba yếu tố là lợi thế về sở hữu (ownership) hay là nội lực
của một doanh nghiệp, lợi thế về vị trí (location)- đây là yếu tố quyết đinh địa điểm
sản xuất và lợi thế về gắn kết nội bộ (internalization) của doanh nghiệp để trả lời cho
ba câu hỏi: tại sao các công ty đa quốc gia (MNEs) muốn đầu tư ra nước ngoài; địa
điểm nào được MNEs lựa chọn đầu tư và MNEs thực hiện đầu tư như thế nào?
Lý thuyết này cho rằng, một doanh nghiệp chỉ thực hiện đầu tư trực tiếp nước
ngoài (FDI) khi hội tụ ba điều kiện: (1) Lợi thế về sở hữu ( Ownership advantages –
O): doanh nghiệp phải sở hữu một số lợi thế so với các doanh nghiệp khác như quy
mô, công nghệ, mạng lưới tiếp thị, khả năng tiếp cận nguồn vốn có lãi suất thấp hay
các tài sản vô hình đặc thù của doanh nghiệp; (2) Lợi thế về khu vực (Locational
advantages – L) : sản xuất tại nước tiếp nhận đầu tư có chi phí thấp hơn là sản xuất tại
nước mẹ rồi đem xuất khẩu. Lợi thế địa điểm có thể có được nhờ các nguồn tài nguyên
thiên nhiên, lao động, các rào cản thương mại, chính sách khuyến khích đầu tư và cả
tác động ngoại vi mà địa điểm có thể tạo ra cho doanh nghiệp khi hoạt động tại đó. (3)
Lợi thế về nội hóa (Internalisation advantages – I): việc sử dụng những lợi thế đó
trong nội bộ doanh nghiệp có lợi hơn là bán hay cho các doanh nghiệp khác thuê
(Dunning, 1993, trích bởi Ngô Thu Hà, 2008).
2.1.4. Lý thuyết t u út đầu tƣ
Theo Akwetey (2002), hầu hết các nước đang phát triển, đang phải chịu đựng
một nền kinh tế nghèo nàn. Điều này chủ yếu do môi trường đầu tư chưa đầy đủ để
hấp dẫn nhà đầu tư, đã làm trầm trọng thêm sự yếu kém trong phát triển các điều kiện
cơ bản và quan trọng đối với phát triển kinh tế như cơ sở hạ tầng, chính sách và tài
chính mà một nền kinh tế vĩ mô cần phải có. Có những thay đổi từ môi trường kinh tế
bên ngoài như sự suy giảm kinh tế trên toàn thế giới; ngoài ra, chính trị xã hội bất ổn
và những cuộc đình công của người lao động đã làm cho khu vực thương mại ở các
nước này kém hấp dẫn những nhà đầu tư tiềm năng. Những thay đổi chính trị ở các
12
nước xã hội chủ nghĩa cũ cũng gây bất lợi đến thương mại khu vực khi nhu cầu đối với
hàng hóa xuất khẩu từ những nước đang phát triển thường không rõ ràng. Tuy nhiên,
từ khi hiệp định về thuế quan và thương mại (GATT), nay là Tổ chức Thương mại Thế
giới (WTO) ra đời, xu hướng phát triển thương mại toàn cầu dần được khởi sắc, tạo ra
một môi trường cởi mở hơn trong thương mại trên toàn thế giới. Một số nước đang
phát triển đã nắm lấy cơ hội này để thu hút nhà đầu tư tiềm năng từ các nước phát triển
để đầu tư vào quốc gia của họ. Chính phủ một số nước đã cung cấp một khuôn khổ
pháp lý tương đối đầy đủ để thực hiện các giao dịch trong xu thế tự do hóa thương
mại, và đây là yếu tố quan trọng trong việc thu hút các nhà đầu tư nước ngoài thành
lập các nhà máy công nghiệp hóa và tăng cường sản xuất hàng hóa để xuất khẩu. Các
nhà đầu tư là đối tượng mà các địa phương muốn thu hút để phát triển địa phương
mình như các dự án bất động sản và các nhà tài phiệt khác.
Kotler (2000) cho rằng các địa phương đều muốn thu hút các nhà đầu tư vào địa
phương mình bằng nhiều hình thức. Trước tiên họ sẽ chọn ra nhà đầu tư chiến lược;
Các nhà đầu tư chiến lược này phải có những đặc điểm, mối quan tâm và nhận thức
chung. Tiếp đến các nhà lập kế hoạch của địa phương phải đo lường những nhận thức
của nhà đầu tư chiến lược dựa theo các thuộc tính thích hợp. Các địa phương bộc lộ
cho nhà đầu tư chiến lược thấy được niềm tin vào sự phát triển trong tương lai của địa
phương thông qua việc cung ứng các khoản cho vay hào phóng để thực hiện các dự án
đầu tư. Quan điểm của Kotler cho rằng các doanh nghiệp được hút về các địa phương
cung cấp các dịch vụ chất lượng cao và ở đó “giá trị gia tăng” góp phần cải thiện năng
suất và chất lượng. Như vậy, việc nhà đầu tư đến với một địa phương phải xuất phát từ
thành ý của địa phương thông qua chính sách thu hút đầu tư. Địa phương phải có các
chính sách phù hợp, phải có khả năng cung cấp các nhu cầu của nhà đầu tư. Để làm
được điều này, đòi hỏi địa phương phải có tầm nhìn chiến lược và quan trọng hơn là
phải biết nhà đầu tư muốn gì và mức độ của nó ảnh hưởng đến quyết định đầu tư. Từ
đó sẽ có các giải pháp thích hợp để thu hút đầu tư, đảm bảo hài hòa lợi ích của nhà đầu
tư và của địa phương mình.
Về lý thuyết, nghiên cứu này nhằm đánh giá các chính sách thu hút đầu tư của
địa phương bằng cách phân tích các yếu tố hiện có thông qua các thông tin như lĩnh
vực thu hút, ngành nghề đầu tư, hình thức đầu tư (trong nước, ngoài nước), quy mô
vốn đầu tư, nhu cầu lao động, hình thức sở hữu…. Từ đó, sẽ nghiên cứu phân tích xem
13
yếu tố nào có ảnh hưởng mạnh đến hành vi của các nhà đầu tư và tiến hành đề xuất
chính sách thu hút đầu tư thích hợp dựa trên kết quả có được.
2.1.5. Lý thuyết Địa Kinh tế Mới (NEG)
Theo Krugman (1998), hầu hết các hoạt động kinh tế đều tập trung về phương
diện địa lý. Đa phần người dân tại các quốc gia tiên tiến và một số đáng kể tại các
nước đang phát triển sống tại các trung tâm đô thị. Nhiều ngành công nghiệp, bao gồm
cả các ngành dịch vụ như ngân hàng chẳng hạn cũng tập trung về phương diện địa lý,
và các khu công nghiệp chính là nguồn chuyên môn hoá và thương mại quốc tế quan
trọng. Tập trung công nghiệp tạo điều kiện cho một thị trường lao động dày đặc của
địa phương, đặc biệt là cho các kỹ năng chuyên môn hoá đến mức người lao động và
người thuê lao động đều dễ dàng tìm được nhau lúc cần thiết. Và sự tập trung hoạt
động của kinh tế vùng có thể tạo thêm các khu vực kinh tế ngoại sinh thuần tuý thông
qua các cơ chế lan toả thông tin. Các bí mật thương mại trở thành không còn là bí mật
nữa. Các nhân tố bất động chẳng hạn như đất và các nguồn tài nguyên thiên nhiên và
trong bối cảnh quốc tế, ngay cả con người cũng phải nỗ lực hết mình với sự tập trung
sản xuất, kể cả từ phía cung (một ngành sản xuất nào đó phải đến nơi có sẵn người lao
động) lẫn từ phía cầu (các nhân tố phân tán tạo ra một thị trường phân tán và một
ngành sản xuất nào đó sẽ phải khuyến khích chuyển cơ sở sản xuất đến gần với người
tiêu thụ hơn).
Theo Krugman và Obstfeld (1991) nhiều ngành được đặc trưng bởi tính kinh tế
nhờ quy mô (cũng được gọi là lợi tức tăng dần), việc sản xuất càng hiệu quả khi quy
mô của nó càng lớn. Nơi nào tồn tại tính kinh tế nhờ quy mô thì việc tăng gấp hai lần
đầu vào ở một ngành sẽ làm cho sản lượng của ngành đó tăng lên hơn gấp hai lần.
Điều này lý giải nguyên nhân các DN chọn các khu vực tập trung (ví dụ như KCN) để
hình thành các ngành sản xuất tập trung, chủ yếu nhằm tận dụng lợi thế kinh tế nhờ
quy mô.
Nói tóm lại việc khai sinh môn “địa kinh tế học mới” đã được thực hiện bằng
cách xem xét chiến lược mô hình hoá để tập trung vào vai trò của các hiệu ứng qui mô
thị trường trong việc tạo ra các liên kết thuận lợi cho việc tập trung theo vùng về
phương diện địa lý; mặt khác lực ngược chiều của các yếu tố bất động lại phát huy tác
14
dụng dựa vào quá trình tập trung như vậy. Địa kinh tế mới được người Trung Quốc
ứng dụng rất phổ biến trong việc xây dựng các vùng, các đặc khu kinh tế của họ.
2.1.6. Lý thuyết về đầu tƣ vùn
Theo Marshall (1920) (trích bởi Krugman, 1991), xác định ba lý do thể hiện sự
tập trung đầu tư của các doanh nghiệp vào một vùng công nghiệp:
- Thứ nhất, bằng cách tập trung một số công ty của một ngành công nghiệp
trong cùng một vị trí, hình thành một trung tâm công nghiệp, tạo thành một thị trường
gộp về lao động, với kỹ năng chuyên môn, thị trường gộp này có lợi cho cả người lao
động và doanh nghiệp.
- Thứ hai, một trung tâm công nghiệp cho phép cung cấp các yếu tố đầu vào
được giao dịch cụ thể cho một ngành công nghiệp được nhiều hơn và chi phí thấp hơn.
- Thứ ba, thông tin của chính quyền địa phương dễ dàng đến với doanh nghiệp
hơn trong một khu vực tập trung, và trung tâm công nghiệp tạo ra những gì chúng ta
gọi là hiệu ứng lan tỏa công nghệ.
Krugman (1991) cho rằng một thị trường lao động địa phương đông dân cư
(tổng hợp thị trường lao động) tạo nên dòng chảy của người lao động giữa các doanh
nghiệp trong sự hiện diện của các công ty với những điều kiện cụ thể. Do đó, các công
ty cùng ngành đồng xác định vị trí trong một không gian để chia sẻ một nguồn cung
lao động; cũng có nghĩa là các công ty hợp tác xác định vị trí trong cùng một khu vực
để gặt hái những lợi ích của liên ngành công nghiệp.
Lý thuyết này đã giải thích được lý do các DN đầu tư vào KCN là nhằm hình
thành một khu vực công nghiệp, tạo lợi thế theo quy mô, hình thành một thị trường lao
động dồi dào, có kỹ năng nghề nghiệp đáp ứng được nhu cầu của các DN hoạt động
trong cùng ngành nghề hoặc các ngành nghề tương tự nhau, tạo nên sự hợp tác hai bên
cùng có lợi (DN có nguồn lao động với chi phí thấp hơn những khu vực hạn hẹp
nguồn cung lao động phục vụ sản xuất tạo ra hàng hóa và lợi nhuận cao, người lao
động có được việc làm và thu nhập). Thông qua lao động, nghiên cứu sẽ đánh giá nhu
cầu về lao động (cao hay thấp) có mức độ ảnh hưởng đến quyết định đầu tư của DN
đầu tư vào KCN (Nguyễn Duy Khương, 2014).
15
2.1.7. Lý thuyết về địa điểm công nghiệp
Theo Vernon (1966) vấn đề chi phí được đặt lên hàng đầu, địa điểm đầu tư là lựa
chọn thứ hai, Vernon cho rằng các công ty xuyên quốc gia chuyển sản xuất ra nước
ngoài nhằm gần nguồn cung cấp nguyên liệu hay thị trường tiêu thụ để giảm bớt chi phí
vận chuyển, nhờ vậy sẽ hạ thấp được giá thành sản phẩm.
Đồng quan điểm với Vernon, Weber (1909) cho rằng các nhà sản xuất chọn vị
trí đầu tư là để cố gắng giảm thiểu chi phí, đồng thời kết hợp sản xuất và cung cấp sản
phẩm của mình. Theo đó, tập hợp các nhà đầu tư có cùng chung quan điểm sẽ tiến
hành đầu tư ở cùng một địa điểm có nhiều thuận lợi (về nguồn lao động, nguyên liệu,
thị trường tiêu thụ) để giảm thiểu chi phí; do việc có nhiều nhà đầu tư cùng đầu tư vào
một khu vực với vị trí địa lý thuận lợi sẽ tác động đến công tác quản lý của chính
quyền địa phương, chính quyền địa phương sẽ xem xét, quy hoạch khu vực này thành
KCN để công tác quản lý nhà nước về đầu tư đạt hiệu quả hơn.
Đồng thời, việc tham gia vào KCN sẽ giúp các doanh nghiệp có cơ hội tăng
năng suất; các DN có khả năng tiếp cận các yếu tố đầu vào, thông tin, công nghệ,
nguồn nhân lực và nhà cung cấp dễ dàng hơn, có được các hỗ trợ tốt hơn do mức độ
tập trung quy mô của một lĩnh vực, nhận được sự hỗ trợ tốt hơn từ phía chính phủ và
thụ hưởng các dịch vụ công do hiệu quả tập trung của nhu cầu (Lê Thế Giới, 2009).
2.2. Khu công nghiệp và lợi ích của việc chọn đầu tƣ v o k u côn n
iệp
2.2.1. Đặc điểm, phân loại và vai trò khu công nghiệp.
2.2.1.1. Đặc điểm:
Về mặt pháp lý:
KCN là phần lãnh thổ của nước sở tại nên các doanh nghiệp hoạt động trong đó
phải tuân thủ sự điều chỉnh của pháp luật nước sở tại.
Về mặt kinh tế:
KCN là nơi tập trung nguồn lực để phát triển công nghiệp bao gồm: các nguồn
lực của nước sở tại và của các nhà đầu tư trong và ngoài nước.
Hoạt động sản xuất kinh doanh công nghiệp phải góp phần phát triển cơ cấu
vùng theo mục tiêu của nước sở tại.