Tải bản đầy đủ (.docx) (77 trang)

luận văn cao học ngành kinh tế, ngân hàng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (515.6 KB, 77 trang )

Chương 1
GIỚI THIỆU NGHIÊN CỨU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nợ xấu tại các ngân hàng thương mại luôn là vấn đề có tác động mạnh mẽ đến
nhiều đối tượng với những góc độ khác nhau. Nợ xấu sẽ làm giảm lợi nhuận, tác động xấu
đến khả năng thanh khoản, từ đó làm giảm uy tín của ngân hàng thương mại. Bên cạnh
đó, khi nợ xấu phát sinh sẽ làm hạn chế khả năng khai thác và đáp ứng vốn của nền kinh
tế, từ đó kéo theo nhiều hậu quả tiêu cực cho nền kinh tế.
Trong những năm gần đây, mặt dù không thể thống kê một cách chính xác về con
số nợ xấu tại tất cả các ngân hàng thương mại là bao nhiêu nhưng nhìn chung nợ xấu tại
các ngân hàng thương mại trong nước giai đoạn 2010 đến 2014 có xu hướng tăng một
cách đáng kể. Thống kê tỷ lệ nợ xấu tại 8 ngân hàng thương mại niêm yết trong gia đoạn
2010 đến 2014 cho số liệu như sau:
Năm

2010

2011

2012

2013

2014

Tỷ lệ nợ xấu 3.2%

3.6%

4.8%


3.63%

4.6%

Nguồn: Tổng hợp của tác giả
Tại ngân hàng Vietcombank – Chi nhánh Quảng Ngãi cũng nằm trong xu thế đó,
thời gian qua tỷ lệ nợ xấu cũng liên tục tăng, tuy không quá cao so với nhiều NHTM khác
nhưng cũng đáng lo ngại.Cụ thể như sau:
Năm

2010

Tỷ lệ nợ xấu 0.63%

2011

2012

2013

2014

0.77%

1.2%

1.32%

1.23%


Nguồn: Phòng tín dụng Vietcombank – Chi nhánh Quảng Ngãi
Nợ xấu sẽ có những ảnh hưởng vô cùng to lớn đến lợi nhuận, khả năng kinh doanh
của ngân hàng trong hiện tại và tương lai. Do đó, việc tìm ra những nhân tố tác động làm
gia tăng hay sụt giảm tỷ lệ nợ xấu là hết sức cần thiết để các nhà quản trị của ngân hàng
có thể có thêm những thông tin hữu ích trong việc đề ra những giải pháp xử lý nợ xấu tại


ngân hàng mình. Điều đó càng cần thiết hơn đối với Vietcombank – Chi nhánh Quảng
Ngãi trong giai đoạn này khi tỷ lệ nợ xấu ngày một tăng mạnh. Xuất phát từ thực tế đó tôi
quyết định thực hiện đề tài “Nghiên cứu các nhân tố tác động đến nợ xấu tại ngân
hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam – Chi nhánh Quảng Ngãi” làm luận văn tốt
nghiệp thạc sỹ của mình, cũng là đề có thể cung cấp những thông tin hữu ích cho lãnh đạo
ngân hàng trong vấn đề đưa ra các giải pháp xử lý nợ xấu một cách hiệu quả.
1.2. Mục tiêu nghiên cứu
Đề tài được thực hiện với các mục tiêu sau:




Xác định các nhân tố tác động đến nợ xấu tại Vietcombank – Chi nhánh Quảng Ngãi;
Mức độ tác động của từng nhân tố đó đến nợ xấu của chi nhánh;
Đề xuất một số giải pháp trong việc hạn chế sự gia tăng nợ xấu tại Vietcombank – Chi
nhánh Quảng Ngãi trong thời gian đến.
1.3. Câu hỏi nghiên cứu
Để có thể đạt được những mục tiêu trên thì đề tài phải trả lời được những câu hỏi
sau:
1. Các nhân tố nào sẽ tác động đến nợ xấu tại Vietcombank – Chi nhánh Quảng Ngãi?
2. Mức độ tác động của từng nhân tố đó đến nợ xấu tại Vietcombank – Chi nhánh Quảng
Ngãi?
3. Những giải pháp nào cho vấn đề hạn chế sự gia tăng nợ xấu tại Vietcombank – Chi

nhánh Quảng Ngãi trong thời gian đến?
1.4. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu
a. Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu được thực hiện tại Vietcombank – Chi nhánh Quảng Ngãi, dữ liệu sơ
cấp được thu thập từ đầu tháng 11 năm 2014 đến hết tháng 12 năm 2014. Những đối
tượng tham gia khảo sát trong nghiên cứu này là những nhân viên phòng tín dụng, phòng
giao dịch, phòng quản lý nợ xấu và một số quản lý của chi nhánh. Bên cạnh đó, tác giả
cũng tham khảo những dữ liệu thứ cấp về nợ xấu tại chi nhánh trong giai đoạn 2010 đến
2014.
b. Đối tượng nghiên cứu


Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các nhân tố tác động đến nợ xấu tại
Vietcombank – Chi nhánh Quảng Ngãi.
1.5. Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu này được thực hiện theo phương pháp nghiên cứu hỗn hợp, kết hợp
giữa nghiên cứu định tính và nghiên cứu định lượng. Cụ thể như sau:


Nghiên cứu định tính được thực hiện gồm 02 bước thảo luận nhóm tập trung với 02 nhóm

đối tượng như sau:
+ Nhóm 1 gồm 25 chuyên viên có kinh nghiệm của 05 ngân hàng tại tỉnh Quảng Ngãi
(Agribank, Techcombank, Donga Bank, Saccombank, BIDV, mỗi ngân hàng 5 người) để
+

khám phá những nhân tố tác động đến nợ xấu của các ngân hàng tại tỉnh Quảng Ngãi;
Nhóm 2 gồm 10 người là quản lý của 05 ngân hàng trên (mỗi ngân hàng 02 người) nhằm
vừa để khám phá và vừa để khẳng định những nhân tố tác động đến nợ xấu của các ngân




hàng thương mại tại tỉnh Quảng Ngãi.
Nghiên cứu định lượng được thực hiện nhằm khám phá các nhân tố ảnh hưởng và kiểm
định mô hình lý thuyết các nhân tố tác động đến nợ xấu tại Vietcombank – Chi nhánh
Quảng Ngãi.
1.6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Về mặt khoa học
Đề tài khám phá các nhân tố ảnh hưởng đến nợ xấu tại các ngân hàng thương mại
trong điều kiện thị trường Việt Nam.
Về mặt thực tiễn
Đề tài cung cấp những thông tin hữu ích về các nhân tố tác động đến nợ xấu tại
Vietcombank – Chi nhánh Quảng Ngãi, những thông tin này là dựa trên hiểu biết, kinh
nghiệm của những người có sự am hiểu về chi nhánh nên sẽ giúp ích rất nhiều trong việc
lãnh đạo chi nhánh có thể tham khảo khi đưa ra các giải pháp nhằm hạn chế sự gia tăng
nợ xấu tại đây.
1.7. Kết cấu đề tài
Đề tài được trình bày gồm 5 chương:
Chương 1: Giới thiệu nghiên cứu
Chương 2: Cơ sở lý luận về nợ


Chương 3: Phương pháp nghiên cứu
Chương 4: Kết quả nghiên cứu
Chương 5: Một số đề xuất nhằm hạn chế sự gia tăng nợ xấu tại Vietcombank – Chi
nhánh Quảng Ngãi
1.8. Thực trạng nợ xấu tại Vietcombank – Chi nhánh Quảng Ngãi
1.8.1. Tổng quan về tình hình hoạt động của Vietcombank – Chi nhánh Quảng Ngãi
Trong những năm qua, hoạt động Ngân hàng diễn ra trong bối cảnh nền kinh tế thế
giới diễn biến phức tạp, kinh tế trong nước phát triển chưa ổn định và chịu những tác

động của các yếu tố bên ngoài. Để thực hiện tốt các chương trình hành động của
Vietcombank Hội sở chính đề ra, Vietcombank – Quảng Ngãi đã triển khai tích cực các
mặt hoạt động đóng góp vào các kết quả chung của toàn hệ thống. Các hoạt động kinh
doanh chủ yếu qua 5 năm từ năm 2010 đến năm 2014 được thể hiện trên các mặt sau:
 Về hoạt động huy động vốn

Trong những năm qua, Vietcombank – QuảngNgãi đã chủ độngtăngtrưởng nguồn
vốn để đáp ứng nhu cầu vốn kinh doanh, xác định duy trì và ổn định nguồn vốn là mục
tiêu quan trọng của chi nhánh, Chi nhánh đã luôn cố gắng đảm bảo nguồn vốn phục vụ
kinh doanh nhưng vẫn đảm bảo tuân thủ các quy định của NHNN và Vietcombank – Hội
sở chính. Chi nhánh đã đề ra các giải pháp huy động vốn, đa dạng hoá khách hàng tiền
gửi bằng cách tăng cường tiếp thị, đa dạng hoá dịch vụ, áp dụng lãi suất cạnh tranh, tận
dụng lợi thế về công nghệ để khai thác các nhóm khách hàng tiềm năng, nhanh chóng
thực hiện các định hướng của Nhà nước trong thanh toán không dùng tiền mặt và phải mở
rộng địa bàn hoạt động… Vậy nên, nguồn vốn huy động có xu hướng tăng, ổn định và
bền vững hơn, đặc biệt là nguồn vốn nội tệ. Năm 2010, Vietcombank– Quảng Ngãi chỉ
mới huy động được gần 1.174 tỷ đồng thì đến tháng 12/2014, nguồn vốn huy động VNĐ
đã đạt 2.811 tỷ đồng, tăng 2,39 lần. Nhờ đó, tổng số dư huy động vốn của Vietcombank –
Quảng Ngãi hiện chiếm 10% tổng nguồn vốn huy động trên địa bàn.
Với những nỗ lực trên, tình hình huy động vốn của chi nhánh giai đoạn 2010 –
2014 đã đạt được những kết quả được như sau:
Bảng 1.1: Tình hình huy động vốn của chi nhánh giai đoan 2010 - 2014


Đơn vị tính: Triệu đồng, triệu USD
Chi tiêu

2010

2011


2012

2013

2014

Huy động vốn từ nền
KT

1.174

1.740

1.800

2.551

2.811

1.1. TCKT

652

865

834

1.537


1.967

1.2. Dân cư

522

875

966

1.014

844

859

1258

1.493

2239

2314

15

22,95

14,62


14,86

23,67

- KKH

852

1105

463

480

642

- Dưới 12 tháng

312

610

1.259

2.229

2.554

10


25

76

92

115

1. Theo đối tượng

2. Theo loại tiền
- VND
- Ngoại tệ quy USD
3. Theo kỳ hạn

- >=12 tháng

(Nguồn: Báo cáo tổng kết hoạt động kinh doanh Vietcombank – Quảng Ngãi)
Tỷ trọng tiền gửi thanh toán chiếm khá cao trong tổng số dư huy động vốn qua các
năm nên góp phần tăng hiệu quả kinh doanh của Vietcombank – Quảng Ngãi. Tuy nhiên,
nguồn vốn này có tính chất không ổn định và chưa cân đối với cơ cấu cho vay, đặc biệt là
sự không ổn định do cuộc chạy đua khốc liệt về lãi suất và các chính sách ưu đãi của các
NHTM trên địa bàn, đây chính là thách thức lớn của Vietcombank – Quảng Ngãi trong
thời gian tới.
 Về hoạt động tín dụng

Hoạt động tín dụng của chi nhánh chủ yếu là hoạt động cho vay và bảo lãnh đối
với nền kinh tế. Các nghiệp vụ mua - bán vốn trên thị trường liên ngân hàng, đầu tư, kinh
doanh ngoại tệ... đều được tập trung về cơ quan Hội sở. Vietcombank – Quảng Ngãi qui
định việc quản lý vốn tập trung trên toàn hệ thống nhằm nâng cao hiệu quả quản lý cũng



như điều tiết vốn, đảm bảo khả năng thanh khoản và hiệu quả kinh doanh vốn. Theo đó,
vốn để đáp ứng nhu cầu của hoạt động tín dụng sẽ là vốn đi mua lại của Hội sở với mức
chênh lệch giữa lãi suất bán và mua được qui định theo từng thời kỳ khác nhau cho từng
kỳ hạn cho vay.
Hoạt động cho vay là hoạt động quan trọng và luôn tạo ra thu nhập chủ yếu của chi
nhánh trong suốt nhiều năm qua.
Bảng 1.2: Kết quả hoạt động cho vay giai đoạn 2010 – 2014
Đơn vị tính: Tỷ đồng
Tổng dư nợ

2010

2011

2012

2013

2014

1. Dư nợ ngắn hạn

1.149

1.545

2.042


2.702

3.445

2. Dư nợ TDH

1.037

1.203

1.197

1.115

1.120

Tổng cộng

2.456

2.748

3.239

3.817

4.565

(Nguồn: Báo cáo tổng kết hoạt động kinh doanh Vietcombank – Quảng Ngãi)
Hoạt động cho vay có sự tăng trưởng qua các năm, tuy nhiên tốc độ tăng trưởng

trung dài hạn qua các năm có xu hướng giảm, tỷ trọng dư nợ trung dài hạn giảm. Nguyên
nhân chủ yếu là do cơ cấu nguồn vốn huy động chủ yếu là nguồn ngắn hạn để đảm bảo an
toàn thanh khoản thì hạn chế cho vay trung và dài hạn, NHNN khống chế tỷ lệ nguồn vốn
ngắn hạn để cho vay trung dài hạn tối đa 30%, và do đối tượng đầu tư của Vietcombank –
Quảng Ngãi là hộ sản xuất kinh doanh ngắn hạn chu kỳ sản suất kinh doanh chủ yếu là
ngắn hạn.
Hoạt động bảo lãnh của chi nhánh trong giai đoạn 2010 – 2014 cũng có những tăng
trưởng đáng kể.
Bảng 1.3: Kết quả hoạt động bảo lãnh giai đoạn 2010 – 2014
Đơn vị tính: Triệu đồng
Tổng GT
bảo lãnh

2010

2011

2012

2013

2014

1. Bảo lãnh
dự thầu

4.128

7.354


9.120

10.75
5

17.643


2. Bảo lãnh
TH HĐ

20.14
5

27.33
3

37.98
8

42.64
2

51.070

3. Bảo lãnh
T.toán

13.45
7


19.87
6

28.24
0

40.34
8

170.31
0

4. Bảo lãnh
khác

1.296

1.817

2.672

5.441

4.007

TC
(1+2+3+4)

39.02

6

55.38
0

78.02
0

99.18
6

243.03
0

534

796

1.252

1.346

4.495

Thu phí bảo
lãnh

(Nguồn: Cân đối ngoại bảng của Vietcombank – Quảng Ngãi)
Nhìn chung, hoạt động bảo lãnh của chi nhánh phát triển tương đối tốt và làm gia
tăng đáng kể doanh thu từ những hoạt động ngoài cho vay của chi nhánh theo đúng mục

tiêu của NHTM hiện đại, song so với yêu cầu và thực tế thì chưa đạt.
1.8.2. Tình hình nợ xấu tại Vietcombank – Chi nhánh Quảng Ngãi trong những năm
gần đây
Nợ xấu tại Vietcombank Quảng Ngãi giai đoạn 2010 – 2014 có nhiều biến động,
cả về tổng dư nợ cũng như tỷ trọng giữa các nhóm nợ, trước tiên ta xem xét thực trạng nợ
xấu của chi nhánh dưới góc độ là các khoản nợ đang được theo dõi tại nội bảng.
Bảng 1.4: Cơ cấu nợ ngoại bảng theo nhóm nợ
Đơn vị tính: Tỷ đồng
Chỉ tiêu

2010

2011

2012

2013

2014

DN nhóm
1

2.23
6

2.54
8

2.904


3.524

4.364

DN nhóm
2

127

135

241

168

127

DN nhóm
3

33

21

23

28

9


DN nhóm

20

15

22

13

7


4
DN nhóm
5

40

29

49

80

58

Tổng cộng


2.45
6

2.74
8

3.239

3.817

4.565

(Nguồn: Báo cáo phân loại nợ và trích lập DPRR - Phòng TD các năm 2010 – 2014)
Theo số liệu thống kê tại bảng 2.4 cho thấy dư nợcủa doanh nghiệp nhóm 1
tại chi nhánh tăng qua các năm và tổng dư nợ cũng tăng qua các năm. Điều này cho thấy
giá trị cho vay của chi nhánh có sự tăng trưởng chủ yếu ở doanh nghiệp nhóm 1, doanh
nghiệp nhóm 2 có tăng nhưng không đáng kể. Ở các doanh nghiệp nhóm 3, 4, 5 có biến
động nhưng không đáng kể.
Bảng 1.5: Nợ xấu nội bảng
Đơn vị tính: Tỷ đồng
Chỉ tiêu

2010

2011

2012

2013


2014

DN nhóm 3

33

21

23

28

10

DN nhóm 4

20

15

22

38

13

DN nhóm 5

40


67

68

89

78

Tổng cộng

93

103

113

155

101

(Nguồn: Báo cáo chất lượng tín dụng - Phòng TD các năm 2010 – 2014)
Năm 2010 tổng dư nợ xấu(nợ từ nhóm 3 đến nhóm 5) là 93 tỷ đồng, chiếm tỷ lệ
3,8% trên tổng dư nợ, năm 2011 là 103 tỷ đồng, năm 2012 là 113 tỷ đồng, tỷ lệ 4,9% tổng
dư nợ nội bảng, năm 2013 là 155 tỷ, tỷ lệ 5,1%, năm 2014 còn 101 tỷ, tỷ lệ 1,92% thấp
hơn nhiều so mặt bằng chung của các tín dụng trên địa bàn Quảng Ngãi năm 2014 (2,7%),
điều này phản ánh chất lượng tín dụng của Vietcombank – Quảng Ngãi đã có chuyển biến
tốt hơn. Trong 3 nhóm nợ 3,4,5 nhóm 5 có tỷ trọng cao nhất là do khách hàng có nhiều
khoản vay thì chỉ cần 1 khoản vay ở nhóm 5 là các khoản khác cũng tự động chuyển
nhóm năm và năm 2013 có nợ xấu cao nhất, lý do là năm 2013 do khủng hoảng kinh tế



thế giới, kinh tế nước ta chịu ảnh hưởng nặng nề, các khoản vay ký hợp đồng với lãi suất
cố định, khi mặt bằng lãi suất thay đổi và khả năng cung ứng tín dụng bị siết chặt nhiều
khách hàng chấp nhận để quá hạn để có vốn kinh doanh và lãi suất quá hạn (bằng 150%
lãi suất thông thường) vẫn thấp hơn lãi suất vay mới.
Mặc dù nợ xấu được theo dõi tại nội bảng năm 2014 giảm nhiều, tỷ lệ nợ xấu thấp,
tuy nhiên tỷ trọng nợ xấu nhóm 5 vẫn cao và có nguy cơ tăng do tình hình kinh tế những
tháng đầu năm 2014 có nhiều biến động. Tuy nhiên, con số dư nợ xấu tại nội bảng giảm
xuống không đồng nghĩa với việc chất lượng của các khoản nợ phải thu từ phía khách
hàng được nâng lên. Vì vậy, để đánh giá một cách toàn diện về tình hình nợ xấu tại
Vietcombank –Quảng Ngãi ta cần xem xét đến các khoản nợ được theo dõi tại ngoại
bảng.
Bảng 1.6: Cơ cấu nợ ngoại bảng
Đơn vị tính: Tỷ đồng
Chỉ tiêu

2010

2011

2012

2013

2014

Dư nợ ngoại bảng

88


101

144

158

194

(Nguồn: Cân đối ngoại bảng 2010 – 2014)
Nợ ngoại bảng đã được xử lý bằng quỹ DPRR đến cuối năm 2010 là 88 tỷ
đồng, năm 2011 là 101, năm 2012 là 144 tỷ đồng, năm 2013 là 158 tỷ đồng, năm
2014 là 194 tỷ, tăng 22,7% so với năm 2013 trong đó nợ khó không thể thu là 178 tỷ
đồng, bao gồm:


Nợ Công ty Sản xuất Gỗ xuất khẩu Nam Phong giải thể chuyển sang là 29 tỷ đồng,
đây là khoản nợ không có đủ cơ sở pháp lý do hồ sơ, thủ tục bảo đảm tiền vay không
hợp lệ, hợp pháp để phát mại, thu hồi hoặc khách hàng không nhân nợ nên thiếu căn



cứ đòi nợ.
Nợ không còn con nợ hoặc không có tài sản đảm bảo để xử lý thu hồi nợ, tổng số 56 tỷ đồng,
cụ thể Công ty Vetex Quảng Ngãi 10,8 tỷ đồng, Công ty CP Lê An 8 tỷ đồng, Công ty
TNHH Minh Phượng 6,4 tỷ đồng, Công ty TNHH Hồng Hải Bình 6 tỷ đồng, Công ty TNHH
Phúc Hưng 5,6 tỷ đồng, Công ty TNHH Phúc Thịnh 4,2 tỷ đồng và một số khách hàng là cá


nhân.
‒ Nợ phát sinh tại Vietcombank – Quảng Ngãi là 93 tỷ đồng, chủ yếu các khách hàng là doanh

nghiệp nhà nước, vay không có tài sản bảo đảm, đang cơ cấu lại do chuyển đổi mô hình,
chuyển đổi chủ sở hữu, giải thể hoặc phá sản.
Tổng nợ xấu của chi nhánh đã có xu hướng giảm xuống, đây là một tín hiệu đáng
mừng nhất là trong tình hình nền kinh tế nói chung và hoạt động kinh doanh của các
doanh nghiệp nói riêng giai đoạn 2010 – 2014 vẫn còn gặp nhiều khó khăn. Tuy nhiên,
các khoản nợ ít có khả năng thu hồi lại có xu hướng tăng cao, buộc ngân hàng phải bù đắp
bằng quỹ dự phòng rủi ro, điều này sẽ trực tiếp ảnh hưởng tới kết quả kinh doanh của
ngân hàng. Ngoài ra, nợ xấu đã xử lý bằng quỹ dự phòng rủi ro không có dấu hiệu giảm
xuống cho thấy công tác quản lý nợ xấu của Chi nhánh còn chứa đựng nhiều bất cập.
1.8.3. Đánh giá tình hình nợ xấu tại Vietcombank – Quảng Ngãi
Qua phân tích các số liệu kế toán cũng như tình hình thực tế tại Vietcombank –
Quảng Ngãi ta thấy tình hình hoạt động chung của chi nhánh nhìn chung vẫn trong tình
trạng bình thường, thậm chí khá tốt so với các NHTM nói chung và trên địa bàn tỉnh
Quảng Ngãi nói riêng. Tuy nhiên, tình hình nợ xấu tại chi nhánh trong thời gian qua có xu
hướng tăng đáng kể (2010 – 2014) và dự báo có thể tăng trong thời gian đến. Chính vì
vậy, lãnh đạo chi nhánh cần tìm ra nguyên nhân, các nhân tố tác động đến nợ xấu tại chi
nhánh mình để có những quyết định quản lý, xử lý một cách thích hợp. Từ đó mới có thể
cải thiện hiệu quả hoạt động tại chi nhánh. Vấn đề quản lý nợ xấu tại chi nhánh cũng cần
chú ý ở nhiều khía cạnh như nợ nội bảng, ngoại bảng, thời gian phát sinh nợ xấu, ….


Chương 2
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NỢ XẤU
2.1. Tổng quan về nợ xấu tại các ngân hàng thương mại
2.1.1. Khái niệm nợ xấu
Nợ xấu thường được nhắc đến với các thuật ngữ như “bad debt”, “non-performing
loan”, “doubtful debt”, … thông thường nợ xấu được hiểu là những khoản nợ dưới chuẩn,
có thể quá hạn và bị nghi ngờ về khả năng trả nợ lẫn khả năng thu hồi vốn của chủ nợ,
điều này thường xảy ra khi người đi vay đã tuyên bố phá sản hoặc đã tẩu tán tài sản. Tuy
nhiên, hiện nay cũng đang tồn tại nhiều khái niệm về nợ xấu khác nhau tùy theo quan

điểm của từng nhà nghiên cứu. Có thể nhắc tới một số khái niệm tương đối phổ biến sau
đây:


Khái niệm của nhóm chuyên gia tư vấn Advisory Expert Group (AEG) (Friedrich Ebert
Stiftung, 2013): nhóm chuyên gia tư vấn AEG của liên hiệp quốc cho rằng định nghĩa về
nợ xấu không nên mang tính chất mô tả mà chỉ nên được sử dụng như hướng dẫn cho các
ngân hàng. AEG thống nhất định nghĩa như sau: Một khoản nợ được coi là nợ xấu khi quá
hạn trả lãi và/hoặc gốc trên 90 ngày; hoặc các khoản lãi chưa trả từ 90 ngày trở lên đã
được nhập gốc, tái cấp vốn hoặc chậm trả theo thỏa thuận; hoặc các khoản phải thanh
toán đã quá hạn dưới 90 ngày nhưng có lý do chắc chắn để nghi ngờ về khả năng khoản
vay sẽ được thanh toán đầy đủ”. Nói cách khác, nợ xấu được căn cứ vào hai tiêu chí là

quá hạn trên 90 ngày và khả năng trả nợ bị nghi ngờ.
‒ Theo ngân hàng trung ương liên minh châu Âu: Nợ xấu bao gồm các khoản sau:
+ Khoản nợ không thể thu hồi được: Khoản nợ đã hết hiệu lực hoặc không có căn cứ để đòi
bồi thường, người mắc nợ bỏ trốn hoặc bị mất tích, không còn tài sản để thanh toán nợ;
khoản nợ mà ngân hàng không thể liên lạc được với người mắc nợ hoặc không thể tìm
được người mắc nợ; khoản nợ mà người đi vay đã chấm dứt hoạt động kinh doanh, thanh
lý tài sản, hoặc kinh doanh bị thua lỗ và tài sản còn lại không đủ để trả nợ.
+ Nợ có thể thu không thanh toán đầy đủ cho ngân hàng: Là những khoản nợ không có tài
sản thế chấp hoặc tài sản thế chấp không đủ trả nợ; những khoản nợ mà lãi hoặc gốc còn


thời hạn thanh toán nhưng người mắc nợ không liên lạc với ngân hàng để trả nợ, hoặc
hoàn cảnh chỉ ra rằng khoản nợ không thể thu hồi được đầy đủ.
‒ Theo Uỷ ban Basel về giám sát ngân hàng (BCBS) (Friedrich Ebert Stiftung, 2013):
BCBS không đưa ra định nghĩa cụ thể về nợ xấu. Tuy nhiên, trong các hướng dẫn về các
thông lệ chung tại nhiều quốc gia về quản lý rủi ro tín dụng, BCBS xác định việc khoản
nợ bị coi là không có khả năng hoàn trả khi một trong hai hoặc cả hai điều kiện sau xảy

ra: (1) ngân hàng thấy người vay không có khả năng trả nợ đầy đủ khi ngân hàng chưa
thực hiện hành động gì để cố gắng thu hồi, (2) người vay đã quá hạn trả nợ đến quá 90
ngày.
Theo Basel II, các ngân hàng sẽ sử dụng các mô hình dựa trên hệ thống dữ liệu nội
bộ để xác định khả năng tổn thất tín dụng. Với mỗi kỳ hạn xác định tổn thất có thể ước
tính được tính toán dựa trên công thức như sau:
(1).
(Trong đó, PD – Xác suất khách hàng không trả được nợ, LGD – Tỷ trọng tổn thất
ước tính, EAD – Tổng dư nợ của khách hàng tại thời điểm khách hàng không trả được nợ,
EI – Tổn thất có thể ước tính).


Theo quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) (Friedrich Ebert Stiftung, 2013): Trong hướng dẫn để tính
toán các chỉ số lành mạnh tài chính tại các quốc gia thì đã đưa ra định nghĩa về nợ xấu:
“một khoản vay được coi là nợ xấu khi quá hạn thanh toán gốc hoặc lãi 90 ngày hoặc hơn;
khi các khoản lãi suất đã quá hạn 90 ngày hoặc hơn đã được vốn hóa, cơ cấu lại hoặc trì
hoãn theo thỏa thuận; khi các khoản thanh toán đến hạn dưới 90 ngày nhưng có thể nhận
thấy các dấu hiệu rõ ràng cho thấy người vay sẽ không thể hoàn trả đầy đủ. Sau khi khoản
vay được xếp vào danh mục nợ xấu, nó hoặc bất kỳ khoản vay thay thế nào cũng nên
được xếp vào danh mục nợ xấu cho tới thời điểm phải xóa nợ hoặc thu hồi được lãi và



gốc của khoản vay thay thế”.
Theo quan điểm của Việt Nam: Nợ xấu là những khoản nợ quá hạn nhưng ở cấp độ
nghiêm trọng hơn, do đó được gọi là nợ xấu. Nợ xấu có thể gây ảnh hưởng nặng nề đến
hoạt động kinh doanh của ngân hàng nên nó cần được theo dõi, quản lý chặt chẽ (Nguyễn
Đăng Dờn, 2012). Theo quy định phân loại nợ xấu (NHNN, 2007), trích lập và sử dụng
dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của TCTD và quyết định của



NHNN số 18/2007/QĐ – NHNN ngày 25/04/2007 về việc sửa đổi, bổ sung một số điều
của quyết định số 493/2005/QĐ – NHNN ngày 22/04/2005 của thống đốc NHNN cho
rằng:
+ “Nợ” bao gồm các khoản cho vay, ứng trước, thấu chi và cho thuê tài chính; các khoản
chiết khấu, tái chiết khấu thương phiếu và giấy tờ có giá khác, các khoản bao thanh toán,
các hình thức tín dụng khác.
+ “Nợ quá hạn” là khoản nợ mà một phần hoặc toàn bộ nợ gốc và/hoặc lãi đã quá hạn.
+ “Nợ xấu” là các khoản nợ thuộc các nhóm 3,,4,5 bao gồm nợ dưới tiêu chuẩn, nợ nghi
ngờ, nợ có khả năng mất vốn. Tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ là tỷ lệ để đánh giá chất lượng
tín dụng của TCTD.
2.1.2. Tác động của nợ xấu
2.1.2.1. Đối với các NHTM
Nợ xấu làm giảm lợi nhuận của các NHTM, nợ xấu phát sinh đồng nghĩa với việc
một phần vốn kinh doanh của ngân hàng bị tồn đọng trong các khoản nợ, ngân hàng mất
đi cơ hội làm ăn khác, giảm vòng quay vốn, giảm doanh số cho vay của ngân hàng, từ đó
làm giảm hiệu quả sử dụng vốn (Nguyễn Đăng Dờn, 2011). Khi nợ xấu tăng thì thu nhập
của ngân hàng giảm do không thu hồi được nợ và phát sinh thêm các chi phí khác như chi
phí trích lập dự phòng, chi phí quản lý, xử lý nợ xấu. Ngoài ra nếu nợ xấu cao thì ngân
hàng có thể bị NHNN đưa vào giám sát đặc biệt, hạn chế khả năng mở rộng và kinh
doanh.
Nợ xấu làm ảnh hưởng tới khả năng thanh khoản và kế hoạch kinh doanh của ngân
hàng. Do hiện tại hoạt động chủ yếu của các ngân hàng thương mại là huy động tiền gửi
và cho vay. Khi các ngân hàng cho vay gặp rủi ro, thu hồi nợ khó khăn hoặc không thu
hồi đủ nợ vốn và lãi. Trong khi đó ngân hàng vẫn phải thanh toán đầy đủ, đúng hạn các
khoản tiền gửi. Sự mất cân đối trên ảnh hưởng rất lớn tới tình hình thanh khoản cũng như
kế hoạch kinh doanh của ngân hàng.
Nợ xấu làm giảm uy tín của ngân hàng. Do hoạt động kinh doanh chủ yếu bằng
tiền của người khác nên tỷ lệ nợ xấu của ngân hàng cao tức là chất lượng tín dụng của
ngân hàng thấp. Ngân hàng gặp vấn đề thiếu thanh khoản, làm mất lòng tin đối với người

gửi tiền, gây áp lực cho việc thu hút thêm khách hàng mới và giữ chân khách hàng cũ,


làm giảm đáng kể các quan hệ giao dịch của ngân hàng, gây áp lực nặng nề lên nguồn vốn
huy động để cho vay. Đối với NHTM có niêm yết cổ phiếu trên thị trường chứng khoán
thì với tỷ lệ nợ xấu cao sẽ ảnh hưởng đến giá trị tài sản của ngân hàng trên thị trường, ảnh
hưởng đến tâm lý của nhà đầu tư. Nếu tỷ lệ nợ xấu cao thì uy tín của ngân hàng giảm sút,
là bất lợi trong cạnh tranh, trong quá trình hội nhập và phát triển.
2.1.2.2. Đối với nền kinh tế
NHTM là doanh nghiệp đặc biệt trong nền kinh tế, hoạt động của nó nói chung
cũng như nợ xấu nói riêng có ảnh hưởng rất lớn đến nền kinh tế. Nợ xấu tăng có tác động
gián tiếp đến nền kinh tế thông qua mối quan hệ hữu cơ ngân hàng – khách hàng – nền
kinh tế. Khi nợ xấu phát sinh sẽ làm hạn chế khả năng khai thác và đáp ứng vốn, dịch vụ
của ngân hàng cho nền kinh tế. Mặt khác nếu nợ xấu phát sinh do khách hàng hoặc doanh
nghiệp sản xuất kinh doanh kém hiệu quả sẽ tác động đến toàn bộ nền kinh tế vì nguồn
vốn bị ứ đọng và việc sản xuất bị đình truệ, gây ra những tác động xã hội như việc làm,
thất nghiệp gia tăng. Ngoài ra, kinh phí để xử lý nợ xấu cũng gây ra gánh nặng cho ngân
sách. Nợ xấu tăng cao đến mức tự bản thân ngân hàng không thể xử lý và phải trông cậy
vào ngân sách sẽ dẫn đến bội chi ngân sách làm xuất hiện rủi ro lạm phát và gây bất ổn
nền kinh tế.
2.2. Các nhân tố tác động đến nợ xấu tại ngân hàng thương mại
2.2.1. Giới thiệu một số nghiên cứu về nợ xấu ở các nước
(1). Keeton & Morris (1987): Nghiên cứu xem xét các nhân tố gây tổn thất trong
hoạt động cho vay. Đây là một trong những nghiên cứu đầu tiên xem xét vấn đề này.
Trong bài báo cáo nghiên cứu, hai tác giả đã đánh giá thiệt hại của 2470 NHTM trong
thời gian 1979 – 1985 tại Mỹ theo phương pháp hồi quy. Tác giả đã đưa ra các nguyên
nhân chính là điều kiện kinh tế địa phương cùng với sự yếu kém của quản lý là nhân tố
gây ra thiệt hại, rủi ro lớn trong các ngân hàng thương mại.
(2). Berger, A., N. and Young, R., D. (1997): Sử dụng phương pháp quan hệ nhân quả
Granger kiểm tra bốn biến liên quan đến mối quan hệ giữa chất lượng cho vay, hiệu quả

chi phí và vốn ngân hàng. Tác giả đưa ra 04 biến tác động là rủi ro không kiểm soát được,
rủi ro xảy ra do hoạt động của ngân hàng – hoạt động quản lý yếu kém, kiểm soát tín


dụng nội bộ của các ngân hàng và rủi ro đạo đức. Kết quả cho thấy các nhân tố rủi ro xảy
ra do hoạt động của ngân hàng – hoạt động quản lý yếu kém, kiểm soát tín dụng nội bộ
của ngân hàng và rủi ro đạo đức là có tác động đến chất lượng cho vay của ngân hàng.
Chất lượng cho vay của ngân hàng là nguyên nhân cơ bản tác động đến hiệu quả chi phí
và vốn ngân hàng.
(3). Keeton, William R. (1999): Phân tích dữ liệu từ 260 NHTM tại Hoa Kỳ để tìm ra
mối quan hệ giữa tăng trưởng tín dụng và rủi ro các khoản vay. Nghiên cứu chỉ ra rằng sự
gia tăng trong tăng trưởng tín dụng có khả năng dẫn đến tổn thất cho vay cao do các ngân
hàng giảm bớt các tiêu chuẩn tín dụng để có thể cho khách hàng vay. Chính điều này là
nguyên nhân xuất hiện con số nợ xấu sau này.
(4).Ranjan & Dhal (2003): Sử dụng phân tích hồi quy với dữ liệu bảng cho rằng điều
kiện kinh tế vĩ mô (tốc độ tăng trưởng GDP) và điều kiện kinh tế vi mô (điều khoản tín
dụng, quy mô ngân hàng, chính sách tín dụng và lãi suất cho vay) tác động rất lớn đến tỷ
lệ nợ xấu của NHTM ở Ấn Độ.
(5). Fofack, Hippolyte (2005): Sử dụng quan hệ nhân quả Granger và mô hình dữ liệu
bảng tìm hiểu những nhân tố gây ra nợ xấu trong vùng Sahara Châu Phi trong những năm
1990. Kết quả tăng trưởng kinh tế, tỷ giá hối đoái thực, lãi suất thực, tỷ lệ lợi nhuận lãi
thuần, tỷ lệ lợi nhuận trên tài sản (ROA) và lãi từ các khoản vay liên ngân hàng là yếu tố
quyết định quan trọng của nợ xấu tại các nước này.
(6). Hu, Jin – Li, Yang Li & Yung – Ho, Chiu (2006): Phân tích mối quan hệ giữa nợ
xấu và cơ cấu sở hữu của 40 ngân hàng thương mại tại Đài Loan với một bộ dữ liệu bảng
trong giai đoạn 1996 – 1999. Nghiên cứu cho thấy các ngân hàng có tỷ lệ sở hữu nhà
nước cao hơn thì tỷ lệ nợ xấu thấp hơn. Hu và cộng sự cũng cho thấy quy mô của ngân
hàng ảnh hưởng tiêu cực đến nợ xấu.
(7). Abhiman Das & Saibal Ghosh (2007): Sử dụng phương pháp ước lượng GMM
(Generalized Method of Moments) để kiểm tra các biến kinh tế vĩ mô và biến kinh tế vi

mô ảnh hưởng đến các khoản vay có vấn đề của các ngân hàng Ấn Độ trong giai đoạn
1994 – 2005. Kết quả cho thấy cả yếu tố vĩ mô và yếu tố vi mô đều có ảnh hưởng đến các
khoản vay có vấn đề.


Ở cấp độ vĩ mô là khủng hoảng tài chính làm nền kinh tế chậm phát triển, do đó
ảnh hưởng đến rủi ro tín dụng. Khi nền kinh tế sụt giảm, thu nhập của doanh nghiệp và hộ
gia đình giảm nên họ khó khăn trong việc hoàn trả nợ vay cho ngân hàng. Kinh tế sụt
giảm thể hiện qua sự sụt giảm của GDP.
Ở cấp độ vi mô thể hiện qua những khía cạnh sau:


Kinh nghiệm và khả năng xử lý của cán bộ tín dụng từ những vụ vỡ nợ trong quá
khứ:Nghĩa là nhân viên càng có kinh nghiệm họ sẽ càng có năng lực trong việc nhận biết

rủi ro đối với cấp tín dụng cho khách hàng.
‒ Tài sản thế chấp: Sự tăng giá nhanh chóng của tài sản thế chấp làm tăng khoản cấp tín
dụng của ngân hàng dựa trên giá trị tài sản. Khi giá trị tài sản thế chấp suy giảm đột ngột
trong thời kỳ khủng hoảng thì ngân hàng nếu có xử lý tài sản vẫn không thể thu đủ khoản
tín dụng đã cấp cho khách hàng, do đó nợ xấu xảy ra.
‒ Sự cạnh tranh giữa các ngân hàng: Cạnh tranh đòi hỏi các nhà quản trị phải thay đổi cách
thức kinh doanh, lựa chọn khách hàng dễ dàng hơn với những điều kiện thiếu chặt chẽ
hơn và tiềm ẩn rủi ro tín dụng trong tương lai. Một số nhà quản trị vẫn chọn một số dự án
có NPV âm để cho vay vì mục đích thu nhập mang lại trong ngắn hạn và kết quả là phát
sinh những khoản nợ có vấn đề trong tương lai.
(8). Dimitrios, Angelos, Vasilios (2010): Sử dụng phương pháp hồi quy để xác định mức
độ tác động của các nhân tố đến nợ xấu trong các NHTM tại Hy Lạp. Dữ liệu được thu
thập từ 9 NHTM lớn nhất của Hy Lạp. Kết quả nghiên cứu cho thấy có 02 nhóm nhân tố
chính tác động đến nợ xấu tại các NHTM theo mức độ ảnh hưởng giảm dần như sau:



Nhân tố nội tại của ngân hàng thương mại: Đề cập đến một số khía cạnh như khả năng
quản lý yếu kém, trình độ chuyên môn của nhân viên chưa cao, đạo đức nghề nghiệp của

nhân viên ngân hàng, chính sách quản lý và cho vay, …
‒ Nhân tố vĩ mô: Đề cập đến một số khía cạnh như lãi suất, tổng sản phẩm, tình trạng thất
nghiệp, thu nhập của người dân địa phương, …
(9). Irum Saba, Rehana Kouser & Muhammad Azeem (2012): Sử dụng mô hình hồi
quy tuyến tính đa biến để đánh giá các nhân tố tác động đến nợ xấu của các ngân hàng
Mỹ giai đoạn từ 1985 – 2010. Nghiên cứu chỉ ra rằng các yếu tố vĩ mô như lãi suất, GDP
có mối liên hệ với nợ xấu.


(10). Roberto Blanco & Ricardo Gimeno (2012): Sử dụng dữ liệu bảng của 50 tỉnh ở
Tây Ban Nha giai đoạn 1984 – 2009. Tác giả đã phân tích các yếu tố quyết định khả năng
trả nợ của các hộ gia đình ở Tây Ban Nha. Các yếu tố được xem xét là giá trị của khoản
vay, số hộ gia đình vay vốn, hình thức vay (có bảo đảm hoặc không có bảo đảm), mục
đích vay vốn, tài sản thế chấp và các yếu tố vĩ mô khác: tăng trưởng tín dụng, tỷ lệ thất
nghiệp, lãi suất.
(11). Muhammad Farhan & ctg (2012): Nghiên cứu này cung cấp nhận thức của các
ngân hàng Pakistan liên quan đến các yếu tố tác động đến nợ xấu trong lĩnh vực ngân
hàng Pakistan từ năm 2006. Tác giả sử dụng phương pháp phân tích hồi quy để phân tích
các tác động của các biến độc lập được lựa chọn (lãi suất, khủng hoảng năng lượng, thất
nghiệp, lạm phát, tăng trưởng GDP và tỷ giá) lên nợ xấu của ngành ngân hàng Pakistan.
Theo kết quả phân tích thì các ngân hàng Pakisttan nhận thấy rằng lãi suất, khủng hoảng
năng lượng, thất nghiệp, lạm phát và tỷ giá có mối quan hệ tích cực với nợ xấu của ngành
ngân hàng Pakistan. Nghiên cứu này cũng thảo luận về cách các khoản vay tốt đang trở
thành khoản nợ xấu do thiên tai trong khu vực năng lượng của Pakistan.
(12). Messai & Jouini (2013): Sử dụng phương pháp dữ liệu bảng để phát hiện các yếu tố
quyết định nợ xấu với số liệu của 85 ngân hàng tại 03 quốc gia là Italy, Hi Lạp và Tây

Ban Nha giai đoạn 2004 – 2008. Kết quả là nợ xấu có mối quan hệ ngược chiều với tốc độ
tăng trưởng GDP và khả năng sinh lời của tài sản ngân hàng, nợ xấu có mối quan hệ cùng
chiều với tỷ lệ thất nghiệp, tỷ lệ nợ xấu trên tổng nợ và lãi suất thực.
2.2.2. Giới thiệu một số nghiên cứu về nợ xấu tại Việt Nam
(1). Phạm Phú Nhân (2011): Nguyên nhân phát sinh rủi ro tín dụng của các NHTM tại
Vĩnh Long, với phương pháp hỗn hợp vừa định tính khám phá những nguyên nhân chủ
yếu và định lượng để kiểm định lại các nguyên nhân và mức độ ảnh hưởng của từng
nguyên nhân trong mô hình nghiên cứu đề xuất. Dữ liệu thu thập tại 20 ngân hàng trên
địa bàn tỉnh Vĩnh Long.
Qua nghiên cứu tác giả đã đưa ra 5 nguyên nhân chính là áp dụng chỉ tiêu, quy
định quản lý tài sản tại địa phương, khách hàng chưa hợp tác và phê duyệt, kiểm soát
thiếu chặt chẽ, ảnh hưởng môi trường kinh tế vĩ mô, chính sách cho vay thiếu khoa học.


(2). Huỳnh Thị Thu Hiền (2012): Những nhân tố ảnh hưởng đến nợ xấu của các chi
nhánh ngân hàng thương mại trên địa bàn tỉnh Vĩnh Long, luận văn thạc sỹ kinh tế.
Luận văn nghiên cứu các nhân tố tác động đến nợ xấu tại các NHTM trên địa bàn
tỉnh Vĩnh Long. Đề tài đã sử dụng mô hình hồi quy đa biến để ước lượng mức độ ảnh
hưởng của những nhân tố ảnh hưởng đến nợ xấu. Tác giả đưa ra 08 nhân tố chính tác
động đến nợ xấu là lãi suất, số tiền vay, giá trị tài sản bảo đảm cho số tiền vay, kinh
nghiệm của người quản lý doanh nghiệp, trình độ học vấn của khách hàng, mức độ ổn
định của thị trường, lợi nhuận, khả năng vốn tự có tham gia. Qua đó phân tích dữ liệu kết
quả cho thấy có 02 nhóm nhân tố chính là nhân tố từ phía khách hàng đi vay, nhân tố từ
phía ngân hàng cho vay tác động đến nợ xấu của các chi nhánh NHTM trên địa bàn tỉnh
Vĩnh Long.
(3). Lý Thị Ngọc Quyên (2012): Phân tích những nhân tố tác động đến nợ xấu tại các
NHTM Việt Nam trên địa bàn TP. HCM, luận văn thạc sỹ kinh tế.
Luận văn nghiên cứu về những nhân tố tác động đến nợ xấu tại các NHTM Việt
Nam trên địa bàn TP. HCM. Tác giả phân tích, đánh giá thực trạng nợ xấu tại các NHTM
Việt Nam trên địa bàn TP. HCM giai đoạn từ 2007 đến quý I năm 2012. Kết quả phân

tích nhân tố khám phá (EFA) với phần mềm SPSS 20.0 đã chỉ ra 05 nhân tố tác động đến
nợ xấu của các NHTM Việt Nam trên địa bàn TP. HCM là nhân tố tự bản thân ngân hàng,
nhân tố từ phía khách hàng đi vay, nhân tố môi trường kinh doanh và chính sách nhà
nước, nhân tố ngân hàng hậu tăng trưởng nóng. Qua đó tác giả cũng đề ra một số giải
pháp khắc phục tình trạng gia tăng nợ xấu tại các NHTM Việt Nam trên địa bàn TP.
HCM.
2.2.3. Đề xuất mô hình nghiên cứu các nhân tố tác động đến nợ xấu tại ngân hàng
thương mại
Dựa trên cơ sở một số lý thuyết liên quan về nợ xấu tại các NHTM, các nghiên cứu
trên thế giới và trong nước về vấn đề nợ xấu tại các ngân hàng thương mại, tác giả đề xuất
mô hình nghiên cứu các nhân tố tác động đến nợ xấu tại NHTMCP Ngoại thương Việt
Nam – Chi nhánh Quảng Ngãi dựa theo nghiên cứu của Dimitrios, Angelos, Vasilios
(2010) gồm 02 nhân tố là nhân tố từ phía ngân hàng và nhân tố vĩ mô. Bên cạnh đó, bổ


sung nhân tố từ phía khách hàng của Huỳnh Thị Thu Hiền (2012), Lý Thị Ngọc Quyên
(2012). Mô hình nghiên cứu đề xuất như sau:
Nhân tố từ phía khách hàng

H1+

H2+
Nhân tố từ phía ngân hàng

Nợ xấu tại Vietcombank – Quảng Ngãi

H3+
Nhân tố vĩ mô

Hình 2.1: Mô hình nghiên cứu đề xuất

Trong đó:


Nợ xấu tại NHTM
Được định nghĩa dựa theo khái niệm nợ xấu (theo quan điểm của ngân hàng trung

ương liên minh châu Âu, đã được nêu ở mục 2.1.1). Theo đó, nợ xấu bao gồm các khoản
sau. Thứ nhất, khoản nợ không thể thu hồi được. Đó là, khoản nợ đã hết hiệu lực hoặc
không có căn cứ để đòi bồi thường, người mắc nợ bỏ trốn hoặc bị mất tích, không còn tài
sản để thanh toán nợ; khoản nợ mà ngân hàng không thể liên lạc được với người mắc nợ
hoặc không thể tìm được người mắc nợ; khoản nợ mà người đi vay đã chấm dứt hoạt
động kinh doanh, thanh lý tài sản, hoặc kinh doanh bị thua lỗ và tài sản còn lại không đủ
để trả nợ. Thứ hai, nợ có thể thu không thanh toán đầy đủ cho ngân hàng. Đó là, những
khoản nợ không có tài sản thế chấp hoặc tài sản thế chấp không đủ trả nợ; những khoản
nợ mà lãi hoặc gốc còn thời hạn thanh toán nhưng người mắc nợ không liên lạc với ngân
hàng để trả nợ, hoặc hoàn cảnh chỉ ra rằng khoản nợ không thể thu hồi được đầy đủ.


Nhân tố từ phía ngân hàng
Nhân tố từ phía ngân hàng được đánh giá trên một số nội dung sau:




Thiếu sự kiểm tra, giám sát sau khi cho vay: Sự lơi lỏng trong quá trình giám sát trước,
trong và sau khi cho vay, làm cho ngân hàng không phát hiện kịp thời dù vốn đã bị sử
dụng sai mục đích (Nguyễn Đăng Dờn, 2012).
Thông thường việc kiểm tra tình hình sử dụng vốn của khách hàng rất quan trọng
ngay cả trước, trong và sau cho vay. Nếu khách hàng sử dụng đúng với mục đích như
cam kết sẽ hạn chế được phát sinh nợ quá hạn do đánh giá nguồn trả nợ ngay từ ban đầu.

Khi đó, ngân hàng sẽ xem xét tăng mức cấp tín dụng cho khách hàng để đáp ứng nhu
cầu vốn lưu động thiếu hụt hoặc nhu cầu đầu tư. Nếu khách hàng không sử dụng
đúng mục đích mà không thông thạo thì dễ bị thua lỗ và không thanh toán được khoản
nợ khi đến hạn làm phát sinh nợ quá hạn tại ngân hàng. Khi đó, ngân hàng kịp thời
thu hẹp tín dụng, không cho vay thêm hoặc cho vay có điều kiện. Do đó, sẽ hạn chế
được rủi ro cho cả ngân hàng và khách hàng.
Tuỳ thuộc vào quy mô khoản vay, loại hình cấp tín dụng mà mỗi ngân hàng quy
định tần suất kiểm tra cho phù hợp, thông thường kiểm tra chứng từ trong vòng 30 ngày
và kiểm tra thực tế tối thiểu 3 tháng/lần sau khi giải ngân. Trên thực tế, không phải
trường hợp nào cán bộ tín dụng cũng kiểm tra đúng quy định, đôi khi 12 tháng mới kiểm
tra một lần hoặc việc kiểm tra mang tính chất thủ tục, đối phó, chiếu lệ nên không theo
sát tình hình khách hàng, làm tăng rủi ro.



Chính sách tín dụng của ngân hàng không phù hợp hoặc không được chấp hành nghiêm
túc: Ngân hàng không chấp hành nghiêm túc chế độ tín dụng và điều kiện cho vay. Vấn
đề cung ứng tín dụng quá mức cho các thành viên HĐQT và các cổ đông lớn, hoặc cho
những người thân hoặc cho các quan hệ riêng tư khác. Đây là nhân tố khá phổ biến ở
những nước đang phát triển. Vi phạm nguyên tắc tín dụng xuất phát từ các hành vi tiêu
cực trong tiến trình cho vay.
Tuỳ thuộc vào mục tiêu kinh doanh, “khẩu vị” rủi ro mà mỗi ngân hàng xây dựng
chính sách tín dụng. Thực tế, trong thời gian qua, khách hàng không đủ điều kiện vay tại
ngân hàng lớn sẽ nộp hồ sơ ở ngân hàng nhỏ hơn và được chấp nhận vay. Trước áp lực
kinh doanh và cạnh tranh, gay gắt trong ngành, các ngân hàng phải luôn điều chỉnh
chính sách tín dụng và nếu không cẩn trọng sẽ dẫn đến rủi ro.





Chất lượng thẩm định thấp: Công tác thẩm định, đánh giá khách hàng và dự án, phương
án vay vốn rất quan trọng trong quá trình cho vay. Công việc này cần xác định nhiều
nguồn thông tin và đánh giá khách hàng tương đối chính xác. Chỉ cần một thông tin
không xác định có thể dẫn đến việc đánh giá khách hàng không đúng và khả năng nợ quá
hạn xảy ra là rất cao. Hiện nay, công tác đánh giá khách hàng tại các NHTM chủ yếu
dựa vào cảm tính chủ quan của nhân viên tín dụng và thu thập được qua báo chí,
internet và từ khách hàng cung cấp. Có trường hợp giải ngân trước tiến độ thực hiện dự án
nên toàn bộ vốn vay đã chi ra mà công trình vẫn còn dang dở chưa hoàn thành. Cho
vay dự án nhưng giấy tờ pháp lý về quyền sử dụng đất chưa hoàn chỉnh dẫn đến trường



hợp cho vay thêm vốn để hoàn chỉnh thủ tục chủ quyền đất làm TSĐB tiền vay.
Công tác kiểm tra, quản lý và giám sát đối với TSĐB: Do thiếu nguồn thông tin chính
xác, trung thực về tình hình hoạt động và tài chính của khách hàng, một số NHTM có xu
hướng chú trọng toàn bộ vào TSĐB để làm cơ sở cấp tín dụng và TSĐB là “phao” cứu
cánh cuối cùng khi rủi ro tín dụng phát sinh. Chính vì dựa quá nhiều vào TSĐB nên
CBTD và cấp thẩm quyền phán quyết không chú trọng phân tích đánh giá tính khả thi,
hiệu quả của phương án, dự án kinh doanh, năng lực tài chính thực sự của khách hàng,
kinh nghiệm quản lý... Hiện nay việc xử lý TSĐB để thu hồi nợ gặp nhiều khó khăn và
mất nhiều thời gian, do vậy tổn thất xảy ra cho NHTM là rất lớn. Mặt khác hầu hết các
khoản cấp tín dụng hiện nay của các NHTM là phải có TSĐB, trong đó bất động sản là
TSĐB chính của các ngân hàng. Nền kinh tế suy thoái và thị trường bất động sản trầm
lắng, nhiều khách hàng không trả nợ được cho ngân hàng, ngân hàng cũng không trực
tiếp kinh doanh bất động sản (theo Luật tổ chức Tín dụng số 47/2010/QH12) gây rủi



ro cho ngân hàng.
Đạo đức nghề nghiệp kém: Kinh doanh ngân hàng dựa trên sự tin cậy và mức độ tín

nhiệm thì đạo làm nghề ngân hàng không chỉ cần thiết mà còn mang tính bắt buộc. Tuy
nhiên, do nhiều nguyên nhân mà một số cán bộ ngân hàng đã cấu kết với khách hàng để
che giấu sự thật, gian lận, cố ý làm trái quy định của NHNN, của NHTM. Mặc dù chưa có
số liệu công bố nhưng trong tổng số nợ xấu đó, một tỷ lệ không nhỏ nảy sinh từ vi phạm
đạo đức nghề nghiệp (PGS.TS Nguyễn Thị Mùi ,2012).




Cán bộ tín dụng làm việc thiếu trách nhiệm: Không làm đúng quy trình tín dụng, hạ thấp
tiêu chuẩn tín dụng là biểu hiện của thiếu trách nhiệm. Đây có thể do nhận thức chưa
đúng của CBTD, do tính cẩu thả, cả nể… Việc phân tích thông tin, đánh giá khách hàng
trong quá trình điều tra, thẩm định còn hời hợt, hình thức mang ý chí chủ quan, dẫn đến
việc tham mưu và quyết định cấp tín dụng sẽ kém chất lượng, hiệu quả thấp. Sự hiểu biết
về quy trình sản xuất, khoa học kỹ thuật, trình độ quản lý kinh tế trong các ngành nghề

liên quan đến vốn vay ngân hàng của CBTD chưa đáp ứng yêu cầu chuyên môn đặt ra.
‒ Thiếu thông tin thị trường: Ngân hàng thường gặp khó khăn về tính chính xác của thông
tin do khách hàng cung cấp. Thiếu thông tin khách hàng có thể sẽ dẫn đến thẩm định dự
án/phương án vay vốn không chính xác, đánh giá không đúng năng lực thật sự của khách
hàng, không phát hiện được những âm mưu lừa đảo.
‒ Thiếu chiến lược kinh doanh hiệu quả và bền vững: Thực tế, một số ngân hàng cho vay
theo tín hiệu thị trường, nếu thị trường đất đai sôi động thì cho vay kinh doanh bất động
sản… Vì vậy, nhiều quyết định kinh doanh chỉ dựa vào lợi ích ngắn hạn và khi môi
trường kinh doanh thay đổi, hoặc có biến động tiêu cực thì sẽ kéo theo những khoản nợ
lớn cho ngân hàng.
‒ Công tác quản trị và phòng ngừa rủi ro chưa được chú trọng: Một số ngân hàng dồn
vốn đầu tư vào những lĩnh vực nhạy cảm như bất động sản hoặc nhận thế chấp tài sản
là nhà cửa, đất đai. Trong khi đó công tác định giá tài sản chưa sát với thực tế, vượt quá
giá chuyển nhượng trên thị trường, không phòng ngừa rủi ro khi thị trường bất động sản



đóng băng, không lường trước được những rủi ro pháp lý liên quan đến bất động sản.
Năng lực điều hành của ban lãnh đạo trong việc xây dựng và thực thi chiến lược quản lý
nợ xấu: Nhà lãnh đạo cần có khả năng phân tích và phán đoán chính xác những thay đổi
trong môi trường kinh doanh tương lai, từ đó hoạch định chính xác các chiến lược, xác
định các chính sách, kế hoạch kinh doanh phù hợp thực tiễn và đặc điểm của ngân hàng
mình. Bên cạnh việc xây dựng chiến lược thì việc thực thi cũng quan trọng không kém.
Một chiến lược đúng đắn có thể không được thực thi một cách có hiệu quả. Điều này có
thể xuất phát từ cơ chế kiểm soát nội bộ yếu kém nhưng cũng có thể là do sự thiếu ý thức,



trình độ của nhà quản lý, nhân viên tín dụng.
Hệ thống xếp hạng nội bộ tín dụng khách hàng: Việc xếp hạng tín dụng nội bộ khách
hàng của các NHTM mang tính chất chủ quan. Các ngân hàng chưa xây dựng thước đo


lượng hóa rủi ro nên chưa tính toán chính xác được yếu tố này dẫn đến quyết định cho
vay, phân loại nợ chưa chính xác. Những khoản rủi ro to được làm bé đi, khoản vay bé thì
làm cho nó to lên. Bên cạnh đó, về phía các doanh nghiệp – đối tượng giải ngân vốn quan
trọng của các TCTD, theo nghiên cứu hiện có đến 90% là DNVVN, không ít doanh
nghiệp có BCTC không chính xác, trong khi phần lớn các BCTC này lại không được
kiểm toán. Ngay cả đối với những doanh nghiệp lớn được kiểm toán thì sự chậm trễ trong
việc công bố báo cáo cũng như chất lượng kiểm toán cũng gây không ít khó khăn cho
ngân hàng.
‒ Sự hợp tác giữa các ngân hàng còn lỏng lẽo, thiếu chia sẻ thông tin dẫn đến ngân hàng
có quyết định sai lầm khi cấp tín dụng cho khách hàng: Mức độ ứng dụng công nghệ
trong phát triển sản phẩm và tính liên kết sản phẩm, dịch vụ ngân hàng còn thấp (đặc biệt
giữa các sản phẩm huy động, cho vay và thanh toán) khiến cho tiện ích ngân hàng chưa

cao, các dịch vụ ngân hàng điện tử và kênh phân phối điện tử đang phát triển mạnh nhưng
còn tồn tại nhiều hạn chế như chất lượng tiện ích và hiệu quả kinh tế chưa cao.
Mỗi ngân hàng khi cho vay đều quyết định độc lập dựa vào hồ sơ khách hàng cung
cấp, dẫn đến tình huống có nhiều ngân hàng cũng cho vay một khách hàng và có khả năng
tổng mức cho vay của các ngân hàng vượt quá nhu cầu của khách hàng. Các ngân hàng
chưa có bất kỳ sự chia sẻ thông tin nào với nhau về việc tài trợ vốn tín dụng cho cùng một
khách hàng. Như vậy, rủi ro xảy ra là rất lớn cho tất cả các ngân hàng.


Hệ quả tất yếu của quá trình tăng trưởng tín dụng quá nóng: Chính sách tín dụng không
hợp lý, quá đặt nặng vào mục tiêu lợi nhuận dẫn đến tăng trường tín dụng nóng hoặc cho
vay không tập trung vào những lĩnh vực có rủi ro cao. Tăng trưởng tín dụng nóng và nợ
xấu phát sinh sẽ có độ trễ thời gian, độ trễ thời gian tính từ thời điểm tăng trưởng tín dụng
nóng và thời điểm phát sinh nợ xấu tùy thuộc vào thời hạn của các khoản tín dụng (Phan



Thị Thu Hà, 2009).
Tình trạng sở hữu chéo: Hệ thống ngân hàng với doanh nghiệp tại Việt Nam đã hình
thành một mạng lưới sở hữu chéo và cho vay theo quan hệ rất phức tạp, nhằm mục đích
thâu tóm ngân hàng, thu xếp vốn cho những dự án đầu tư chưa minh bạch.
Hiện nay, luật pháp không cấm các ngân hàng sở hữu lẫn nhau, chỉ hạn chế tỷ lệ,
vì thế hàng loạt các NHTMNN lẫn NHTMCP, DNNN và doanh nghiệp tư nhân tham gia


sở hữu các ngân hàng . Theo đó, rất nhiều công ty lớn, đặc biệt là các tập đoàn kinh tế
Nhà nước và các tập đoàn cổ phần, dù không thuộc lĩnh vực tài chính nhưng hiện đang
đầu tư dài hạn với vai trò nhà sáng lập, nhà đầu tư chiến lược trong các NHTM. Hiện
không ít tập đoàn, tổng công ty Nhà nước và tư nhân cũng đang đầu tư, sở hữu chéo khi
họ có trong tay khá nhiều Ngân hàng.

Theo kết quả nghiên cứu của Dimitrios, Angelos, Vasilios (2010) thì nhân tố từ
phía ngân hàng có quan hệ đồng biến và tương đối chặt chẽ với nợ xấu tại NHTM. Từ cơ
sở đó, tác giả đề xuất giả thuyết H1 như sau:
H1: Nhân tố từ phía ngân hàng có quan hệ đồng biến với nợ xấu của Vietcombank
– Quảng Ngãi.


Nhân tố từ phía khách hàng
Nhân tố từ phía ngân hàng nhấn mạnh vào một số khía cạnh sau:



Tiềm lực tài chính yếu: Năng lực tài chính ảnh hưởng trực tiếp đến rủi ro tổng thể của
khách hàng. Trong các giao dịch đều tiềm ẩn rủi ro, nhưng với các khách hàng có tiềm
lực tài chính mạnh thì có khả năng chống chịu rủi ro rất tốt. Khi có tiềm lực tài chính
mạnh họ sẽ đủ sức cầm cự, bù đắp tổn thất và tìm hướng kinh doanh để có thể tiếp tục trụ
vững và phát triển. Còn nếu năng lực tài chính yếu, khách hàng rất dễ bị tổn thương khi
gặp rủi ro và làm ảnh hưởng đến khả năng trả nợ của khách hàng. Tình hình tài chính
doanh nghiệp yếu kém, thiếu minh bạch. Quy mô nguồn vốn chủ sở hữu nhỏ bé, cơ cấu
tài chính thiếu cân đối là đặc điểm chung của hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam. Công
tác quản lý tài chính kế toán còn tùy tiện, thiếu đồng bộ, mang tính đối phó, làm cho
thông tin ngân hàng có được không chính xác, chỉ mang tính chất hình thức. Do đó, khi
cán bộ ngân hàng lập các văn bản phân tích tài chính của doanh nghiệp dựa trên số liệu do
các doanh nghiệp cung cấp, thường thiếu tính thực tế và sai lệch quá nhiều, rủi ro xảy ra



là lẽ đương nhiên ( Nguyễn Đăng Dờn, 2012).
Sử dụng vốn sai mục đích: Là một trong những trường hợp gian lận xảy ra khá phổ biến
trong thực tế hiện nay. Việc không giám sát chặt chẽ của ngân hàng sau khi phát tiền

vay đã tạo điều kiện cho khách hàng sử dụng vốn vay sai mục đích, dẫn đến rủi ro
không thu hồi được nợ vay nếu khách hàng bị thua lỗ, phá sản.


Trong điều kiện thuận lợi, doanh nghiệp cố gắng vay càng nhiều càng tốt, thậm
chí ở mức lãi suất cao. Một lượng lớn vốn vay đã không được doanh nghiệp sử dụng
đúng lĩnh vực của mình, đầu tư vào các lĩnh vực ngoài ngành có lợi nhuận cao... Khi các
lĩnh vực này sụt giảm mạnh, nhiều doanh nghiệp mất khả năng trả nợ.


Cố tình lừa đảo, chiếm đoạt, bỏ trốn: Đa số các doanh nghiệp khi vay vốn ngân hàng đều
có các phương án kinh doanh cụ thể, khả thi, nếu không kiểm tra, phân tích xem, có thể bị
rủi ro. Số lượng doanh nghiệp sử dụng vốn sai mục đích, cố ý lừa đảo ngân hàng để
chiếm đoạt tài sản không nhiều, nhưng không phải không có, thậm chí có những vụ việc
phát sinh hết sức nặng nề và nghiêm trọng, liên quan đến uy tín của các cán bộ, làm ảnh



hưởng xấu đến các doanh nghiệp khác ( Nguyễn Đăng Dờn, 2012).
Thái độ thiếu thiện chí và bất hợp tác: Một số khách hàng có khả năng tài chính tốt nhưng
tỏ ra chây ỳ, không thực hiện nghĩa vụ trả nợ, không giao TSĐB cho ngân hàng trong
quá trình xử lý TSĐB, nhằm chiếm dụng hoặc chiếm đoạt vốn ngân hàng. Không ít vụ

án liên quan đến tín dụng mà nguyên nhân là do thiện chí của khách hàng.
‒ Trình độ, năng lực quản lý, điều hành kém của khách hàng: Năng lực quản lý kinh doanh
yếu kém cũng là lý do phát sinh rủi ro. Nhiều doanh nghiệp đầu tư vào nhiều lĩnh vực
vượt quá khả năng quản lý. Quy mô kinh doanh phình ra quá to so với tư duy quản lý, là
nguyên nhân dẫn đến sự phá sản của các phương án kinh doanh đầy khả thi mà lẽ ra nó
phải thành công trên thực tế (Nguyễn Đăng Dờn, 2012).
Một số doanh nghiệp sử dụng vốn ngắn hạn đầu tư vào cơ sở hạ tầng, tài sản cố

định làm cho vốn bị đọng gây ra nợ quá hạn cho ngân hàng. Mặt khác, có doanh nghiệp
kinh doanh quá nhiều, không tập trung, vượt quá khả năng quản lý vốn dẫn đến kinh
doanh thua lỗ, vốn bị thất thoát không trả được nợ ngân hàng.


Gian lận về số liệu, chứng từ: Quy định chưa chặt chẽ về chế độ BCTC của pháp luật
Việt Nam đã tạo điều kiện cho doanh nghiệp dễ dàng thực hiện gian lận khi lập BCTC
cung cấp cho ngân hàng nhằm có được một đánh giá tốt khi đi vay; lập chứng từ, giấy tờ

khống qua mặt ngân hàng …
‒ Sự bành trướng sang các lĩnh vực ngoài ngành của các doanh nghiệp nhà nước: Các
doanh nghiệp nhà nước là nhóm có nhiều thuận lợi hơn cả trong việc tiếp cận tín dụng và
chiếm tỷ trọng lớn trong tổng dư nợ tín dụng của nền kinh tế nói chung và của các NHTM


×