Tải bản đầy đủ (.doc) (179 trang)

Hoạt động thu hút khách du lịch hàn quốc tại thị trường du lịch hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.36 MB, 179 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hà Nội, thủ đô nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, là
trung tâm đầu não chính trị, hành chính quốc gia, trung tâm lớn về
văn hóa, giáo dục, kinh tế và giao dịch quốc tế của cả nước. Hà nội
mới có tổng diện hơn 3.344 km2, dân số hơn 6,2 triệu người, với
29 đơn vị hành chính cấp quận, huyện, nằm trong top 17 thành phố
lớn nhất thế giới. Hà Nội là một thành phố cổ đã được hình thành
và phát triển gần 1.000 năm với truyền thống văn hóa lâu đời, quy
tụ nhiều danh lam thắng cảnh nổi tiếng. Hà Nội đã là sự lựa chọn
của nhiều du khách khi đến Việt Nam, trong đó phải kể đến khách
du lịch Hàn Quốc.
Từ khi thiết lập quan hệ ngoại giao với Hàn Quốc, quan hệ
giữa hai nước trên các lĩnh vực ngày càng được củng cố và phát
triển, Hàn Quốc đã vươn lên thành nhà đầu tư số một tại Việt
Nam. Vài năm gần đây, ở Việt Nam đã xuất hiện “làn sóng Hàn
Quốc”, còn ở Hàn Quốc cái tên “Việt Nam” được nhắc đến ngày
càng nhiều với những sự tương đồng về văn hóa, sự thân thiện và
gần gũi của người dân. Đó là những tín hiệu tốt lành cho việc thúc
đẩy mối quan hệ giữa hai nước lên một tầm cao mới, là tiền đề
quan trọng cho hoạt động phát triển du lịch.
Khách du lịch Hàn Quốc trong những năm gần đây lựa chọn
Việt Nam nói chung, Hà Nội nói riêng như là điểm đến hấp dẫn
trong khu vực. Tuy nhiên hoạt động thu hút khách du lịch Hàn
Quốc còn chưa tương xứng với vị thế của du lịch Hà Nội, số lượng
1


doanh nghiệp tham gia vào thị trường này còn ít, thiếu nhiều
hướng dẫn viên tiếng Hàn Quốc,… Vì vậy, việc nghiên cứu một
cách đầy đủ, có hệ thống về các giải pháp nhằm thu hút khách du


lịch Hàn Quốc trên địa bàn Hà Nội là hết sức cần thiết cả về mặt lý
luận và thực tiễn. Với cách tiếp cận như trên tôi quyết định chọn đề
tài: “Hoạt động thu hút khách du lịch Hàn Quốc tại thị trường
du lịch Hà Nội” làm luận văn tốt nghiệp chuyên ngành Du lịch
học.
2. Mục tiêu, nội dung nghiên cứu đề tài
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài là nhằm nghiên cứu đặc
điểm tiêu dùng của khách du lịch Hàn Quốc, đánh giá điều kiện
thu hút khách và đề xuất giải pháp nhằm phát triển hoạt động thu
hút khách du lịch Hàn Quốc trong thời gian tới cho du lịch Hà
Nội dưới hai góc độ là cơ quan quản lý nhà nước về du lịch và các
doanh nghiệp du lịch.
Căn cứ vào mục tiêu đặt ra, luận văn tiến hành giải quyết
những nhiệm vụ nghiên cứu sau:
- Tổng quan về thị trường khách du lịch Hàn Quốc, tìm hiểu
nét đặc trưng và các sở thích tiêu dùng của khách du lịch Hàn
Quốc.
- Mối quan hệ hợp tác Việt Nam - Hàn Quốc, cơ sở cho hoạt
động thu hút khách du lịch Hàn Quốc.
- Tình hình khách du lịch Hàn Quốc đến Hà Nội.

2


- Điều kiện thu hút khách du lịch Hàn Quốc của Hà Nội.
- Đánh giá chung về hoạt động thu hút khách du lịch Hàn
Quốc tại thị trường du lịch Hà Nội.
- Quan điểm và mục tiêu phát triển của du lịch Hà Nội.
- Đề xuất một số giải pháp tăng cường thu hút khách du lịch
Hàn Quốc tại thị trường du lịch Hà Nội.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các hoạt động thu hút
khách du lịch Hàn Quốc tại thị trường du lịch Hà Nội.
Phạm vi nghiên cứu: luận văn giới hạn nghiên cứu hoạt
động thu hút khách du lịch trên địa bàn Hà Nội, các số liệu phục
vụ nghiên cứu tập hợp trong 5 năm từ năm 2003 đến 2007.
Về mặt nội dung: đề tài có xu hướng trở nên rất rộng, vì hoạt
động thu hút khách du lịch Hàn Quốc có sự tham gia của các cơ
quan quản lý nhà nước về du lịch, các hoạt động khai thác cụ thể
tại các doanh nghiệp du lịch với nhiều loại hình dịch vụ du lịch
phong phú, đa dạng. Do vậy, đề tài đã giới hạn phạm vi nghiên
cứu hoạt động thu hút khách du lịch Hàn Quốc tại Sở Văn hóa
Thể thao và Du lịch, và dưới góc độ doanh nghiệp đề tài tập trung
chủ yếu vào các doanh nghiệp kinh doanh lữ hành có tổ chức hoạt
động khai thác khách du lịch Hàn Quốc.

3


Về mặt không gian: nghiên cứu trường hợp điển hình cho
hoạt động thu hút khách du lịch Hàn Quốc trên địa bàn Hà Nội.
Về mặt thời gian: nghiên cứu tiến hành chủ yếu trong 5 năm
từ 2003 đến 2007 và đầu năm 2008. Các nghiên cứu được tiến
hành thường xuyên, đảm bảo tính cập nhật và khách quan của số
liệu và tư liệu thu thập.
4. Phương pháp nghiên cứu
Trong luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp luận: Phương pháp duy vật biện chứng và
phương pháp duy vật lịch sử.
- Phương pháp thu thập thông tin: Phương pháp thu thập

thông tin thứ cấp từ sách báo, tạp chí, báo cáo Sở Văn hóa Thể
thao và Du lịch Hà Nội, từ các thông tin do các doanh nghiệp
khách sạn - du lịch trên địa bàn cung cấp...; Phương pháp thu
thập thông tin sơ cấp: phương pháp điều tra, khảo sát thực tế, lấy
ý kiến chuyên gia của các cơ quan quản lý nhà nước, các viện
nghiên cứu ...
- Phương pháp phân tích tổng hợp: sử dụng các phương
pháp phân tích thống kê, phương pháp quy nạp,... từ đó tổng hợp
thành những vấn đề cốt lõi nhất, chung nhất, rút ra bài học kinh
nghiệm về hoạt động thu hút khách du lịch Hàn Quốc tại thị
trường Hà Nội.
5. Tổng quan các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài
4


Cho đến nay, đã có một số công trình nghiên cứu liên quan
đến đề tài, tác giả đã tiếp cận, kế thừa và hệ thống các kết quả đó
cho đề tài nghiên cứu của mình như:
- Đề tài khoa học cấp Bộ: “Một số giải pháp phát triển
nguồn khách du lịch Hà Nội” do GS. TS. Nguyễn Văn Đính và
nhóm nghiên cứu thực hiện (6/2000), Hà Nội;
- Đề tài khoa học cấp Bộ: “Một số giải pháp hoàn thiện
chiến lược phát triển thị trường du lịch nhằm thu hút khách du
lịch quốc tế đến năm 2010” do TS. Bùi Xuân Nhàn và nhóm
nghiên cứu thực hiện năm 2003;
- Đề tài khoa học cấp Bộ: “Một số giải pháp phát triển thị
trường khách du lịch Nhật Bản của Hà Nội” do PGS. TS Trần
Thị Minh Hòa và nhóm nghiên cứu thực hiện năm 2007;
- Đề tài khoa học cấp ngành: “Nghiên cứu và đánh giá một
số đặc điểm của thị trường Nhật Bản và Trung Quốc nhằm phát

triển nguồn khách của du lịch Việt Nam” do bà Nguyễn Quỳnh
Nga và nhóm nghiên cứu thực hiện năm 2001;
- Luận án tiến sĩ của Phạm Hồng Chương: “Một số giải
pháp nhằm khai thác, mở rộng thị trường du lịch quốc tế của các
doanh nghiệp lữ hành trên địa bàn Hà Nội”, 2001.
- Kết quả cuộc điều tra chi tiêu khách du lịch được Tổng cục
Thống kê tiến hành theo Quyết định số: 1083/QĐ-TCTK ngày 20
tháng 6 năm 2005 của Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê. Cuộc
điều tra này tiến hành trên địa bàn 26 tỉnh, thành phố trọng điểm
về du lịch với đối tượng điều tra là khách du lịch quốc tế và Việt
5


Nam đang nghỉ ở các cơ sở lưu trú du lịch tại các tỉnh, thành phố
này.
Và một số luận văn thạc sĩ khác nghiên cứu về nguồn khách
Nhật Bản, hoạt động xúc tiến du lịch Việt Nam vào thị trường
Pháp,…
Tuy nhiên cho đến nay chưa có công trình nghiên cứu cụ thể
về hoạt động thu hút khách du lịch Hàn Quốc tại thị trường Hà
Nội. Vì vậy, việc nghiên cứu thực trạng và đề xuất giải pháp phát
triển thị trường khách này trong thời gian tới có ý nghĩa rất thiết
thực cho ngành du lịch Hà Nội nói chung, các doanh nghiệp du
lịch nói riêng.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Luận văn cung cấp bức tranh tổng quát về thị trường khách
du lịch Hàn Quốc, về đặc điểm tiêu dùng của khách du lịch Hàn
Quốc, đánh giá mối quan hệ hợp tác giữa Việt Nam và Hàn Quốc
trên các lĩnh vực để làm cơ sở cho hoạt động thu hút khách du
lịch Hàn Quốc; phân tích điểm mạnh, điểm yếu, thuận lợi và khó

khăn trong hoạt động thu hút khách du lịch Hàn Quốc của Hà
Nội; từ đó đề xuất một số giải pháp, khuyến nghị nhằm tăng
cường thu hút thị trường khách du lịch Hàn Quốc đến Hà Nội.
7. Kết cấu luận văn

6


Với mục đích nghiên cứu, giới hạn phạm vi nghiên cứu và
phương pháp nghiên cứu ở trên, luận văn ngoài phần Mở đầu và
Kết luận nội dung được kết cấu thành 3 chương như sau:
Chương 1. Tổng quan về thị trường khách du lịch Hàn
Quốc và mối quan hệ hợp tác Việt Nam - Hàn Quốc
Chương 2. Thực trạng hoạt động thu hút khách du lịch
Hàn Quốc tại thị trường du lịch Hà Nội
Chương 3. Một số giải pháp tăng cường hoạt động thu hút
khách du lịch Hàn Quốc tại thị trường du lịch Hà Nội

7


Chương 1
TỔNG QUAN VỀ THỊ TRƯỜNG KHÁCH DU LỊCH HÀN QUỐC
VÀ MỐI QUAN HỆ HỢP TÁC VIỆT NAM - HÀN QUỐC

1.1. Một số đặc điểm về đất nước Hàn Quốc
1.1.1. Điều kiện tự nhiên
1.1.1.1. Vị trí địa lý
Hàn Quốc nằm trên Bán đảo Triều Tiên, một bán đảo trải
dài 1.000km từ Bắc tới Nam, ở phần Đông Bắc của lục địa châu

Á, nơi hải phận của bán đảo tiếp giáp với phần cực tây của Thái
Bình Dương. Phía Bắc bán đảo tiếp giáp với Trung Quốc và Nga.
Phía Đông của bán đảo là Biển Đông, xa hơn nữa là nước láng
giềng Nhật Bản. Ngoài bán đảo chính còn có hơn 3.200 đảo nhỏ.
Tổng diện tích của bán đảo Triều Tiên là 222.154 km 2, gần
bằng diện tích của Anh hay Romania riêng phần Hàn Quốc là
99.617 km2, đường biên giới dài 214 km, đường bờ biển dài 2.412
km [4, tr.7] .
Địa hình núi non chiếm khoảng hai phần ba diện tích lãnh
thổ, giống Thổ Nhĩ Kỳ, Hungary hoặc Ai-len. Dãy Taebaeksan
chạy suốt chiều dài bờ biển phía đông, nơi những con sóng của
Biển Đông đập mạnh vào núi đã tạo ra các vách đá dốc và các bãi
đá. Sườn phía Tây và phía Nam bán đảo bằng phẳng hơn, với
những vùng đồng bằng và rất nhiều đảo ở ngoài khơi tạo thành
8


những vịnh nhỏ. Bán đảo nổi bật với nhiều ngọn núi và dòng sông
kỳ vĩ, vì vậy người Hàn Quốc thường ví đất nước mình như một
tấm gấm thêu đẹp đẽ.
Núi Baekdusan ở miền Bắc bán đảo là ngọn núi cao nhất
với độ cao 2.744m so với mực nước biển và trải dài theo đường
biên giới phía Bắc tiếp giáp với Trung Quốc. Baekdusan là ngọn
núi lửa đã ngừng hoạt động, nơi một hồ nham thạch rộng đã được
hình thành với cái tên Cheonji. Ngọn núi này được coi là một biểu
tượng đặc biệt của tinh thần Hàn Quốc và được nhắc đến trong
bài quốc ca.
So với quy mô lãnh thổ, bán đảo Triều Tiên có số lượng
sông suối tương đối lớn. Hệ thống đường thủy này đóng một vai
trò hết sức quan trọng trong việc hình thành lối sống của người

Hàn Quốc và trong cả công cuộc công nghiệp hóa đất nước. Hai
con sông dài nhất ở Bắc bán đảo là Amnokgang (Yalu, 790km) và
Dumangang (Tumen, 521km). Hai con sông này đều bắt nguồn từ
ngọn núi Baekdusan rồi lần lượt đổ xuống theo hướng Tây và
Đông, tạo nên biên giới phía Bắc của bán đảo. Còn hai con sông
Nakdonggang (525km) và Hangang (494 km) tạo thành hai đường
thủy ở Nam bán đảo. Sông Hangang chảy ngang qua Seoul, thủ
đô của Hàn Quốc, được coi là con đường sinh mệnh cho dân cư
tập trung đông đúc ở khu vực trung tâm của đất nước Hàn Quốc

9


ngày nay, như nó đã từng giúp cho dân cư các vương quốc cổ đại
phát triển dọc theo hai bờ sông.
Bao quanh ba mặt của bán đảo, đại dương đóng một vai trò
quan trọng đối với cuộc sống của người Hàn Quốc từ ngàn xưa và
đã góp phần vào sự phát triển ngành công nghiệp đóng tàu và kỹ
năng hàng hải.
Thành phố lớn nhất Hàn Quốc là

Seoul,

dân số chính thức

khoảng trên 10 triệu người, nằm ở phía Tây Bắc. Những thành
phố lớn khác là

Incheon


(Nhân

Xuyên )

ở phía Tây Seoul,

Điền)

ở miền trung,

Khâu)

và Busan (Phủ San) ở phía Đông Nam.

Kwangju

Daejeon

(Quang Châu) ở phía Tây Nam,

10

Daegu

(Đại
(Đại


1.1.1.2. Khí hậu
Hàn Quốc có bốn mùa rõ rệt. Mùa xuân và mùa thu khá

ngắn, mùa hè nóng và ẩm ướt, mùa đông thì lạnh, khô và tuyết rơi
nhiều, đặc biệt là ở các khu vực miền núi, không phải dọc theo bờ
biển phía nam. Khí hậu cũng khác nhau tại các vùng trên đất
nước, với nhiệt độ trung bình từ 60C (430F) đến 160C (610F),
nhiệt độ trung bình vào tháng Tám, tháng nóng nhất trong năm là
từ 190C (660F) đến 270C (810F), trong khi đó nhiệt độ vào tháng
Giêng, tháng lạnh nhất trong năm từ -80C (170F) đến 70C (430F).
Khí hậu gió mùa đã đem lại cho Hàn Quốc một hệ động thực
vật phong phú. Theo thống kê năm 1946 ở bán đảo có 201 họ cây
trong đó có 1.102 loài, 3.347 chủng loại, 1.012 loài thân cây cao
trong đó có 400 loài đặc biệt. Về sông ngòi, ở Hàn Quốc có 6 con
sông lớn và con sông dài nhất là 790 km. Mùa hè nước sông lớn do
mưa nhiều còn các mùa khác tương đối khô.
Bờ biển dài, tương đối khúc khuỷu và cạn, độ sâu của biển
phía Nam là không quá 100m. Thềm lục địa nông cạn một bên tạo
thuận lợi cho việc đánh bắt cá nhưng lại gây cản trở cho việc đi
lại bằng đường thuỷ. Hàn Quốc với sự ưu đãi về thiên nhiên, các
con sông và biển với nhiều loài thuỷ sản, 14 loài cá lưỡng cư và
130 loài cá nước ngọt. Hệ động thực vật phong phú đã tạo cho đất
nước hoa thơm quả ngọt, quanh năm cây cối xanh tốt và nhiều
11


loại động vật quý hiếm. Trái lại, tài nguyên khoáng sản của Hàn
Quốc vô cùng nghèo nàn, trên khắp đất nước hầu như không có
loại khoáng sản nào có giá trị để phục vụ cho ngành công nghiệp
phải dùng nhiều tài nguyên như Hàn Quốc.

12



1.1.2. Điều kiện kinh tế, văn hoá, xã hội
1.1.2.1. Kinh tế
Sau khi kết thúc chiến tranh Triều Tiên vào năm 1953, đất
nước Hàn Quốc đạt được sự tăng truởng kinh tế đáng kể phần lớn
nhờ vào các kế hoạch mở rộng của Chính phủ và nhờ vào sự lao
động cần cù của người dân Hàn Quốc. Chính phủ Hàn Quốc đã
phát triển được một đội ngũ lao động có trình độ cao, được giáo
dục tốt và đã đề ra kế hoạch 5 năm kể từ năm 1962 để tạo một hệ
thống phát triển tập trung vào chiến lược công nghiệp hoá hướng
vào xuất khẩu. Từ năm 1970, tổng sản phẩm kinh tế quốc dân đã
tăng 35 lần, khoảng 45% giá trị tổng sản phẩm kinh tế quốc dân
hiện nay là từ các ngành sản xuất và xuất khẩu hàng thành phẩm
chứ không phải xuất khẩu nguyên liệu thô. Hàn Quốc được xếp
vào nhóm các quốc gia buôn bán lớn nhất thế giới. Chính phủ
cũng tham gia một cách năng động trong nhiều lĩnh vực, bao gồm
cả các ngành dịch vụ công cộng và các ngành công nghiệp yêu
cầu đầu tư lớn. Hiện nay, trong nước đã có các tuyến đường cao
tốc và các tuyến vận tải lớn nối liền các thành phố, mạng lưới liên
lạc viễn thông hiện đại rộng khắp cả nước.
Hàn Quốc không có nhiều tài nguyên dầu mỏ và các tài
nguyên khác rất hạn chế, nguyên liệu cho ngành công nghiệp phụ
thuộc chủ yếu vào nhập khẩu. Năm 1970, Nhà nước bắt tay vào
việc nghiên cứu chính sách đa dạng hoá các nguồn năng lượng, và

13


tăng cường sử dụng năng lượng nguyên tử và năng lượng từ khí
thiên nhiên, thuỷ điện.

Ngành công nghiệp chính của Hàn Quốc bao gồm điện tử,
chế tạo ô tô, dệt, may mặc, chế tạo vũ khí và sản xuất hàng da.
Riêng lĩnh vực chế tạo ô tô Hàn Quốc được biết đến như một
bước nhảy vọt thần kì, xếp thứ 6 trên thế giới về công nghiệp sản
xuất ô tô với sản lượng hơn 3 triệu xe mỗi năm. Thêm vào đó một
nguồn thu ngoại tệ của đất nước là dịch vụ đấu thầu xây dựng,
Chính phủ đã ban hành nhiều đạo luật khuyến khích đầu tư nước
ngoài dài hạn ở Hàn Quốc trong cả hai lĩnh vực kinh tế lẫn xã hội.
Hàn Quốc nhanh chóng hội nhập vào nền kinh tế thế giới
ngay từ đầu cuộc khủng hoảng năm 1997. Chính phủ đã đề xuất
một mô hình mới bao gồm việc nâng cấp các thông lệ kinh doanh
theo chuẩn mực quốc tế, bồi dưỡng nguồn nhân lực, phát triển
công nghệ và đẩy mạnh hiệu quả của các định chế. Chính phủ
cam kết xúc tiến cải cách, tiếp tục thực hiện cải cách tài chính và
công ty, đồng thời theo đuổi các chính sách kinh tế vĩ mô linh
hoạt có lợi cho tăng trưởng.
Với lịch sử là một trong những nền kinh tế tăng trưởng
nhanh của thế giới, Hàn Quốc đang phấn đấu trở thành đầu mối
của khối kinh tế hùng mạnh châu Á trong thế kỷ 21.
1.1.2.2.Văn hoá - xã hội

14


Hàn Quốc, với dân số khoảng 50 triệu người, là một trong
những nước có mật độ dân cư cao nhất thế giới với 474
người/km2, có gần 50% dân số sống ở các thành phố lớn. Nhờ
thành công về mặt kinh tế, mức sống của người dân đô thị Hàn
Quốc có phần cao hơn so với hầu hết các nước láng giềng Châu Á
khác.

Tính dân tộc của người Hàn Quốc tương đối cao và đã từng
có thời gian thi hành chính sách bài ngoại. Họ không chấp nhận
một xã hội đa chủng tộc, đa sắc tộc như kiểu Hợp Chủng Quốc
Hoa Kì. Quan niệm về tính đồng nhất này là một lý do giải thích
vì sao người Triều Tiên ở cả hai miền Nam - Bắc đều cho rằng
sự chia cắt của bán đảo Triều Tiên là hoàn toàn trái với quy luật
tự nhiên. Dù hai miền Nam - Bắc có chế độ chính trị và chính
sách kinh tế khác nhau nhưng nhân dân hai miền đều chung một
truyền thống văn hoá. Triều Tiên rất gần gũi với Trung Quốc cả
về vị trí địa lý, kinh tế lẫn lịch sử tạo ra một nhịp cầu văn hoá tự
nhiên nối liền quần đảo Nhật Bản với lục địa Châu Á.
Giáo dục luôn được coi là một công cụ của sự tiến bộ xã
hội. Tuy nhiên, trong suốt chiều dài lịch sử chỉ có một số ít các
gia đình giàu có mới có thể chu cấp cho con cái đi học và do vậy
việc thúc đẩy xã hội Hàn Quốc đi lên là rất khó khăn. Nhưng cho
đến ngày nay, hệ thống trường học ở Hàn Quốc có quy mô và mô
hình tương tự Mỹ. Cấp tiểu học 6 năm, cấp trung học 6 năm và

15


cao hơn là 4 năm nữa. Bốn năm học ở bậc cao là rất khó khăn và
bắt buộc phải thi qua một kì thi rất khắt khe.
An sinh xã hội được Chính phủ Hàn Quốc quan tâm và bắt
đầu được triển khai thực hiện từ những năm 1980. Hệ thống chính
sách liên quan đến vấn đề này bao gồm việc mở rộng hệ thống bảo
hiểm y tế và hệ thống trợ giúp y tế tương đương và áp dụng chế độ
bảo hiểm thất nghiệp. Chính phủ đã tạo nền tảng cho việc xây dựng
một xã hội bảo đảm phúc lợi cho người dân. Nhờ mức sống tăng và
dịch vụ chăm sóc sức khoẻ và y tế ngày càng được cải thiện nên

tuổi thọ trung bình của người dân Hàn Quốc đang tăng nhanh dẫn
đến số người già tăng đáng kể trong những năm qua. Nếu năm
1960, dân số ở độ tuổi từ 65 trở lên chiếm 2,9% trong tổng dân số
Hàn Quốc thì năm 2005, tỷ lệ này đã tăng lên 9,1% và dự kiến sẽ
đạt tới 14,4% năm 2019.
1.2. Những nét đặc trưng và sở thích tiêu dùng của khách du
lịch Hàn Quốc
1.2.1. Những nét đặc trưng của người Hàn Quốc
Hàn Quốc, một quốc đảo, đã phát triển những đặc tính dân
tộc độc đáo nhờ tính chất riêng biệt về địa hình và lịch sử. Độ
nghiêng của đại dương và lục địa đã kết hợp với nhau tạo thành
cơ sở của bản sắc dân tộc. Là một bán đảo có một môi trường văn
hóa với những đặc điểm ngoại vi và trung tâm. Mặt ngoại vi liên
quan đến nền văn hoá lục địa tràn vào bán đảo, trong khi những
16


yếu tố trung tâm là kết quả của các nền văn hoá ngoại vi được cấu
trúc để hình thành một trung tâm mới. (Xem Phụ lục 1)
Nhờ ảnh hưởng của yếu tố này, người Hàn Quốc đã phát
triển tình yêu hoà bình, tình yêu thiên nhiên và họ luôn thể hiện là
những người ham học hỏi, năng động cần cù, coi trọng đạo đức và
yếu tố tinh thần.
Trong 3 yếu tố cơ bản của cuộc sống: nhà ở, quần áo, thực
phẩm thì những thay đổi trong thói quen ăn uống đã tác động đến
người Hàn Quốc rất nhiều. Gạo vẫn là lương thực chính của hầu
hết người dân Hàn Quốc, nhưng trong thế hệ trẻ ngày nay, nhiều
người lại thích ăn đồ Phương Tây. Bữa cơm truyền thống của
người Hàn Quốc không thể thiếu được món Kim Chi, đây là món
ăn được làm từ nhiều loại rau như cải thảo, củ cải, hành xanh và

dưa chuột. Gia vị sử dụng là tỏi và ớt bột.
Trong xã hội truyền thống Hàn Quốc, một gia đình thường
gồm các thành viên thuộc ba, bốn thế hệ cùng chung sống dưới
một mái nhà. Ở thời đó, tỉ lệ tử vong của trẻ sơ sinh cao và một
gia đình lớn, đông thành viên thường được xem như có nhiều
phúc lộc, nên mọi người luôn mong có nhiều con cháu.
Do chịu ảnh hưởng của đạo Khổng, người con trai cả đảm
nhận trách nhiệm trụ cột trong gia đình, tâm lý trọng nam cũng
là một tâm lý phổ biến ở Hàn Quốc. Để giải quyết những vấn
đề liên quan đến tâm lý trọng nam khinh nữ, Chính phủ Hàn
Quốc đã sửa đổi hầu hết các văn bản luật liên quan đến quan hệ
17


gia đình nhằm đảm bảo sự công bằng giữa nam và nữ về quyền
thừa kế.
Quá trình công nghiệp hoá đất nước cũng đã khiến cho đời
sống gia đình của người dân Hàn Quốc trở nên sôi nổi hơn và
phức tạp hơn, những đôi vợ chồng trẻ mới thành hôn tách khỏi
đại gia đình bắt đầu cuộc sống riêng. Ngày nay, hầu hết các gia
đình đều là những gia đình hạt nhân với trung tâm là hai vợ
chồng.
Không giống như một số nền văn hoá khác chỉ có một tôn
giáo thống lĩnh, văn hoá Hàn Quốc quy tụ nhiều yếu tố thành
phần tôn giáo khác nhau hình thành nên cách suy nghĩ và ứng xử
của con người.
Trong lịch sử, người Hàn Quốc sống dưới ảnh hưởng của
đạo Saman, đạo Phật, đạo Lão, đạo Khổng và trong lịch sử hiện
đại lòng tin ở đạo Thiên Chúa đã thâm nhập vào Hàn Quốc. Tốc
độ công nghiệp hoá nhanh diễn ra trong vài thập kỉ qua so với

vài trăm năm ở Châu Âu đã gây ra những lo ngại và thay đổi,
phá vỡ sự yên bình trong tâm hồn người Hàn Quốc làm cho họ
kiếm tìm sự bình yên trong tôn giáo. Vì vậy, số người đi theo
đạo ngày càng đông đảo, và các tổ chức tôn giáo cũng trở thành
tổ chức có ảnh hưởng lớn trong xã hội.
Trước đây, lễ hội của người Hàn Quốc chỉ là theo lễ nghi
tôn giáo. Cho tới thời kỳ các vương quốc thống nhất, lễ hội tạ
ơn Trời đã cho vụ mùa bội thu mới được chính thức tổ chức.
18


Các lễ hội đó là Yeonggo (múa trống gọi hồn) của Buyeo,
Dongmaeng (nghi lễ cúng tổ tiên) của Goguryeo, và Mucheon
(thiên vũ) của Dongye. Các lễ hội thường được tổ chức vào
tháng Mười, sau mỗi vụ mùa, chỉ trừ lễ Yoenggo được tổ chức
vào tháng Mười hai (tính theo âm lịch). Truyền thống vui chơi
sau vụ thu hoạch mùa thu và đón chào năm mới trong không khí
vui vẻ, phấn chấn còn được kéo dài đến các thời vua và các
triều đại sau này, mặc dù mỗi triều đại vua đều có những sửa
đổi riêng cho ngày hội truyền thống có một phong cách riêng.
(Xem Phụ lục 2)
Do nhịp sống của cuộc sống hiện đại, Hàn Quốc ngày nay
đã mất đi rất nhiều ngày lễ truyền thống. Nhưng một số ngày lễ
vẫn được kỷ niệm cho tới ngày nay và đây là dịp để mọi thành
viên trong gia đình đoàn tụ. Mọi người đều mặc áo truyền thống
Hanbok hoặc chọn cho mình những bộ quần áo đẹp nhất, cả gia
đình cử hành nghi lễ thờ cúng tổ tiên. Sau lễ nghi này, những
người ít tuổi trong gia đình sẽ cúi lạy những người lớn tuổi trong
gia đình.
Người Hàn Quốc rất yêu thể thao và tham gia vào rất nhiều

các hoạt động thể thao cùng các trò chơi giải trí. Những bước tiến
ấn tượng trong kinh tế những năm qua đã góp phần tăng cường sự
quan tâm của người Hàn Quốc đến thể thao. Các môn thể thao
truyền thống được mọi người ưa thích đó là: bóng đá, trượt băng

19


tốc độ, trượt băng nghệ thuật, trượt tuyết, khúc côn cầu trên băng,
golf, bóng chày, taekwondo và vật.
1.2.2. Sở thích tiêu dùng của khách du lịch Hàn Quốc
Hàn Quốc có tốc độ gia tăng khá cao về lượng khách ra
nước ngoài du lịch (trên 20%/năm). Về số lượng khách ra nước
ngoài du lịch tương đương với số khách du lịch vào Hàn Quốc,
thậm chí du lịch đi ra nước ngoài có phần nhỉnh hơn. Theo thống
kê của Cục du lịch quốc gia Hàn Quốc (KNTO – Korea National
Tourism Organization), năm 2007 có tới hơn 13 triệu người dân
nước này đi du lịch nước ngoài. Như vậy, với khoảng 475.535
lượt khách du lịch Hàn Quốc đến Việt Nam như hiện nay thì
chúng ta mới chỉ đón được chưa tới 4% lượng du khách Hàn
Quốc đi du lịch ở nước ngoài. (Xem biểu đồ 1.1)
Điểm đến của du khách Hàn Quốc chủ yếu là Châu Á,
chiếm khoảng 70% tổng số người Hàn Quốc đi du lịch nước
ngoài. Trong đó, Trung Quốc và Nhật Bản là hai điểm đến chính
của khách du lịch Hàn Quốc. Ngoài ra người Hàn Quốc thích đến
khám phá Châu Mỹ ,tiếp đến là Châu Âu và Châu Đại Dương.

20



Biểu đồ 1.1. Số lượng khách Hàn Quốc đi du lịch nước ngoài
và số lượng khách quốc tế đến Hàn Quốc
Số lượng khách Hàn Quốc đi du lịch

13.3

Số lượng khách quốc tế đến Hàn Quốc

11.6
10.1

(Đơn vị: triệu lượt khách)

8.8
7.1

4.5

4.3

4.7

5.5

5.3
3.9

9
7


7.1

6.1

5.1

5.3

6.0

6.2

05

06

5.8

6.4

4.8

4.3

☞ 해외여행 증가 주요원인

98

9


00

01

02

9

0

04

07



3

(Nguồn: KNTO – Cục du lịch quốc gia Hàn Quốc - Korea
National Tourism Organization)
Đặc thù của thị trường khách Hàn Quốc đi du lịch nước
ngoài là du lịch theo chuyên đề và du lịch gia đình với các
chương trình lựa chọn phong phú, đa dạng, tiếp đến là du lịch
thương mại với các chuyến bay thuê bao riêng và du lịch nghỉ
dưỡng với các loại hình sau:
- Các chương trình du lịch riêng biệt chỉ bao gồm vé máy
bay và phòng khách sạn và thường là khách du lịch ba lô.
- Chương trình du lịch trọn gói đến một nước, một điểm du
lịch.
21


m


- Kết hợp giữa du lịch giá rẻ, du lịch phân hạng với du lịch
tiết kiệm, du lịch truyền thống và du lịch chất lượng cao.
- Du lịch chơi golf: các công ty du lịch có nhóm chuyên
trách tổ chức các chương trình chơi golf hay xây dựng một trang
web chuyên về tour du lịch chơi golf.
Về căn bản, mục đích ra nước ngoài của người Hàn Quốc là
du lịch thuần túy. Du khách Hàn Quốc ra nước ngoài không chỉ
quan tâm đến các danh thắng thiên nhiên và di tích lịch sử mà còn
muốn đến thăm các thành phố lớn, khu vui chơi giải trí, tắm hơi
nghỉ dưỡng phục hồi sức khỏe,... Lượng du khách Hàn Quốc lựa
chọn chương trình du lịch cá nhân ngày càng tăng và du lịch theo
đoàn đang giảm dần khi đi du lịch nước ngoài như là phần thưởng
hàng năm của các công ty dành cho nhân viên không còn được
thịnh hành nữa.
Sau khi Chính phủ Hàn Quốc áp dụng thời gian làm việc 5
ngày một tuần vào năm 2004, nhiều người lao động đã có cơ hội
đi du lịch cuối tuần nên thời gian lưu lại nước ngoài của du khách
Hàn Quốc có phần giảm. Khách Hàn Quốc đi du lịch trung bình
khoảng 10 - 11 ngày, đối với khách đi theo tour thì thời gian lưu
trú trung bình là 11 - 13 ngày và đối với khách đi lẻ khoảng 7 - 8
ngày.
Cơ sở lưu trú chính của khách du lịch Hàn Quốc đi ra nước
ngoài là khách sạn, ngoài ra là nhà gia đình, bạn bè. Khách sử

22



dụng khách sạn nhiều là khách du lịch công vụ, khách du lịch đi
tuần trăng mật và khách du lịch thuần túy.
Thời điểm người Hàn Quốc đi du lịch tương đối dàn đều,
tuy nhiên mùa du lịch cao điểm của khách du lịch Hàn Quốc là
tháng 10 đến tháng 3, bắt đầu giảm từ tháng 4 và tháng 5.
Người Hàn Quốc ra nước ngoài có xu hướng là những người
có học vấn cao, sống ở các đô thị lớn. Với mức sống khá cao,
phần lớn người Hàn Quốc đánh giá chi tiêu dành cho đi du lịch
nước ngoài hiện nay là hợp lý. Theo số liệu thống kê của Tổ chức
du lịch thế giới -UNWTO về chi tiêu của khách du lịch quốc tế
outbound thì chi tiêu nước ngoài của khách du lịch Hàn Quốc gia
tăng nhiều vào những năm 2005, 2006. Các đối tượng khách chi
tiêu nhiều nhất trong chuyến du lịch là khách trong độ tuổi 51 - 60
và dưới 20 tuổi. Các nhóm tuổi từ 31 - 50 cũng chi tiêu khá nhiều,
còn khách ở nhóm tuổi trên 60 thì chi trả rất ít.
Bảng 1.1. Chi tiêu du lịch của thị trường khách du lịch Hàn
Quốc

so với thị trường khách quốc tế
Đơn vị tính: tỷ USD

Xếp
hạng

Thị trường

2004 2005 2006

1


Đức

71,6

74,4

74,8

2

Mỹ

65,8

69,0

72,0

3

Anh

56,5

59,6

62,6

4


Pháp

28,8

30,5

31,2

23


5

Nhật Bản

38,2

27,3

26,9

6

Trung Quốc

19,1

21,8


24,3

7

Italia

20,5

22,4

23,1

8

Canada

15,9

18,4

20,8

9

LB Nga

15,7

17,8


18,8

10

Hàn Quốc

12,4

15,4

18,2

(Nguồn: UNWTO- Tổ chức du lịch thế giới,[15, 235])
Về mua sắm, du khách nước này thích nhất đồ mỹ phẩm, đồ
uống,... Khác với việc mua đồ có chất lượng giá rẻ, xu hướng mua
sắm mới hiện nay của họ là thực phẩm chăm sóc sức khỏe, sản
vật địa phương và đồ lưu niệm; một số lại thích mua quà lưu niệm
bán trên máy bay.
Các vấn đề chính khách gặp phải khi đi du lịch nước ngoài
chủ yếu là các trở ngại về ngôn ngữ, thức ăn không hợp và sử
dụng các phương tiện giao thông địa phương ,...
Các xu hướng tìm thông tin du lịch của khách chủ yếu là từ
gia đình, bạn bè và xu hướng tìm thông tin và mua bán chương
trình du lịch trên mạng gia tăng với tốc độ nhanh chóng. Như vậy,
biện pháp xúc tiến du lịch tốt nhất đối với thị trường này là
marketing trực tiếp, quảng cáo truyền miệng, mạng internet và
đảm bảo chất lượng dịch vụ để nhóm khách này trở thành khách
thường xuyên và ảnh hưởng đến bạn bè gia đình.
1.3. Quan hệ hợp tác Việt Nam - Hàn Quốc trong các lĩnh vực
chủ yếu

24


Ngày 22/12/1992, Việt Nam và Hàn Quốc đã chính thức
thiết lập quan hệ ngoại giao, đây là một sự kiện có ý nghĩa quan
trọng, mở ra một chương mới trong lịch sử quan hệ hai nước.
Nhìn lại chặng đường hơn 15 năm, có thể nhận thấy rằng
quan hệ hữu nghị và hợp tác toàn diện giữa Việt Nam và Hàn
Quốc đã phát triển nhanh chóng và có hiệu quả thiết thực trên các
lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội... góp phần tích cực
vào sự nghiệp phát triển kinh tế, xã hội ở mỗi nước.
1.3.1. Quan hệ chính trị, ngoại giao
Về chính trị, hai bên thường xuyên trao đổi đoàn các cấp,
các ngành, tạo sự tin cậy và hiểu biết lẫn nhau giữa nhân dân hai
nước. Các chuyến thăm lẫn nhau của lãnh đạo cấp cao hai nước
trong thời gian qua, đặc biệt là cuộc tiếp xúc cấp cao giữa Chủ
tịch nước Nguyễn Minh Triết và tổng thống Roh Moo-Hyun
tháng 11 năm 2006 tại Hà Nội và tháng 9 năm 2007 tại Sydney,
đã góp phần quan trọng trong việc thúc đẩy “Quan hệ đối tác
toàn diện trong thế kỷ XXI” giữa hai nước không ngừng phát
triển.
Dưới đây là những cuộc viếng thăm quan trọng của các nhà
lãnh đạo cấp cao của hai nước:


05/1993 Thủ tướng Việt Nam Võ Văn Kiệt thăm Hàn
Quốc

25



×