ĐỀ 1: VỀ KẾ HOẠNH HÓA KINH TẾ
ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG CỦA
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
Giảng viên: Thạc sĩ Nguyễn Thị Thanh Nga
Họ và tên:
Lớp:
Nguyễn Nam Sơn
Ql18.02
Mã sinh viên: 13102056
Mục lục
-------------------------------------------------------
- Tóm tắt tài liệu tham khảo số 3: về kế hoạch hóa kinh tế
- phân tích về cái sai, cái tác hại của từng hạn chế của cơ chế kinh tế kế hoạch hóa tập
trung quan liêu bao cấp
- Kết luận
I, Tóm tắt:
Về kế hoạch hóa kinh tế
Sau khi hoàn thành, cải tạo xã hội chủ nghĩa, từ năm 1960, miền bắc bắt đầu áp
dụng mô hình kinh tế kế hoạch hóa trực tiếp. Quy trình kế hoạch hóa được thực hiện theo
công thức “một lên, hai xuống” sau đây:
- Trước hết là Bộ Chính trị, Trung ương Đảng, Chính phủ giao cho ủy ban kế
hoạch nhà nước tính toán và phân bố các chỉ tiêu kế hoạch cho cán bộ, các ngành, các
tỉnh. Nhưng chỉ tiêu này được gọi là “số liệu kiểm tra”. Các bộ, các tỉnh, thành phố lại
đưa các số liệu đó xuống các cấp dưới, tức các cục, xí nghiệp, công ty,… đó chính là cái
“xuống” thứ nhất.
- Căn cứ vào số liệu đó, mỗi cơ sở phải xây dựng kế hoạch của mình để trình lên
trên. Đó là một “lên”.
- Sau khi cân đối lại số liệu với nhau, kế hoạch cuối cùng được cấp trên quyết định
trở thành chỉ tiêu pháp lệnh giao xuống dưới. Đó là cái “xuống” thứ hai.
Trong điều kiện đất nước còn chiến tranh, cơ chế này cho phép huy động sức
mạnh toàn dân phục vụ cho cuộc kháng chiến trường kù. Nhưng thể chế này đã bộc lộ
những hạn chế sau:
-
Thứ nhất: Nhà nước quản lý trực tiếp bằng các chỉ tiêu kế hoạch mang tính
pháp lệnh, quy định chặt chẽ tỉ mỉ: sản xuất cái gì, bao nhiê, phân phối cho ai,
… Các doanh nghiệp nhà nước hay các hợp tác đều phải chấp hành, mọi sự
thây đổi trong kế hoạch đều phải báo cáo lên cơ quan chủ quan, được chấp
nhận mới được triển khai.
-
Thứ hai: Nhà nước thực hiện chế độ bao cấp đối với mọi đơn vị cấp dưới và
các doanh nghiệp nhà nước và hợp tác xã. Đầu vào các doanh nghiệp do nhà
nước cấp hoàn toàn. Do vậy toàn bộ sản phẩm làm ra đều phải giao nộp lại cho
Nhà nước để nhà nước phân phối.
-
Thứ ba: chế độ tài chính của doanh nghiệp nước được thực hiện theo nguyên
tác thu đủ chi đủ, nghĩa là nếu lãi nhà nước thu về, lỗ nhà nước bù. Lợi nhuận
không được coi là mục tiêu hàng đầu và cũng không được đặt ra. Lợi nhuận
được coi là một phạm trù tư bản chủ nghĩa.
-
Thứ tư: các công cụ như giá cả, lãi suất tiền lương chỉ được áp dụng để tính
toán một cách hình thức: giá không phản ánh quan hệ cung cầu mà dùng để
tính toán cho việc cấp phát và giao nộp giữa nhà nước và doanh nghiệp.
Không chấp nhận khái niệm thị trường tự do. Tiền lương đượcc quy định
theo cấp bậc hành chính và thâm niên, thoát ly cống hiến của mỗi người, chứ
không tính theo hiệu quả lao động của mỗi người.
-
Thứ năm: không có khái niệm cạnh tranh. Cạnh tranh được coi là yếu tố tự
phát để dẫn đến chủ nghĩa tư bản. Do đó không khuyến khích doanh nghiệp
tăng năng suất lao động, cải tiến mẫu mã, phát triển mặt hàng.
-
Thứ sáu: bộ máy hành chính nhà nước tập trung quan liêu, cách bức, cồng
kềnh, nhiều tầng nấc, kém hiệu quả. Trong thực tế, bộ máy nhà nước và doanh
nghiệp quốc doanh tham ô và lãng phí cũng xuất hiện, trong hợp tác xã cũng
vậy.
Nói chung, về kế hoạch hóa kinh tế, nền kinh tế đã phát sinh ra những khó khăn:
hợp tác xã nông nghiệp không có hiệu quả, công nghiệp, thương nghiệp, tài chính đều bị
đình đốn. Đời sống cán bộ, nhân dân thiếu thốn, nhiều tiêu cực, tem phiếu phát sinh,…
II, Phân tích cái sai, cái tác hại của từng hạn chế của cơ chế kinh tế kế hoạch hóa
quan liêu bao cấp.
- Cơ chế quản lý:
Nhà nước quản lí nền kinh tế chủ yếu bằng mệnh lệnh hành chính dựa trên hệ
thống chỉ tiêu pháp lệnh chi tiết áp đặt từ trên xuống dưới. Các doanh nghiệp hoạt động
trên cơ sở các quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền và các chỉ tiêu pháp lệnh
được giao. Tất cả phương hướng sản xuất, nguồn vật tư, tiền vốn, định giá sản phẩm, tổ
chức bộ máy, nhân sự, tiền lương…đều do các cấp có thẩm quyền quyết định.
Các cơ quan hành chính can thiệp quá sâu vào hoạt động sản xuất, kinh doanh của
các doanh nghiệp nhưng lại không chịu trách nhiệm gì về vật chất và pháp lý đối với các
quyết định của mình. Những thiệt hại vật chất do các quyết định không đúng gây ra thì
ngân sách nhà nước phải gánh chịu. Các doanh nghiệp không có quyền tự chủ sản xuất,
kinh doanh, cũng không bị ràng buộc trách nhiệm đối với kết quả sản xuất, kinh doanh.
Lỗ thì Nhà nước bù, lãi thì Nhà nước thu.
- Mô hình nền kinh tế:
Nền kinh tế khép kín, chủ yếu dựa vào nguồn lực của đất nước, tự cung, tự cấp, tự lực
cánh sinh; chưa chú trọng đến sự hợp tác, giao lưu; chưa quan tâm đến việc áp dụng khoa học
công nghệ vào sản xuất. Nền kinh tế chỉ có hai thành phần sở hữu về tư liệu sản xuất là: Sở hữu
Nhà nước và sở hữu tập thể, được thể hiện dưới dạng Quốc doanh và Hợp tác xã.
- Thành phần kinh tế:
Nền kinh tế chỉ có 2 thành phần trung tâm và giữ vai trò chủ đạo đó là kinh tế nhà nước
và kinh tế tập thể (hợp tác xã). Nhà nước quản lí, làm chủ và chịu trách nhiệm về mọi mặt.
- Quan hệ hàng hóa- tiền tệ:
Quan hệ hàng hóa-tiền tệ bị coi nhẹ, chỉ là hình thức, quan hệ hiện vật là chủ yếu. Nhà
nước quản lí kinh tế thông qua chế độ “cấp phát - giao nộp”. Được thực hiện chủ yếu dưới 3 hình
thức sau: bao cấp qua giá, bao cấp qua chế độtem phiếu, bao cấp theo chế độ cấp phát vốn.
- Hình thức phân phối:
Nhà nước quy định chế độ phân phối vật phẩm tiêu dùng cho cán bộ, công nhân viên theo
định mức qua hình thức tem phiếu. Chế độ tem phiếu với mức giá khác xa so với giá thị trường
đã biến chế độ tiền lương thành hiện vật, thủ tiêu động lực kích thích người lao động và phá vỡ
nguyên tắc phân phối theo lao động.
- Cơ cấu nền kinh tế:
Chú trọng chủ yếu là vào nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ đã xuất hiện nhưng chưa
phát triển.
- Tác động:
Nền kinh tế trì trệ, khủng hoảng, không có cạnh tranh, kìm hãm tiến bộ của khoa học kĩ
thuật, triệt tiêu động lực kinh tế của người lao động, không kích thích được tính năng động, sáng
tạo của đơn vị sản xuất kinh doanh. Trong thời kỳ này, phân bổ mọi nguồn lực theo kế hoạch là
chủ yếu, coi thị trường chỉ là công cụ thứ yếu bổ sung cho kế hoạch.
III, Kết luận:
Cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp đã có những tác dụng nhất định
trong bối cảnh đất nước ta thời đó. Tuy nhiên cơ chế này đã bộ lộ nhiều nhược điểm, kìm
hãm sự phát triển của nền kinh tế, đời sống nhân dân nhiều khó khăn, các vấn đề tiêu cực
nảy sinh. Yêu cầu bức thiếu cho Đảng ta là phải có một cơ chế về quản lý kinh tế mới
nhằm khắc phục những hạn chế của cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp mà
vẫn có thể đi theo con đường chủ nghĩa xã hội.
Tại đại hội VI (tháng 12/1986) của Đảng ta đã đề ra đường lối đổi mới nền kinh tế,
chuyển từ nền kinh tế theo cơ chế bao cẩp tràn lan và tập trung quan liêu sang nền kinh tế
thị trường có sự quản lí của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Một chủ trương
hết sức quan trọng của giai đoạn này là phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần
nhằm khai thác có hiệu quả các nguồn lực của đất nước để thúc đẩy nền kinh tế tăng
trưởng nhanh chóng. Đổi mới hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước là một trong
những chủ trương lớn của Đảng và nhà nước nhằm đáp ứng yêu cầu đó. Và thực tế đã
chứng minh, đây là quyết định đúng đắn của đảng và nhà nước, hơn 20 năm đổi mới đất
nước ta đang trên đà phát triển và đạt được những thành quả đáng tự hào.
Danh mục tài liệu tham khảo
--------------------------------------------
Giáo trình ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM