Tải bản đầy đủ (.doc) (35 trang)

BIỆN PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ KINH DOANH DỊCH vụ NHẬP KHẨU ô tô đã QUA sử DỤNG tại CÔNG TY TNHH HIỆP hòa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (250.41 KB, 35 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Các thành tựu khoa học và công nghệ ngày càng xuất hiện một cách hết sức
nhanh chóng và được đổi mới liên tục. Ngày nay, nghiên cứu khoa học là một
trong những hoạt động có tốc độ phát triển nhanh nhất thời đại. Bộ máy nghiên cứu
khoa học đã trở thành khổng lồ, nó đang nghiên cứu tất cả các góc cạnh của thế
giới. Các thành tựu nghiên cứu khoa học đã được ứng dụng vào mọi lĩnh vực của
cuộc sống. Khoa học đã làm đảo lộn nhiều quan niệm truyền thống, nó làm cho sức
sản xuất xã hội tăng lên hàng trăm lần so với vài thập niên gần đây. Về phần mình,
bản thân khoa học càng cần được nghiên cứu một cách khoa học. Một mặt, phải
tổng kết thực tiễn nghiên cứu khoa học để khái quát những lý thuyết về quá trình
sáng tạo khoa học; mặt khác, phải tìm ra được các biện pháp tổ chức,quản lý và
nghiên cứu khoa học tốt hơn làm cho bộ máy khoa học vốn đã mạnh, lại phát triển
mạnh hơn và đi đúng quỹ đạo hơn.
Sự phát triển của khoa học hiện đại không những đem lại cho con người
những hiểu biết sâu sắc về thế giới, mà còn đem lại cho con người cả những hiểu
biết về phương pháp nhận thức thế giới. Chính vì vậy mà phương pháp và phương
pháp luận nghiên cứu khoa học đã gắn liền với hoạt động có ý thức của con người,
là một trong những yếu tố quyết định sự thành công của hoạt động nhận thức và cải
tạo thế giới. Và cũng chính vì vậy mà hiện nay việc nghiên cứu phương pháp và
phương pháp luận nghiên cứu khoa học ngày càng trở nên cần thiết nhằm giúp cho
công tác nghiên cứu khoa học đạt hiệu quả hơn, phát triển mạnh mẽ hơn.

1


CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ KHOA HỌC VÀ
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
1.1.

Khái niệm và phân loại khoa học


1.1.1. Khái niệm
Khái niệm “khoa học” có một vài nghĩa chính. Thứ nhất, khoa học được
hiểu là phạm vi hoạt động của con người hướng tới việc phát triển và hệ thống hóa
những kiến thức mới về thiên nhiên, xã hội, tư duy và nhận thức thế giới xung
quanh. Thứ hai khoa học biểu hiện kết quả hoạt động này – là một hệ thống các
kiến thức khoa học thu được. Thứ ba khoa học được hiểu là một trong những hình
thức của ý thức xã hội, tổ chức xã hội. Ở nghĩa thứ ba khoa học là một hệ thống
các mối quan hệ giữa các cơ quan khoa học và các thành viên của hội khoa học,
cũng như bao gồm cả hệ thống thông tin khoa học, các tiêu chuẩn và giá trị khoa
học…
Mục đích trực tiếp của khoa học là thu nhận kiến thức về thế giới khách
quan và chủ quan, hiểu biết sự thật khách quan.
Nhiệm vụ của khoa học:
- Thu thập, mô tả, phân tích, tổng hợp và giải thích các sự kiện
- Phát hiện các quy luật vận động của tự nhiên, xã hội, tư duy và nhận thức
- Hệ thống hóa các kiến thức thu được
- Giải thích bản chất của các hiện tượng và các quá trình
- Dự báo các biến cố, các hiện tượng và các quá trình
- Xác lập các hướng và hình thức sử dụng các kiến thức thu được
2


1.1.2. Phân loại khoa học
Cách phân loại khoa học của Ph.Ăng-ghen đưa ra trong tác phẩm “phép biện
chứng của tự nhiên” là cách phân loại nổi tiếng nhất. Xuất phát từ sự phát triển của
vật chất vận động từ thấp đến cao, ông đã nhìn nhận ra khoa học cơ học, khoa học
vật lý, hóa học, sinh học, các khoa học xã hội.
Trên nguyên tắc về sự lệ thuộc của hình thức vận động của vật chất mà cách
phân loại khoa học của B.M. Kedrov cũng dựa vào đó. Ông phân biệt sáu hình
thức vận động chủ yếu của vật chất: vật lý, hóa học nguyên tử, địa chất, sinh học

và xã hội.
Hiện nay, tùy thuộc vào phạm vi, đối tượng và phương pháp nhận thức
người ta phân biệt các khoa học sau:
1, về tự nhiên – là khoa học tự nhiên
2, về xã hội – là khoa học xã hội nhân văn
3, về tư duy và nhận thức – là logic, nhận thức và nhận thức luận
Trong cách phân loại các hưởng và chuyên ngành của giáo dục chuyên
nghiệp cao cấp có danh mục các chương trình thạc sĩ (chuyên môn hóa) được hội
đồng khoa học về phương pháp luận xây dựng - đó là những bộ phận của quản lý
đào tạo thạc sĩ theo các hướng đào tạo, người ta phân biệt thành:
1) Khoa học tự nhiên và toán học (cơ học, vật lý, hóa học, sinh học, khoa học
đất, địa lý, khí tượng thủy văn, địa chất, sinh thái học ...);
2) Khoa học xã hội và kinh tế - xã hội (văn hóa học, thần học, ngữ văn, triết
học, ngôn ngữ học, báo chí, điện ảnh, lịch sử, chính trị, tâm lý học, công tác xã hội,
xã hội học, nghiên cứu vùng, quản lý, kinh tế, nghệ thuật, văn hóa thể thao, thương
3


mại, kinh tế nông nghiệp, thống kê, nghệ thuật, pháp luật...);
3) Khoa học kỹ thuật (xây dựng, xuất bản, viễn thông, luyện kim, khai mỏ,
điện tử và vi điện tử, trắc địa, kỹ thuật vô tuyến, kiến trúc ...);
4) Khoa học nông nghiệp (nông học, chăn nuôi, thú ý, kỹ thuật nông nghiệp,
lâm nghiệp, thủy sản ...).
Xin lưu ý rằng, trong cách phân loại như vậy các khoa học nông nghiệp và
khoa học kỹ thuật được phân biệt thành nhóm riêng, còn toán học lại không phải là
khoa học tự nhiên.
Có một số nhà khoa học không coi triết học là khoa học hoặc đặt nó ngang
hàng với khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật và khoa học xã hội. Điều này được
giải thích rằng nó được xem như thế giới quan, sự hiểu biết về thế giới nói chung,
phương pháp luận nhận thức hoặc như một khoa học của mọi khoa học. Triết học,

theo ý kiến của họ, không nhằm mục đích thu thập, phân tích và tổng hợp các sự
kiện, phát hiện các quy luật vận động của thực tại, nó chỉ sử dụng những thành quả
của các khoa học cụ thể.
Gác lại những lập luận về mối quan hệ giữa triết học và khoa học, chúng ta
hãy lưu ý rằng triết học luôn luôn là khoa học, có đối tượng và phương pháp
nghiên cứu của riêng mình về các quy luật chung và đặc tính của toàn bộ thế giới
vật chất khách quan vô cùng vô tận trong không gian và thời gian.
Trong danh mục các chuyên ngành của các cán bộ khoa học được phê duyệt
bởi bộ khóa học và công nghệ Nga ngày 25 tháng 01 năm 2000, đã chỉ ra những
lĩnh vực khoa học sau đây: toán lý, hóa học, sinh học, địa chất - khoáng học, kỹ
thuật, nông nghiệp, lịch sử, kinh tế, triết học, ngôn ngữ học, địa lý, luật, sư phạm, y
học, dược học, thú y, nghệ thuật, kiến trúc, tâm lý, xã hội, chính trị, văn hóa và
khoa học về trái đất.
Mỗi một nhóm khoa học có tên gọi như trên có thể được phân chia tiếp theo.
Ví dụ như, khoa học pháp lý nghiên cứu các hiện tượng nhà nước còn được phân
4


chia thành những nhóm sau:
1) Lịch sử (lịch sử của nhà nước và pháp luật của nước mình, lịch sử nhà
nước và pháp luật của nước ngoài, lịch sử của các học thuyết chính trị và pháp
luật);
2) Ngành luật (hiến pháp, luật nhà nước, luật dân sự, luật hành chính, luật lao
động, luật binh, luật quoc tế ...);
3) Luật thực dụng (...)
Qua các nhóm tên gọi của khoa học V.M. Xưri đã nhìn nhận thêm những
khoa học nghiên cứu nhà nước và pháp luật của nước ngoài, cũng như việc điều
chỉnh pháp luật các mỗi quan hệ (luật quốc gia của nước ngoài, luật quốc tế ...).
Một số tác giả gộp lý thuyết nhà nước và pháp luật vào nhóm khoa học lịch sử
- lý thuyết. Rõ ràng là lý thuyết nhà nước và pháp luật cần phải được xếp vào vị trí

đặc biệt trong tập hợp các khoa học pháp lý. Theo quan hệ với những khoa học
pháp lý khác nó thể hiện như một khoa học tổng quát và thực hiện chức năng và
phương pháp luận.
Tồn tại nhiều cách phân loại khác về khoa học. Ví dụ, tùy thuộc vào quan hệ
với khoa học ứng dụng, người ta chia thành khoa học nền tảng (lý thuyết) làm rõ
những quy luật cơ bản của thế giới khách quan và không trực tiếp hướng tới thực
tiễn, và khoa học ứng dụng hướng vào giải quyết các vấn đề kỹ thuật, sản xuất, xã
hội.
Cách phân loại đặc biệt về khoa học đã được L.G. Djakhai đề xuất. Sau khi
phân chia khoa học tự nhiên, xã hội và nhận thức thành khoa học lý thuyết và ứng
dụng, ông phân biệt, trong cách phân loại này, triết học, các khoa học cơ bản và
khoa học riêng được tách ra từ chúng. Ví dụ, trong khoa học lý thuyết cơ bản về xã
hội ông còn đưa thêm vào cả lịch sử, chính trị, pháp quyền, thần học, nghệ thuật,
ngôn ngữ. Các khoa học này đều có sự phân chia cụ thể hơn, ví dụ, lịch sử được
chia thành nhân trắc học, nhân chủng học và lịch sử thế giới. Khái niệm nhà nước
5


giống như một khoa học ứng dụng cơ bản còn được cập nhật thêm chính trị, quản
lý, sản xuất, tội phạm học, quân sự, lưu trữ. Ngoài ra, ông còn cho cách phân loại
khoa học gọi là “ghép nối”:
khoa học trung gian nảy sinh trên biên giới của hai khoa học gần nhau (ví dụ,
logic toán, hóa học vật lý);
khoa học liên hợp được hình thành bằng cách liên kết các nguyên lý và
phương pháp của hai khoa học xa nhau (ví dụ, vật lý địa cầu, địa lý kinh tế);
khoa học tập hợp được hình thành bằng cách hên hợp hàng loạt các khoa học
lý thuyết (ví dụ, hải dương học, thủy sinh học, khoa học nhập môn).
Trong tuyển tập thống kê thường người ta phân chia các lĩnh vực khoa học
sau đây: hàn lâm, ngành, đại học và công xưởng.
1.1.3. Những vấn đề chung về nghiên cứu khoa học

Các nghiên cứu khoa học bao gồm các quá trình như sau: lựa chọn đề tài, tìm
kiếm thông tin và tim kiếm khoa học, áp dụng. Quá trình trung tâm - đó là việc tìm
kiếm khoa học - là hoạt động trí tuệ. Vì vậy việc nghiên cứu các cơ sở của nghiên
cứu khoa học nên bắt đầu từ những phương pháp luận macxit- lêninit (các nguyên
lý nghiên cứu khoa học) và vai trò của trí tuệ trong nhận thức.
Việc bảo đảm cho nghiên cứu khoa học bởi một cơ sở phương pháp luận thực
thụ - là sự cần thiết khách quan, vì không một khoa học nào có thể tồn tại mà
không sử dụng phép tổng quát khoa học, các quy luật, các phạm trù, các nguyên lý
triết học phản ánh các quy luật chung của tồn tại và nhận thức.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng xây dựng các quy luật phổ biến của nhận thức;
là lý thuyết triết học tổng hợp phát triển thế giới (trong đó có khoa học nhận thức);
thể hiện như là “kết quả, tập hợp, kết luận của lịch sử nhận thức thế giới”; xác định
các nguyên lý của thế giới quan nhận thức, còn đối với khoa học nó đóng vai trò là
phương pháp và lý thuyết cho phép thiết lập một thế giới quan khoa học thống
nhất.
6


Phương pháp luận khoa học đặc trưng cho bản chất của nghiên cứu khoa học
và logic phát triển của khoa học; xác định các giai đoạn thu thập và xử lý các thông
tin khoa học cần thiết; giúp lựa chọn các phương pháp; làm rõ tính quy luật của
nghiên cứu tài liệu thực tế; bảo đảm kiểm tra các kết quả; xác định sự áp dụng của
kiến thức khoa học nhận được trong quá trình hoạt động sáng tạo.
Hoạt động khoa học đồng nghĩa với lao động sáng tạo với cường độ cao. Vì
vậy, cần phải làm quen với những nguyên tắc tổ chức của nó, xem xét trước định
hướng hợp lý, kiểm soát hoạt động trí óc, cũng như những yêu cầu khác của tổ
chức lao động khoa học, khi chú ý tới các tiền đề tâm lý (cấu trúc của cá nhân, mối
quan hệ với nhau trong tập thể sản xuất, tâm lý lãnh đạo và sự tuân thủ, tiềm năng
cá nhân và việc sử đụng tiềm năng đó).
Các vấn đề về tổ chức các quá trình riêng rẽ của nghiên cứu khoa học và toàn

bộ mắt xích của dây chuyền “nghiên cứu - phát minh - sản xuất” trong khuôn khổ
liên hợp sản xuất khoa học và các chương trình mục tiểu tổng hợp được xem xét
trong tài liệu chuyên ngành.
1.1.3.1. Lựa chọn đề tài (chủ đề)
Nghiên cứu khoa học bao gồm bốn quá trình có quan hệ hữu cơ với nhau:
I - là việc làm đầu tiên với vấn đề, đó là lựa chọn đề tài, thiết lập kế hoạch
chương trình, xác định sơ bộ hiệu quả kinh tế mong đợi;
II - là tìm kiếm thông tin, phân tích đến cùng các kết quả tìm kiếm được,
chính xác hóa mục tiêu, xác định đề tài;
III - tìm kiếm khoa học (các nghiên cứu thực nghiệm và lý thuyết), nghiên
cứu bản chất vật lý của đối tượng, xây dựng lý thuyết, luận chứng khoa học về
phương pháp luận, lựa chọn cơ sở kỹ thuật, thực nghiệm, xử lý kết quả, xây dựng
các luận điểm khoa học mới, lập báo cáo khoa học - kỹ thuật, xem xét chi tiết lại,
thảo luận và hiệu chỉnh;
IV - là áp dụng, thực hiện các công tác bổ sung, kinh nghiệm cấu tạo, trong
7


giai đoạn này tiến hành nghiên cứu khoa học và đánh giá hiệu quả kỹ thuật - kinh
tế.
Xác định đề tài. Việc đề tài hóa các nghiên cứu khoa học được rút ra từ những
kế hoạch quốc gia về khoa học và kỹ thuật, các dự án của các kế hoạch này được
chuẩn bị bởi các chuyên gia, được hội thảo cụ thể ở các viện hàn lâm khoa học, rồi
sau đó được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt như một văn bản quốc gia có hiệu
lực bắt buộc đối với mọi người thực hiện nó. Khi lập kế hoạch công tác nghiên cứu
khoa học, người ta lập các kế hoạch năm và năm năm. Ngoài các kế hoạch này, các
cơ quan khoa học cũng lập các kế hoạch: về khả năng ứng dụng kết quả nghiên cứu
khoa học và kế hoạch nghiên cứu thử nghiệm khoa học, về giáo dục, đào tạo cán
bộ khoa học và chuẩn bị các tài liệu nghiên cứu để xuất bản, công bố. Các công
trình nằm trong kế hoạch dựa trên cơ sở quyết định của chính phủ được coi là

những công trình quan trọng.
Các bộ phận cấu thành kế hoạch năm là: kế hoạch ứng dụng kết quả nghiên
cứu khoa học, kế hoạch lao động, dự toán sản xuất, kế hoạch tài chính, kế hoạch
của các giải pháp tổ chức - kỹ thuật (thể hiện mối quan hệ gắn kết giữa các phương
pháp lập kế hoạch và tài chính của các nghiên cứu). Khuôn khổ chi phí cho khoa
học ở Việt Nam khoảng 2-3% GDP từ ngân sách quốc gia và các nguồn riêng của
các cơ quan.
Để xác định hưởng nghiên cứu và khai thác, cần phải sử dụng các dự báo
khoa học - tầm nhìn trước. Chúng ta xét trình tự thiết lập các dự báo hiện đang áp
dụng.
Bộ Khoa học công nghệ quyết định dự báo khoa học - kỹ thuật của toàn bộ
nền kinh tế quốc dần dựa trên cơ sở các đề xuất của các bộ lĩnh vực, ngành. Trong
dự báo đã xây dựng các vấn đề cơ bản phát triển khoa học và kỹ thuật, đề xuất sử
dụng các thành tựu gần đây, cũng như xác định mức phát triển kỹ thuật của các
lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân, nhấn mạnh các nghiên cứu khoa học quan trọng
8


nhất.
Các bộ ngành xây dựng dự báo khoa học kỹ thuật phát triển lĩnh vực, tương
ứng với nó, các viện nghiên cứu khoa học, ủy ban nghiên cứu thử nghiệm chế tạo,
các trường đại học và các cơ quan khác lập kế hoạch nghiên cứu khoa học và công
trình chế tạo thử nghiệm của riêng mình.
Việc lập kế hoạch và dự báo khoa học - có nghĩa là chỉ ra xu hướng phát triển
nó, thời hạn nghiên cứu các vấn đề tổng hợp lớn, khối lượng các chi phí về vật chất
và lao động cần thiết, khả năng sử dụng thực tế của các kết quả nghiên cứu khoa
học.
Các dự báo được sắp xếp thành các chu kỳ khác nhau: 15 - 20 năm (tương
ứng với chu kỳ “nghiên cứu - khai thác - sản xuất”), 40-50 năm (chủ yếu là các chỉ
tiêu chất lượng), 100 năm và hơn nữa (làm cơ sở cho thế giới quan và trực quan

của các chuyên gia).
Mặc dù vấn đề dự báo vẫn còn trong giai đoạn nghiên cứu, trên thực tế người
ta đang sử dụng các dự báo nghiên cứu (để xác định sự phát triển của khoa học - kỹ
thuật), dự báo chương trình (để xác định chương trình của con đường đạt được
mục tiêu và nhiệm vụ dự báo của quá trình khoa học - kỹ thuật); dự báo tổ chức (để
xác định các giải pháp tổ chức bảo đảm đạt được mục tiêu dự báo). Liên quan tới
việc tổ chức các tổ hợp khoa học - sản xuất, xu thế là các kế hoạch đã xem xét
trước toàn bộ tập hợp các công trình trong vòng 15 - 20 năm tính từ lúc đặt vấn đề
đến khi áp dụng vào sản xuất.
Các vấn đề của dự báo được khoa học dự báo nghiên cứu. Khoa học dự báo
sử dụng các phương pháp sau: ngoại suy, tương tự lịch sử, thông tin sáng chế, đánh
giá thực nghiệm, mô hình hóa, thống kê, tổ hợp .... Phổ biến rộng rãi là các phương
pháp mô hình hóa và đánh giá thực nghiệm.
Các công trình nghiên cứu - khoa học được phân biệt theo dạng liên hệ với
sản xuất thực tế (tạo ra các máy mới, cải thiện các mối quan hệ sản xuất, nâng cao
9


trình độ tổ chức sản xuất...), theo mức độ quan trọng (các công trình quan trọng
nhất theo kế hoạch quốc gia và theo nhiệm vụ của các bộ ngành, theo kế hoạch
hoặc sáng kiến của người thực hiện); tùy thuộc vào nguồn tài chính (ngân sách
quốc gia, theo thỏa thuận); theo độ dài thời gian nghiên cứu (dài hạn và ngắn hạn,
thường được thực hiện trong vòng một năm); theo ý nghĩa đặt ra (lý thuyết nền
móng cho phát triển lý thuyết tiếp theo, ứng dụng để tạo ra các phương pháp
nghiên cứu kỹ thuật mới, các công trình nghiên cứu để biến các công trình lý
thuyết và thực dụng thành phụ lục kỹ thuật).
Ở nước ta các nghiên cứu khoa học được tiến hành ở các viện nghiên cứu
khoa học của Bộ Khoa học - công nghệ quốc gia và các bộ ngành, ở các trường đại
học, các cơ quan thiết kể - chế tạọ và công nghệ, các phòng thí nghiệm...
Các cơ quan nghiên cứu khoa học đầu ngành thực hiện sự phối hợp giữa các

cơ quan ban ngành. Tổ chức khoa học cao nhất - là Bộ Khoa học công nghệ, quản
lý hệ thống các viện, các cơ quan nghiên cứu khoa học và các tổ chức khác, ngoài
ra còn các cơ quan nghiên cứu khoa học của các bộ ngành, các trường đại học ...
Giữ vai trò quan trọng nữa là các hội khoa học và kỹ thuật. Gần đây đã thành
lập một hệ thống các trung tâm khoa học. Khi tổ chức các tập thể khoa học hiện
nay phổ biến có cấu trúc bốn cấp (nhóm, phòng thí nghiệm, phòng ban, cơ quan
hoặc nhóm, bộ môn, khoa, viện). Giám đốc (hiệu trưởng) giữ quyền quyết định
cuối cùng về mọi vấn đề quản lý các nghiên cứu khoa học và là chủ tịch hội đồng
của cơ quan (viện). Trong hoạt động của cơ quan khoa học các tổ chức đảng và xã
hội cũng đóng vai trò quan trọng.
Đề tài nghiên cứu khoa học được lựa chọn phù hợp với các nhiệm vụ phát
triển của nền kinh tế quốc dân của đất nước, khi đó các vấn đề đã được nghiên cứu
trong các cơ quan khoa học phải được xét đến. Hướng nghiên cứu khoa học bao
gồm phạm vi nghiên cứu nhằm giải quyết các vấn đề lý thuyết - thực nghiệm lớn
có tính nền móng.
10


Vấn đề (theo tiếng Hylạp problema - nhiệm vụ) ở nghĩa lộng - là một vấn đề
lý thuyết hoặc thực nghiệm phức tạp đòi hỏi nghiên cứu, giải quyết; trong khoa học
- là tình huống mâu thuẫn thê hiện dưới dạng các mặt đối lập khi giải thích các
hiện tượng, đối tượng, quá trình nào đó và đòi hỏi lý thuyết thích hợp để phát triển
nó.
Vấn đề bao gồm những đề tài bao quát một phạm vi nghiên cứu xác định và
trước hết bao gồm những nhiệm vụ khoa học nhỏ hơn. Đề tài nghiên cứu có thể là
sự phát triển các hệ điều khiển, các công cụ, công nghệ; việc giải quyết vấn đề này
có thể là phát minh, tổng quát hóa tập hợp các sự kiện khoa học.
Quá trình lựa chọn đề tài. Sau khi luận chứng về vấn đề (nhiệm vụ), người cán
bộ khoa học hoặc tập thể thường phải tự lựa chọn đề tài nghiên cứu. Việc lựa chọn
đề tài phải làm quen trước một cách thận trọng với các ấn phẩm trong và ngoài

nước về các chuyên ngành đã cho và các chuyên ngành hỗn hợp. Trong các tập thể
cổ truyền thống khoạ học và cổ định hướng khoa học, việc lựa chọn đề tài thực sự
là đơn giản: người cộng tác viên bắt đầu nghiên cứu đề tài được luận chứng bởi các
nghiên cứu trước đây; trong các tập thể như vậy sẽ thể hiện được các điều kiện có
lợi cho sự tham gia của sinh viên trong công tác nghiên cứu khoa học. Sau khi làm
quen với đề tài, cán bộ khoa học làm báo cáo trình người hướng dẫn và tập thể,
trong đố luận chứng việc đặt vấn đề cho nhiệm vụ và tình hình nghiên cứu vào thời
điểm đã cho. Trong giai đoạn này cần phải chuẩn bị 1 - 2 bản tóm tắt, tiến hành thử
nghiệm tìm kiếm, tham khảo ý kiến trong cơ quan nghiên cứu khoa học và trong
sản xuất.
1.1.3.2. Tìm kiếm thông tin
Sau khi lựa chọn đề tài người ta tiến hành nghiên cứu thận trọng các thông tin
khoa học - kỹ thuật với mục đích chính xác hóa đề tài và luận chứng cho mục đích
và nhiệm vụ nghiên cứu khoa học. Việc tìm kiếm thông tin đó chính là thu thập các
biểu tượng (vật) mang thông - tin từ các nơi lưu trữ để đáp ứng yêu cầu của người
11


sử dụng. Các hình thức hiệu quả liên quan đến việc thu nhận thông tin khoa học kỹ thuật - đó là các cuộc thảo luận, hội nghị chuyên đề, hội thảo, hội khoa học, nơi
có các nha khoa học trao đồi kinh nghiệm tiên tiến xác định sự hợp tác công việc.
Nguồn thông tin khoa học (TTKH). Các nguồn thông tin khoa học quan trọng
nhất - là những tài liệu sơ cấp và thứ cấp. Nguồn sơ cấp có thể là các tài liệu đã
được in ấn phát hành và chưa phát hành. Các tài liệu đã được phát hành - là sách
cũng như các xuất bản phẩm định kỳ, không định kỳ và chuyên ngành khác.
Xuất bản phẩm - là ấn phẩm; hiệu đính, biên tập và xem xét trước để truyền bá
thông tin chứa đựng trong đó. Sách - là xuất bản phẩm không định kỳ, xuất bản
một lần hoặc nhiều lần (tái bản); là các trang tài liệu in ấn được đóng thành quyển
có dung lượng lớn hơn 48 trang, về nguyên tắc, có bìa cứng hoặc mềm.
Các dạng xuất bản phẩm kỹ thuật chuyên ngành là tài liệu tiêu chuẩn kỹ thuật
và sáng chế, thư mục, mục lục, các trang thông tin. Các tài liệu chưa xuất bản

thuộc về: các báo cáo, luận án, tóm tắt luận án ...
Chúng ta xem tài liệu phát minh như một nguồn thông tin khoa học - kỹ thuật.
Tài liệu phát minh là tập hợp các tài liệu đã xuất bản và chưa xuất bản (và những
tài liệu thu thập được từ chúng) chứa đựng những khái niệm về các phát minh.
Thông tin về các phát minh thường là đầy đủ, tóm tắt và dưới dạng thư mục. Loại
đầy đủ - là mô tả phát minh, loại tóm tắt - là bản tin của văn phòng phát minh và
các chi dẫn bổ sung, loại thư mục - là những thẻ in ấn.
Thông tin phát minh được hệ thống hóa nhiều nhất, chứa đựng những khái
niệm về tất cả những thành tựu chủ yếu của loài người trong khoảng thời gian 200
năm sau cùng. Năm 1970 quỹ phát minh thế giới đã tính được hơn 13 triệu phát
minh. Thông tin về phát minh đã tin cậy và thống nhất hơn. Mỗi một mô tả phát
minh - chỉ là về một phát minh.
Việc tìm kiếm thông tin phát minh là cần thiết cho việc xác định: những điểm
mới của bản đăng ký phát minh được đề xuất; mức độ hiện đại của giải pháp phát
12


minh trong lĩnh vực cụ thể của kỹ thuật; tính thuần khiết của phát minh cung cấp;
bản quyền của người phát minh. Khi đó người ta sử dụng các dạng khác nhau của
công việc tìm kiếm như: chủ đề, tên, danh mục, các phát minh - tương tự, thời hạn
hiệu lực của phát minh.
Trong công văn đặt trước (công văn yêu cầu), nên lập một cách chính xác các
đối tượng tìm kiếm và chỉ rõ nơi cần tìm kiếm. Tùy thuộc mục đích tìm kiếm mà
xác định thời gian tìm kiếm Như vậy, công việc kiểm tra, đề nghị đánh giá tính
mới của thế giới được tiến hành trong chu kỳ 50 năm.
Sau đó cần phải xác định cấp mà các tài liệu nghiên cứu được sắp xếp. Việc
phân loại các phát minh làm giảm nhẹ cho định hướng. Hiện nay với mục đích
giảm nhẹ định hướng trong các tài liệu phát minh, người ta sử dụng cách phân loại
phát minh quốc tế, các chỉ số phân loại của nó được tập hợp theo chỉ dẫn theo bảng
chữ cái của các đối tượng. Cách phân loại này được áp dụng ở Liên Xô từ năm

1970 và là cách chủ yếu.
Từ năm 1972 viện nghiên cứu khoa học trung ương về thông tin phát minh và
viện nghiên cứu kỹ thuật - kinh tế đã cho xuất bản bằng tiếng Nga tuyển tập các
phát minh của nước ngoài. Nó gồm các vấn đề theo 53 nhóm đăng ký tương ứng
với các danh mục phân loại phát minh quốc tế và sử dụng bản tin phát minh của
Mỹ, Anh, Đức, Pháp và Nhật Bản.
Nguồn tin thứ cấp được xây dựng từ việc xử lý lại nguồn sơ cấp; chúng giúp
vượt qua rào cản về ngôn ngữ, yếu tố bùng nổ thông tin; làm giảm nhẹ cho sự làm
quen với các bản thảo chưa xuất bản và dạng đề pô. Các xuất bản phẩm thứ cấp gồm
những dạng sau: thông tin tín hiệu; thông tin nhanh; tạp chí tóm tắt; tổng quan và
bản dịch. Các yêu cầu bắt buộc của xuất bản phẩm thông tin - là mô tả mục lục,
trong đó tối thiểu phải có những khái niệm về in ấn, tên sản phẩm, khái niệm về tác
giả, tên gọi của nhà xuất bản, nơi và năm xuất bản.
Ý nghĩa cơ bản của thông tin tín hiệu - là thông báo hoạt động về xuất bản có
13


bảo đảm tới tận tay người đặt hàng copy. Thông túi tín hiệu được xuất bản cấp
quốc gia, trung ương, ngành và giữa các cơ quan nghiên cứu khoa học liên ngành
và là danh mục được hệ thống hóa mô tả mục lục các nguồn trong và ngoài nước
chứa đựng các xuất bản phẩm dưới dạng tóm tắt.
Thông tin nhanh là những xuất bản phẩm có định kỳ được xuất bản ở cấp
trung ương, lĩnh vực và các cơ quan nghiên cứu khoa học khác nhau. Thông tin
này giới thiệu hoạt động của các chuyên gia với các công bố quan trọng nhất trong
các xuất bản phẩm trong và ngoài nước. Các xuất bản phẩm thông tin nhanh được
xuất bản trong vòng một tháng kể từ ngày nộp bản thảo cho cơ quan nghiên cứu
khoa học và bao gồm các bản tóm tắt mở rộng.
Trong các tạp chí tóm tắt có xuất bản các mô tả mục lục, chú thích hoặc tóm tắt
các ấn phẩm đầu tiên, cho phép độc giả theo dõi sự xuất hiện các ấn phẩm có giá trị
nhất, cũng như thực hiện việc tìm kiếm theo các bộ tạp chí đã xuất bản trước đây,

theo các công cụ sổ tay - tìm kiếm đã được trạng bị. Tổng quan và biên dịch là dạng
hiện đại nhất của thông tin, trong đó có các tài liệu - nguồn sơ cấp làm sáng tỏ dưới
dạng nén, tổng quát hóa.
Trình tự làm quen với các nguồn tài liệu thứ cấp phụ thuộc vào việc danh sách
các tài liệu đã được lựa chọn trước hay chưa. Việc tìm kiếm theo danh sách đã
được lựa chọn được thực hiện nhờ thư mục theo thứ tự bảng chữ cái. Khi không có
danh mục tài liệu tham khảo thì nên sử dụng thư mục đã dược hệ thống hóa.
Trong những trường hợp, khi các tài liệu thạm khảo được lựa chọn theo thư
mục đã được hệ thống hóa chưa đủ, thì nên tìm đến những tủ hồ sơ, sổ tay mục lục
chính, trong đó có tập hợp các bài báo từ các tạp chí trong nước, các tuyển tập và
công trình cũng đã được hệ thống hóa theo cách phân loại tổng hợp theo hệ thập
phân. Chìa khóa mở vào hệ mục lục đã được hệ thống hóa và vào tủ hồ sơ sổ tay
mục lục chính là chỉ dẫn đối tượng theo bảng chữ cái.
Khi không có các chi dẫn mục lục theo lĩnh vực trong tủ hồ sơ thì nên tìm đến
14


tủ hồ sơ “mục lục quốc gia”, cũng như tìm đến phần “tuyển tập mục lục” trong
“biên niên sử về sách” và “biên niên sử về các bài báo” hoặc danh mục các tài liệu
thông tin chủ yếu của quốc gia. Có thể sử dụng cả các danh sách các tài liệu tham
khảo trong các công trình khoa học, các từ điển bách khoa thư chung và theo từng
lĩnh vực và các nguồn mục lục khác.
Các phương tiện kỹ thuật tìm kiếm thông tin , Việc tìm kiếm thông tin - đó là
một hệ thống các quan hệ phức tạp giữa tác giả, tài liệu khoa học và ngườiốtử
dụng. Cuốn sách, bài báo khoa học hoặc một tài liệu khoa học khác (ảnh, hệ thống
thiết bị MTĐT) - đó là những thông báo nhằm truyền qua trung tâm liên hệ từ tác
giả đến người dùng. Nên tổ chức thông tin sao cho bảo đảm giảm nhẹ việc tìm kiếm
(xác định vị trí tìm kiếm) và thu thập chúng, được thực hiện nhờ các hệ thống
thông tin tìm kiếm.
Gần đây người ta chú ý nhiều tới việc nghiên cứu các quy luật của hoạt động

khoa học - thông tin, việc xây dựng hệ thống phục vụ thông tin hiện đại hơn và
khoa học mới - tin học. Tự động hóa xử lý thông tin, tạo lập mạng thông tin rộng
rãi. Trong các cơ quan tương ứng cũng áp dụng tổ hợp hệ thống tìm kiếm thông tin
hiệu quả, có sử dụng máy tính điện tử và tự động hóa tìm kiếm, thu thập và truyền
thông tin.
Các hướng chủ yếu khi tạo lập hệ thống tìm kiếm thông tin như sau: nghiên
cứu các phương pháp xử lý thông tin và các cách thức chức năng hóa hệ thống; lựa
chọn hoặc tạo lập ngôn ngữ thông tin; lựa chọn hoặc kiến tạo các phương tiện kỹ
thuật; nghiên cứu xây dựng bảo đảm chương trình.
Hệ thống tìm kiếm thông tin được phân loại theo các cách sau đây:
• Thẻ tìm kiếm bằng tay. Ví dụ, tấm thẻ được phân loại theo cách phân loại ở

thư viện bất kỳ hoặc theo cách phân loại tổng hợp hệ thập phân.
• Thẻ có đục lỗ biên. Mỗi một thẻ phản ánh nội dung của một tài liệu. Việc

phân tích nội dung này có thể được ấn định bời một ô hoặc tổ hợp của chúng trên
15


biên thẻ.
• Thẻ nhận bứt. Áp dụng tờ giấy có lưới kẻ ô ly có phân chia theo phương đứng

và ngang. Đặt khuôn đồ hình này lên nguồn sáng chiếu rõ tấm thẻ, có thể xác định
được vị trí lỗ thủng trùng hợp. Việc tìm kiếm được bắt đầu từ chỉ số yêu cầu và lựa
chọn thẻ có chỉ so cần thiết.
• Máy đục lỗ. Nhờ đục lỗ qua bàn phím trên mỗi thẻ đục lỗ, dưới dạng mã hóa,

sẽ ghi thông tin về tài liệu.
• Vi phim. Trên phím xung, một mã của tài liệu cần tìm được gõ một nhát.
• Băng từ và phim. Từ thẻ người ta ghi lên băng từ hoặc phim. Hình thức này


được sử dụng trong hệ thống lưu trữ và tìm kiếm thông tin cùng với tổ hợp máy
tính điện tử.
• Máy tính. Nạp các công thức chuyên môn vào máy, trong đó có khả năng chi

ra một số lượng lớn các từ khóa. Chúng được mã hóa trên băng và đựợc đưa vào
thiết bị ghi nhớ.
1.1.33. Tìm kiếm khoa học
Tìm kiếm khoa học - là một quá trình sáng tạo, được hiểu là những nghiên cứu có
tính nền móng, định hướng hợp lý và ứng dụng. Những nghiên cứu nền móng một

cách tự do (khoa học “thuần túy”) mang đặc trưng thăm dò, đòi hỏi sự làm việc cá
nhân để nhận thức thêm các quy luật chưa biết của tự nhiên và xẵ hội. Các nghiên
cứu có tính nền móng nhằm giải quyết các vấn đề xác định nhờ các phương pháp
khoa học. Các nghiên cứu có tính ứng dụng chính là nghiên cứu kỹ thuật và công
nghệ trên cơ sở các kiến thức khoa học mới.
Các nghiên cứu có tính nền móng được thể hiện trong thực tiễn qua các
nghiên cứu có tính ứng dụng. Không có nghiên cứu nền móng “thuần túy” và ứng
dụng “thuần túy”, mà chỉ có sự thống nhất biện chứng của các nghiên cứu có tính
nền mỏng và có tính ứng dụng bổ sung cho nhau, thúc đẩy nhau phát triển. Nên
chú ý ràng, ở mức độ nào đó, sẽ rất có lợi ngay cả kết quả nghiên cứu khoa học
16


chưa thành công, vì nó giúp tránh được sự làm việc theo hướng không đúng.
Các nguyên tắc tìm kiếm khoa học. Hiệu quả của việc tìm kiếm khoa học phụ
thuộc vào việc tổ chức nó.
Các nguyên tắc chủ yếu tìm kiến khoa học - là tính tập thể, tính đồng bộ, tính
hoàn thiện, tính thích dụng của ý tưởng khoa học và kỹ thuật, sự phổ biến các
nguyên lý chủ yếu của khoa học này sang khoa học khác, sự tổ hợp các nghiên cứu

có tính nền móng, lý thuyết và thực nghiệm.
Ở giai đoạn hiện đại của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật, để tiến hành
nghiên cứu khoa học cần phải tổ chức các tập thể đồng bộ các nhà khoa học của
các chuyên ngành khác nhau. Khoa học hiện đại đang mang trong mình một đặc
trưng toàn cầu và đòi hỏi sự liên hợp các lực lượng khoa học và nguồn vật chất kỹ
thuật của các quốc gia khác nhau. Hiện đang được mở rộng không ngừng sự hợp
tác khoa học, được đàm phán bởi hai hay nhiều bên, bởi chương trình hội nhập
kinh tế đồng bộ.
Nhờ có sự giải tỏa sự căng thẳng quốc tế mà có thể cổ sự hợp tác hữu nghị
giữa các nhà khoa học sống ở các quốc gia khác nhau có chế độ xã hội khác nhau.
Họ đang nghiên cứu những vấn đề ảnh hưởng đến mối quan tâm của loài người
(tìm kiếm không gian vũ trụ, nghiên cứu đại dương, bảo vệ môi trường, chống ô
nhiễm, sự biến đổi khí hậu ...).
Khi lập kế hoạch và tổ chức cần phải kết hợp các nghiên cứu có tính nền
móng và ứng dụng. Tất nhiên, không nên lập kế hoạch phát minh, nhưng có thể và
cần phải dự báo các hướng làm việc tạo ra các diều kiện để thành công. Trong
những điều kiện lao động khoa học tập thể, đảm bảo phối hợp đúng đắn các nghiên
cứu có tính nền mỏng và ứng dụng. Trong những điều kiện như vậy .các nghiên
cứu khoa học sẽ trở thành khoa học thống nhất ngay cả việc ứng dụng nó.
Điều kiện phát triển thành công các nghiên cứu khoa học ở các trường đại học
- là sự hợp tác chặt chẽ với các cơ quan quản lý khoa học, còn đối với hội thảo, hội
17


nghị, hội nghị chuyên đề, thảo luận, trường phái khoa học, xuất bản các công trình
khoa học. Giảng viên của các trường đại học đi thực tập ở các tổ hợp sản xuất khoa
học và các cơ quan của viện hàn lâm khoa học, các viện sĩ và các chuyên gia điều
hành các tổ hợp đtrợc huy động vào làm việc khoa học - sư phạm trong các trường
đại học.
Hiệu quả và trình độ lý thuyết cao của nghiên cứu khoa học, mà đôi khi chính

khả năng đặt vấn đề của họ thực sự phụ thuộc vào sự hoàn thiện của cơ sở kỹ thuật.
Cơ sở kỹ thuật (bảo đảm kỹ thuật) của các nghiên cứu khoa học được hiểu là thiết
bị cần thiết để tiến hành thực nghiệm trong phòng và ngoài sản xuất (trong điều
kiện thực nghiệm).
Nên đặc biệt nhấn mạnh rằng hiệu quả nhất là những nghiên cứu khoa học
trực tiếp trong những điều kiện sản xuất cùng với những đặc điểm khai thác thực tế của
nó. Không có thiết bị thí nghiệm xuất sắc nào lại có thể tạo ra sự mô phỏng đầy đủ
các điều kiện khai thác không có những nghiên cứu thiết bị tốt nào so với sản xuất
thực tế. Vì vậy, nghiên cứu ở phòng thí nghiệm nên phối hợp cùng với những
nghiên cứu trong những điều kiện thực tế.

18


CHƯƠNG 2: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
TRONG ĐỀ TÀI “BIỆN PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ
KINH DOANH DỊCH VỤ NHẬP KHẨU Ô TÔ ĐÃ QUA
SỬ DỤNG TẠI CÔNG TY TNHH HIỆP HÒA”
2.1. Lựa chọn đề tài
2.1.1. Tính cấp thiết của đề tài
Ô tô đang dần quen thuộc và trở thành phương tiện đi lại thông dụng của
người dân Việt Nam. Khi ngành sản xuất ô tô Việt Nam chính thức ra đời, thị
trường ô tô trở nên phong phú hơn. Công nghiệp ô tô được coi là ngành công
nghiệp mũi nhọn, cần ưu tiên phát triển. Do đó, chính phủ đã áp dụng các biện
pháp hạn chế đối với hoạt động nhập khẩu ô tô nói chung và ô tô đã qua sử dụng
nói riêng, chỉ được nhập khẩu những loại ô tô mà các nhà sản xuất trong nước chưa
sản xuất được hoặc sản xuất nhưng không có hiệu quả. Tuy nhiên, tính cho đến
thời điểm hiện tại, ngành công nghiệp ô tô Việt Nam chỉ mới dừng lại ở mức lắp
ráp đơn thuần; vẫn chưa sản xuất được linh kiện, phụ tùng nhằm đáp ứng nhu cầu
sản xuất, lắp ráp các loại ô tô trong nước. Bên cạnh đó, giá ô tô ở Việt Nam thuộc

dạng đắt nhất thế giới mà tỷ lệ nội địa hóa lại không cao. Đây chính là một thiệt
thòi lớn cho người tiêu dùng Việt Nam.
Khi yêu cầu hội nhập được đặt ra, Việt Nam buộc phải cam kết dần mở cửa
thị trường ô tô. Ngày 23/01/2006, chính phủ đã ban hành Nghị định 12, quyết định
cho phép nhập khẩu ô tô đã đã qua sử dụng và được sự ủng hộ của các ban ngành.
Từ đây, tưởng rằng người tiêu dùng sẽ có thêm nhiều lựa chọn cho mình với giá cả
và chất lượng tốt nhất. Nhưng thực tế, những vấn đề về thuế và phí đã gây nên
nhiều bức xúc, người tiêu dùng vẫn chịu thiệt thòi nhất.

19


Trước những vấn đề đặt ra đối với hoạt động nhập khẩu ô tô đã qua sử dụng
trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, em đã chọn đề tài “Biện pháp nâng cao hiệu
quả kinh doanh dịch vụ nhập khẩu ô tô đã qua sử dụng tại Công ty TNHH Hiệp
Hòa” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp. Công ty TNHH Hiệp Hòa là doanh nghiệp
hoạt động kinh doanh chủ yếu trong lĩnh vực nhập khẩu ô tô đã qua sử dụng. Trong
thời gian qua, công ty đã thu được những kết quả nhất định, đồng thời hiệu quả
hoạt động kinh doanh nhập khẩu ngày càng được nâng cao. Tuy nhiên, công ty vẫn
gặp phải nhiều khó khăn trong lĩnh vực nhập khẩu do ảnh hưởng của nhiều nhân tố
khách quan và chủ quan từ môi trường bên ngoài và bên trong.
2.1.2. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của khóa luận là trên cơ sở phân tích thực trạng hoạt động kinh
doanh nhập khẩu ô tô đã qua sử dụng của công ty TNHH Hiệp Hòa, tìm ra kết quả
đạt được và những hạn chế của công ty. Từ đó đưa ra một số biện pháp góp phần
nâng cao hiệu quả kinh doanh nhập khẩu ô tô đã qua sử dụng tại công ty.
2.1.3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Biện pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh dịch vụ
nhập khẩu ô tô đã qua sử dụng của công ty TNHH Hiệp Hòa và giải pháp nâng cao
hiệu quả.

- Phạm vi nghiên cứu: Giai đoạn 2010 - 2014.
2.2. Tìm kiếm thông tin
2.2.1. Tình hình nghiên cứu đề tài
Từ trước đến nay, có rất nhiều nghiên cứu về hoạt động nhập khẩu ô tô đã
qua sử dụng ở Việt Nam, ví dụ như:
- Hoạt động nhập khẩu ô tô cũ và tác động của nó tới ngành sản xuất ô tô của
Việt Nam - Tác giả: Nguyễn Thị Phương Anh - Trường Đại học Ngoại thương Hà
Nội.
20


- Chính sách nhập khẩu ô tô cũ của Việt Nam – Tác giả: Lê Thị Việt Anh Trường Đại học Kinh tế quốc dân.
Nhưng chưa có ai nghiên cứu thực trạng hoạt động nhập khẩu ô tô đã qua sử
dụng tại công ty TNHH Hiệp Hòa và đưa ra biện pháp nâng cao hiệu quả.
2.2.2. Phương pháp thu thập dữ liệu
Tài liệu có thể thu thập được từ nhiều nguồn khác nhau, ví dụ: các tạp chí
khoa học, báo cáo nghiên cứu đã đăng trên các tạp chí, các cơ sở dữ liệu (Medline,
CD, luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ, internet,…). Chúng ta có thể lựa chọn các
nguồn tài liệu ưu tiên theo thứ tự sau:
a)

Bắt đầu bằng tổng hợp rộng về tài liệu nghiên cứu như các tổng quan được tìm

thấy trong sách giáo khoa, các bài tạp chí hay các tổng hợp các tóm tắt;
b)

Chuyển tới các bài báo tạp chí. Bắt đầu với các nghiên cứu gần nhất về chủ đề

và lùi dần theo thời gian. Lần theo sách tham khảo ở cuối các bài báo để khảo sát
rộng hơn các nghiên cứu;

c)

Chuyển sang các sách liên quan đến chủ đề;

d)

Tìm kiếm các bài viết dự hội thảo về chủ đề;

e)

Tìm kiếm các tóm tắt của các luận văn, luận án hiện có ở các trường đại học.
Internet và công nghệ tin học ứng dụng đã tạo ra nhiều phương thức tìm

kiếm, xử lý tài liệu hiện đại, nhanh chóng và hiệu quả hơn hẳn so với phương cách
tìm kiếm truyền thống. Tuy vậy, sử dụng phương pháp truyền thống đôi khi vẫn rất
có giá trị khi không thể tìm được những tài liệu có ở internet, các phần mềm, hoặc
các đĩa CD chuyên biệt,...
Các công cụ tìm kiếm trên mạng có ở khắp mọi nơi, các trang web, các bộ
cơ sở dữ liệu, trong lòng các phần mềm,… Hiện nay, toàn cầu chỉ có EndNote,
References, Cited là phần mềm chuyên dụng quản lý tài liệu tham khảo. Hiểu và

21


thực hành các nội dung dưới đây sẽ giúp nhà nghiên cứu tìm kiếm và xử lý tài liệu
tham khảo bằng Internet thuận tiện và hiệu quả.
2.3. Phương pháp nghiên cứu đề tài
2.3.1. Phương pháp luận của đề tài
2.3.1.1. Tổng quan về nhập khẩu
• Khái niệm:

Hội nhập kinh tế quốc tế là một xu thế khách quan trong thời đại ngày nay.
Không một quốc gia nào có thể phát triển được nếu không tham gia vào quá trình
này. Đối với các nước đang và kém phát triển, trong đó có Việt Nam, hội nhập
kinh tế quốc tế là con đường tốt nhất để rút ngắn sự tụt hậu so với các nước khác
và có điều kiện phát huy hiệu quả hơn nữa những lợi thế so sánh của mình trong
phân công lao động và hợp tác quốc tế.
Thương mại quốc tế có vai trò rất quan trọng đối với quá trình hội nhập kinh
tế quốc tế của mỗi quốc gia, đúng như câu nói của nhà kinh tế học người Anh
Thomas Mun: “ Thương mại là hòn đá thử vàng đối với sự phồn thịnh của một
quốc gia, không có phép lạ nào khác để kiếm tiền trừ thương mại ”.
Nói đến thương mại quốc tế, không thể không nhắc đến hoạt động nhập
khẩu. Nhập khẩu là hoạt động mua hàng hóa, dịch vụ từ nước ngoài để phục vụ
cho nhu cầu sản xuất và tiêu dùng trong nước. Hay nói cách khác, nhập khẩu là
việc mua hàng hóa, dịch vụ từ các tổ chức kinh tế, các công ty nước ngoài để tiêu
thụ hàng hóa, dịch vụ nhập khẩu tại thị trường nội địa hoặc tái xuất khẩu với mục
đích thu lời và nối liền sản xuất với tiêu dùng.
• Vai trò của nhập khẩu
Trong điều kiện kinh tế hiện nay, vai trò quan trọng của nhập khẩu được thể
hiện ở các khía cạnh sau đây:
- Nhập khẩu tạo điều kiện thúc đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh
tế theo hướng công nghiệp hóa đất nước
22


Cơ cấu kinh tế là tương quan tỉ lệ giữa các bộ phận của nền kinh tế quốc
dân.
Công nghiệp hóa là sự chuyển đổi nền kinh tế một cách cơ bản từ sử dụng
lao động thủ công là chính sang lao động gắn với công nghệ tiên tiến, hiện đại, tạo
ra năng suất lao động và trình độ phát triển kinh tế - xã hội cao.
Theo Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI xác định đến năm 2020, tỉ

trọng các ngành công nghiệp và dịch vụ chiếm khoảng 85% trong GDP. Để đạt
được chỉ tiêu này, nhập khẩu có vai trò rất quan trọng trong việc nhập khẩu trang
thiết bị, công nghệ mới cho các ngành kinh tế như điện và điện tử, công nghiệp
đóng tàu, chế biến dầu khí, chế biến nông sản,... Từ đó sẽ hướng các ngành kinh tế
theo hướng công nghiệp hóa.
- Nhập khẩu giúp bổ sung kịp thời những mặt cân đối của nền kinh tế, đảm
bảo phát triển kinh tế cân đối và ổn định
Một nền kinh tế muốn phát triển tốt cần đảm bảo sự cân đối giữa khu vực 1
và khu vực 2; giữa tích lũy và tiêu dùng; giữa hàng hóa và lượng tiền trong lưu
thông; giữa xuất khẩu với nhập khẩu và cán cân thanh toán quốc tế.
Nhập khẩu có tác động rất tích cực thông qua việc cung cấp các yếu tố đầu
vào để phát triển sản xuất. Đồng thời tạo điều kiện để các nước chủ động hội nhập
kinh tế quốc tế, tận dụng lợi thế từ các thị trường trên thế giới và khắc phục những
mặt mất cân đối để thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
- Nhập khẩu góp phần cải thiện và nâng cao mức sống của nhân dân
Nhập khẩu có vai trò thỏa mãn nhu cầu trực tiếp của nhân dân về hàng tiêu
dùng mà trong nước không sản xuất được hoặc sản xuất không đủ như thuốc, đồ
điện gia dụng, lương thực, thực phẩm,...
Nhập khẩu đảm bảo đầu vào cho quá trình sản xuất, khôi phục lại những
ngành nghề cũ, mở ra những ngành nghề mới, tạo nhiều việc làm ổn định cho
người lao động, từ đó tăng khả năng thanh toán.
23


Bên cạnh đó, nhập khẩu còn góp phần nâng cao thu nhập và cải thiện đời
sống của nhân dân.
- Nhập khẩu có vai trò tích cực đến thúc đẩy xuất khẩu
Nhập khẩu tạo đầu vào cho sản xuất hàng xuất khẩu. Nhập khẩu cung cấp
nguyên nhiên liệu, máy móc thiết bị,... phục vụ xuất khẩu. Điều này đặc biệt quan
trọng đối với các nước đang và kém phát triển. Vì khả năng sản xuất của các nước

này còn có hạn. Vì vậy, nhiều quan niệm còn cho rằng, đây chính là hiện tượng
“lấy nhập khẩu nuôi xuất khẩu” và sự phát triển gia công xuất khẩu ở Việt Nam là
minh chứng cụ thể nhất.
Nhập khẩu giúp thiết lập quan hệ thương mại với nước xuất khẩu bạn hàng,
tạo cơ hội xuất khẩu hàng hóa của mình sang nước này.
2.3.1.2. Hiệu quả hoạt động kinh doanh dịch vụ nhập khẩu ô tô đã qua sử dụng

24


Bảng 2.1: Phân tích kết quả kinh doanh của công ty 3 năm gần đây
2013/2012
Mức độ
Chỉ tiêu

Năm 2012

Năm 2013

Năm 2014

2014/2013
Tỷ lệ
(%)

Mức độ

Tỷ lệ
(%)


1. Doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ

41.669.970.419

51.140.909.080

24.732.545.437

9.470.938.661

22,7

-26.408.363.643

-51,6

2. Doanh thu thuần về bán hàng và cung cấp dịch
vụ

41.669.970.419

51.140.909.080

24.732.545.437

9.470.938.661

22,7

-26.408.363.643


-51,6

3. Giá vốn bán hàng

40.105.634.630

49.370.401.239

24.197.841.914

9.264.766.609

23,1

-25.172.559.325

-51

1.564.335.789

1.770.507.841

534.703.523

206.172.052

13,2

-1.235.804.318


-69,8

71.610.064

54.785.831

138.068.953

-16.824.233

-23,5

83.283.122

152

6. Chi phí tài chính

450.527.654

601.233.383

170.747.000

150.705.729

33,5

-430.486.383


-71,6

7. Chi phí bán hàng + quản lý kinh doanh

777.632.060

519.233.820

297.058.831

-258.398.240

-33,2

-222.174.989

-42,8

8. Lợi nhuận thuần từ hoạt động kinh doanh

407.786.139

704.826.469

204.966.645

297.040.330

72,8


-499.859.824

-70,9

9. Thu nhập khác

228.686.807

89.905.662

-138.781.145

-60,7

-89.905.662

-100

10. Chi phí khác

215.875.261

89.905.662

-125.969.599

-58,4

-89.905.662


-100

-12.811.546

-100

0

4. Lợi nhuận gộp về bán hàng và cung cấp dịch vụ
5. Doanh thu hoạt động tài chính

11. Lợi nhuận khác

12.811.546

12. Tổng lợi nhuận kế toán trước thuế

420.597.685

704.826.469

204.966.645

284.228.784

67,6

-499.859.824


-70,9

13. Chi phí thuế thu nhập doanh nghiệp

105.149.421

176.206.617

51.241.661

71.057.196

67,6

-124.964.956

-70,9

14. Lợi nhuận sau thuế thu nhập doanh nghiêp

315.448.264

528.619.852

153.724.984

213.171.588

67,6


-374.894.868

-70,9

25


×