Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

Khoa học và công nghệ với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở TP hồ chí minh hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (415.83 KB, 27 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN



ĐỖ VĂN THẮNG

KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ VỚI QUÁ
TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA
Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH HIỆN NAY
Chuyên ngành: CNDVBC&CNDVLS
Mã số: 62220302

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – 2016


LUẬN ÁN ĐƯỢC HOÀN THÀNH TẠI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH



Người hướng dẫn khoa học
PGS.TS. TRỊNH DOÃN CHÍNH

Chủ tịch Hội đồng:
Thư ký Hội đồng:
Phản biện 1:
Phản biện 2:


Phản biện 3:

Luận án được bảo vệ tại Hội đồng chấm luận án Tiến sĩ
Trường đại học KHXH & NV, Đại học Quốc gia Thành phố
Hồ Chí Minh vào lúc giờ ngày tháng năm 2016.

Phản biện độc lập 1:
Phản biện độc lập 2:
Có thể tìm hiểu luận án tại
- Thư viện Trường Đại học KHXH & NV – ĐH QG TP.HCM,
- Thư viện Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh.


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngày nay, khi khoa học và công nghệ đã và đang “trở thành lực lượng sản
xuất trực tiếp”, thì có thể nói, quá trình phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc
gia phụ thuộc ngày càng nhiều hơn vào trình độ khoa học và công nghệ, cũng
như khả năng ứng dụng khoa học và công nghệ vào sản xuất và đời sống xã hội
của quốc gia đó. Đối với Việt Nam, chúng ta đi lên chủ nghĩa xã hội từ một
nước nông nghiệp, lạc hậu, nền sản xuất về cơ bản vẫn là sản xuất nhỏ mang
tính tiểu nông, năng suất lao động thấp, cơ sở vật chất, trang thiết bị kỹ thuật
thiếu thốn và lạc hậu, lực lượng lao động tuy dồi dào, nhưng trình độ khoa học
và công nghệ còn rất thấp, thì việc phát triển khoa học và công nghệ phục vụ
cho sự nghiệp xây dựng và phát triển kinh tế xã hội càng là nhiệm vụ và có vai
trò, ý nghĩa quan trọng. Để thực hiện được nhiệm vụ khó khăn, phức tạp đó,
cùng với việc xây dựng và phát triển các lĩnh vực khác của xã hội, nhằm tránh
nguy cơ tụt hậu tất yếu chúng ta phải tập trung đẩy mạnh phát triển khoa học và

công nghệ làm nền tảng, cơ sở và động lực để phát triển kinh tế - xã hội, cũng
như quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Điều đó được Đảng ta
khẳng định: “Phát triển mạnh khoa học, công nghệ làm động lực đẩy nhanh quá
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế tri thức”1.
Thành phố Hồ Chí Minh không chỉ là một đô thị, một trung tâm kinh tế, văn
hóa, khoa học công nghệ lớn nhất của cả nước, mà còn là nơi hội tụ và giao lưu
các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội với các vùng trong nước và các khu vực
của thế giới; nên việc phát triển Thành phố Hồ Chí Minh còn có ý nghĩa là đầu
tàu, là động lực tạo sức lan tỏa, tác động, ảnh hưởng đến các địa phương khác
cùng phát triển. Tuy nhiên, việc phát triển kinh tế - xã hội nói chung, cũng như
quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Thành phố vẫn chưa tương xứng với
tiềm năng, thế mạnh, sự kỳ vọng của Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó. Để
đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa,
Thành phố Hồ Chí Minh cần phải phát huy hơn nữa vai trò của khoa học và
công nghệ để đẩy nhanh sự phát triển kinh tế - xã hội, như Nghị quyết Đảng bộ
Thành phố đã nêu: “Phát triển, ứng dụng mạnh mẽ khoa học - công nghệ thật sự
là động lực phát triển kinh tế - xã hội”2. Bởi vậy, việc phát huy vai trò của khoa
học và công nghệ nhằm tạo thành động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã
hội nói chung, cũng như đối với quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nói
1
2

Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.218.
Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh: Văn kiện đại hội đại biểu lần thứ X, 2015, tr.195.


2

riêng ở Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay không chỉ mang tính thời sự cấp bách,
mà còn có ý nghĩa chiến lược lâu dài, nhằm tìm ra những hướng đi, giải pháp,

phương thức phù hợp để Thành phố Hồ Chí Minh thực hiện thành công quá
trình công nghiệp hóa, hiện đại hoá. Với những lý do đó, nghiên cứu sinh đã
chọn vấn đề “Khoa học và công nghệ với quá trình công nghiệp hoá, hiện đại
hoá ở Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay” làm đề tài luận án tiến sĩ Triết học.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài
Có thể khái quát các công trình nghiên cứu về vai trò, tác động của khoa
học và công nghệ đối với sự phát triển kinh tế - xã hội nói chung, cũng như đối
với quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam và ở Thành phố Hồ Chí
Minh nói riêng thành các chủ đề và góc độ: Ở góc độ lý luận chung của khoa
học và công nghệ, cũng như vai trò của nó đối với sự phát triển xã hội: Có
thể kể đến những công trình tiêu biểu như: Francis Bacon, 1620 với dự án “Đại
phục hồi khoa học” đã khẳng định vai trò “khoa học là sức mạnh”; C.Mác và
Ph. Ăngghen có rất nhiều tác phẩm lý luận về khoa học, kỹ thuật và vai trò của
nó đối với sự phát triển xã hội, đặc biệt Ph. Ăngghen đã phân tích, trình bày rất
chi tiết và khái quát vai trò của khoa học đối với sự phát triển nhận thức, sự phát
triển xã hội trong “Biện chứng của tự nhiên”, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
1994; John Bernal nhà khoa học luận người Anh có cuốn “Chức năng xã hội
của khoa học” xuất bản vào năm 1939; G.M. Đobrov cũng có cuốn “Khoa học
về khoa học”, Nxb. Kieb, 1970 được (Nxb. Khoa học và kỹ thuật, Hà Nội dịch
năm 1976). Ở Việt Nam: GS.TS. Lê Hữu Tầng (chủ biên), cuốn “Về động lực
của khoa học và công nghệ đối với phát triển kinh tế - xã hội”, Nxb. Khoa học
xã hội, Hà Nội, 1997; hay PGS.TS. Vũ Cao Đàm, trong tập 1 của “Tuyển tập”
đã trình bày về khoa học luận và phương pháp nghiên cứu khoa học, Nxb. Thế
giới, 2009… Ở góc độ nghiên cứu tác động của khoa học và công nghệ với
quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam: Có thể kể đến những tác
phẩm nổi bật là: TS. Danh Sơn, TS. Nguyễn Thị Anh Thu và TS. Nguyễn Mạnh
Huấn, với cuốn “Quan hệ giữa phát triển khoa học và công nghệ với phát triển
kinh tế xã hội trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam”, Nxb. Khoa học
xã hội, Hà Nội, 1999; GS.TS. Nguyễn Trọng Chuẩn, PGS.TS. Nguyễn Thế
Nghĩa và PGS.TS. Đặng Hữu Toàn (đồng chủ biên), có cuốn “Công nghiệp

hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam, lý luận và thực tiễn”, Nxb. Chính trị quốc gia,
Hà Nội, 2002; GS. Đặng Hữu, TS. Đinh Quang Ty và TS. Hồ Ngọc Luật (đồng
chủ biên), tác phẩm “Phát triển kinh tế tri thức với quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa ở Việt Nam”, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2009; TS. Tạ Bá


3

Hưng (chủ biên), có cuốn “Khoa học và công nghệ phục vụ công nghiệp hóa và
hiện đại hóa và phát triển bền vững”, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2012;
đặc biệt Đảng và Nhà nước ta luôn chú trọng phát huy vai trò động lực của khoa
học và công nghệ đối với sự phát triển kinh tế - xã hội, cũng như với quá trình
công nghiệp hoá, hiện đại hoá, được cụ thể trong các văn kiện của Đảng, pháp
luật của Nhà nước; Ở góc độ nghiên cứu về khoa học và công nghệ với quá
trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Thành phố Hồ Chí Minh: Trước hết
phải kể đến các “Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh,
đặc biệt tại các kỳ đại hội lần thứ VII, VIII, IX và lần thứ X” đã phân tích, đánh
giá một cách tổng quát và sâu sắc những kết quả, thành tựu, những tồn tại,
nguyên nhân hạn chế và đề ra các phương hướng, mục tiêu, giải pháp cơ bản để
phát huy vai trò của khoa học và công nghệ làm động lực quan trọng hàng đầu
thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội; ngoài ra, còn có Chương trình số 01Ctr/TU, “Về thực hiện thông báo kết luận số 234/TB/TW của Bộ Chính trị về
tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 2 khoá VIII, nhiệm vụ giải pháp phát
triển khoa học và công nghệ đến năm 2020”; và Sở Khoa học và Công nghệ
Thành phố Hồ Chí có các đề án “Đánh giá trình độ công nghệ các doanh
nghiệp tham gia chương trình sản phẩm công nghiệp chủ lực của Thành phố
Hồ Chí Minh, 2007” và “Đánh giá trình độ công nghệ của các doanh nghiệp
trong các Khu chế xuất - Khu công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh”, 2008;
ngoài ra TS. Phan Minh Tân, cũng có bài “Khoa học và công nghệ thúc đẩy
phát triển kinh tế - xã hội Thành phố Hồ Chí Minh”, đăng trong kỷ yếu hội thảo
khoa học và công nghệ, Bộ Khoa học và Công nghệ số 1, năm 2009.

3. Mục đích, nhiệm vụ của luận án
Về mục đích: Trên cơ sở hệ thống hóa và làm rõ những vấn đề lý luận
chung về khoa học, công nghệ, cũng như vai trò của nó đối với sự phát triển
kinh tế - xã hội, luận án nhằm chỉ ra thực trạng vai trò tác động của khoa học và
công nghệ với quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Thành phố Hồ Chí
Minh, từ đó đề xuất những phương hướng, giải pháp chủ yếu để phát triển, phát
huy hơn nữa vai trò của khoa học và công nghệ với quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa ở Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay.
Về nhiệm vụ: Để đạt được mục đích trên, luận án phải thực hiện các nhiệm
vụ chủ yếu sau: Một là, trình bày, luận giải làm rõ những vấn đề lý luận chung
về khoa học, công nghệ; vai trò của khoa học và công nghệ với việc phát triển
kinh tế - xã hội, cũng như đối với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Hai
là, trình bày, phân tích làm rõ vai trò của khoa học và công nghệ với quá trình


4

công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay. Ba là, đề
xuất những phương hướng và giải pháp nhằm phát huy hơn nữa vai trò của khoa
học và công nghệ với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Thành phố Hồ
Chí Minh hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
Luận án chỉ tập trung nghiên cứu vấn đề vai trò của khoa học và công nghệ
đối với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Thành Phố Hồ Chí Minh hiện
nay, với mốc thời gian nghiên cứu từ năm 2005 đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận án
Về cơ sở lý luận: Luận án được thực hiện trên cơ sở thế giới quan và
phương pháp luận của triết học Mácxít, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan
điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về khoa học và công nghệ, cũng
như vai trò của nó đối với sự phát triển xã hội.

Về phương pháp nghiên cứu: Luận án được thực hiện bằng việc sử dụng
tổng hợp các phương pháp nghiên cứu: phương pháp lịch sử và lôgic, phương
pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp diễn dịch và quy nạp, phương pháp so
sánh, đồng thời luận án cũng sử dụng các phương pháp thống kê, điều tra xã hội
học và tham khảo các chuyên gia,... để nghiên cứu và trình bày luận án.
6. Tính mới của luận án
Một là, trên cơ sở lý luận chung về vai trò của khoa và công nghệ với quá
trình phát triển kinh tế - xã hội, luận án góp phần làm rõ thực trạng, vai trò của
khoa học và công nghệ với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Thành
phố Hồ Chí Minh. Hai là, từ những phân tích, đánh giá về thực trạng, vai trò
của khoa học và công nghệ đối với quá trình phát triển kinh tế - xã hội ở Thành
phố Hồ Chí Minh, luận án cũng đề xuất những phương hướng, giải pháp chủ
yếu nhằm phát huy hơn nữa vai trò của khoa học và công nghệ với quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay.
7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án
Về ý nghĩa khoa học: Trên cơ sở lý luận chung về vai trò của khoa học và
công nghệ với sự phát triển xã hội, luận án đã làm sáng tỏ những nội dung, đặc
điểm, thực trạng về vai trò của khoa học và công nghệ với quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay.
Về ý nghĩa thực tiễn: Những kết quả nghiên cứu về thực trạng vai trò của
khoa học và công nghệ với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Thành
phố Hồ Chí Minh, cũng như những phương hướng, giải pháp mà luận án đề ra
sẽ góp phần giúp Đảng bộ, chính quyền, các sở, ban ngành chức năng của


5

Thành phố Hồ Chí Minh tham khảo trong việc hoạch định chủ trương, chính
sách, giải pháp để phát huy hơn nữa vai trò của khoa học và công nghệ trong
quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay.

Luận án cũng có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho các ngành liên quan ở các
viện, trung tâm nghiên cứu, các trường cao đẳng, đại học trong cả nước.
8. Kết cấu cơ bản của luận án
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và các phụ
lục, luận án được kết cấu thành 3 chương, 6 tiết và 19 tiểu tiết.
Chương 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, VAI TRÒ CỦA
KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ VỚI SỰ PHÁT TRIỂN XÃ HỘI
1.1 . LÝ LUẬN CHUNG VỀ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
1.1.1. Khoa học và các quan điểm khác nhau về khoa học
Khoa học là hệ thống tri thức về quy luật vận động phát triển của sự vật,
hiện tượng, quá trình trong thế giới khách quan, bao gồm các lĩnh vực tự nhiên,
xã hội và tư duy. Vì vậy, có thể nói: 1). Khoa học được hình thành, tích lũy
trong quá trình nhận thức trên cơ sở thực tiễn; 2). Nhiệm vụ của khoa học là
phát hiện ra bản chất, tính quy luật của các hiện tượng, sự vật, quá trình, từ đó
mà dự báo về sự vận động, phát triển của chúng, định hướng cho hoạt động của
con người; 3). Khoa học giúp cho con người ngày càng có khả năng cải biến,
chinh phục tự nhiên và xã hội. Đặc điểm của khoa học, gồm: Tính hệ thống,
khoa học không phải là những sự kiện đơn lẻ, rời rạc, mà nó là hệ thống tri
thức có cấu trúc và liên hệ chặt chẽ với nhau, được phân thành nhiều lĩnh vực,
chuyên ngành khác nhau. Tính phổ biến, khoa học là những tri thức của con
người mang tính quy luật về sự vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng,
cho nên khoa học mang tính phổ biến. Những tri thức nhỏ lẻ, rời rạc về sự vật,
hiện tượng chưa thể được coi là tri thức khoa học. Tính sáng tạo (tính mới), tri
thức khoa học bao giờ cũng là những kiến thức, những khám phá về thế giới
khách quan, đó là những điều mà con người chưa biết, chưa có trong kho tàng
tri thức của nhân loại. Tính kế thừa và phát triển, khoa học là những tri thức về
sự vật, hiện tượng và quá trình vận động phát triển của nó, cho nên khoa học
luôn mang tính phát triển; đồng thời, những tri thức đó luôn được tích tụ để các
thế hệ sau, những người nghiên cứu sau kế thừa và phát triển. Tính tin cậy, tri

thức khoa học có được nhờ hoạt động nghiên cứu của con người, trong quá
trình nghiên cứu nhà khoa học luôn sử dụng những phương pháp, phương tiện
phù hợp để kiểm định nên tri thức khoa học là tin cậy. Tính thực tiễn, khoa học


6

bắt nguồn từ hoạt động thực tiễn của con người; đồng thời con người luôn tìm
cách để triển khai, ứng dụng những tri thức khoa học mình có được vào hoạt
động sản xuất và đời sống xã hội, như lời Bác Hồ đã chỉ ra “khoa học từ sản
xuất mà ra, trở lại phục vụ sản xuất, phục vụ quần chúng, nhằm nâng cao năng
suất lao động, không ngừng cải thiện đời sống của nhân dân”3. Về phân loại
khoa học có thể phân loại như: Theo đối tượng nghiên cứu, khoa học được
phân thành các lĩnh vực, ngành khoa học cụ thể: Khoa học tự nhiên, khoa học
xã hội và nhân văn, khoa học kỹ thuật... Theo phương thức hình thành, khoa
học được phân thành: khoa học tiền nghiệm, khoa học hậu nghiệm, khoa học
phân lập. Theo tính chất của sản phẩm nghiên cứu, khoa học được phân thành:
khoa học cơ bản là: “là hệ thống tri thức lí thuyết phản ánh các thuộc tính, quan
hệ, quy luật khách quan của lĩnh vực hiện thực nghiên cứu”4; khoa học ứng
dụng, là sự vận dụng các lý thuyết khoa học đã có để nghiên cứu tạo ra những
nguyên lý, giải pháp, công nghệ, thiết bị, vật liệu, sản phẩm mới. Luận án chọn
phương pháp phân loại theo tính chất của sản phẩm nghiên cứu, khoa học được
phân thành khoa học cơ bản và khoa học ứng dụng.
1.1.2. Công nghệ và các quan điểm khác nhau về công nghệ
Sản xuất là quá trình người lao động dùng tư liệu lao động (gồm công cụ và
phương tiện lao động) tác động vào đối tượng lao động để tạo ra sản phẩm, để
xác định các yếu tố tham gia trong quá trình sản xuất, người ta đưa ra khái niệm
công nghệ “là tập hợp các phương pháp, quy trình, kỹ năng, bí quyết, công cụ,
phương tiện dùng để biến đổi các nguồn lực thành sản phẩm”5. Trình độ công
nghệ là tiêu chí để đánh giá trình độ phát triển của nền sản xuất xã hội “những

thời đại kinh tế khác nhau không phải ở chỗ chúng sản xuất ra cái gì, mà là ở
chỗ chúng sản xuất bằng cách nào, với những tư liệu lao động nào”6. Đặc điểm
của công nghệ là: 1). Tính cấu trúc, thành phần công nghệ, gồm 4 yếu tố: kỹ
thuật (Technoware), con người (Humanware), thông tin (Inforware) và tổ chức
(Orgaware). 2). Tính kế thừa và phát triển, công nghệ không ngừng được phát
triển, nhưng công nghệ mới bao giờ cũng được kế thừa, phát huy những giá trị
tốt, tích cực, khoa học của công nghệ cũ. 3). Tính hiệu quả, công nghệ mới
được sử dụng phải có một trong các tính năng là cho hiệu suất, năng suất lao
động cao, chất lượng, tính năng, độ bền của sản phẩm cao hơn, chi phí sản xuất,
giá thành sản phẩm thấp hơn, ít ảnh hưởng xấu đến môi trường, đời sống xã
3

Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia (xuất bản lần 3), 2011, tập 14, tr.96.
Hội đồng quốc gia chỉ đạo biên soạn từ điển Bách khoa Việt Nam: Từ điển Bách khoa Việt Nam, Nxb.Từ điển Bách khoa,
Hà Nội, 2002, tập 2, tr.508.
5
Quốc hội: Luật Khoa học và Công nghệ, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, điều 2, tr.8.
6
C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, tập 23. Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1993, tr.269.
4


7

hội… so với công nghệ cũ. 4). Tính vòng đời, sự phát triển của công nghệ mang
tính vòng đời, (thai nghén, xuất hiện, quá trình tăng trưởng và suy tàn bị thay
thế). Để quản lý, phát triển công nghệ người ta có thể phân loại công nghệ như
sau: Theo trình độ công nghệ, công nghệ được chia thành: công nghệ truyền
thống, công nghệ trung gian, công nghệ hiện đại. Theo mức độ ô nhiễm môi
trường, công nghệ được chia thành: công nghệ sạch, công nghệ ô nhiễm. Theo

cấu trúc, công nghệ được chia thành: công nghệ phần cứng, công nghệ phần
mềm. Theo hàm lượng tri thức khoa học, công nghệ được chia thành: công nghệ
cao, công nghệ thông thường. Khoa học và công nghệ có liên hệ mật thiết
không thể tách rời; bởi, khoa học được hình thành từ nhu cầu thực tiễn về nhận
thức hiện thực khách quan, nhưng cũng chính từ nhu cầu thực tiễn đòi hỏi con
người ứng dụng những tri thức khoa học vào cải tiến, phát triển công nghệ ngày
càng hiện đại hơn.
1.2. VAI TRÒ CỦA KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ VỚI SỰ PHÁT
TRIỂN XÃ HỘI
1.2.1. Khoa học và công nghệ là nền tảng phát triển xã hội
Khoa học và công nghệ là cơ sở, nền tảng để thúc đẩy xã hội phát triển, điều
đó được thể hiện: Thứ nhất, khoa học và công nghệ là nền tảng phát triển
kinh tế: Giữa phát triển kinh tế và phát triển khoa học và công nghệ có mối
quan hệ biện chứng với nhau, trong đó khoa học và công nghệ là cơ sở, nền
tảng để phát triển kinh tế, bởi: Một là, khoa học và công nghệ là nền tảng phát
triển sản xuất; biểu hiện ở chỗ: Khoa học và công nghệ là cơ sở phát triển
nguồn nhân lực, là nền tảng để hiện đại hoá máy móc, phương tiện, quy trình,
công nghệ và là nền tảng để sử dụng tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ
môi trường trong quá trình sản xuất. Hai là, khoa học và công nghệ là nền tảng
hoàn thiện công tác tổ chức, quản lý sản xuất: Khoa học và công nghệ tạo cơ sở
để hoàn thiện, phát triển công tác tổ chức, quản lý, nhằm nâng cao hiệu quả sản
xuất, hiệu quả kinh tế. Bản thân công tác tổ chức, quản lý cũng là một khoa học.
Ba là, khoa học và công nghệ là cơ sở, nền tảng để thay đổi cơ cấu kinh tế:
Khoa học và công nghệ phát triển thúc đẩy nhiều ngành kinh tế như công
nghiệp, giao thông, dịch vụ phát triển và làm cho sự phát triển kinh tế giữa các
ngành, các vùng đồng đều hơn. Thứ hai, khoa học và công nghệ là nền tảng
phát triển đời sống xã hội: Con người vừa là chủ thể, vừa là mục đích của quá
trình phát triển xã hội, trong quá trình sống và phát triển con người không chỉ
cần các điều kiện vật chất, mà còn có những nhu cầu về đời sống văn hóa xã
hội. Khoa học và công nghệ là cơ sở để phát triển và nâng cao đời sống văn hóa



8

xã hội. Bởi: Một là, khoa học và công nghệ là cơ sở phát triển y tế. Y học là
một ngành khoa học và được tích hợp nhiều tri thức khoa học và công nghệ của
các lĩnh vực khác, giúp con người đưa ra phương thức, phương tiện, công nghệ
hiện đại để giúp con người phòng, chống dịch bệnh, nâng cao sức khoẻ, tuổi
thọ. Hai là, khoa học và công nghệ là nền tảng đối với phát triển giáo dục và
đào tạo, khoa học và công nghệ không chỉ cung cấp nguồn kiến thức, mà còn
mang luôn trọng trách là phương pháp, cung cấp những công cụ, phương tiện,
hiện đại của quá trình giáo dục và đào tạo. Khoa học và công nghệ với giáo dục
và đào tạo luôn gắn chặt vào nhau, “Phát triển giáo dục và đào tạo cùng với
phát triển khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu”7. Ba là, khoa học và
công nghệ là nền tảng phát triển đời sống văn hóa tinh thần; trong đó sự phát
triển của khoa học và công nghệ thúc đẩy các loại hình văn hóa phát triển ngày
càng nhiều hơn, phong phú hơn cả về nội dung, lẫn hình thức, từ đó đã tạo cơ sở
phát triển nhiều loại hình sinh hoạt văn hóa tinh thần; khoa học và công nghệ
phát triển làm cho các giá trị văn hóa được kết tinh, chuyển hóa vào các loại
hình hoạt động văn hóa ngày càng nhiều hơn và ngày càng nâng cao trình độ
nhận thức, thưởng thức văn hóa, nghệ thuật của con người. Thứ ba, khoa học
và công nghệ là nền tảng phát triển hoàn thiện hệ thống chính trị: Khoa học
và công nghệ phát triển, tạo ra nhiều phương pháp, phương tiện để nâng cao khả
năng dự báo, tính khả thi của các kế hoạch, chiến lược, nghị quyết của Đảng và
Nhà nước. Khoa học và công nghệ cung cấp tri thức, phương pháp, phương tiện
hiện đại để hoàn thiện thể chế chính trị, hoàn thiện bộ máy tổ chức, quản lý hiện
đại, phù hợp với nhu cầu của xã hội và thúc đẩy xã hội phát triển.
1.2.2. Khoa học và công nghệ là động lực phát triển xã hội
Khoa học và công nghệ là động lực thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển,
được thể hiện: Trước hết, khoa học và công nghệ là động lực của phát triển

kinh tế: Để phát triển kinh tế thì cần rất nhiều yếu tố, trong đó khoa học và
công nghệ là động lực chủ yếu, bởi: Một là, khoa học và công nghệ là động lực
phát triển nguồn nhân lực, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao. Hai là,
khoa học và công nghệ là động lực phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật. Ba là, khoa
học và công nghệ là động lực thúc đẩy quá trình đổi mới, hiện đại hóa công
nghệ, quy trình sản xuất. Thứ hai, khoa học và công nghệ là động lực của
phát triển đời sống tinh thần xã hội: Khoa học và công nghệ là động lực để
phát triển và nâng cao đời sống tinh thần xã hội, bởi: Một là, khoa học và công
nghệ là động lực phát triển y tế, khoa học và công nghệ vừa là điều kiện, vừa là
7

Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.77.


9

động lực để phát triển cả về hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật, công nghệ,
phương pháp và đội ngũ thầy thuốc, cán bộ y tế để nâng cao khả năng phòng
chống dịch bệnh, chăm sóc sức khoẻ của con người. Hai là, khoa học và công
nghệ là động lực phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ với
giáo dục và đào tạo là hai mặt của quá trình nhận thức, khoa học và công nghệ
tạo ra nguồn tri thức, phương pháp, phương tiện để thực hiện quá trình giáo dục
và đào tạo, đồng thời cũng tạo ra nhu cầu, động lực thúc đẩy giáo dục đào tạo
phát triển. Những tri thức khoa học được kết tinh ngày càng nhiều vào công
nghệ, vào sản phẩm, dịch vụ trong đời sống xã hội, từ đó tạo ra nhu cầu, động
lực để người lao động nói riêng và con người nói chung học tập để nâng cao
trình độ tri thức, để hội nhập vào xã hội tri thức. Ba là, khoa học và công nghệ
là động lực phát triển văn hóa, tinh thần: Khoa học và công nghệ phát triển tạo
điều kiện để chuyển hóa, kết tinh, hội tụ các giá trị văn hóa tinh thần ngày càng
nhiều vào sản phẩm, dịch vụ xã hội, đáp ứng ngày càng cao những yêu cầu

thẩm mỹ, về phong tục, tập quán, về tâm, sinh lý của con người… từ đó đã thúc
đẩy đời sống văn hóa, tinh thần phát triển vượt bậc. Thứ ba, khoa học và công
nghệ góp phần hoàn thiện lĩnh vực chính trị: Khoa học công nghệ phát triển
là động lực phát triển, hoàn thiện hệ thống chính trị, an ninh quốc phòng, như:
1). Khoa học và công nghệ nâng cao nhận thức, vai trò địa vị của người lao
động; 2). Khoa học và công nghệ góp phần hoàn thiện hệ thống chính trị; 3).
Khoa học và công nghệ phát triển góp phần nâng cao hiệu quả công tác tổ chức,
quản lý xã hội; 4). Khoa học và công nghệ phát triển góp phần phát triển quốc
phòng, đảm bảo an ninh chính trị.
Kết luận chương 1
Trong lịch sử phát triển nhân loại, khoa học và công nghệ luôn đóng vai trò
quan trọng là cơ sở, nền tảng và là động lực thúc đẩy xã hội phát triển, đặc biệt
ngày nay với sự phát triển vũ bão của khoa học và công nghệ, những phát kiến
của khoa học và công nghệ nhanh chóng được nghiên cứu chuyển hóa thành
công nghệ, kết tinh vào dịch vụ, sản phẩm làm cho xã hội ngày càng phát triển.
Bởi, khoa học là hệ thống tri thức của con người về các quy luật vận động, phát
triển của tự nhiên, xã hội và tư duy; tri thức khoa học không chỉ giúp con người
nâng cao nhận thức, mà hơn thế nữa, những tri thức khoa học còn được kết tinh
thành năng lực, trình độ, kỹ năng, kỹ xảo của người lao động; được ứng dụng
để phát triển, nâng cao trình độ, tính năng, hiệu quả của công cụ, máy móc,
phương tiện, trang thiết bị sản xuất làm hiện đại hóa công nghệ, từ đó trở thành
cơ sở, điều kiện, động lực quan trọng hàng đầu thúc đẩy xã hội phát triển.


10

Chương 2
VAI TRÒ CỦA KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐỐI VỚI QUÁ TRÌNH
CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

2.1. QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ Ở THÀNH
PHỐ HỒ CHÍ MINH
2.1.1. Khái quát về công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam
Đối với Việt Nam, chúng ta đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nước nông
nghiệp, nghèo nàn, lạc hậu, lại bị tàn phá nặng nề qua các cuộc chiến tranh, nên
trình độ sản xuất, năng suất lao động còn thấp, cơ sở vật - chất kỹ thuật còn yếu
kém, trình độ, năng lực của người lao động thấp, công nghệ, trang thiết bị còn
lạc hậu, sản xuất chủ yếu dựa vào nông nghiệp, vào lao động giản đơn… Để
xây dựng phát triển, hiện đại hóa đất nước, tránh nguy cơ tụt hậu, tất yếu chúng
ta phải lấy “công nghiệp hóa, hiện đại hóa là nhiệm vụ trung tâm”8 của thời kỳ
quá độ. Bởi, nội dung, nhiệm vụ của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa
ở Việt Nam hiện nay, chính là: 1). Phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật hiện đại; 2).
Hiện đại hóa công nghệ; 3). Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao; 4).
Chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại, hợp lý và hiệu quả; 5). Hoàn
thiện công tác tổ chức quản lý sản xuất. Có thể khái quát những đặc điểm của
quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam hiện nay, gồm: Thứ nhất
là, công nghiệp hoá gắn liền với hiện đại hoá: Đó là do đặc điểm, yêu cầu khi
khoa học và công nghệ đang phát triển với tốc độ vũ bão, trong bối cảnh toàn
cầu hóa. Thứ hai là, khoa học và công nghệ được xác định là động lực của công
nghiệp hoá, hiện đại hoá: Như Đảng ta đã chỉ ra: “Phát triển mạnh khoa học,
công nghệ làm động lực đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa”9.
Thứ ba là, công nghiệp hoá, hiện đại hoá là một quá trình khó khăn, phức tạp
và toàn diện của sự phát triển kinh tế - xã hội. Thứ tư là, công nghiệp hóa, hiện
đại hóa diễn ra trong bối cảnh toàn cầu hóa, cùng với sự phát triển như vũ bão
của khoa học và công nghệ. Về phương thức tiến hành công nghiệp hóa, hiện
đại hóa, đó là: 1). Phải phát triển công nghệ hiện đại gắn với việc phát huy vai
trò của công nghệ truyền thống nhằm vừa phải phát huy những tiềm năng về lực
lượng lao động dồi dào, về công nghệ truyền thống để phát triển sản xuất; đồng
thời nhanh chóng hiện đại hoá nền kinh tế; 2). Công nghiệp hoá, hiện đại hoá
gắn với việc xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; 3). Công

nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với việc phát triển kinh tế thị trường định hướng
8
9

Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr.25.
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.218.


11

xã hội chủ nghĩa; 4). Công nghiệp hóa phải gắn với việc bảo vệ tài nguyên môi
trường và phát triển bền vững.
2.1.2. Nội dung và đặc điểm của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại
hoá ở Thành phố Hồ Chí Minh
Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa của Thành phố Hồ Chí Minh chịu
sự tác động của những đặc điểm về lịch sử, tự nhiên, kinh tế, chính trị, văn hóa
xã hội và con người Thành phố, đó là: 1). Thành phố Hồ Chí Minh là một trung
tâm kinh tế, văn hóa xã hội… lớn của khu vực và cả nước có hệ thống giao
thông đường bộ, đường thủy và hàng không thuận lợi, phát triển; 2). Thành phố
là nơi tập trung dân cư đông đúc, mang tính cộng cư, hội nhập dẫn đến sự đa
dạng về kỹ thuật, công nghệ, về đời sống văn hóa tinh thần, với tính mở, năng
động, sáng tạo; 3). Thành phố được tiếp quản một hệ thống cơ sở hạ tầng kỹ
thuật hiện đại, sớm được tiếp cận với công nghệ hiện đại, và những yếu tố của
nền kinh tế thị trường là điều kiện thuận lợi để phát triển nguồn nhân lực chất
lượng cao; 4). Từ lịch sử hình thành và phát triển đã xây dựng lên khối đoàn kết
thống nhất của các tầng lớp nhân dân, tổ chức chính trị - xã hội dưới sự lãnh
đạo của Đảng bộ Thành phố, nên mọi chủ trương, chính sách của Thành phố
luôn thể hiện “ý Đảng, lòng dân”, và lại rất năng động. Những nội dung cơ
bản của công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Thành phố Hồ Chí Minh trong
giai đoạn hiện nay: Thứ nhất là, tiếp tục phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật: Đó

là yêu cầu tất yếu do tốc độ tăng trưởng kinh tế - xã hội hiện nay, cũng như để
đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa của
Thành phố. Thứ hai là, tập trung chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng nâng
cao chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế: Trong những năm
qua, Thành phố đã tập trung phát triển, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng:
dịch vụ - công nghiệp - nông nghiệp, kết quả thể hiện qua (biểu đồ 1):

Biểu đồ 1: Cơ cấu kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh năm 2014
(Nguồn: Cục Thống kê TP.Hồ Chí Minh, Niên giám thống kê năm 2014)

Tuy nhiên, với yêu cầu ngày càng cao của quá trình công nghiệp hoá, hiện
đại hoá Thành phố cần tiếp tục tập trung chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao
tỷ trọng các ngành công nghệ mũi nhọn, công nghệ cao, dịch vụ cao. Thứ ba là,
đổi mới công nghệ, quy trình sản xuất nhằm hiện đại hoá nền kinh tế: Công


12

nghệ của Thành phố đa phần đã lỗi thời, năng suất, hiệu quả lao động và chất
lượng sản phẩm thấp, sức cạnh tranh kém, nền sản xuất còn mang nặng tính gia
công, sơ chế, dựa vào lao động giản đơn. Trước yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa và hội nhập tiến vào nền kinh tế tri thức, Thành phố cần đẩy
nhanh quá trình đổi mới, hiện đại hoá công nghệ để nâng cao năng suất, hiệu
quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế. Thứ tư là, phát triển nguồn nhân lực chất
lượng cao: Đó là nội dung quan trọng hàng đầu, bởi: 1). Do yêu cầu công
nghiệp hoá, hiện đại hoá, đặc biệt là việc phát triển công nghệ cao của Thành
phố; 2). Thành phố có nguồn lao động dồi dào, có trình độ khoa học và công
nghệ, có tư duy năng động, sáng tạo; 3). Thành phố là trung tâm khoa học, công
nghệ, giáo dục & đào tạo với hàng trăm trường đại học, trường nghề, các trung
tâm nghiên cứu đa ngành, đa lĩnh vực chất lượng cao. Thứ năm là, hoàn thiện

và nâng cao công tác tổ chức, quản lý sản xuất kinh doanh, cơ chế quản lý kinh
tế: Do yêu cầu ngày càng cao của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá,
Thành phố cần tiếp tục đổi mới, hoàn thiện các cơ chế chính sách, đưa các
phương pháp tổ chức quản lý hiện đại vào quản lý sản xuất, quản lý xã hội. Thứ
sáu là, công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với việc bảo vệ tài nguyên, môi
trường và phát triển bền vững: Quá trình công nghiệp hóa của Thành phố tất
yếu sẽ dẫn đến sự gia tăng dân số, về tốc độ đô thị hóa, các nguồn tài nguyên
phục vụ sản xuất và đời sống bị khai thác sử dụng ngày càng nhiều, cho nên
công nghiệp hóa, hiện đại hóa phải gắn với việc bảo vệ môi trường, tài nguyên
và phát triển bền vững. Về đặc điểm của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa của Thành phố Hồ Chí Minh, đó là: 1). Quá trình công nghiệp hóa, hiện
đại hóa của Thành phố Hồ Chí Minh được kế thừa những yếu tố của nền công
nghiệp từ những giai đoạn trước. 2). Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa
của Thành phố Hồ Chí Minh vừa toàn diện, vừa có tính đột phá, năng động.
3). Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa của Thành phố Hồ Chí Minh vừa có
tính hội tụ, lại vừa có tính lan tỏa.
2.2. THỰC TRẠNG TÁC ĐỘNG CỦA KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
ĐẾN QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ Ở THÀNH PHỐ
HỒ CHÍ MINH HIỆN NAY
2.2.1. Tác động của khoa học và công nghệ đến việc phát triển cơ sở hạ
tầng kỹ thuật ở Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay
Khoa học và công nghệ là một trong những nhân tố tác động chủ yếu, trực
tiếp đến việc phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật của Thành phố: Với sự phát
triển của khoa học và công nghệ, cũng như khả năng ứng dụng những thành tựu


13

khoa học, công nghệ hiện đại vào công tác khảo sát, thiết kế, thi công trong
những năm qua đã có tác dụng đẩy nhanh tiến độ, nâng cao chất lượng, tuổi thọ

công trình thi công qua đó đã thúc đẩy việc phát triển, hoàn thiện, đồng bộ hệ
thống cơ sở hạ tầng kỹ thuật, như: 1). Phát triển hệ thống công trình giao thông
ngày càng hoàn thiện, hiện đại đảm bảo kết nối giao thông giữa các khu vực
trong Thành phố, giữa Thành phố với các địa phương trong vùng, phát triển hệ
thống các công trình cảng, bến bãi, các công trình xây dựng cơ bản phục vụ
phát triển kinh tế - xã hội; 2). Hoàn thành việc điện khí hoá nông thôn, hoàn
thiện hệ thống cung cấp năng lượng, hệ thống cấp, thoát nước; 3). Phát triển
nhanh hệ thống thông tin liên lạc, mạng, viễn thông của Thành phố ngày càng
hoàn thiện, hiện đại. Những đóng góp, tác động của khoa học và công nghệ đối
sự phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật của Thành phố Hồ Chí Minh là hết sức to
lớn, trực tiếp, điều đó đã có tác dụng đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện
đại hóa của Thành phố. Tuy nhiên, sự tác động, ảnh hưởng của khoa học và
công nghệ đến sự phát triển, hoàn thiện, hiện đại hoá hệ thống cơ sở hạ tầng kỹ
thuật của Thành phố vẫn còn những hạn chế, dẫn đến hệ thống cơ sở hạ tầng kỹ
thuật phát triển còn chậm, thiếu đồng bộ, ngày càng quá tải, chưa đáp ứng kịp
yêu cầu của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, gây ảnh hưởng đến sự phát
triển kinh tế - xã hội và đời sống nhân dân. Sở dĩ còn những tồn tại đó là do
công tác quy hoạch phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng chưa đồng bộ, khoa học,
chưa phù hợp với nhu cầu, tốc độ của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá;
công tác nghiên cứu, triển khai ứng dụng những thành tựu, tiến bộ của khoa học
và công nghệ vào việc xây dựng, phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật còn hạn chế,
chưa trở thành tiêu chuẩn nghiêm ngặt trong thiết kế, thi công…
2.2.2. Tác động của khoa học và công nghệ đến quá trình đổi mới, hiện
đại hóa công nghệ: Với sự phát triển của khoa học và công nghệ, cùng với việc
đẩy mạnh ứng dụng, chuyển giao, tiếp nhận những kết quả, thành tựu khoa học
và công nghệ hiện đại vào phát triển sản xuất và đời sống xã hội trong những
năm qua đã có tác dụng thúc đẩy mạnh mẽ quá trình đổi mới, hiện đại hóa công
nghệ Thành phố Hồ Chí Minh, điều đó được thể hiện qua các tiêu chí: 1). Tác
động của khoa học và công nghệ đến việc đổi mới, thay thế công nghệ, máy
móc trang thiết bị của Thành phố; 2). Tác động của khoa học và công nghệ đến

việc nâng cao khả năng làm chủ công nghệ, máy móc, trang thiết bị của Thành
phố; 3). Tác động của khoa học và công nghệ đến phát triển công nghệ cao, đó
vừa là một trong những mục tiêu, đặc điểm cơ bản, vừa là động lực của quá
trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Thành phố Hồ Chí Minh. Trong những


14

năm qua, Thành phố đã tập trung các nguồn lực khoa học và công nghệ để phát
triển công nghệ cao, kết quả thể hiện qua (biểu đồ 2):

Biểu đồ 2: Tỷ trọng GDP công nghệ cao trong các ngành kinh tế TP. Hồ Chí Minh
(Nguồn: Cục Thống kê TP.HCM, Ban Quản lý khu công nghệ cao TP.HCM)

Những tác động của khoa học và công nghệ đến quá trình đổi mới, hiện đại
hoá công nghệ của Thành phố là hết sức to lớn, từng bước nâng cao sức sản
xuất, năng lực cạnh tranh và giá trị gia tăng của sản phẩm, dịch vụ và đã có tác
dụng thúc đẩy kinh tế Thành phố luôn tăng trưởng cao và ổn định. Tuy nhiên,
tốc độ đổi mới hiện đại hoá công nghệ của Thành phố vẫn còn chậm, chưa
tương xứng với yêu cầu của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, nền sản
xuất còn dựa nhiều vào lao động giản đơn, nặng về gia công, sơ chế, việc phát
triển công nghệ cao của Thành phố vẫn còn phụ thuộc nhiều vào yếu tố nước
ngoài. Những tồn tại, hạn chế đó là do công tác nghiên cứu phát triển, phát huy
vai trò của khoa học công nghệ phục vụ việc đổi mới, hiện đại hoá công nghệ,
phát triển công nghệ cao còn hạn chế, chưa gắn với cơ sở sản xuất kinh doanh.
2.2.3. Tác động của khoa học và công nghệ đến phát triển nguồn nhân
lực chất lượng cao ở Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay
Khoa học và công nghệ đã thúc đẩy mạnh mẽ quá trình phát triển nguồn
nhân lực chất lượng cao của Thành phố, thể hiện qua: 1). Tác động của khoa
học và công nghệ đến phát triển về số lượng nguồn nhân lực chất lượng cao ở

Thành phố Hồ Chí Minh, tỷ trọng nguồn nhân lực chất lượng cao ngày càng
được nâng lên trong cơ cấu lao động; 2). Khoa học và công nghệ cũng tác động
không ngừng nâng cao chất lượng nguồn nhân lực chất lượng cao ở Thành phố
Hồ Chí Minh, trình độ khoa học và công nghệ, năng lực làm chủ, cải tiến công
nghệ, tác phong công nghiệp… của người lao động Thành phố ngày một nâng
cao; 3). Khoa học và công nghệ cũng là nhân tố chính làm chuyển dịch cơ cấu
nguồn nhân lực chất lượng cao của Thành phố Hồ Chí Minh theo hướng nguồn
nhân lực chất lượng cao được tập trung vào các ngành công nghệ mũi nhọn,
công nghệ cao. Khoa học và công nghệ đã không chỉ làm gia tăng nhanh chóng
nguồn nhân lực chất lượng cao, mà còn không ngừng nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực, thay đổi cơ cấu nguồn nhân lực chất lượng cao theo hướng


15

hiện đại, đáp ứng yêu cầu của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Có được
những thành tựu, kết quả đó là do Thành phố tập trung quan tâm xây dựng phát
triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực chất lượng cao, coi đó là nhiệm vụ
trọng tâm chiến lược. Tuy nhiên, sự phát triển của khoa học và công nghệ chưa
có nhiều tác động tích cực, hiệu quả đến việc phát triển nguồn nhân lực chất
lượng cao của Thành phố, nguồn nhân lực chất lượng cao thành phố còn thiếu
và chất lượng chưa cao, cơ cấu chưa phù hợp với yêu cầu ngày càng cao của
quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Sở dĩ, còn những tồn tại, hạn chế đó là
do công tác đào tạo phát triển nguồn nhân lực cao còn chưa phù hợp với yêu
cầu thực tiễn.
2.2.4. Tác động của khoa học và công nghệ đến chuyển dịch cơ cấu kinh
tế ở Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay
Khoa học và công nghệ là nhân tố chính trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh
tế của Thành phố ngày càng hiện đại, thể hiện: 1). Khoa học và công nghệ là
nhân tố tác động thường xuyên, trực tiếp thúc đẩy cơ cấu kinh tế Thành phố

chuyển dịch theo hướng ngày càng hiệu quả, hiện đại, đó là cơ cấu dịch vụ công nghiệp - nông nghiệp, trong đó dịch vụ chiếm tới 59,60%, công nghiệp
chiếm 39,40% và nông nghiệp chỉ chiếm 1%; 2). Khoa học và công nghệ tác
động của khoa học và công nghệ đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo vùng,
từng bước xoá bỏ sự cách biệt giữa khu vực trung tâm với các khu vực ngoại vi,
nông thôn của Thành phố, thể hiện qua (biểu đồ 3):

Biểu đồ 3: Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế thành thị và nông thôn TP.Hồ Chí Minh
(Nguồn: Cục Thống kê TP. Hồ Chí Minh, Niên giám thống kê năm 2009, năm 2014)

Khoa học và công nghệ đã tác động mạnh mẽ đến việc chuyển dịch cơ cấu
kinh tế của từng bộ phận, ngành nghề cụ thể trong các ngành kinh tế của Thành
phố theo hướng ngày càng hiện đại, hiệu quả. Tuy nhiên, những tác động của
khoa học và công nghệ đến việc chuyển dịch cơ cấu kinh của Thành phố cũng
còn chậm, nhất là việc nâng cao hàm lượng tri thức khoa học trong sản phẩm,
dịch vụ, nguyên nhân là do, các cơ chế, chính sách chưa tạo điều kiện thúc đẩy
các doanh nghiệp ưu tiên phát triển các lĩnh vực công nghệ cao, nông nghiệp,
dịch vụ công nghệ cao, nhất là ở những vùng ngoại vi.


16

2.2.5. Tác động của khoa học và công nghệ đến môi trường, tài nguyên
thiên nhiên và phát triển bền vững ở Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay
Khoa học và công nghệ không chỉ điều kiện, là động lực thúc đẩy sự phát
triển kinh tế - xã hội, đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở
Thành phố Hồ Chí Minh, mà còn là nhân tố quan trọng hàng đầu tác động đến
việc bảo vệ môi trường, tài nguyên thiên nhiên và phát triển bền vững của
Thành phố. Một là, khoa học và công nghệ đã và đang tác động mạnh mẽ, có
hiệu quả đến việc bảo vệ môi trường, tài nguyên thiên nhiên của Thành phố,
như việc đưa những công nghệ hiện đại, công nghệ cao, công nghệ không hoặc

ít ô nhiễm, công nghệ tiết kiệm năng lượng…, đã có tác dụng tiết kiệm nguyên,
vật liệu, năng lượng trong sản xuất, đó là cơ sở, điều kiện quan trọng để bảo vệ
môi trường, tài nguyên Thành phố. Hai là, khoa học và công nghệ là nhân tố
chính đảm bảo sự phát triển bền vững, đó là việc áp dụng công nghệ hiện đại,
công nghệ cao vào sản xuất và đời sống xã hội, giúp kinh tế Thành phố phát
triển ổn định, giảm bớt sự phụ thuộc vào thiên nhiên, vào nguồn lao động phổ
thông, đảm bảo kinh tế Thành phố tăng trưởng ổn định. Tuy nhiên, sự tác động
của khoa học và công nghệ đến việc bảo vệ môi trường, tài nguyên thiên nhiên
của Thành phố cũng còn những hạn chế, tồn tại, đó là việc sử dụng tài nguyên
đất, tài nguyên nước chưa đảm bảo tiết kiệm, hiệu quả, tình trạng ô nhiễm, ngập
úng, ùn tắc giao thông đang là nỗi bức xúc của người dân, sở dĩ còn những tồn
tại trên là do, việc quy hoạch chưa đồng bộ, khoa học, việc áp dụng các tiêu
chuẩn quản lý bộ vệ môi trường còn chưa chặt chẽ, khoa học.
Kết luận chương 2
Thành phố Hồ Chí Minh với những đặc điểm riêng có của mình là trung
tâm, là đầu tàu của vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, trong những năm qua
Thành phố đã không ngừng đẩy mạnh việc ứng dụng những tiến bộ của khoa
học, công nghệ vào sản xuất - kinh doanh để đẩy nhanh quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa và đạt được nhiều kết quả, thành tựu to lớn. Thành phố đã
phát triển mạnh mẽ hệ thống cơ sở hạ tầng kỹ thuật ngày càng đồng bộ, hiện
đại; là việc phát triển, hiện đại hóa công nghệ, đặc biệt là các ngành công
nghiệp mũi nhọn, công nghệ cao, dịch vụ chất lượng cao; là việc phát triển và
không ngừng nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; từ đó đã thúc đẩy cơ cấu
kinh tế Thành phố chuyển dịch theo hướng hiện đại, đảm bảo phát triển bền
vững. Tuy nhiên, những tác động của khoa học và công nghệ đối với quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa của Thành phố Hồ Chí Minh, cũng còn những
hạn chế, tồn tại, chưa tương xứng với tiềm năng, thế mạnh của Thành phố. Do


17


vậy Thành phố cần nhanh chóng khắc phục để phát huy hơn nữa vai trò của
khoa học và công nghệ, đưa khoa học và công nghệ thực sự trở thành động lực
mạnh mẽ của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Chương 3
PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA
KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ VỚI QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA,
HIỆN ĐẠI HÓA Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH HIỆN NAY
3.1. PHƯƠNG HƯỚNG PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA KHOA HỌC VÀ
CÔNG NGHỆ VỚI QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA Ớ
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH HIỆN NAY
Để xây dựng phát triển Thành phố Hồ Chí Minh ngày càng văn minh, hiện
đại, có chất lượng sống tốt, luận án đề xuất những phương hướng, giải pháp để
phát triển, phát huy hiệu quả vai trò của khoa học và công nghệ với quá trình
công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Thành phố Hồ Chí Minh như sau:
3.1.1. Phát triển khoa học và công nghệ thực sự trở thành động lực của
quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá trên cơ sở mục tiêu chiến lược của
Thành phố
Phát triển khoa học và công nghệ thực sự trở thành nền tảng, động lực mạnh
mẽ thực hiện mục tiêu chiến lược xây dựng phát triển Thành phố, bởi: 1). Mục
tiêu chiến lược của Thành phố, chính là định hướng, là cơ sở để khoa học và
công nghệ của Thành phố xây dựng chủ trương, phương hướng, mục tiêu,
nhiệm vụ, giải pháp hoạt động, phát triển của ngành, địa phương. 2). Mục tiêu
chiến lược của Thành phố đã đặt ra nội dung, nhiệm vụ, giải pháp để phát triển
và phát huy vai trò của khoa học và công nghệ. 3). Mục tiêu chiến lược của
Thành phố, chính là cơ sở và yêu cầu thực tiễn để khoa học và công nghệ Thành
phố xây dựng mục tiêu, phương hướng phát triển và phát huy vai trò của nó đối
với sự phát triển kinh tế - xã hội, được thể hiện qua: Một là, phát huy vai trò của
khoa học và công nghệ để nâng cao chất lượng tăng trưởng và năng lực cạnh
tranh của kinh tế Thành phố, đẩy mạnh đổi mới, hiện đại hóa công nghệ, phát

triển công nghệ cao, “nâng tỷ trọng các yếu tố năng suất tổng hợp (TFP) đóng
góp vào tăng tưởng kinh tế”10 để hiện đại hóa và từng bước hội nhập vào nền
kinh tế tri thức. Hai là, phát huy vai trò của khoa học và công nghệ để xây dựng
phát triển đời sống văn hoá xã hội, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, bảo vệ
môi trường và nâng cao chất lượng cuộc sống. Ba là, phát huy vai trò của khoa

10

Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh: Văn kiện đại hội đại biểu lần thứ X, 2015, tr.189.


18

học và công nghệ nhằm bảo đảm quốc phòng - an ninh, giữ vững ổn định chính
trị - xã hội của Thành phố Hồ Chí Minh.
3.1.2. Phát triển khoa học và công nghệ dựa trên những đặc điểm, tiềm
năng, thế mạnh của Thành phố, đồng thời tiếp thu những tiến bộ về khoa
học và công nghệ của thời đại
Một là, Phát huy vai trò của khoa học và công nghệ với quá trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Thành phố Hồ Chí phải dựa trên những đặc điểm,
tiềm năng, thế mạnh của mình để xây dựng phương hướng phát triển phù hợp,
mang đặc trưng riêng có của Thành phố, nhằm phát huy cao độ những nguồn
lực, tiềm năng thế mạnh, khắc phục những hạn chế, tồn tại. Hai là, Phát huy vai
trò của khoa học và công nghệ với quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở
Thành phố Hồ Chí phải tiếp thu những tiến bộ, thành tựu khoa học và công
nghệ của thời đại để đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá để tránh
nguy cơ tụt hậu, đáp ứng yêu cầu hội nhập và phát triển bền vững.
3.1.3. Phát huy vai trò của khoa học và công nghệ đối với quá trình
công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Thành phố Hồ Chí Minh hướng tới những
đột phá về phát triển công nghệ cao và kinh tế tri thức

Thành phố Hồ Chí Minh cần phát huy vai trò của khoa học và công nghệ để
phát triển công nghệ cao làm cơ sở, điều kiện và tạo thành động lực quan trọng
xây dựng, phát triển Thành phố ngày càng văn minh, hiện đại, ngang tầm với
các thành phố trong khu vực và thế giới. Mặt khác, trình độ công nghệ của
Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay vẫn còn ở mức thấp. Để phát huy những tiềm
năng, thế mạnh, đặc biệt là tiềm năng, thế mạnh về nguồn nhân lực chất lượng
cao, Thành phố cần phát huy cao độ vai trò của khoa học và công nghệ để phát
triển công nghệ cao, từng bước đưa công nghệ cao thành công nghệ chủ lực, với
các mục tiêu, nhiệm vụ cụ thể: Một là, phát triển công nghệ cao làm cơ sở, điều
kiện, động lực, tạo bước đột phá hiện đại hoá nền sản xuất và đời sống xã hội
của Thành phố. Hai là, phát triển công nghệ cao nhằm phát huy năng lực nội
sinh của khoa học và công nghệ đối với quá trình công nghiệp hoá, hiện đại
hoá ở Thành phố Hồ Chí Minh.
3.2. NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA
KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ VỚI QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA,
HIỆN ĐẠI HÓA Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH HIỆN NAY
Trên cơ sở những đặc điểm, tiềm năng, thế mạnh và từ việc phân tích, đánh
giá về thực trạng trình độ khoa học và công nghệ, cũng như tác động của nó đối
với quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Thành phố Hồ Chí Minh, luận án


19

đề xuất một số nhóm giải pháp nhằm phát huy hơn nữa vai trò của khoa học và
công nghệ với quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Thành phố Hồ Chí
Minh, gồm:
3.2.1. Nâng cao nhận thức về vai trò của khoa học và công nghệ đối với
quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Thành phố Hồ Chí Minh
Muốn phát huy vai trò của khoa học và công nghệ với quá trình công nghiệp
hoá, hiện đại hoá, giải pháp đầu tiên là phải nâng cao nhận thức một cách đúng

đắn, toàn diện về vai trò của khoa học và công nghệ với quá trình công nghiệp
hoá, hiện đại hoá ở Thành phố Hồ Chí Minh. Bởi: Một là, nhận thức giúp con
người hiểu rõ bản chất, tính quy luật, xu thế phát triển của hiện thực khách
quan, từ đó đưa ra những cách thức, phương pháp phù hợp, hiệu quả trong mọi
hành động, hoạt động thực tiễn của mình một cách chủ động, tự giác, có ý thức,
có kế hoạch. Hai là, từ nhận thức khoa học con người luôn tìm cách ứng dụng
vào tạo ra các công nghệ, phương tiện, phương pháp để nâng cao năng suất,
hiệu quả của quá trình lao động sản xuất, từ đó chuyển hoá những tiềm năng
thành sản phẩm. Ba là, nhận thức đúng đắn giúp con người chuyển từ hoạt động
tự phát, thiếu tổ chức sang hoạt động tự giác, có tổ chức cao. Quá trình nâng
cao nhận thức về vai trò của khoa học và công nghệ phải được tiến hành thường
xuyên trong toàn hệ thống chính trị, xã hội của Thành phố, bao gồm: Một là,
nâng cao nhận thức về vai trò của khoa học và công nghệ với quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đối với các cấp lãnh đạo Đảng, chính quyền Thành phố
Hồ Chí Minh, bởi đây là xuất phát của mọi chủ trương, đường lối, cơ chế chính
sách, là trung tâm điều khiển, là đầu não của hệ thống tổ chức chính trị, xã hội
Thành phố. Hai là, nâng cao nhận thức về vai trò của khoa học và công nghệ
với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đối với các cơ quan quản lý, tổ chức
sản xuất - kinh doanh của Thành phố Hồ Chí Minh: đây là nơi triển khai, hướng
dẫn, kiểm tra, đôn đốc việc ứng dụng khoa học và công nghệ vào thực tiễn sản
xuất và đời sống xã hội Thành phố; hơn thế nữa, các cơ sở sản xuất - kinh
doanh, chính là cơ sở trực tiếp của việc đổi mới hiện đại hoá công nghệ. Ba là,
nâng cao nhận thức về vai trò của khoa học và công nghệ với quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đối với người lao động và nhân dân Thành phố Hồ Chí
Minh, bởi, những nghị quyết, chủ trương, đường lối, phương hướng, giải pháp
phát huy vai trò của công nghệ có trở thành hiện thực hay không, có phát huy
tích cực hay không suy cho đến cùng là do người lao động và quần chúng nhân
dân thực hiện.



20

3.2.2. Xây dựng, hoàn thiện cơ chế, chính sách nhằm phát huy vai trò
của khoa học và công nghệ đối với quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá
ở Thành phố Hồ Chí Minh
Để phát huy hơn nữa vai trò của nó với quá trình công nghiệp hoá, hiện đại
hoá, thì Thành phố Hồ Chí Minh cần phải đẩy mạnh việc xây dựng, hoàn thiện
hệ thống chủ trương, đường lối, cơ chế, chính sách: 1). Hệ thống chủ trương,
đường lối, cơ chế, chính sách, là định hướng, đặt ra mục tiêu, nội dung cho
khoa học và công nghệ Thành phố Hồ Chí Minh phát triển, và phát huy vai trò
của nó. 2). Hệ thống chủ trương, cơ chế, chính sách còn tạo ra khung hành lang
pháp lý, tạo môi trường để khoa học và công nghệ phát triển và phát huy vai trò
của nó đối với quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Thành phố. 3). Hệ
thống chủ trương, cơ chế, chính sách còn có tác dụng là đòn bẩy quan trọng để
thúc đẩy, khuyến khích, điều chỉnh sự phát triển, phát huy vai trò của khoa học
của Thành phố. Trong đó cần tập trung vào các lĩnh vực: Một là, xây dựng,
hoàn thiện các cơ chế, chính sách về phát triển, sử dụng hiệu quả nguồn nhân
lực chất lượng cao nhằm đáp ứng yêu cầu nâng cao năng lực nội sinh để tiếp thu
và làm chủ công nghệ tiên tiến phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại
hoá và phát huy những ưu điểm về con người, về hệ thống cơ sở đào tạo, nghiên
cứu khoa học chất lượng cao tại Thành phố. Hai là, xây dựng hoàn thiện các cơ
chế, chính sách đổi mới, hiện đại hoá công nghệ, phát triển công nghệ cao. Ba
là, xây dựng, hoàn thiện các cơ chế, chính sách khuyến khích phát triển nghiên
cứu, nâng cao khả năng ứng dụng, chuyển giao những kết quả, thành tựu khoa
học và công nghệ vào cuộc sống.
3.2.3. Kiện toàn và nâng cao năng lực bộ máy, đội ngũ cán bộ khoa học
và công nghệ; phát triển, sử dụng hiệu quả các nguồn lực khoa học và công
nghệ phục vụ quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá của Thành phố Hồ
Chí Minh
Để phát triển, phát huy vai trò của khoa học và công nghệ Thành phố Hồ

Chí Minh cần nâng cao năng lực bộ máy, đội ngũ cán bộ, phát triển và sử dụng
hiệu quả các nguồn lực khoa học và công nghệ phục vụ quá trình công nghiệp
hoá, hiện đại hoá. Bởi, 1). Muốn phát triển, phát huy vai trò của khoa học và
công nghệ, thì điều căn bản, lâu dài vẫn là phải đẩy mạnh các hoạt động khoa
học và công nghệ để phát triển các nguồn lực khoa học và công nghệ. 2). Thông
qua việc đẩy mạnh hoạt động khoa học và công nghệ của Thành phố mới phát
hiện những điều chưa phù hợp, những hạn chế, bất cập về việc phát triển, phát
huy vai trò của khoa học và công nghệ Thành phố, từ đó giúp Thành phố tiếp


21

tục bổ sung, hoàn thiện các chủ trương, cơ chế, chính sách. 3). Nguồn lực khoa
học và công nghệ là vốn quý, là năng lực nội sinh quan trọng hàng đầu của
Thành phố Hồ Chí Minh đối với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và
phát triển nền kinh tế tri thức, nên cần phải tổ chức, quản lý sử dụng hiệu quả.
Cụ thể cần tập trung vào các nhóm giải pháp: Một là, phát triển và nâng cao
năng lực hoạt động của các tổ chức khoa học và công nghệ ở Thành phố Hồ Chí
Minh, sẽ thúc đẩy các nguồn lực khoa học và công nghệ, như phát triển nguồn
nhân lực chất lượng cao, đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học, phát triển
công nghệ, đặc biệt là các tổ chức nghiên cứu, ứng dụng, triển khai khoa học và
công nghệ ở doanh nghiệp. Hai là, phát triển và nâng cao hiệu quả sử dụng các
nguồn lực khoa học và công nghệ của Thành phố Hồ Chí Minh, nguồn lực khoa
học và công nghệ là vốn quý, là năng lực nội sinh quan trọng bậc nhất, nên
Thành phố cần sử dụng hiệu quả các nguồn lực khoa học và công nghệ, một
cách đồng bộ, như Đảng bộ Thành phố đã chỉ ra “thực hiện đồng bộ 3 nhiệm vụ
chủ yếu phát triển khoa học - công nghệ: nâng cao trình độ nghiên cứu và năng
lực sáng tạo khoa học - công nghệ; đổi mới mạnh mẽ cơ chế quản lý; đẩy mạnh
ứng dụng phát triển công nghệ cao. Tăng đầu tư để phát triển khoa học - công
nghệ; đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao”11. Ba là, phát triển dịch vụ khoa

học và công nghệ ở Thành phố Hồ Chí Minh, cần tập trung vào những giải
pháp, lĩnh vực quan trọng như: cần tăng cường công tác thông tin khoa học công nghệ, các hoạt động về tư vấn, đào tạo, bồi dưỡng, phổ biến, ứng dụng tri
thức khoa học và công nghệ vào thực tiễn, các hoạt động liên quan đến sơ hữu
trí tuệ, bảo hộ kiểu dáng công nghiệp; Bốn là, đẩy mạnh phát triển thị trường
công nghệ, phát triển thị trường công nghệ Thành phố phát triển, hội nhập vào
thị trường chung của cả nước và thế giới, từ đó thúc đẩy quá trình đổi mới, hiện
đại hóa công nghệ Thành phố.
3.2.4. Tập trung hiện đại hóa công nghệ, phát triển công nghệ cao đối
với những ngành công nghiệp trọng yếu của Thành phố Hồ Chí Minh
Thành phố cần tập trung hiện đại hóa công nghệ, phát triển công nghệ cao
đối với những ngành công nghiệp mũi nhọn, trọng yếu nhằm tạo thành cơ sở,
nền tảng, động lực đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Bởi: Một
là, phát triển, hiện đại hóa các ngành công nghệ cao và các ngành công nghiệp
trọng yếu của Thành phố là nhiệm vụ quan trọng của quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa, như Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ Thành phố lần thứ X đã
chỉ ra “Phát triển các ngành công nghiệp công nghệ cao. Tiếp tục tập trung phát
11

Đảng bộ thành phố Hồ Chí Minh: Văn kiện đại hội đại biểu lần thứ IX, 2010, tr.54.


22

triển 4 nhóm ngành công nghiệp trọng yếu”12, đó là các ngành (công nghệ tự
động, công nghệ phần mềm, công nghệ sinh học, cơ khí, điện tử - công nghệ
thông tin, hóa dược - cao su, chế biến tinh lương thực thực phẩm, nhất là đối
với ngành sản xuất chip điện tử được coi là bộ não công nghệ tự động, điều
khiển từ xa). Hai là, phát triển và hiện đại hóa công nghệ đối với các ngành
công nghiệp hỗ trợ, nhằm phát huy thế mạnh về nguồn nhân lực, cơ sở hạ tầng
kỹ thuật, các tiềm năng, thế mạnh... để tham gia ngày càng sâu rộng vào chuỗi

giá trị toàn cầu, từ đó thúc đẩy hỗ trợ các ngành công nghệ trọng yếu phát triển.
3.2.5. Phát triển và sử dụng hiệu quả nguồn nhân lực chất lượng cao
của Thành phố Hồ Chí Minh
Để thực hiện mục tiêu chiến lược của Thành phố, để các giải pháp phát
triển, phát huy vai trò của khoa học và công nghệ trở thành hiện thực, thì Thành
phố cần phát triển sử dụng hiệu quả nguồn nhân lực chất lượng cao. Bởi, suy
cho đến cùng chiến lược, giải pháp cũng do người lao động thực hiện; vì vậy,
Thành phố cần: Một là, phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực chất
lượng cao. Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa của Thành phố Hồ Chí
Minh đang chuyển qua gia đoạn phát triển theo chiều sâu, đó là hiện đại hóa
công nghệ, phát triển công nghệ cao, hội nhập vào nền kinh tế tri thức, điều đó
yêu cầu Thành phố cần phát triển nhanh nguồn nhân lực chất lượng cao làm cơ
sở, nền tảng, động lực phát triển Thành phố văn minh, hiện đại, nghĩa tình, với
chất lượng sống tốt. Hai là, sử dụng hiệu quả, hợp lý nguồn nhân lực chất lượng
cao, nguồn nhân lực chất lượng cao là nguồn lực quý giá, là năng lực nội sinh
của khoa học và công nghệ đối với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa của
Thành phố Hồ Chí Minh cần được sử dụng hợp lý, hiệu quả để phát huy vai trò
làm cơ sở, động lực của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Kết luận chương 3
Để phát huy hơn nữa vai trò của khoa học và công nghệ với quá trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Thành phố Hồ Chí Minh, luận án đề xuất những
phương hướng sau: Một là, Phát triển khoa học và công nghệ thực sự trở thành
động lực của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá trên cơ sở mục tiêu chiến
lược của Thành phố; hai là, Phát triển khoa học và công nghệ dựa trên những
đặc điểm, tiềm năng, thế mạnh của Thành phố, đồng thời tiếp thu những tiến bộ
về khoa học và công nghệ của thời đại; ba là, Phát huy vai trò của khoa học và
công nghệ đối với quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Thành phố Hồ Chí
Minh hướng tới những đột phá về phát triển công nghệ cao và kinh tế tri thức.
12


Đảng bộ thành phố Hồ Chí Minh: Văn kiện đại hội đại biểu lần thứ X, 2015, tr.190.


23

Trên cơ sở phân tích thực trạng tác động của khoa học và công nghệ với quá
trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, luận án đề xuất những nhóm giải pháp
nhằm phát huy hơn nữa vai trò của khoa học và công nghệ với quá trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay, gồm: một là, nâng
cao nhận thức về vai trò của khoa học và công nghệ đối với quá trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Thành phố Hồ Chí Minh; hai là, xây dựng, hoàn
thiện cơ chế, chính sách nhằm phát huy vai trò của khoa học và công nghệ đối
với quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Thành phố Hồ Chí Minh; ba là,
kiện toàn và nâng cao năng lực bộ máy, đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ;
phát triển, sử dụng hiệu quả các nguồn lực khoa học và công nghệ phục vụ quá
trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá của Thành phố Hồ Chí Minh; bốn là, tập
trung hiện đại hóa công nghệ, phát triển công nghệ cao đối với những ngành
công nghiệp trọng yếu của Thành phố Hồ Chí Minh; năm là, phát triển và sử
dụng hiệu quả nguồn nhân lực chất lượng cao của Thành phố Hồ Chí Minh.
PHẦN KẾT LUẬN
Ngày nay với sự phát triển vũ bão của khoa học và công nghệ, thì việc phát
triển, phát huy vai trò của khoa học và công nghệ để phát triển kinh tế - xã hội
không chỉ là yêu cầu tất yếu, mà còn là điều kiện, cơ sở, nền tảng và là động lực
hàng đầu của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đối với Thành
phố Hồ Chí Minh, với vai trò là trung tâm, là đầu tàu của vùng kinh tế trọng
điểm phía Nam, với yêu cầu ngày càng cao của quá trình công nghiệp hoá, hiện
đại hoá hiện nay, Thành phố cần đẩy nhanh sự phát triển của khoa học và công
nghệ, cũng như việc triển khai ứng dụng rộng rãi những tiến bộ của khoa học và
công nghệ vào sản xuất và đời sống xã hội, nhằm tạo ra sức bật mới để Thành
phố phát triển nhanh và bền vững với chất lượng và tốc độ cao, làm tốt vai trò

đầu tàu của vùng kinh tế trọng điểm phía Nam. Trong những năm qua Thành
phố đã không ngừng phát triển, phát huy vai trò của khoa học và công nghệ
phục vụ quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và đạt được nhiều kết quả,
thành tựu to lớn trên các lĩnh vực, đó là đã phát triển mạnh mẽ hệ thống cơ sở
hạ tầng kỹ thuật; phát triển, hiện đại hóa công nghệ, đặc biệt là các ngành công
nghiệp mũi nhọn, công nghệ cao, dịch vụ chất lượng cao; đồng thời không
ngừng phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; từ đó đã thúc đẩy cơ
cấu kinh tế Thành phố chuyển dịch theo hướng hiện đại, chính những điều đó
đã tác động đến kinh tế Thành phố trong những năm qua luôn phát triển ổn định
với mức tăng trưởng GDP hàng năm bình quân khoảng 10%, là một trong
những địa phương có mức tăng trưởng cao và ổn định nhất nước. Tuy nhiên,


×