PHẦN I: CƠ SỞ LÝ LUẬN
1- Các khái niệm:
1.1. Chính sách:
Từ “chính sách” được sử dụng hết sức phổ biến, từ những nội dung vĩ mô như chính sách
tiền tệ, chính sách tài khóa đến tầm vi mô trong chính sách của các công ty. Mỗi khi có vấn
đề gì nổi cộm trong xã hội, công chúng trông chờ vào những phản ứng của chính quyền.
Những phản ứng đó khi định hình và thể hiện một cách chính thức được gọi dưới cái tên
“chính sách”. Chính sách cũng có thể hàm chứa những tính toán, định hướng của Chính
phủ, mối quan tâm đến một số nhóm đối tượng đặc biệt nào đó hay đơn thuần chỉ là sự áp
đặt mang “tính gia trưởng” của Nhà nước.
Chính sách là một quá trình hành động có mục đích mà một cá nhân hoặc một nhóm theo
đuổi một cách kiên định trong việc giải quyết vấn đề (James Anderson 2003).
1.2. Phân tích chính sách:
Phân tích chính sách là quá trình sử dụng các kiến thức khoa học, các phương pháp và kỹ
thuật đa dạng để xử lý thông tin thực tế về chính sách và trong quy trình chính sách, từ đó
rút ra những điều cần sửa đổi, bổ sung để nâng cao hiệu lực và hiệu quả của chính sách (Lê
Chi Mai - 2001).
Các bước thực hiện: xác định vấn đề, mục tiêu cụ thể
-
Đưa ra các lựa chọn
-
Dự đoán các kết quả
-
Đánh giá tác động
-
Đưa ra lựa chọn và kiểm soát việc thực thi.
2- Các chính sách can thiệp giá của chính phủ:
Trong thực tế, hầu hết các thị trường không hoạt động hoàn toàn tự do. Hệ thống kinh tế
ở hầu hết các nước không hoàn toàn là hệ thống kinh tế thị trường tự do thuần túy mà là
hệ thống kinh tế hỗn hợp. Chính phủ thường can thiệp trực tiếp hay gián tiếp vào thị
trường bằng một số biện pháp. Sự can thiệp này nhằm mục đích bình ổn giá cả trên thị
trường hàng hóa và dịch vụ .
2.1. Giá trần (giá tối đa)
Để tránh tình trạng giá cao bất thường đối với một số hàng hóa và dịch vụ thiết yếu,
chính phủ có thế ấn định giá trần, theo luật giá không được tăng vượt giá trần đã định.
Mục đích : Bảo vệ lợi ích cho người tiêu dùng
Tác động :
-
Lượng cung giảm, lượng cầu tăng so với trước.
-
Có tình trạng khan hiếm, thiếu hụt hàng hóa trên thị trường
-
Cần cơ chế phân phối hàng hóa và dịch vụ phi giá cả.
1
-
Dễ nảy sinh tiêu cực
Tổng phúc lợi xã hội giảm:
∆CS = C-B
∆PS
= -C-D
DNW (DWL) = -B-D
D
P
S
A
BB
P0
Pmax
∆CS = C - B
Caàu ít co giaõn
=> B > C
=> ∆CS < 0
D
D
C
Q1
Q0
Q2
Q
Hình 1.2.1
2.2. Giá sàn : (giá tối thiểu)
Để tránh tình trạng giá thấp bất thường đối với một số hàng hóa và dịch vụ, chính phủ có
thể ấn định giá sàn, theo luật giá không được giảm dưới giá sàn đã định .
Mục đích : Đảm bảo lợi ích cho nhà sản xuất .
Tác động :
-
Lượng cung tăng, lượng cầu giảm so với trước
-
Có tình trạng dư thừa hàng hóa trên thị trường
-
Tổng mất mát xã hội:
Nếu nhà sản xuất sản xuất lượng hàng là Q2 thì
∆CS = -A-B
2
∆PS = +A-D
∆NW (DWL) = -B-D
Nếu nhà sản xuất sản xuất lượng hàng là Q3 thì
∆CS = -A-B
∆PS = +A-D -E
∆NW (DWL) = -B-D -E
P
S
D
Pmin
∆PS = +A-D -E
A
P0
∆CS = -A-B
∆PS = +A-D -E
∆NW (DWL) = -B-D -E
B
D
C
E
Q2
Q0
Q3
Q
Hình 1.2.2
2.3. Trợ giá và hạn ngạch sản xuất :
2.3.1. Trợ giá :
Là quy định giá cả cao hơn giá cân bằng thị trường và chính phủ sẽ mua hết lượng hàng
dư thừa .
Chính sách này đôi khi còn kết hợp với chính sách khuyến khích giảm sản lượng hoặc
giới hạn hạn ngạch sản xuất .
Thường áp dụng cho các sản phẩm ngành nông nghiệp.
Mục đích của việc trợ giá : Để cho các nhà sản xuất có thể nhận được thu nhập cao hơn .
Tác động của chính sách trợ giá :
-
Lượng cung tăng, lượng cầu giảm
3
-
Có tình trạng dư thừa hàng hóa
Xem xét phần lợi thiệt hại đối với người sản xuất và tiêu dùng và Chính phủ do chính sách
này tạo nên :
Chi phí chính phủ = Ps(Q2-Q1)
D+Qg
P
D
Ps
S
Qg
A
C
P0
Duy trì giá Ps , chính phủ
mua: Qg = Q2 – Q1
G = -C – B – D -E
DCS = - A – B
DPS = A + B + C
∆NW= - B - D – E
B
D
E
Q1
Q0
Q2
Q
Hình 1.2.3.1
2.3.2. Hạn ngạch sản xuất
Là một giới hạn về số lượng người sản xuất trong thị trường hoặc giới hạn về số lượng
mà mỗi người sản xuất có thể bán. Hạn ngạch thường có mục tiêu là đặt một giới hạn lên
tổng số lượng mà những người sản xuất có thể cung cấp cho thị trường.
Mục đích : Làm cho giá cả của sản phẩm tăng.
Tác động : Lượng cung giảm, lượng cầu giảm
4
Ps được quy định kèm theo thưởng.
Chi phí chính phủ = B+C+D
P
S’
S
Ps
A
C
P0
B
D
D
Q1
∆PS = A - D + B + C + D
= A + B + C.
∆G = – B –C – D
∆CS = - A – B
∆PS = A + B + C
∆NW= - B - D
Q0
Q
Hình 1.2.3.1
2.4.
Đánh thuế : (Đặc thù là thuế đánh trên mỗi đơn vị sản phẩm)
Thuế trên từng mặt hàng (hay thuế tính theo đơn vị hàng hóa) là khoản tiền do người tiêu
dùng hoặc người sản xuất trả trên mỗi đơn vị hàng hóa tại thời điểm bán
Mục đích :
Một hình thức phân phối lại thu nhập hay hạn chế việc sản xuất hay tiêu dùng một loại
hàng hóa hay dịch vụ nào đó .
Tác động :
-
Đường cung dịch chuyển sang trái
-
Người sản xuất sẽ chịu phần lớn khoản thuế nếu cầu co giãn nhiều hơn so với cung
-
Người tiêu dùng sẽ gánh chịu phần lớn khoản thuế nếu cầu ít co giãn so với cung .
Chúng ta có thể xem xét tác động của khoản thuế qua phân tích đồ thị cung cầu :
5
P
S
P D1
A
P0
t
B
C
Sản lượng giảm
Giá cầu tăng
Giá cung giảm
D
P S1
D
Q1
Q0
∆G = A+C
∆CS = - A - B
∆PS = - C - D
∆NW= - B - D
Q
Hình 1.2.4
2.5.
Trợ cấp :
Là hình thức hỗ trợ cho người sản xuất hay tiêu dùng một loại hàng hóa hay dịch vụ nào
đó. Trợ cấp có thể xem như là một khoản thuế âm, tác dụng tương tự như thế, nghĩa là
bên nào co giãn ít hơn sẽ hưởng trợ cấp nhiều hơn .
Mục đích : Hỗ trợ cho người sản xuất hay tiêu dùng
Tác động :
-
Đường cung dịch chuyển sang phải (nếu trợ cấp cho người sản xuất)
-
Đường cầu dịch chuyển sang phải (nếu trợ cấp cho người tiêu dùng)
-
Người mua hay người bán hưởng lợi từ chính sách trợ cấp của chính phủ phụ thuộc vào
độ co giãn của cung và cầu . Người sản xuất sẽ hưởng phần lớn khoản trợ cấp nếu cầu co
giãn nhiều so với cung .
6
P
S
P S1
P0
P D1
A
Sản lượng tăng
Giá cầu giảm
Giá cung tăng
B
D
C
E
∆G = -A-B-C-D-E
∆CS = C + D
∆PS = A +B
∆NW= -E
D
Q0
Q1
Q
Hình 1.2.5
2.6.
Hạn ngạch và thuế nhập khẩu :
2.6.1. Thuế nhập khẩu :
Là một loại thuế mà một quốc gia hay vùng lãnh thổ đánh vào hàng hóa có nguồn gốc từ
nước ngoài trong quá trình nhập khẩu
Mục đích :
-
Bảo hộ các ngành sản xuất trong nước
-
Là công cụ kinh tế khuyến khích hay hạn chế đối với sản xuất và tiêu dùng .
-
Tạo nguồn thu ngân sách .
Tác động :
-
Giá trong nước tăng
-
Lượng cung trong nước tăng
-
Lượng cầu trong nước giảm
-
Lượng nhập khẩu giảm
7
S
P
∆CS = -A-B-C-D
∆PS = A
G= D
∆NW= -B-C
PW(1+t)
A
P
w
B
D
C
D
QS
QS1
QD1
QD
Q
2.6.2. Hạn ngạch nhập khẩu :
Là quy định của một nước về số lượng cao nhất của một mặt hàng hay một nhóm hàng
được phép nhập từ một thị trường ngoài nước trong một thời gian nhất định thông qua
hình thức cấp giấy phép
Mục đích :
-
Bảo hộ các ngành sản xuất trong nước
Là công cụ kinh tế khuyến khích hay hạn chế đối với sản xuất và tiêu dùng .
Tác động :
-
Giá trong nước tăng
-
Lượng cung trong nước tăng
-
Lượng cầu trong nước giảm
-
Lượng nhập khẩu giảm
8
S
P
S+Quota
Áp thuế NK:
Chính phủ thu D, mất ròng
trong nước (B+C)
Pq
A
P
w
D
B
Áp dụng hạn ngạch:
Lợi nhuận nhà nhập khẩu D,
mất ròng trong nước (B+C)
C
D
QS
QS1
QD1
QD
Q
Hình 1.2.6.2
2.7.
Hạn ngạch và thuế xuất khẩu :
2.7.1. Thuế xuất khẩu :
Là một loại thuế mà một quốc gia hay vùng lãnh thổ đánh vào hàng hóa có nguồn gốc từ
nước ngoài trong quá trình nhập khẩu
Mục đích :
-
Bình ổn giá cả hàng hóa và dịch vụ trong nước .
-
Là công cụ kinh tế khuyến khích hay hạn chế đối với người tiêu dùng và người sản xuất .
-
Tạo nguồn thu cho chính phủ .
Tác động :
-
Giá trong nước giảm
-
Lượng cung trong nước giảm
-
Lượng cầu trong nước tăng
-
Lượng xuất khẩu giảm
9
P
S
PW(1+t)
A
P
B
C
(DT)
E
D
(DT) có thuế
W
∆CS = A+B
∆PS = -A-B-C-D-E
∆G = D
∆NW= -C-E
D
QD0
QD1
QS1
QS0
Q
Hình 1.2.7.1
2.7.2. Hạn ngạch xuất khẩu :
Là quy định của một nước về số lượng cao nhất của một mặt hàng hay một nhóm hàng
được phép xuất sang thị trường nước ngoài trong một thời gian nhất định thông qua hình
thức cấp giấy phép .
Mục đích :
-
Bình ổn giá cả hàng hóa và dịch vụ trong nước .
-
Là công cụ kinh tế khuyến khích hay hạn chế đối với người tiêu dùng và người sản xuất .
Tác động :
-
Giá trong nước giảm
-
Lượng cung trong nước giảm
-
Lượng cầu trong nước tăng
-
Lượng xuất khẩu giảm
10
P
S
PW
A
B
C
(DT)
E
D
Pq
∆CS = A+B
∆PS = -A-B-C-D-E
Nhà SX có quota = D
∆NW= -C-E
D + Quota
D
QD0
QD1
QS1
QS0
Q
Hình 1.2.7.2
3- Ưu và nhược điểm của các chính sách can thiệp:
Ưu điểm
STT Chính sách
can thiệp giá
1
Giá trần
2
Giá sàn
Nhược điểm
- Bình ổn được giá cả của các - Nó không thể ngăn ngừa các thị
mặt hàng thiết yếu khi giá trị trường di chuyển đến điểm cân
trường quá cao trong một thời bằng
gian nhất định .
- Nó có thể gây ra khan hiếm trầm
trọng kéo dài so với thị trường tự
do .
- Chỉ có một số người tiêu dùng
được lợi từ chính sách này.
- Để chính sách có hiệu lực Chính
phủ phải cung ứng đủ lượng hàng
thiếu hụt, nếu xuất hiện trị trường
chợ đen.
- Có tổn thất xã hội
- Bình ổn (nâng giá) được giá cả - Nó không thể ngăn ngừa các thị
khi giá thị trường quá thấp trường di chuyển đến điểm cân
trong một thời gian nhất định
bằng
11
- Nâng giá cả của một hàng hóa
và dịch vụ khi giá thị trường
quá thấp trong một thời gian
nhất định
3
Trợ giá
4
- Làm cho giá cả sản phẩm tăng
đối với một số mặt hàng giá
quá thấp
Hạn ngạch - So với trợ cấp giá bằng cách
sản xuất
mua sản lượng lợi ích của
người sản xuất đều không thay
đổi .
- Bình ổn giá cả hàng hóa và
dịch vụ khi lượng cầu hoặc
lượng cung quá lớn trên thị
trường .
- Xác định một cách tương đối
Thuế
chính xác ai phải chịu phần lớn
khoản thuế để phân phối lại thu
nhập, hạn chế sản xuất hay tiêu
dùng
- Bình ổn giá cả hàng hóa và
dịch vụ khi lượng cầu hoặc
lượng cung quá lớn trên thị
trường .
- Xác định một cách tương đối
Trợ cấp
chính xác ai được hưởng phần
lớn lợi ích từ khoản trợ cấp
- Trợ cấp bằng tiền tiết kiệm
được lượng tổn thất xã hội so
với trợ giá
Hạn ngạch - Bảo hộ cho các lĩnh vực sản
xuất then chốt, chẳng hạn nông
nhập khẩu
5
6
7
12
- Gây ra thặng dư trầm trọng kéo
dài so với thị trường tự do
- Chính phủ phải tốn chi phí cho
việc mua và lưu trữ hàng hóa dư
thừa trên thị trường .
- Có phát sinh tổn thất xã hội
- Tổn thất trong phúc lợi xã hội có
thể rất lớn
- Chính phủ phải tốn chi phí cho
việc mua và lưu trữ hàng hóa dư
thừa trên thị trường
- Ảnh hưởng đến nhà xuất khẩu
trong nước nếu Chính phủ bán
“phá giá” một phần trong sản
phẩm đã mua .
- Người tiêu dùng bị thiệt hại vì
mua với giá cao
- Gây ra những tổn thất xã hội
- Có thể chi phí Chính phủ phải trả
nhiều hơn so với trợ cấp giá .
- Gây ra tổn thất xã hội
- Chính phủ phải bỏ ra một khoản
chi phí lớn để trợ cấp
- Gây ra tổn thất xã hội
- Dẫn tới sự lãng phí nguồn lực
của xã hội
nghiệp
- Không đem lại thu nhập cho
- Bảo vệ các ngành công nghiệp chính phủ
non trẻ cho đến khi chúng đủ - Có thể biến một doanh nghiệp
vững mạnh để có thể cạnh trong nước thành một nhà độc
tranh sòng phẳng trên thị quyền.
trường quốc tế
- Cải thiện cán cân thương mại
13
PHẦN II: THỰC TRẠNG THỊ TRƯỜNG SẮT THÉP Ở VIỆT NAM
I- ĐẶC ĐIỂM NGÀNH THÉP VIỆT NAM:
1- Thực trạng phát triển ngành Thép:
Ngành thép Việt Nam còn rất non trẻ, được xây dựng từ những năm 60 của thế kỷ 20, với sự ra
đời mẻ gang đầu tiên vào năm 1963, nhưng phải đến năm 1975 mới có mẻ thép đầu tiên ra đời
tại công ty gang thép Thái Nguyên. Trong giai đoạn từ 1975 đến 1990, ngành thép Việt Nam
phát triển rất chậm, phần lớn sử dụng nguồn thép của các nước Đông Âu và Liên Xô cũ, sản
lượng trong giai đoạn này duy trì ở mức 40.000 – 80.000 tấn/năm.
Từ năm 1990 đến nay ngành thép Việt Nam có nhiều đổi mới và tăng trưởng mạnh. Sự ra đời
của Tổng Công ty thép Việt Nam năm 1990 đã góp phần quan trọng vào sự bình ổn và phát
triển của ngành. Năm 1996 là năm đánh dấu sự chuyển mình của ngành thép với sự ra đời của
4 công ty liên doanh sản xuất thép là , Liên doanh thép Việt Nhật (Vinakyoei), Việt Úc
(Vinausteel), Việt Hàn (VPS) và Việt Nam – Singapore (Nasteel) với tổng công suất khoảng
840.000 tấn/năm. Từ 2002 - 2005 nhiều doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp liên doanh với
nước ngoài được thành lập, ngành thép Việt Nam thực sự phát triển mạnh mẽ với tổng công
suất lên tới trên 6 triệu tấn/năm.
Cả nước hiện có 74 Dự án sản xuất gang, thép thành phẩm có công suất thiết kế từ 100.000
tấn mỗi năm trở lên. Ngoài ra, còn một số nhà máy sản xuất thép do Tổng công ty Thép Việt
Nam quản lý. Tổng số vốn đầu tư các dự án lên tới gần 42.000 tỷ đồng và hơn 20.000 triệu
USD. Trong đó số các doanh nghiệp sản xuất thép xây dựng có 3 doanh nghiệp có công suất
lớn trên thị trường hiện nay là Công ty thép Miền Nam với công suất 910.000 tấn/năm, tập
đoàn thép Việt – Pomina với công suất 600.000 tấn/năm, công ty Gang thép Thái Nguyên
với công suất 550.000 tấn/năm. Có khoảng 20 doanh nghiệp tầm cỡ trung bình có công suất
từ 120.000 – 300.000 tấn/năm. Ngoài ra còn rất nhiều các nhà máy với quy mô công suất nhỏ
14
dưới 120.000 tấn/năm, trong đó vẫn tồn tại nhiều nhà máy nhỏ với công suất 10.000 –
50.000 tấn/năm.
Về cơ bản, sản phẩm thép gồm 2 loại là thép dài và thép dẹt. Hiện nay Việt Nam đang mất
cân đối trong sản xuất 2 loại thép trên. Thép dài là các loại thép dùng trong ngành xây dựng
như thép thanh, thép cuộn. Hầu hết các nhà máy cán thép ở Việt Nam chỉ sản xuất các loại
thép dài, các sản phẩm thông thường như thép thanh tròn trơn, thép vằn D10 - D41, thép dây
cuộn f6 - f10 và một số loại thép hình cỡ vừa và nhỏ phục vụ cho xây dựng và gia công. Các
loại thép dài cỡ lớn (lớn hơn D41) phục vụ cho xây dựng các công trình lớn hiện vẫn chưa tự
sản xuất được mà phải nhập khẩu từ nước ngoài. Công suất cán thép dài của Việt Nam hiện
nay lên trên 6 triệu tấn, nghĩa là gần gấp đôi nhu cầu. Thép dẹt sử dụng trong công nghiệp
như đóng tàu, sản xuất ô tô, sản xuất các máy móc thiết bị công nghiệp. Từ năm 2006 trở về
trước nước ta không có doanh nghiệp nào sản xuất thép dẹt. Năm 2007 có 4 doanh nghiệp
sản xuất thép tấm đi vào hoạt động là Nhà máy thép tấm Phú Mỹ (thép cán nguội) có công
suất 0,25 triệu tấn, công ty Sunsco (thép cán nguội) với công suất 0,2 triệu tấn, công ty Tôn
Hoa Sen công suất 0,18 triệu tấn và thép tấm cán nóng Cửu Long – Vinashin với công suất
0,5 triệu tấn (tuy nhiên theo thông tin từ phía công ty thì do mới đi vào hoạt động và chưa có
nhiều nguồn tiêu thụ nên hiện nay hoạt động sản xuất của công ty chưa liên tục). Như vậy
công suất sản xuất thép tấm của cả nước đến nay mới là 1,1 triệu tấn. Trong khi đó nhu cầu
hiện nay khoảng 4-5 triệu tấn, nếu hoạt động hết công suất thì nước ta vẫn phải nhập khẩu
khoảng 80% thép dẹt. Ngành thép Việt Nam hiện nay mới chỉ tập trung sản xuất các sản
phẩm thép dài do đầu tư vào sản phẩm này cần vốn ít, thời gian xây dựng nhà máy ngắn,
hiệu quả đầu tư tương đối cao. Đối với sản phẩm thép dẹt, để đảm bảo hiệu quả thì yêu cầu
công suất nhà máy phải lớn, cần vốn đầu tư lớn, nhưng thời gian thu hồi vốn lâu, các doanh
nghiệp trong nước không đủ vốn đầu tư nên đến nay chưa phát triển. Tuy nhiên hiện có
nhiều tập đoàn lớn đang đầu tư vào xây dựng các nhà máy thép quy mô lớn hoặc khu liên
hiệp và tập trung nhiều vào sản phẩm thép dẹt, nên trong tương lai cơ cấu sản xuất thép dài
và thép dẹt tại Việt Nam sẽ không mất cân đối như hiện nay.
15
Tại các nước công nghiệp phát triển cơ cấu tiêu thụ là khoảng 55% là thép dẹt và 45% là
thép dài. Tuy nhiên ở Việt Nam do nhu cầu xây dựng cơ bản lớn nên tỷ lệ trên là khoảng
50% thép dẹt và 50% thép dài. Theo chiến lược quy hoạch ngành thép 2007 - 2015 có định
hướng tới 2025 thì năm 2025 cơ cấu tiêu thụ thép dài và thép dẹt của Việt Nam sẽ tương tự
như các nước phát triển hiện nay.
Cũng giống với các nước đang phát triển khác, sự phát triển của ngành Thép Việt Nam
bị coi là đi theo chiều ngược khi công nghiệp cán có trước công nghiệp luyện, phần lớn do
hạn chế về vốn đầu tư, do chính sách phát triển ngành. Ý kiến khác lại cho rằng ngành Thép
sở dĩ phát triển ngược là do Việt Nam không có chính sách bảo hộ đúng mức cho phần gốc
là luyện phôi thép, cho nên mặc dù thời gian gần đây ngành Thép phát triển được là nhờ
nguồn phôi nhập khẩu, không tận dụng được lợi thế giàu tài nguyên của Việt Nam.
Tuy có bước chuyển biến đáng kể trong phát triển ngành Thép, nhưng ngành Thép Việt
Nam lại lệ thuộc 60% vào phôi thép nhập từ nước ngoài, 40% là do trong nước tự chủ động
được. Nguồn tài nguyên trong nước chưa tận dụng được, các sản phẩm Thép phục vụ hoạt
động quốc phòng, đóng tàu Việt Nam chưa thể sản xuất được và phải nhập khẩu từ nước
ngoài. Đóng góp phần lớn vào sự phát triển ngành Thép Việt Nam phần nhiều do công sức
đóng góp của doanh nghiệp ngoài nhà nước như Hòa Phát, Thép Việt Ý, Thép Đình Vũ….
Các doanh nghiệp này phải tự bươn chải tìm hướng ra trong điều kiện nguồn phôi thép phải
nhập khẩu phần lớn, giá thành phụ thuộc vào sự biến động của giá phôi thép thế giới. Hạn
chế sự phụ thuộc vào phôi thép thế giới, các doanh nghiệp Việt Nam dùng tới biện pháp là
nhập phế liệu từ nước ngoài về và sử dụng phế liệu cũ để tạo phôi thép. Chính vì vậy mà
công nghệ cán có trước công nghệ luyện. Đây là hướng đi tích cực trong khi nhà nước chưa
có nhiều chính sách ưu đãi thúc đẩy công nghệ sản xuất phôi thép. Ngành thép Việt Nam
vẫn ở tình trạng phân tán, thiếu bền vững. Sản phẩm các doanh nghiệp làm ra dùng để tiêu
thụ trong nước, các doanh nghiệp đã không hợp tác với nhau để cùng phát triển, có hiện
tượng cạnh tranh không lành mạnh khiến Thép lậu giá rẻ tràn vào chiếm thị phần của Thép
Việt.
Do kinh tế thế giới và thị trường bất động sản chững lại, mặt khác do sức tiêu thụ thép trong
nước thời gian gần đây giảm, giá thép xây dựng giảm khiến nhiều doanh nghiệp sản xuất
phôi thép và thép gặp rất nhiều khó khăn trong tiêu thụ sản phẩm. Phôi thép và thép thành
phẩm tồn kho nhiều, các doanh nghiệp gặp khó khăn khi không huy động vốn cho hoạt động
sản xuất kinh doanh và có nguy cơ phá sản. Ngược lại với quy luật cung cầu, khi giá thép
giảm đáng ra sức cầu ngành thép phải được cải thiện. Đứng trước tình trạng này, các doanh
16
nghiệp ngành thép mong muốn Chính phủ nên thành lập quỹ dự trữ phôi thép nhằm bình ổn
giá thép trong nước khi giá thép thế giới có biến động.
2- Hiện trạng dư thừa và thiếu hụt:
Ngành thép hiện nay đang phải đối mặt với tình trạng dư cung nội địa tại thị trường thép
thành phẩm. Trong khi đó nguyên liệu đầu vào là phôi thép vẫn đang phải nhập khẩu từ
nước ngoài chiếm đến 60%. Như vậy có thể nhận thấy sự thiếu cân bằng trong ngành hiện
nay khi nguyên liệu đầu vào đang thiếu mà các dự án đầu ra sẽ vượt quá cầu trong tương lai.
Mặc dù năng lực sản xuất các sản phẩm thép hiện có vượt quá xa với nhu cầu thực tế của thị
trường trong nước. Tuy nhiên, việc cấp giấy phép xây dựng ở các địa phương vẫn được tiếp
tục. Theo báo cáo của Bộ Công Thương, đến cuối tháng 8/2009, có tới 32 dự án thép khác
được địa phương cấp phép, nhưng chưa có ý kiến chấp thuận chủ trương đầu tư của Thủ
tướng. Ngoài ra cả nước còn có 65 dự án gang, thép, công suất từ 100.000 tấn mỗi năm trở
lên đã đi vào sản xuất, hoặc đang triển khai đầu tư. Trong đó có 17 Dự án thuộc danh mục
được quy hoạch, 16 dự án được ý kiến thỏa thuận của Bộ Công Thương.
Hiện có 3 dự án sản xuất thép tấm cán nóng, có trong quy hoạch, nhưng khả năng triển khai
đang gặp nhiều khó khăn. Đó là các Dự án Nhà máy thép liên hợp Hà Tĩnh của Tập đoàn
Tata, Dự án Khu liên hợp Cà Ná - Ninh Thuận của Lion Group -Vinashin và Dự án Nhà
máy thép tấm cán nóng Bà Rịa - Vũng Tàu (VNSTeel mua lại của Tập đoàn Essar).
Nhiều chuyên gia đã dự báo, nếu tính sản lượng thép sản xuất và mức độ đầu tư quá lớn vào
ngành thép thời gian qua, đến năm 2030 ngành thép sẽ gặp “khủng hoảng thừa”. Thế nhưng
cho đến nay, hàng chục dự án thép vẫn được cấp phép. Nếu cứ đầu tư dàn trải không hiệu
quả như thời gian qua, ngành thép sẽ có 6 “điểm yếu”. Đó là ngành công nghiệp có giá trị
gia tăng rất thấp; Phát triển ngành thép Việt Nam không thu nhận được nhiều từ quá trình
chuyển giao công nghệ; số lao động được giải quyết việc làm không đáng kể khi mỗi nhà
máy luyện thép lớn chỉ cần khoảng 1.000 nhân công; huỷ hoại môi trường; tiêu tốn hàng
loạt các loại tài nguyên quý báu như đất, nước, năng lượng…
Sản xuất thép được bắt đầu bằng việc luyện phôi thép mà nguyên liệu chính được dùng ở
đây là quặng sắt hoặc thép phế liệu. Một nguyên liệu quan trọng không kém được sử dụng
trong quá trình luyện là than cốc. Tuy nhiên hiện nay các công ty kinh doanh trong ngành
mới chỉ dừng lại ở bước thứ hai tức là chủ yếu vẫn nhập khẩu phôi thép từ nước ngoài về
thực hiện gia công, chế tạo sản phẩm (phôi sản xuất trong nước mới chỉ đáp ứng được 40%
nhu cầu, 60% còn lại là nhập khẩu). Thực tế hiện nay cũng cho thấy, trong khi nước ta đang
dư thừa các dự án sản xuất thép thì các dự án luyện phôi vẫn còn ít. Nguyên nhân sâu xa của
sự mất cân đối trong quy trình hiện nay đó là sự mất cân đối trong việc đầu tư các dự án giai
đoạn trước. Các dự án sản xuất phôi thường có chi phí đầu tư lớn, thời gian thu hồi vốn
tương đối lâu cho nên các nhà đầu tư tập trung vào các dự án sản xuất chế tạo (vốn bỏ ra ít,
thời gian thu hồi vốn nhanh hơn). Theo thống kê của bộ Kế hoạch đầu tư cho thấy, cả nước
hiện nay đang có 74 dự án sản xuất thép với dây chuyền có công suất hơn 100,000 tấn/năm
trong đó có 65 dự án cán thép. Các dự án tập trung ở khoảng 30 tỉnh thành trên cả nước
trong đó nhiều nhất tập trung tại tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu (18 dự án) trong đó có thể kể đến
các công ty trong nước cũng như các công ty liên doanh nước ngoài.
17
Thiếu nguồn cung phôi trong nước dẫn đến phải nhập khẩu sẽ gây nên rủi ro tiềm ẩn về
biến động giá (không chủ động nguồn cung nguyên liệu được) và rủi ro về tỷ giá. Do đó
những công ty nào sở hữu những dây chuyền luyện phôi ngay từ đầu sẽ thuận lợi hơn so với
các đối thủ khác trong ngành. Hiện nay HPG đang sở hữu một nhà máy sản xuất phôi có
công suất 200,000 tấn/năm đáp ứng được khoảng 80% lượng phôi cần dùng cho cán thép.
VIS đang nắm cổ phần tương đối lớn tại CTCP Luyện thép Sông Đà có trụ sở tại Hải Phòng
công suất lên tới 400,000 tấn phôi/năm và ngay năm nay có thể đạt công suất 240,000
tấn/năm. Công suất hiện tại của POM lên tới 500,000 tấn phôi thép và 1,1 triệu tấn thép cán
trong năm. Đại diện của miền Trung DNY cũng đang sở hữu dây chuyền luyện với công
suất 120,000 tấn cán và 150,000 tấn phôi thép /năm. Công suất nhà máy của POM hiện nay
đang dẫn đầu và trong tương lai chắc khi các dây chuyền hoàn thiện sẽ tiếp tục là công ty
sản xuất thép xây dựng lớn trên cả nước.
18
II. DIỄN BIẾN GIÁ CẢ & CHÍNH SÁCH CAN THIỆP CỦA CHÍNH PHỦ
2.1. Diễn biến giá cả trong vòng năm năm trở lại :
2.2. Chính sách can thiệp của Chính phủ :
Ngành thép được coi là một trong những ngành xương sống, mặt hàng thiết yếu của nền
kinh tế bởi nó cung cấp đầu vào cho các ngành xây dựng, sản xuất máy móc công nghiệp,
đóng tàu và công nghiệp quốc phòng. Sản phẩm của ngành gồm hai loại chính là thép xây
dựng và thép công nghiệp. Nếu như sản xuất thép xây dựng có mối quan hệ mật thiết và phụ
thuộc với các ngành như xây dựng và bất động sản thì thép công nghiệp lại có sự tương
quan đến tốc độ phát triển ngành công nghiệp. Những sản phẩm làm từ thép vô cùng phong
phú về thể loại và kích cỡ đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng đa dạng trong nước. Là một
trong những ngành kinh tế quan trọng nên đứng trước thực trạng trên Chính phủ có những
chính sách cải thiện, bình ổn giá cả .
2.2.1. Quy định Giá trần: đối với những thành viên Hiệp hội thép
Đầu năm 2007, giá thép chỉ ở mức 8,5 triệu đồng/tấn thì đến cuối năm tăng vọt lên ở
mức 13-14 triệu đồng/tấn,. Giá thép trên thị trường thế giới tăng mạnh, đã tác động đến thị
trường thép trong nước, trong khi đó nhu cầu về thép trong nước vẫn tăng mạnh từ 17% 19
19%.
Sang đầu năm 2008, giá thép trên thế giới tăng cao và đạt đỉnh vào đầu tháng 7 với giá
chào phôi thép lên 1.000-1.100 USD/tấn, thậm chí là 1.200 USD/tấn. Trong khi đó, Chính
phủ đưa ra hàng loạt biện pháp kiềm chế lạm phát, đảm bảo an ninh xã hội hướng tới tăng
trưởng bền vững, trong đó yêu cầu các doanh nghiệp giữ giá bán thép. Chính điều này tạo ra
sự chênh lệch lớn giữa giá thép trong nước và giá thế giới.
Đến cuối tháng 7,2008, khủng hoảng toàn cầu bùng phát. Giá nguyên liệu bất ngờ giảm
mạnh. Chỉ trong vòng 3 tháng, từ tháng 8 đến tháng 12, giá nguyên liệu thép đã giảm 2/3
(giá phôi chỉ còn khoảng 300 USD/tấn) so với thời kỳ đỉnh cao. Do nhu cầu thép giảm mạnh
nên các nhà sản xuất vẫn không tiêu thụ được sản phẩm .
Ngành thép hiện nay đang phải đối mặt với tình trạng dư cung nội địa tại thị trường thép
thành phẩm. Chính phủ quy định giá trần với mục đích kích thích tăng lượng cầu tiêu thụ
trong nước (vì giá bán thấp hơn giá cân bằng), đồng thời nhà sản xuất sẽ cân nhắc di chuyển
sang lĩnh vực sản xuất phôi thép thay vì nhập khẩu hoặc có biện pháp để hạ giá thành sản
phẩm. Bên cạnh đó gói kích cầu trị giá khoảng 6 tỷ USD có tác động rất tốt đến sức tiêu thụ
sản phẩm thép, khiến thị trường thép trong nước mở rộng đáng kể. Nhiều dự án xây dựng hạ
tầng cơ sở, xây dựng nhà ở nông thôn, nhà ở cho công nhân khu công nghiệp, nhà ở cho
người thu nhập thấp và nhà ở cho sinh viên được tiếp thêm vốn đã được triển khai.
Qua đó cân đối lại lượng cung cầu trên thị trường .
-
-
-
Kết quả đạt được :
Đầu năm 2009, trong khi giá thị trường giảm gần 70% (thép xây dựng từ mức giá bán
gần 20 triệu đồng/ tấn hạ xuống còn từ 7-9 triệu đồng/tấn. ).
Theo mô hình thì quy định giá trần thì lượng hàng hóa sẽ thiếu hụt nhưng thực tế cho
thấy kết quả ngược lại, thay vì thiếu hụt thì hàng lại quá thừa. Đầu năm 2009 lượng tồn
kho quá lớn và dự đoán trong tương lai thì sẽ khủng hoảng thừa .
Nguyên nhân :
Không xét hiệu quả của các dự án, cấp phép kinh doanh quá đại tràng mà không có biện
pháp hạn chế, Lượng cung thành phẩm thép trong thực tại và tương lai dư thừa, theo quy
luật cạnh tranh, quy luật cung giá sẽ điều chỉnh thấp xuống .
Nhiều công trình xây dựng dở dang bị ảnh hưởng do không tiếp tục triển khai được
Chưa có chính sách hiệu quả, thiết thực cho việc khuyến khích phát triển phôi thép .
Ngân sách Chính phủ bội chi nên việc đầu tư vào các dự án xây dựng còn gặp nhiều khó
khắn
Ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu
2. Bảo hộ hàng trong nước: đánh thuế NK
Trong quý 1/2009, thép nước ngoài được nhập khẩu ồ ạt vào Việt Nam với mức bình quân
38 nghìn tấn/tháng thép cuộn phi 6,8 làm cho thị phần tiêu thụ thép cuộn của các doanh
nghiệp sản xuất thép trong nước giảm sút từ 25 – 30% xuống còn 20%, đặc biệt là thép
cuộn từ Trung Quốc, các doanh nghiệp sản xuất, kinh donah trong nước bắt đầu thấy chao
đảo .
20
Trong 3 tháng đầu năm, tiêu thụ thép giảm mạnh so với cùng kỳ năm 2008, có lúc chỉ còn
một nửa. Với thép xây dựng, sản phẩm có thị trường tiêu thụ lớn nhất, trong tháng 1/2009,
tiêu thụ thép xây dựng chỉ bằng 56,24% so với cùng kỳ .
Trong khi đó, tình trạng còn ảm đạm hơn với thép cán nguội (50,4%), ống thép hàn
944,29%) và tôn mạ kẽm, sơn phủ màu (41,87%)
Cung lớn hơn cầu, nhưng khả năng cạnh tranh không cao, các doanh nghiệp sản xuất kinh
doanh thép trong nước chịu thêm sức ép từ nhập khẩu thép xây dựng. Theo đánh giá của
Hiệp hội Thép, Việt Nam là một trong những nước bị thép ngoại cạnh tranh khốc liệt nhất.
Do có giá bán rẻ hơn thép sản xuất trong nước từ 500-700 nghìn đồng/tấn. Lượng thép cuộn
nhập khẩu năm 2009 từ các nước ASEAN và Trung Quốc vào Việt Nam tăng vọt lên
khoảng 500 nghìn tấn, tương đương khoảng 11% sản lượng sản xuất, tiêu thụ của năm 2009
(4,6 triệu tấn), đẩy thị phần tiêu thụ thép cuộn xây dựng trong nước giảm từ 25% xuống
dưới 20%.
Trong khi đó, thị trường Việt Nam ngày càng liên thông, ảnh hưởng nhanh và trực tiếp của
việc tăng giảm giá những nguyên liệu cơ bản sản xuất thép như quặng sắt, than mỡ, phôi
thép, thép phế và một số vật tư phụ kiện khác.
Ở trong nước, thị trường thép còn chịu tác động lớn từ biến động giá cả nguyên liệu đầu vào
quan trọng như điện, than, xăng dầu. Thêm vào đó, việc tăng lương cho cán bộ công nhân
viên cũng làm tăng chi phí đầu vào…
Diễn biến giá bán thép xây dựng (loại cuộn) năm 2009.
Bước sang quý 2/2009 và tiếp đến cuối năm, thị trường có chiều hướng tốt hơn. Dù không
có đột biến, nhưng từ sau quý 1/2009, lượng thép tiêu thụ bắt đầu tăng lên, kéo theo giá bán
cũng tăng tương ứng.
Trong 9 tháng cuối năm, lượng thép xây dựng tiêu thụ luôn đạt khoảng 300 nghìn tấn đến
21
trên 450 nghìn tần mỗi tháng. Trong khi đó, giá thép loại này cũng liên tục duy trì mặt bằng
giá cao hơn, nhiều lúc, giá bán thấp nhất cũng trên 11.500 đồng/kg..
Các chính sách về thuế nhập khẩu cũng được điều chỉnh theo hướng có lợi cho sản xuất thép
trong nước, như tăng thuế nhập khẩu phôi thép từ 5% lên 8%; tăng thuế nhập khẩu thép xây
dựng từ 12% lên 15%, thép cuộn cán nguội từ 7% lên 8%, thép lá mạ kẽm và sơn phủ màu
từ 12% lên 13%; tăng thuế nhập khẩu thép cuộn hợp kim bora dùng trong xây dựng từ 0%
lên 10%; tăng thuế nhập khẩu cáp thép từ 0% lên 3%…
Kết thúc năm 2009, ngành thép Việt Nam đã đạt được kết quả khá tốt. Sản xuất thép xây
dựng tăng trưởng 25%, tiêu thụ vượt trên 30% so với năm 2008. Sản xuất và tiêu thụ thép
cán nguội khoảng 500 nghìn tấn; ông thép hàn khoảng 570 nghìn tấn; và tôn mạ kẽm, sơn
phủ màu khoảng 850 nghìn tấn.
Khép lại năm 2009, ngành thép trở thành một trong số ít ngành công nghiệp nặng có tốc độ
tăng trưởng hai con số.Sản xuất tăng 25%, tiêu thụ tăng hơn 30% so với năm 2008 (đối với
thép xây dựng), một kỳ tích sau giai đoạn khủng hoảng tưởng chừng không dễ thoát.
Năm 2010 chỉ mới trải qua nửa đoạn đường nhưng ngành thép trong và ngoài nước đã có
nhiều biến động lớn, gây tác động không nhỏ đến các doanh nghiệp trong ngành. Kết thúc
Q1-2010, ngành thép đem đến viễn cảnh sinh lợi hấp dẫn khi giá thép thế giới và trong nước
liên tục tăng cao. Tiêu thụ thép cũng tăng đột biến trong tháng 3 (là mức tiêu thụ trong một
tháng cao nhất từ trước đến nay) nhưng chủ yếu là do yếu tố đầu cơ, góp phần đẩy giá lên
cao hơn nữa. Giá thép ở đỉnh điểm vào giữa tháng 4, tăng gần 40% so với mức giá lúc đầu
năm. Sang Q2-2010, từ cuối tháng 4, giá thép thế giới và trong nước lao dốc cùng với sự
chững lại của nhu cầu tiêu thụ. Tiêu thụ bình quân hàng tháng trong Q2 giảm chỉ bằng một
nửa so với mức tiêu thụ của tháng 3. Giá phôi thép thế giới giảm mạnh kéo theo sự điều
chỉnh giá trong nước. Hơn nữa, lực mua yếu mặc dù Q2 thường là mùa cao điểm trong khi
các doanh nghiệp còn tồn kho khá nhiều dẫn đến sự cạnh tranh gay gắt về giá giữa các đơn
vị trong nước nhằm giải phóng hàng tồn kho, giải quyết các vấn đề về tài chính và hoạt
động, càng đẩy giá thép trong nước xuống sâu hơn.
Tháng 7-2010 giá thép tăng tới 1,3 triệu đồng/tấn, bước sang tháng 8, giá thép được dự báo
là sẽ chững lại do ảnh hưởng của mưa bão,các công trình xây dựng không thể đẩy nhanh
tiến độ.
Nhưng tháng 8 vừa qua, cả giá bán và lượng thép tiêu thụ đều tăng mạnh so với dự báo của
VSA. Chỉ trong một tháng, các công ty thép đã điều chỉnh tăng giá bán thêm từ 700 nghìn
đến 1 triệu đồng/tấn. Thép xây dựng được các nhà máy bán ra phổ biến ở mức 13,3- 13,9
Triệu đồng/tấn (chưa bao gồm VAT).Giá tăng mạnh đã khiến lượng tiêu thụ mặt hàng này
cũng tăng đáng kể trong tháng qua, lên mức khoảng 460 nghìn tấn, cao hơn khá nhiều so với
mức dự báo là 350- 400 nghìn tấn trướcđó.
Tiếp tục đi ngược lại dự báo, những ngày đầu tháng 9, thay vì tăng, giá thép trên thị trường
lại có dấu hiệu chững. Hầu hết các nhà máy vẫn giữ nguyên giá bán hồi tháng 8. Có nhà
máy mặc dù không giảm giá bán, nhưng lại tăng chiết khấu cho các đại lý.
Nguyên nhân khiến giá thép không tăng những ngày đầu tháng 9 là do những ngày qua, giá
phôi thép trên thế giới chỉ còn khoảng 600 USD/tấn, giảm đáng kể so với mức giá 610- 630
USD/tấn hồi trung tuần tháng 8. Thép phế từ mức 420 USD/tấn, cũng giảm xuống chỉ ở
mức 400- 405 USD/tấn.
22
Tuy vậy, hiện nay 45-47% phôi thép và 70- 80% thép phế nước ta vẫn phải nhập khẩu, nên
biến động của giá thế giới thời gian tới sẽ tác động nhiều đến giá bán của mặt hàng thép xây
dựng trong nước.
23
III. NHẬN XÉT VÀ KIẾN NGHỊ
Theo cam kết gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), từ năm 2014 trở đi, khi
Việt Nam thực hiện cắt giảm thuế suất thuế nhập khẩu thép xuống còn 0-5% và theo cam
kết khu mậu dịch tự do trong khuôn khổ hiệp định ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung
CEPT/AFTA từ năm 2006, Việt Nam có 5.000 dòng thuế chỉ còn 0-5%, trong đó có thép và
đến năm 2015 chỉ còn mức 0%. Vì vậy, trong tương lai ngành thép Việt Nam sẽ phải đối
mặt với khó khăn, thách thức lớn hơn hiện nay.
Đặc biệt, sản phẩm thép Việt Nam sẽ tiếp tục phải chịu sự cạnh tranh khốc liệt về giá
bán do chi phí sản xuất phôi thép ở Việt Nam cao gần gấp 2 lần so với thế giới, trong khi
năm 2010 được dự báo là năm mà giá cả các nguyên nhiên liệu đầu vào như quặng, than,
dầu, điện sẽ tiếp tục tăng.
Vì vậy, để ngành thép trong nước, nhất là ngành sản xuất thượng nguồn (phôi thép) tiếp
tục phát triển, Chính phủ nên tiếp tục có chính sách hỗ trợ vốn và lãi suất đối với việc triển
khai các dự án thép có hiệu quả, nhằm tạo đầu ra cho ngành sản xuất thép. Đồng thời, Bộ
Công Thương, Bộ Kế hoạch và Đầu tư cần tiếp tục kiểm soát chặt chẽ các dự án đầu tư mới,
các thủ tục cấp phép đầu tư ngoài quy hoạch để bảo đảm cân đối cung cầu.
Theo dự báo của Hiệp hội Thép Việt Nam, năm 2010, sản xuất và tiêu thụ thép xây dựng và
các sản phẩm thép khác sẽ tăng 10-12% so với năm nay. Tuy nhiên, cung ứng phôi thép cho
sản xuất thép xây dựng trong nước chỉ đáp ứng khoảng 60%./
Như vậy, từ năm 2010, ngành thép Việt Nam sẽ phải đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt ngay
chính trên sân nhà.
Bên cạnh đó, nhiều dự án thép mới đi vào sản xuất trong năm 2010 sẽ tăng thêm sự mất cân
đối giữa nguồn cung và mức tiêu thụ của thị trường, dẫn tới sự cạnh tranh quyết liệt trên thị
trường tiêu thụ các sản phẩm thép xây dựng, thép cuộn cán nguội, ống thép hàn, tôn mạ kim
loại…Chính phủ cần có chính sách giá linh hoạt và bám sát thị trường để có những điều tiết
thích hợp.
24