Họ và tên: Nguyễn Đức Lượng
Lớp: ĐH3KĐ
Mã SV: DH00300886
Những tác động của môi trường trong hoạt
động khai thác các nhóm mỏ năng lượng (than),
kim loại, vật liêu xây đựng.
Những năm gần đây, cùng với sự phát triển chung của cả nước, các hoạt động
khai thác khoáng sản đã và đang góp phần to lớn vào công cuộc đổi mới đất
nước. Ngành công nghiệp khai thác mỏ đã và đang ngày càng chiếm vị trí quan trọng
trong nền kinh tế của Việt Nam . Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực đạt được,
chúng ta cũng đang phải đối mặt với nhiều vấn đề về môi trường. Quá trình khai thác
mỏ phục vụ cho lợi ích của mình, con người đã làm thay đổi môi trường xung quanh.
Yếu tố chính gây tác động đến môi trường là khai trường của các mỏ, bãi thải, khí độc
hại, bụi và nước thải...làm phá vỡ cân bằng điều kiện sinh thái, đã được hình thành từ
hàng chục triệu năm, gây ra sự ô nhiễm nặng nề đối với môi trường và là vấn đề cấp
bách mang tính chất xã hội và chính trị của cộng đồng.
I. Những tác động đến môi trường
1. Ô nhiễm không khí, nước
Các hoạt động khai thác khoáng sản thường sinh ra bụi, nước thải với khối lượng
lớn, gây ô nhiễm không khí và nước.
Tác động hoá học của hoạt động khai thác khoáng sản tới nguồn nước: Sự phá
vỡ cấu trúc của đất đá chứa quặng khi tiến hành đào bới và khoan nổ sẽ thúc đẩy các
quá trình hoà tan, rửa lũa các thành phần chứa trong quặng và đất đá, quá trình tháo
khô mỏ, đổ các chất thải vào nguồn nước, chất thải rắn, bụi thải không được quản lý,
xử lý chặt chẽ, tham gia vào thành phần nước mưa, nước chảy tràn cung cấp cho
nguồn nước tự nhiên,... là những tác động hoá học làm thay đổi tính chất vật lý và
thành phần hoá học của nguồn nước xung quanh các khu mỏ.
Nước ở các mỏ than thường có hàm lượng các ion kim loại nặng, á kim, các hợp
chất hữu cơ, các nguyên tố phóng xạ... cao hơn so với nước mặt và nước biển khu vực
đối chứng và cao hơn TCVN từ 1-3 lần. Đặc biệt là khu vực từ Quảng Yên đến Cửa
Ông.
Trong các mỏ thiếc sa khoáng, biểu hiện chính của ô nhiễm hoá học là làm đục
nước bởi bùn - sét lơ lửng, tăng hàm lượng các ion sắt và một số khoáng vật nặng.
Việc khai thác và tuyển quặng vàng phải dùng đến thuốc tuyển chứa Hg, ngoài
ra, các nguyên tố kim loại nặng như asen, antimoan, các loại quặng sunfua, có thể rửa
lũa hoà tan vào nước. Vì vậy, ô nhiễm hoá học do khai thác và tuyển quặng vàng là
nguy cơ đáng lo ngại đối với nguồn nước sinh hoạt và nước nông nghiệp. Tại những
khu vực này, nước thường bị nhiễm bẩn bởi bùn sét, một số kim loại nặng và hợp
chất độc như Hg, As, Pb v.v... mà nguyên nhân chính là do nước thải, chất thải rắn
không được xử lý đổ bừa bãi ra khai trường và khu vực tuyển quặng
Bụi từ quặng chì do xí nghiệp chì -kẽm Chợ
Bể nước sạch của các cô giáo Trường tiểu học
Điền ( Bắc Kạn) khai thác
Bản Thi., huyện Chợ Đồn - Bắc Kạn là một vũng
nước trong hốc đá đen quặng chì, bùn và rác.
Việc khai thác vật liệu xây dựng, nguyên liệu cho sản xuất phân bón và hoá chất
như đá vôi cho nguyên liệu xi măng, đá xây dựng các loại, sét, cát sỏi, apatit, ... đã gây
những tác động xấu đến môi trường như làm ô nhiễm không khí, ô nhiễm nước. Nhìn
chung quy trình khai thác đá còn lạc hậu, không có hệ thống thu bụi, nhiều khí hàm
lượng bụi tại nơi làm việc lớn gấp 9 lần với tiêu chuẩn cho phép.
Khai thác đá ở Bà Rịa- Vũng Tàu
Bụi do khai thác đá làm ô
nhiễm không khí
2. Ảnh hưởng đến nguồn tài nguyên thiên nhiên khác
Khai thác khoáng sản là quá trình con người bằng phương pháp khai thác lộ thiên
hoặc hầm lò đưa khoáng sản từ lòng đất phục vụ phát triển kinh tế - xã hội. Các hình
thức khai thác bao gồm: khai thác thủ công, khai thác quy mô nhỏ và khai thác quy mô
vừa.Bất cứ hình thức khai thác khoáng sản nào cũng dẫn đến sự suy thoái môi trường.
Nghiêm trọng nhất là khai thác ở các vùng mỏ, đặc biệt là hoạt động của các mỏ khai
thác than, quặng và vật liệu xây dựng. Năm 2006 các mỏ than của Tập đoàn Công
nghiệp Than và Khoáng sản Việt Nam đã thải vào môi trường tới 182,6 triệu m3 đất đá
và khoảng 70 triệu m3 nước thải từ mỏ.
Quá trình khai thác khoáng sản thường qua ba bước: mở cửa mỏ, khai thác và
đóng cửa mỏ. Như vậy, tất cả các công đoạn khai thác đều tác động đến tài nguyên và
môi trường đất.Hơn nữa, công nghệ khai thác hiện nay chưa hợp lý, đặc biệt các mỏ
kim loại và các khu mỏ đang khai thác hầu hết nằm ở vùng núi và trung du. Vì vậy,
việc khai thác khoáng sản trước hết tác động đến rừng và đất rừng xung quanh vùng
mỏ.
Khai thác Bô-xít lộ thiên sẽ tàn phá thảm
động thực vật và gây xói mòn (Đắc Nông)
Đất khai thác bô-xít (để lầm phèn chua) sau
khi hoàn thổ không loại cây nào mọc được
ngoài keo tai tượng (Bảo Lộc- Lâm Đồng)
Tan hoang cả vùng đồi do khai thác than
Nguồn nước đang dần cạn kiệt
(Hoà Bình)
vì khai thác than ( Hoà Bình)
Hoạt động khai thác khoáng sản là một trong những nguyên nhân làm giảm độ
che phủ do rừng cây bị chặt hạ, lớp phủ thực vậtbị suy giảm. Hoạt động khai thác
khoáng sản cũng làm cho thực vật, động vật bị giảm số lượng hoặc tuyệt chủng do các
điều kiện sinh sống ở rừng cây, đồng cỏ và sông nước xấuđi. Một số loài thực vật bị
giảm sốlượng, độngvật phải di cư sang nơi khác.
Khai thác khoáng sản đã
làm thu hẹp đáng kể diện tích
đất nông, lâm nghiệp và
ảnh hưởng đến sản xuất như:
chiếm dụng đất nông, lâm
nghiệp để làm khai trường
(Bảng I)
Ruộng bị san ủi để khai thác
vàng
Bảng1. Diện tích rừng và
( Lương sơn- Hoà Bình)
đất rừng bị thu hẹp, thoái
hoá ở một số mỏ
TT
1
DT đất
Tên mỏ, khu khai thác
LN bị
Mức độ suy thoái
phá (ha)
Khu khai thác antimoan Mậu
25
Đất rừng bị đào phá và bỏ hoang
2
3
4
5
6
7
Duệ (Hà Giang)
Khai thác vàng antimoan Chiêm
Hóa
Khu khai thác mangan Chiên
Hóa (Tuyên Quang)
Khu khai thác thiếc Bắc Lùng
(Thái Nguyên)
Khu khai thác barit Ao Sen.
Thượng âm
Khai thác wonfram Thiện Kế
8
Khu khai thác than ở Thái
Nguyên
Các mỏ ở Bắc Cạn-Thái Nguyên
9
Khai thác vàng
>720
2
25
671
960
114,5
10 Khai thác đá
11 Khu khai thác Quỳ Hợp, Nghệ
An
12 Khu khai thác Quý Châu
91
85
200
hóa
Thu hẹp RTN và rừng trồng. Đất
rừng bị đào phá, xáo trộn
Đất đồi bị đào phá, hoang hóa
Thu hẹp rùng nguyên sinh, đất
đồi bị đào phá
Đát rừng bị thu hẹp và đất đồi bị
đào phá
Rừng tự nhiên bị thu hẹp và đồi
hoang bị đào phá
Đất rừng bị thu hẹp để làm khai
trường và bãi thải
Rùng và đất rừng bị thu hẹp để
làm khai trường và bãi thải
Sử dụng đất rùng làm khai
trường và bãi thải cát và đá bừa
bái
Đất rùng bị thu hẹp do mở rộng
khai trường
Rừng tự nhiên, rừng trồng bị
phá, đât rừng bị đào bới
Rừng tự nhiên, rừng trồng bị
phá, đât rừng bị đào bới
Nguồn bảng : Nguyễn Đức Quý,1996
Bãi thải, thải các chất thải rắn như cát, đá, sỏi, bùn ra đất nông nghiệp, thải nước
từ các hệ tuyển làm ô nhiễm đất nông nghiệp và giảm sút năng suất cây trồng(Bảng 2).
Bảng 2. Mức độ ô nhiễm đất nông nghiệp do khai thác mỏ
TT Tên mỏ, khu khai thác
1 Mỏ than núi Hồng
2
3
4
Diện tích (ha)
Mức độ ôi nhiễm
274
Chiếm dụng đất làm khai trường, bãi
thải và thải nước thải làm ôi nhiễm đất
nông nghiệp
Mỏ than Khánh Hòa
100
Chiếm dụng đất làm khai trường, bãi
thải và thải nước thải làm ôi nhiễm đất
nông nghiệp
Các mỏ vàng Bắc Thái
114.5
Chiếm dụng đất làm khai trường, bãi
thải, đổi chất thải làm ôi nhiễm đất
Các mỏ ở Huyện Quỳ
145
Đất nông nghiệp bị ôi nhiễm đo lẵng
Hợp
bùn cát
29
Thiếu nước suy giảm năng suất
5
Các mỏ ở huyện Quỳ
Câu
193,8
Đất nông nghiệp bị đào bới, bỏ hoang
và thiếu nước
Nguồn bảng : Nguyễn Đức Quý,1996
Do đặc thù của khai thác mỏ là một hoạt động công nghiệp không giống các hoạt
động công nghiệp khác về nhiều mặt, như phải di dời một khối lượng lớn đất đá ra
khỏi lòng đất tạo nên một khoảng trống rất lớn và rất sâu. Một khối lượng lớn chất thải
rắn được hình thành do những vật liệu có ích thường chỉ chiếm một phần nhỏ của khối
lượng quặng được khai thác, dẫn đến khối lượng đất đá thải vượt khối lượng quặng
nằm trong lòng đất. Chất thải rắn, không sử dụng được cho các mục đích khác, đã tạo
nên trên bề mặt đấtđịa hình mấp mô, xen kẽ giữa các hố sâu và các đống đất, đá. Đặc
biệt ở những khu vực khai thác "thổ phỉ", tình hình còn khó khăn hơn nhiều. Một số
diện tích đất xung quanh các bãi thải quặng có thể bị bồi lấp do sạt lở, xói mòn của đất
đá từ các bãi thải, gây thoái hoá lớp đất mặt. Việc đổ bỏ đất đá thải tạo tiền đề cho
mưa lũ bồi lấp các sông suối, các thung lũng và đồng ruộng phía chân bãi thải và các
khu vực lân cận. Khi có mưa lớn thường gây ra các dòng bùn di chuyển xuống vùng
thấp, vùng đất canh tác, gây tác hại tới hoa màu, ruộng vườn, nhà cửa, vào mùa mưa lũ
thường gây ra lũ bùn đá, gây thiệt hại tới môi trường kinh tế và môi trường xã hội.
Đất đai bị móc ruột biến dạng
Ruộng vườn của người dân biến thành hố
( huyện Trảng Bom - Đồng Nai)
bom, ao hồ
( huyện Trảng Bom _ Đồng Nai”)
Bã xít thải tại khai trường mỏ Cao Sơn
( Quảng Ninh )
Quá trình đào xới, vận chuyển đất đá và quặng làm địa hình khu khai trường bị
hạ thấp, ngược lại, quá trình đổ chất thải rắn làm địa hình bãi thải tâng cao. Những
thay đổi này sẽ dẫn đến những biến đổi về điều kiện thuỷ văn, các yếu tố của dòng
chảy trong khu mỏ như: thay đổi khả năng thu, thoát nước, hướng và vận tốc dòng
chảy mặt, chế độ thuỷ văn của các dòng chảy như mực nước, lưu lượng, v.v.... Sự tích
tụ chất thải rắn do tuyển rửa quặng trong các lòng hồ, kênh mương tưới tiêu có thể làm
thay đổi lưu lượng dòng chảy, dung tích chứa nước, biến đổi chất lượng nguồn nước .
Các đống cuội, đá thải trong quá trình khai thác vàng, khai thác cát từ lòng sông
đã ngăn cản, làm thay đổi dòng chảy, gây sự xói lở đất bờ sông, đê điều, gây úng lụt
cục bộ.
Khai thác cát trái phép
Một đoạn đê sông Hà Thanh bị sạt lở
(Tuy Phước- Bình Định)
do nạn khai thác cát trái phép
(Tuy Phước- Bình Định)
Cát sỏi sau khai thác đùn ngay
Việc khai thác cát vô tội vạ đã làm nhiều
giữa lòng sông ( Quỳ Châu- Nghệ An)
diện tích đất ven sông Ba sạt lở ( Gia lai)
Tóm lại: Các hoạt động khai thác khoáng sản đã gây ra nhiềui tác động xấu
đến môi trường xung quanh, nhưng có thể nói gọn lại trong một số tác động chính như
sau: sử dụng chưa thực sự có hiệu quả các nguồn khoáng sản tự nhiên; tác động đến
cảnh quan và hình thái môi trường; tích tụ hoặc phát tán chất thải rắn; làm ảnh
hưởng đến nguồn nước, ô nhiễm nước, ô nhiễm không khí, ô nhiễm đất; làm ảnh
hưởng đến đa dạng sinh học; gây tiếng ồn và chấn động; sự cố môi trường; tác động
đến công nghiệp nói chung; tác động đến kinh tế - xã hội; gây ảnh hưởng đến sức
khoẻ và an toàn của người lao động
Nhằm hạn chế tình trạng gây ô nhiễm môi trường do hoạt động khai thác khoáng
sản cần phải đầu tư công nghệ tiến tiến nhằm hạn chế tối đa việc gây ô nhiễm môi
trường trên nguyên tắc lấy phòng ngừa là chính bởi lẽ chi phí ban đầu để đầu tư cho
công nghệ khai thác có thể tốn kém nhưng nó sẽ không tốn kém bằng việc phải xử lý ô
nhiễm tại các khu mỏ.
Từ việc đánh giá mức độ ô nhiễm và nguyên nhân gây ra các sự cố môi trường
đối với môi trường nước trong các khu khai khoáng nêu trên, có thể nhận thấy rằng
nguồn gây ô nhiễm nước ở các khu mỏ gồm: Nước mưa chảy tràn qua khu mỏ, nước
ngấm từ các bãi thải rắn; nước tháo khô mỏ; nước thải do tuyển khoáng. Các mỏ cần
có hệ thống xử lý các nguồn gây ô nhiễm nói trên theo các sơ đồ công nghệ như sau:
-
Đối với nguồn nước chảy tràn qua khu mỏ và nước ngầm từ bãi chứa chất thải rắn:
Xung quanh khu mỏ và bãi chứa chất thải rắn cần xây dựng hệ thống mương thu gom
nước dẫn về hồ chứa nước. Tại đây nước thải được xử lý bằng phương pháp hóa học
(thông thường dùng bột vôi để trung hòa), sau đó kiểm tra độ pH và một số ion kim
-
loại đạt tiêu chuẩn cho phép mới được đổ thải ra môi trường.
Đối với nước tháo khô mỏ: Sau khi bơm tập trung vào hồ chứa để lắng sơ bộ, một
phần được bơm trở lại phục vụ sản xuất của mỏ (tuyển quặng, tưới ẩm, ), phần còn lại
bơm lên bể xử lý bằng phương pháp hóa học và sinh học làm nguồn nước cung cấp
cho nhu cầu sinh hoạt của khu mỏ.
Vấn đề đang được rất nhiều các nhà khoa học quan tâm hiện nay trong việc xử lý
ô nhiễm kim loại nặng tại các vùng khai thác khoáng sản là sử dụng khả năng tích lũy
kim loại nặng của thực vật. Có thể nói đây là một giải pháp rất có tính khả thi, thân
thiện về môi trường bởi lẽ giải pháp này vừa có tác dụng làm di chuyển các nguyên tố
kim loại nặng trong đất vào sinh khối thực vật, vừa có tác dụng làm tăng vốn dự trữ tài
nguyên (tài nguyên rừng) và hấp thụ khi nhà kính, cải tạo các tính chất của đất. Có thể
nói đây là một giải pháp rất được các nhà khoa học hiên nay quan tâm, tuy nhiên việc
lựa chọn loài cây nào là cả một vấn đề cần phải nghiên cứu. Các loài cây được sử dụng
vừa phải đảm bảo có khả năng tích tụ cao các kim loại nặng đồng thời phải có giá trị
kinh tế, cải tạo đất. Đó là một hướng nghiên cứu rất mới hiện đang đuợc các nhà khoa
học quan tâm.
Tập đoàn TKV cũng đã có quỹ dành riêng cho bảo vệ môi trường, trong đó có
việc trồng cỏ Vertiver tại các khu hoàn nguyên đất. Giải pháp này đã được thực hiện ở
một số mỏ như Núi Béo, Hà Tu và bước đầu cho kết quả khích lệ