Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Tiểu Luận Giới Thiệu về Bát Tràng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (922.36 KB, 20 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
Thăng Long - Hà Nội là mảnh đất có một nền văn hoá lâu đời, nơi đây còn
nổi tiếng với những làng nghề thủ công mỹ nghệ bởi những bàn tay tài hoa
của những bậc nghệ nhân từ cổ chí kim. Các sản phẩm tài hoa của Thăng
Long không những nổi tiếng trong nước mà còn, bay cao bay xa trên thị
trường quốc tế. Trong vòng xoáy của nhịp sống mới, có những làng nghề ở Hà
Nội chỉ còn tồn tại trong thơ ca, nhạc hoạ và trong ký ức của người Hà Nội.
Nhưng, cũng có những làng nghề truyền thống còn tồn tại và đang cố gắng
tìm những lối đi mới. Một trong số đó là làng nghề Bát Tràng.
Hiện nay mọi hoạt động của đất nước ta đều được khuyến khích mở rộng để
hội nhập kinh tế quốc tế. Ngành du lịch của nước ta đặc biệt là du lịch làng
nghề truyền thống cũng không ngừng phát triển và tiềm năng du lịch của làng
gốm Bát Tràng là rất lớn: với những nét độc đáo trong thiết kế và chế tạo mỗi
sản phẩm, rồi cuộc sống của người dân làng gốm và những giá trị lịch sử…
nhìn từ góc độ Tồn tại xã hội, Kiến trúc thượng tầng, là những nét đẹp và là
cơ sở thu hút khách tham quan hiện nay. Chính từ những đặc điểm đó đã thu
hút em tìm hiểu và nghiên cứu đề tài “ Giới thiệu làng nghề Bát Tràng ở
nước ta nhìn từ góc độ Triết học và đưa ra bình luận”.
Đề tài của em chia thành 4 chương:
Chương I : Vài nét nổi bật về làng gốm Bát Tràng
Chương II: Giới thiệu Bát Tràng từ góc độ Tồn tại xã hội
Chương III: Giới thiệu Bát Tràng từ góc độ Kiến trúc thượng tầng
Chương IV: Vấn đề ô nhiễm môi trường ở Bát Tràng.

1


CHƯƠNG I : VÀI NÉT NỔI BẬT VỀ LÀNG GỐM BÁT TRÀNG.
Làng gốm đã trải qua trên năm thế kỷ với nhiều thành tựu rất đáng tự
hào, đó là bệ đỡ vững chắc để Bát Tràng hôm nay ngày càng tiến nhanh hơn.
Bát Tràng nằm cách thủ đô Hà Nội trên 10km về phía Đông Nam, bên tả ngạn


sông Hồng, trước đây thuộc tỉnh Bắc Ninh nay thuộc huyện Gia Lâm, Hà Nội.
Nghề gốm xuất hiện ở Bát Tràng vào thế kỷ XV. Thợ thủ công ở đây đã làm
sản xuất hầu hết các loài gốm quý và độc đáo của Việt Nam: gốm men ngọc,
gốm men rạn, gốm hoa lam.
Các bộ sưu tập gốm sứ Bát Tràng cho thấy chúng đã đạt tới đỉnh cao của nghệ
thuật và kỹ thuật chế tạo đồ gốm sứ ở Việt Nam.
( Nguồn langngheviet.net )
Gốm Bát Tràng là tên gọi chung cho các loại đồ gốm được sản xuất tại làng.
Theo nghĩa Hán Việt, chữ Bát nghĩa là chén bát, đồ gốm và chữ Tràng (hay
Trường) là chỗ đất dành riêng cho chuyên môn.
Thành tựu đạt được của làng gốm Bát Tràng:
Trước đây người dân Bát Tràng làm và tiêu dùng sản phẩm của mình theo hộ
gia đình thì ngày nay ở Bát Tràng nhiều gia đình đã ứng dụng công nghệ
thong tin vào sản xuất mở các trang Web trên mạng Internet để mở rộng
quảng bá sản phẩm của mình. Việc lập các trang Web đã giúp họ chủ động
triển khai thông tin kiếm khách hàng, lượng khách hàng vì thế mà tăng lên
đáng kể, đặc biệt là khách quốc tế. Sản phẩm gốm Bát Tràng đã được xuất
khẩu sang nhiều nước như Hàn Quốc, Singapore, Nhật, Pháp...và được các
nước bạn tin dùng.
Vốn quý đó của Bát Tràng cũng là một nguồn tài nguyên rất có giá trị đối với
hoạt động kinh doanh du lịch.

2


CHƯƠNG II. GIỚI THIỆU BÁT TRÀNG TỪ GÓC ĐỘ TỒN TẠI
XÃ HỘI.
I. Phương thức sản xuất
1. Tư liệu sản xuất:
Làng nghề Bát Tràng nổi tiếng với đồ gốm đa dạng và phong phú. Hầu

hết, đồ gốm Bát Tràng được sản xuất theo lối thủ công, thể hiện rõ
rệt tài năng sáng tạo của người thợ lưu truyền qua nhiều thế hệ. Do
tính chất của các nguồn nguyên liệu tạo cốt gốm và việc tạo dáng đều
làm bằng tay trên bàn xoay, cùng với việc sử dụng các loại men khai
thác trong nước theo kinh nghiệm nên đồ gốm Bát Tràng có nét riêng là cốt
đầy, chắc và khá nặng, lớp men trắng thường ngả mầu ngà, đục.
Bát Tràng cũng là làng gốm có các dòng men riêng từ loại men xanh rêu
cùng với nâu và trắng cho đến men rạn với cốt gốm xốp có màu xám nâu.

(luuxuanthuy.com.vn)

3


Men xanh rêu:
Thế kỷ 14-19 men xanh rêu được dùng khá nổi trội cùng với men trắng ngà và
nâu. Men xanh rêu, men ngà và nâu tạo ra loại Tam thái riêng của gốm Bát
Tràng thế kỷ 16-17. Men xanh rêu xuất hiện mang ý nghĩa rất lớn có thể xem
đây là một dữ kiện đoán định niên đại khá chắc chắn cho các đồ gốm Bát
Tràng trên nhiều loại hình khác nhau.
Men rạn:

Đây là một loại men độc đáo tạo ra sự chênh lệch về độ co giữa xương gốm và
men. Men rạn có sắc ngà xám các vết rạn chạy dọc và ngang chia ra nhiều
hình tam giác, tứ giác.
Gốm Bát Tràng nhiều trường hợp có minh văn, thể hiện bằng khắc chìm hay
viết bằng men lam dưới men trắng. Có rất nhiều sản phẩm có minh văn được
trưng bày tại các bảo tang, một số khác vẫn còn lưu lạc ở nhiều nơi và dưới
lòng đất.


4


Gốm Bát Tràng, men lam bồng
2. Người lao động:
Những người thợ gồm Bát Tràng hiện nay được kế thừa đầy đủ nhất những bí
quyết, những nét tinh hoa của ông cha để lại. Họ được sự hỗ trợ của khoa học
kỹ thuật mới, họ được xã hội qúy trọng và nâng đỡ trên nhiều mặt để phát huy
hết những khả năng của mình.
“Gốm Bát Tràng ngày nay đã được phát triển thành cả xã và cả một vùng,
gần chục nghìn gia đình đang chuyên sống bằng nghề gốm và phục vụ cho

5


nghề gốm. Mỗi buổi sáng hàng vạn lao động ở khắp vùng đến làm việc tại các
xưởng gốm Bát Tràng, Kim Lan, Giang Cao,Xuân Quan... Không khí lao
động thật nhộn nhịp, vui vẻ.
Do đất chật người đông, gốm Bát Tràng phải đưa một số xưởng gốm hiện đại
tới Hưng Yên, Quảng Ninh... để sản xuất, những xưởng này cũng thu hút, tạo
công ăn việc làm cho hàng trăm lao động địa phương ”
( Theo Báo điện tử Hanoi.org.vn )
Tại Bát Tràng có rất nhiều thợ thủ công tâm huyết với nghề và được sở Văn
hóa và Thông tin Hà Nội ban tặng và trao tặng danh hiệu “ Nghệ nhân Hà Nội
” thông qua các cuộc thi :
“ Nghệ nhân Trần Độ :
Phục chế gốm cổ Thăng Long, gốm men nâu đời Trần và sáng chế nhiều bài
men đẹp, độc đáo. Đây cũng là nghệ nhân nổi tiếng nhất của làng gốm Bát
Tràng, lò gốm của ông đã từng được đón tiếp nhiều nhà lãnh đạo Việt Nam
ghé thăm: Trần Đức Lương, Trương Mỹ Hoa, Nguyễn Phú Trọng…

Nghệ nhân Vương Mạnh Tuấn:
Chuyên sâu về lĩnh vực phục chế gốm cổ ( bình gốm men rạn truyền thống
đắp nồi hoa, phù điêu theo các tích cổ ).
Nghệ nhân Tô Thanh Sơn:
Phục chế gốm men Lam thời Nguyễn, pha chế thành công men rạn hiện đại.
Nghệ nhân Nguyễn Văn Hưng:
Nổi tiếng với tài năng vẽ. Ông cũng là con của nghệ nhân Nguyễn Văn Cổn một trong số ít ỏi nghệ nhân của làng gốm Bát Tràng xưa.
Nghệ nhân Lê Minh Châu:
Chuyên sâu về các loại bình lọ hoa cỡ lớn. Con trai ông, anh Lê Minh Ngọc
cho ra đời chiếc độc bình cao nhất Việt Nam (3,2 mét) , chiếc lọ trên nhiều

6


lần được trưng bày tại các cuộc triển lãm gốm sứ Bát Tràng tại Văn Miếu Hà
Nội, Vân Hồ, chợ gốm bát Tràng...
Nghệ nhân Nguyễn Lợi và nghệ nhân Phạm Thị Châu:
Cả hai người đều cùng tốt nghiệp Đại học Mỹ thuật Công Nghiệp Hà Nội.
Đây là cặp vợ chồng duy nhất tại làng Bát Tràng mà cả hai vợ chồng đều
được công nhận danh hiệu “ Nghệ nhân Hà Nội.
Nghệ nhân Trần Hợp
Nổi tiếng với 2 nước men Kết tinh và Huyết dụ.
Nghệ nhân Nguyễn Khang:
Chuyên sâu về tranh sứ và tranh gốm. Khoang Oanh là thương hiệu nổi trong
thị trường tranh sứ Bát Tràng.
( Theo battrang.info)
3.Sản phẩm và thị trường
Không chỉ là vẻ đẹp được tô điểm bằng câu chữ hoa mĩ trên giấy, nét đẹp
của sản phẩm Bát Tràng là vẻ đẹp tinh xảo thể hiện trên từng chi tiết, đường
nét từ khi chỉ là vật liệu thô cho đến khi thành sản phẩm đến tay người tiêu

dung.Gạch Bát Tràng có độ rắn chắc cao, chất lượng tốt thường được ưa dùng
dùng xây nhà , lát sân, xây mộ, xây giếng..
Từ xưa, dân Bát Tràng đã sống và phát triển bằng nghề gốm sứ. Đất sét để
làm đồ gốm, người Bát Tràng phải mua từ làng Cổ Điển bên Vĩnh Phú, hoặc
mua từ làng Dâu bên Bắc Ninh. Hàng gốm Bát Tràng thời kỳ đầu là đồ gốm
trắng, mãi sau mới chuyển sang làm đồ đàn – là loại gốm "xương" đỏ, miệng
loe, mỏng và thấp. Nghĩa là người thợ làm "xương" gốm bằng đất đỏ, rồi mới
lót một lượt đất trắng mỏng ra ngoài. Trong những thế kỷ trước, gốm Bát
Tràng chủ yếu là đồ thờ. Về sau gốm Bát Tràng đã có nhiều đồ gia dụng, phổ
biến nhất là bát, đĩa, bình, lọ, ấm chén.

7


Sau dần, gốm Bát Tràng đã có khá nhiều mặt hàng phong phú về chủng loại
và kiểu dáng, bao gồm cả những mặt hàng mỹ nghệ như đĩa treo tường, lọ
hoa, con giống, tượng phiên bản và phù điêu với kỹ thuật và công nghệ cao.
Ngoài ra, các đồ thờ tự và các đồ cho trang trí nội, ngoại thất : độc bình, lư,
đỉnh, đèn thờ, các bộ tượng tam đa, tam thánh, chậu hoa, con giống, gạch
trang trí cao cấp... cũng là những mắt hàng thông dụng trong làng gốm Bát
Tràng.
Từ khi những sản phẩm của làng gốm Bát Tràng ra đời đã được các bậc
vương giả quyền quý ở kinh thành Thăng Long cho đến nông phu chân lấm
tay bùn ở thôn quê đều ưa chuộng. Không những thế, nhiều đồ gia dụng
thường ngày ở Bát Tràng còn vượt ra biên giới đất Việt. Từ thế kỷ XV, đồ
gốm Bát Tràng có mặt trong lễ vật triều cống cho các hoàng đế Trung Hoa-nơi
có truyền thống làm gốm sứ từ hàng ngàn năm trước và nổi tiếng khắp thế
giới. Từ đó về sau, thời đại nào, dù suy hay thịnh, thì làng gốm Bát Tràng vẫn

8



khẳng định giá trị hàng hóa của mình, nghề gốm vẫn trụ vững và vượt qua
mọi thử thách. Theo các nghệ nhân của làng, đề tài phổ biến của các sản phẩm
gốm Bát Tràng là hình rồng, phượng, câu thơ đối, hoa văn, cảnh người, cảnh
hoa, cảnh thiên nhiên...đều phản ánh đời sống tâm linh và triết lý của con
người Việt Nam.

Bức tứ quý
Sản phẩm gốm sứ Bát Tràng không những nổi tiếng trong cả nước mà còn
được xuất khẩu sang nhiều nước trên thế giới từ năm 1990 như Nhật Bản, Hàn
Quốc, Mỹ và các nước trong khối EU. Nhiều sản phẩm gốm cổ Bát Tràng
đang được lưu trữ tại một số viện bảo tàng lớn trên thế giới như Viện bảo tàng
Royaux-Bỉ, Viện bảo tàng Guimet-Pháp.
Sự phát triển của làng gốm Bát Tràng còn giải quyết được vấn đề thất nghiệp,
tình trạng thiếu việc làm.

9


II. Dân số và Hoàn cảnh địa lý:
Làng gốm sứ Bát Tràng - ngôi làng cổ khoảng 500 tuổi nằm cách thủ đô
Hà Nội khoảng 10km về phía Ðông Nam, bên tả ngạn sông Hồng, trước đây
thuộc tỉnh Bắc Ninh nay thuộc huyện Gia Lâm, ngoại thành Hà Nội. Vùng đất
này có đất sét trắng-một nguyên liệu tốt để cho ra những sản phẩm gốm có
chất lượng cao và thuận lợi cho việc giao thong, chuyên chở, trao đổi hàng
hóa.
Có nhiều giá thuyết về sự ra đời của làng gốm Bát Tràng, trong đó có một giả
thuyết đáng được quan tâm là Làng gốm Bát Tràng được hình thành từ thời
hậu Lê, từ sự liên kết chặt chẽ giữa 5 dòng họ làm gốm nổi tiếng của làng Bồ

Bát như Trần, Vương, Nguyễn, Lê, Phạm với họ Nguyễn (Nguyễn Ninh
Tràng) ở đất Minh Tràng.
Gia phả một số dòng họ ở Bát Tràng như họ Trịnh, Lê, Vương, Phạm,
Nguyễn…ghi nhận rằng, tổ tiên xưa Bồ Bát di cư ra đây (Bồ Bát là Bồ Xuyên
và Bạch Bát). Vào thời hậu Lê và đầu thời Nguyễn, xã Bồ Xuyên và trang
Bạch Bát thuộc tổng Bạch Bát, huyện Yên Mô, phủ Trường Yên, trấn Thanh
Hóa ngoại. Ngày nay, Bồ Xuyên và Bạch Bát là hai thôn của xã Yên Thành,
huyện Tam Điệp, tỉnh Ninh Bình. Theo truyền thuyết và gia phả một số dòng
họ như họ Vũ ở Bồ Xuyên, cư dân Bồ Bát chuyên làm nghề gốm từ lâu đời.
Điều này đã được xác nhận qua dấu tích của lớp đất nung và mảnh gốm nằm
dày đặc ở nhiều nơi trong vùng.
Từ khi vua Lý Thái Tổ dời đô về Thăng Long (năm 1010), Thăng Long trở
thành trung tâm chính trị của nước Đại Việt. Một số thợ gốm Bồ Bát cũng đã
di cư ra đây cùng họ Nguyễn Ninh Tràng lập lò gốm, gọi là Bạch Thổ phường
(phường Đất Trắng). Những đợt di cư tiếp theo đã biến Bát Tràng từ một làng
gốm bình thường trở thành một trung tâm gốm nổi tiếng, được triều đình chọn
là nơi cung cấp cống phẩm cho nhà Minh lúc bấy giờ.
10


Cặp hũ có nắp, men rạn và lam, TK19

( Nguồn

battrang.info)
Cuộc sống lao động sản xuất thương mại ở đây, từ bao đời vẫn luôn sôi
động. Các sản phẩm bình, bát, đĩa, đôn, chậu, thống, chân đèn… cùng những
tinh hoa đúc kết qua lao động của biết bao thế hệ người con Bát Tràng đã góp
phần tạo nên sự đa dạng phong phú của nền văn hóa nước ta và làm nên một
làng nghề được lưu danh đó là Làng gốm Bát Tràng.


11


Sự phát triển sản xuất nhanh chóng tại đây không chỉ tạo đủ việc làm cho
người dân địa phương mà còn thu hút khoảng 3.000 - 5.000 lao động ở những
khu vực lân cận đến làm việc với mức lương 700.000 - 1.000.000 đồng/tháng.
Cho đến nay hơn 80% người dân trong làng nghề Bát Tràng đã sinh sống lâu
đời bằng nghề sản xuất gốm sứ, với “ tổng kim ngạch xuất khẩu hàng năm lên
tới 40 triệu USD ”
( Báo điện tử Đảng Cộng Sản Việt Nam )
CHƯƠNG III: GIỚI THIỆU BÁT TRÀNG TỪ GÓC ĐỘ KIẾN TRÚC
THƯỢNG TẦNG.
I. Truyền thống nghề nghiệp:
Đến thăm làng gốm Bát Tràng hôm nay, khách hàng có thể nhận thấy rất rõ sự
nhạy bén của những người thợ gốm, họ đã làm mới mình để hoà nhập vào
cuộc sống hiện đại. Hiện nay, những sản phẩm như lọ hoa, ấm chén...của Bát
Tràng được làm thủ công với những mẫu men cổ truyền như trắng, xanh tím,
hoa văn thô sơ đã nhường chỗ cho những sản phẩm đẹp mang tính nghệ thuật
cao, phong phú về chủng loại và đa dạng về kiểu dáng. Đến chợ gốm Bát
Tràng, du khách không chỉ mua bán mà còn được người dân nơi đây giới thiệu
công nghệ tinh xảo của sản phẩm làng gốm. Chợ gốm Bát Tràng còn là một
điểm du lịch rất thu hút du khách, từ thanh thiếu niên cho đến khách nước
ngoài, nhất là vào dịp cuối tuần. Đến đây du khách có thể thoả thích ngắm
nhìn, sờ tận tay những sản phẩm gốm thuần Bát Tràng. Từ những loại bình lọ,
bát... kiểu dáng và màu sắc đương đại đến những loại chén đĩa cổ được phục
chế, các bộ tranh, tượng nghệ thuật từ chất liệu gốm. Không chỉ được tự do
xem hàng, du khách còn được chủ hàng giới thiệu các công đoạn sản xuất của
mẫu hàng, cách vẽ hoa văn, tô màu, phối màu men, đồng thời có thể tự tay
12



nặn các sản phẩm cho mình, tự vẽ hoa văn trang trí theo ý thích. Chị Hoàng
Thu Hương, một chủ hàng cho biết: “Các hộ gia đình đưa sản phẩm ra chợ
gốm mục đích chính là giới thiệu sản phẩm truyền thống tới khách thập
phương, không đặt yếu tố kinh doanh lên hàng đầu”.

(Nguồn battrang.info)
Có lẽ cũng chính vì thế, chợ gốm đã đưa du khách gần gũi hơn với sản phẩm
gốm và người thợ. Các sản phẩm của bà con đưa ra chợ gốm đều có chất
lượng cao, giá cả hợp lý. Hầu hết họ đều mong muốn các sản phẩm của mình
sẽ được du khách yêu thích và tạo được chỗ đứng vững chắc trên thị trường.
Không những vậy, đến Bát Tràng, du khách bất ngờ khi thấy những mặt hàng
như cốc tình yêu, hộp hình trái tim, những quả cầu được trang trí ngộ nghĩnh,
đến những chiếc thắt lưng, vòng cổ, vòng tay... được làm từ gốm. Những đồ
xinh xắn đó rất thích hợp và dễ dàng cho bạn mang về làm quà tặng. Có lẽ
những nghệ nhân xưa không bao giờ nghĩ chúng sẽ xuất hiện trên kệ hàng của
mình, nhưng chúng lại là những sản phẩm thu hút đông đảo du khách, nhất là
13


giới trẻ. Không chỉ đa dạng các sản phẩm, du khách đến đây còn được xả
stress với các trò ném đồ sứ hỏng, hay dạo quanh làng trên xe trâu…

II. Truyền thống văn hóa
Trước đây, Bát Tràng vào đám từ ngày 15 đến ngày 22 tháng hai âm
lịch.Nay đã được rút gọn, thường chỉ diễn ra vào hai ngày 15, 16 tháng hai âm
lịch. Trước Tết, vào ngày 25 tháng Chạp, làng đem lễ vật đến làng Đuốc (làng
kết chạ với Bát Tràng) xin chặt tre làm cây nêu. Ngày 7 tháng Giêng làm lễ hạ
nêu. Cây tre làm nêu được dùng để chẻ tăm, vót đũa. Trước khi vào đám độ

10 ngày, làng tổ chức lễ rước nước từ sông Hồng để bao sái bài vị thần ở ngôi
miếu bên sông. Sau đó dân làng rước bài vị thần ra đình tế lễ. Khi tế, các họ
được rước Tổ của mình ra phối hưởng. Họ Nguyễn Ninh Tràng (họ đầu tiên
đến làng Bát Tràng) được rước bát hương có lọng che vàng đi ở giữa. Các họ
khác rước bát hương có lọng che xanh đi né sang hai bên. Khi tế, chỉ có các vị
khoa mục (những người đỗ đạt) mới được vào đình, còn các hào mục (những
chức dịch trong làng) đứng ngoài hầu lễ. Bát Tràng còn lệ giữ nghiêm ngôi
thứ. Tại đình trải 4 chiếu cạp điều. Có chiếu dành cho các vị đậu tiến sĩ, có
chiếu dành cho võ quan được phong tước công, có chiếu dành cho các cụ thọ
từ 100 tuổi trở lên. Có năm không đủ người, chiếu nào trống thì làng đặt một
cây đèn, chai rượu, đĩa trầu cau vào giữa chiếu để thờ vọng. Hằng năm vào
ngày Rằm tháng hai, ngày đầu tiên vào đám, làng biện lễ cúng Thành hoàng
gồm một con trâu tơ thật béo, thui vàng rồi đặt lên một chiếc bàn lớn sơn son,
kèm theo 6 mâm cỗ và 4 mâm xôi. Tế xong, các quan viên chức sắc, đại diện
20 dòng họ cùng thụ lộc.Hội Bát Tràng có nhiều trò diễn, độc đáo nhất là trò
chơi cờ người và hát thờ. Theo lệ, trước hội, làng chọn lấy 2 bà tướng cờ là
những người phẩm hạnh, giàu có nhất trong làng. Mỗi bà tướng nhận 16 thiếu
14


nữ tuổi từ 10 đến 15 xinh đẹp, nết na nuôi ăn uống và may cho áo quần thật
đẹp. Các cô được rèn tập làm quân cờ trong một tháng mới được ra biểu diễn
thi đấu ở sân đình.
CHƯƠNG IV: VẤN ĐỀ Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG Ở BÁT TRÀNG
I. Thực trạng:
“ Bát Tràng có 1647 hộ thì có tới 99% hộ sản xuất và buôn bán gốm sứ. Cả
xã có 1400 lò nung thủ công nhiên liệu chủ yếu là than bùn. Đây là nguyên
nhân trực tiếp gây ra ô nhiễm môi trường ở Bát Tràng. Mỗi năm Bát Tràng
tiêu thụ hết 45000 tấn than, 6000 tấn củi và 166 tấn rơm rạ để nung đốt trong
sản xuất. Theo tính toán của UBND xã nguyên số lượng rơi vãi các vật liệu,

than bụi tro bay theo khói cũng đã lên tới 626,82 tấn/năm. Tức 1,74 tấn một
ngày đêm. Số phế thải xỉ và tro mỗi năm cũng gần 9000 tấn cộng với
36.900.000 m3 khí CO và CO2; 314,832 m3 khí SO2…thực là một quả bom dội
xuống một làng mà diện tich không quá 164 ha”
( Theo thời báo Kinh tế Việt Nam, số 9, trang 9 )
Không chỉ có khí thải mà rác thải sinh hoạt, rác thải công nghiệp cũng là một
trong những nguyên nhân trực tiếp: “Nồng độ trung bình các khí thải độc hại
ở Bát Tràng lớn hơn tiêu chuẩn cho phép từ 1,5 đến 1,8 lần. Phế thải rắn (chủ
yếu là than xỉ chỉ được tái chế khoảng 30% còn lại các doanh nghiệp đổ
xuống đơn vị của mình, các gia đình đổ gần 18.000m3 xuống sông Hồng”
(Theo thời báo Kinh tế Việt Nam, số 9, trang 9).
Việc ô nhiễm có thể do nhiều nguyên nhân khác nhau gây ra và một
nguyên nhân cũng có thể sinh ra nhiều kết quả, thế nhưng với Bát Tràng, sự ô
nhiễm không khí từ các lò thủ công chỉ là nguyên nhân bên ngoài, nguyên
nhân bên trong vẫn là ý thức của người dân.
15


Thực trạng và nguyên nhân của sự ô nhiễm là vậy! Chúng ta hãy xem nó ảnh
hưởng như thế nào đến sinh hoạt của người dân nơi đây.

II. Ảnh hưởng:
Sống trong một môi trường ô nhiễm khói, bụi, than những người dân Bát
Tràng nơi đây đang hàng ngày tiếp xúc trực tiếp hay gián tiếp nhiều hay ít đều
mắc những bệnh về đường hô hấp, ung thư, viêm phế quản, viêm phổi (ở trẻ
em), viêm phụ khoa (ở phụ nữ). Tuổi thọ trung bình ở Bát Tràng cũng vì thế
mà giảm đi. “Theo ông chủ tịch xã cho biết tỉ lệ những người mắc bệnh nan y
như ung thư và hô hấp…mấy năm qua đã tăng rất mạnh. Trong đợt khám
bệnh gần đây có 311 người trên 5 tuổi được kiểm tra thì có 35% số người
mắc bệnh về đường hô hấp, 14,43% mắc bệnh tiêu hóa. Còn ở trẻ em dưới 5

tuổi thì tỉ lệ này là 73,3% và 8,54% trong số 199 cháu được khám”
(Theo thời báo Kinh Tế Việt Nam, số 9, trang 9).
III. Giải pháp :
1. Đầu tư thay thế bằng lò gas:
Lò nung gas có thể điều chỉnh nhiệt độ, như thế có thể sản xuất ra các sản
phẩm phục vụ cho xuất khẩu. Điều quan trọng hơn nó sẽ giảm được đến mức
thấp nhất vấn đề ô nhiễm môi trường.
2. Quy hoạch lại làng nghề:
Có lẽ đây là giải pháp hữu hiệu nhất nhằm thay đổi sự ô nhiễm môi trường ở
Bát Tràng: “tách khu dân cư ra khỏi khu sản xuất”, “sẽ cần có một khu sản
xuất khép kín” vấn đề này cần có sự kết hợp giữa Nhà nước và nhân dân,
nhằm ổn định sản xuất vừa xây dựng quy hoạch mới. Cùng với đó cần nâng
cao dân trí cho dân làng nghề để họ hiểu được những tác hại của việc suy
giảm chất lượng môi trường sống do hoạt động sản xuất, qua đó họ sẽ có ý
16


thức bảo vệ môi trường làng nghề. Vẫn biết rằng công việc này không phải
một sớm một chiều nhưng hy vọng trong một tương lai không xa “ Bát Tràng
sẽ có một bầu không khí trong ,một làng nghề truyền thống, một làng nghề Du
Lịch” mang đậm những nét văn hóa của người dân đất Việt.

PHẦN KẾT LUẬN

Qua việc nghiên cứu đề tài “ Giới thiệu làng nghề Bát Tràng ở nước ta”
chúng ta đã hiểu biết rõ hơn về sinh hoạt vật chất, điều kiện vật chất, truyền
thống của con người ở đây và thấy tự hào hơn vì đất nước chúng ta có những
làng nghề truyền thống đang được giữ gìn và phát triển.
Bài tiểu luận của em đến đây là kết thúc. Em rất mong nhận được sự giúp
đỡ của thầy để em rút ra cho mình được những kinh nghiệm và có thể hoàn

thành tốt ở các bài tiểu luân sau cũng như luận văn tốt nghiệp khi ra trường.
Em xin chân thành cám ơn!

17


Lời cam đoan:
Em xin cam kết bài tiểu luận do chính em tìm tài liệu và tự làm không sao
chép một nguồn khác, không sao chép tiểu luận của bạn khác, không nhờ viết
hộ, không thuê viết hộ.

18


MỤC LỤC
STT

TRANG

1.Phần mở

1

2.Chương I : Vài nét nổi bật về làng nghề Bát Tràng

2

3.Chương II:Giới thiệu Bát Tràng từ góc độ tồn tại xã hội

3


I. Phương thức sản xuất

3

II. Dân số và hoàn cảnh địa lý

10

4.Chương III:Giới thiệu Bát Tràng từ góc độ Kiến trúc thượng tầng

12

I. Truyền thống nghề nghiệp

12

II. Truyền thống văn hóa

14

5.Chương IV:Vấn đề ô nhiễm môi trường ở Bát Tràng

15

I. Thực trạng

15

II. Ảnh hưởng


16

III. Giải pháp

16

6. Phần kết luận

17

TÀI LIỆU:
1.
2.
19


3.
4. o
5. Báo điện tử Đảng Cộng Sản Việt Nam
6. Thời báo Kinh Tế Việt Nam, số 9, trang 9

20



×