Quản trị văn hoá đa quốc gia
NHẬN XÉT
TS. Mai Thanh Hùng
........................................................................................................................................................................
........................................................................................................................................................................
........................................................................................................................................................................
........................................................................................................................................................................
........................................................................................................................................................................
........................................................................................................................................................................
........................................................................................................................................................................
........................................................................................................................................................................
........................................................................................................................................................................
........................................................................................................................................................................
........................................................................................................................................................................
........................................................................................................................................................................
........................................................................................................................................................................
........................................................................................................................................................................
........................................................................................................................................................................
........................................................................................................................................................................
........................................................................................................................................................................
........................................................................................................................................................................
........................................................................................................................................................................
........................................................................................................................................................................
........................................................................................................................................................................
........................................................................................................................................................................
........................................................................................................................................................................
1
Quản trị văn hoá đa quốc gia
TS. Mai Thanh Hùng
........................................................................................................................................................................
MỤC LỤC
2
Quản trị văn hoá đa quốc gia
TS. Mai Thanh Hùng
LỜI NÓI ĐẦU
Hiện nay, trong quá trình hội nhập sâu rộng những người làm về kinh doanh cần tìm hiểu về
lịch sử, văn hóa và phong tục tập quán của những nước sẽ lui tới, Sự linh hoạt và thích ứng văn
hóa cũng chính là những nguyên tắc mang tính định hướng cho những chuyến đi vì mục tiêu
kinh doanh đồng thời mở mang được sự hiểu biết về các phong tục, tập quán, đặc điểm văn hóa
đăc trưng, riêng biệt của các nước.
Trong bài tiểu luân này, chúng em xin đề cập đến một đất nước nằm kẹp giữa 2 quốc gia lớn
nhất thế giới là Trung Quốc và Nga mà cụ thể ở đây đó là đât nước Mông Cổ.
Mông cổ là vùng đất xa xôi và ít người đến nhưng ở đây có quá nhiều điều lý thú, từ những
cảnh sắc bao la như đồi núi và sa mạc đến những khách sạn và nhà hàng sang trọng ở thủ đô
Ulaanbaatar. Khác với cuộc sống ở những thành phố lớn, người Mông Cổ tiếp tục cuộc sống du
mục, vận chuyển hàng hóa bằng lạc đà và sống tại những lều vải theo lối du cư cũng giống như
Thành Cát Tư Hãn – vị lãnh tụ lừng danh của họ ngày xưa. Những thảo nguyên rộng lớn trải
dài từ sa mạc Gobi đến rặng núi tuyết Bayan-Olgi mang đến cho những du khách thích cuộc
sống hoang dã những cuộc phiêu lưu kỳ thú. Câu cá, khám phá bằng xe địa hình, cưỡi ngựa và
lạc đà, đi xe đạp địa hình và những chuyến tìm hiểu các loài chim quý là những hoạt động lý thú
dành cho du khách. Đối với những du khách quan tâm nhiều đến văn hóa, có nhiều ngôi đền và
phế tích của nó để tham quan và để khám phá. Hạ tầng cơ sở còn lạc hậu ở những vùng xa,
khác hẳn với thủ đô Ulaanbaatar đã nhanh chóng trở thành một đô thị hiện đại với những
khách sạn, nhà hàng tiêu chuẩn quốc tế, những trung tâm mua sắm và những tòa nhà kiếng
hiện đại – hứa hẹn Mông Cổ sẽ là một điểm đến hấp dẫn của Châu Á trong tương lai gần. Nếu
bạn có phải rời xa thủ đô cũng không có nghĩa là bạn đang rời xa nền văn minh; internet ở đây
đã đi vào những ngôi làng nhỏ xa xôi và bạn cũng có thể thấy hình ảnh các người du mục ngồi
nghe điện thoại di động – những tương phản này làm Mông Cổ càng là một điểm đến hấp dẫn.
Đặc biệt trong những năm gần đây, nền kinh tế Mông Cổ khởi sắc mạnh mẽ nhờ phát triển công
nghiệp khai thác khoáng sản và du lịch. Và với mức tăng 11,2% năm 2012, đất nước của bầu
trời xanh với chỉ gần ba triệu dân này đang là điểm đến mới nổi ở châu Á trong việc giao lưu và
mở rộng các mối quan hệ hợp tác đầu tư và phát triển.
Do kiến thức còn hạn hẹp và phạm vi nghiên cứu còn nhiều giới hạn, thiếu sót nên chúng em
rất mong nhận được ý kiến đóng góp của giảng viên để chúng em có thể hoàn thiện bài tiểu
luận này một cách tốt nhất. Chúng em xin chân thành cảm ơn.
3
Quản trị văn hoá đa quốc gia
TS. Mai Thanh Hùng
1.KHÁI QUÁT CHUNG
• Thủ đô: Ulan Bator
• Diện tích: 1.564.116 km²
• Dân số: 2,796 triệu (Năm 2012) gồm hơn 10 dân
tộc. Dân tộc Mông Cổ (Khalkh) chiếm trên 75%
số dân.
• Mã điện thoại: +976
• Ngôn ngữ chính thức: tiếng Mông Cổ
• Tiền tệ: đồng Tugrik
Quốc kỳ
• Quốc ca: Bügd Nairamdakh Mongol
Quốc
huy
1.1.
•
•
•
•
Vị trí địa lý
Mông Cổ thuộc vùng Trung Á, bắc giáp
Liên bang Nga, nam giáp Cộng hòa nhân dân
Trung Hoa, tây giáp Kadacstan.
1.2. Tổ chức hành chính
Cơ cấu chính trị với hình thức dân chủ nghị
viện, đứng đầu nhà nước là tổng thống với
nhiệm kỳ 04 năm
Tổng thống Mông Cổ chủ yếu có vai trò biểu
tượng, nhưng có thể ngăn cản các quyết định
của nghị viện, và nếu nghị viện muốn bác bỏ
điều này phải có biểu quyết thuận với hơn hai phần ba số phiếu. Hiến pháp Mông
Cổ đặt ra ba yêu cầu với một cá nhân muốn trở thành tổng thống, phải là một
người sinh ra tại Mông Cổ, ít nhất 45 tuổi, và đã sống ở Mông Cổ trong năm năm
trước khi nhậm chức. Tổng thống cũng bị yêu cầu phải chính thức rút lui khỏi
đảng của mình
Hiện nay, chính trị ở Mông Cổ là đa đảng, có 18 chính đảng cùng hoạt động. Đảng
lớn nhất là Đảng Nhân dân Mông Cổ.
Mông Cổ phân chia hành chính gồm 21 tỉnh dưới quyền trung ương
4
•
•
•
•
•
•
•
•
Quản trị văn hoá đa quốc gia
TS. Mai Thanh Hùng
1.3. Địa hình và khí hậu
Phần lớn lãnh thổ là thảo nguyên, đồng cỏ và đồi núi. Rừng chiếm 10% diện tích.
Trung tâm Mông Cổ là thảo nguyên tương đối bằng phẳng. Phần phía nam bị bao
phủ bởi sa mạc Gobi, trong khi phía bắc và phía tây là núi
Hầu như toàn bộ đất nước có nhiệt độ cao trong mùa hè và rất lạnh vào mùa
đông, với nhiệt độ trung bình tháng 1 xuống dưới −30 °C (−22 °F). Đôi khi còn có
những điều kiện khí hậu như zud hay
dzud. Thủ đô Ulan Bator có nhiệt độ
trung bình thấp nhất trong tất cả các thủ
đô trên thế giới
1.4. Đối ngoại
Mông Cổ là thành viên của Liên
Hiệp Quốc, đồng thời cũng là thành viên
của các tổ chức như WTO, ARF, ASEM
1.5. Kinh tế và xã hội
• Kinh tế Mông Cổ tập trung vào nông nghiệp và khai thác mỏ
Mông Cổ có nhiều nguồn tài nguyên thiên nhiên, và đồng, than, môlípđen, kẽm,
tungsten, và vàng chiếm một phần lớn sản phẩm công nghiệp.
• Dân cư chủ yếu tập trung quanh thành phố thủ đô.
Đa số dân cư bên ngoài các khu vực đô thị sinh sống bằng chăn thả tự cấp tự túc;
các loại gia súc chủ yếu gồm cừu, dê, trâu bò, ngựa, và lạc đà Bactrian.
Các sản phẩm lương thực gồm bột mì, lúa mạch, khoai tây, các loại rau, cà chua,
dưa hấu, sea-buckthorn cỏ cho gia súc
Đa phần đường bộ ở Mông Cổ chỉ là đường rải sỏi
hay đơn giản
chỉ là những con đường đất. Có những tuyến
đường trải
nhựa từ Ulaanbaatar tới biên giới Nga và Trung
Quốc, và từ
Darkhan tới Bulgan. Một số dự án xây dựng
đường hiện
đang được thực hiện, ví dụ việc xây dựng cái gọi
là tuyến
đường "Đường Thiên niên kỷ" đông tây.
Hệ thống bưu chính của đế quốc Mông Cổ cũ được
gọi là Yam –
có nghĩa là “trạm kiểm soát”. Một người đưa thư
thường phải
di chuyển 40 km giữa 2 trạm kế tiếp nhai. Sau đó
người này có
thể nhận được một con ngựa mới đã được nghỉ
ngơi hoặc là
đưa thư đó cho người tiếp theo để đảm bảo tốc độ chuyển thư nhanh nhất có thể
1.6. Chính sách giáo dục
Tỉ lệ mù chữ đã giảm nhiều, một phần nhờ việc sử dụng các trường học
theo mùa cho trẻ em thuộc các gia đình du mục
5
•
•
Quản trị văn hoá đa quốc gia
TS. Mai Thanh Hùng
2.MỘT VÀI NÉT VĂN HOÁ CỦA MÔNG CỔ
2.1.Nhân vật lịch sử: Thành Cát Tư Hãn (1162 - 1227)
• Nguyên tên ông là Thiết Mộc Chân
Là một Khả hãn Mông Cổ và là người sáng lập ra Đế quốc Mông Cổ sau khi hợp
nhất các bộ lạc độc lập ở vùng đông bắc châu Á năm 1206
• Ông được người Mông Cổ dành cho sự tôn trọng cao nhất, như là một vị
lãnh đạo đã loại bỏ hàng thế kỷ của các cuộc giao tranh, mang lại sự ổn
định về chính trị và kinh tế cho khu vực á - âu trong lãnh thổ của ông, mặc
dù đã gây ra những tổn thất to lớn đối với những người chống lại ông
Thời thơ ấu của Thiết Mộc Chân cực kỳ khó khăn. Khi ông lên 9 tuổi, cha ông đã
đưa ông đến gia đình vợ (Bột Nhi Thiếp) tương lai và ông phải sống ở đó cho đến
khi đủ tuổi lấy vợ là 12 tuổi. Một thời gian ngắn sau đó cha ông bị đầu độc bởi bộ
lạc Tháp Tháp Nhi (Tartar) láng giềng trên đường trở về nhà và Thiết Mộc Chân
đã trở thành thủ lĩnh của bộ lạc của mình. Bộ lạc của ông không chấp nhận ông
do sự bất đồng về quyền lực và quyền lợi kinh tế. Trong những năm sau đó, ông và
gia đình sống một cuộc đời du cư nghèo khó, sống được là nhờ các loài động vật
gặm nhấm. Trong một lần đi săn bắn như vậy ông đã giết chết người anh/em
cùng cha khác mẹ là Bekhter trong một cuộc tranh giành chiến lợi phẩm. Một lần
khác vào năm 1182, ông đã bị những người cùng bộ lạc cũ bắt trong một cuộc tập
kích và bị giam cầm với gông trên cổ. Sau đó ông trốn thoát với sự trợ giúp của
những người coi ngục có cảm tình. Mẹ ông đã dạy ông nhiều bài học từ sống sót
trong những điều kiện thời tiết khắc nghiệt của Mông Cổ tới sự cần thiết của liên
minh với những người khác, những bài học này đã hình thành nên sự hiểu biết
của ông trong những năm sau này về sự cần thiết của thống nhất.
2.2.Phong tục tập quán:
Tập quán ăn uống của người Mông Cổ
Người Mông Cổ là một dân tộc du mục, dân số rất ít. Thức ăn của họ chủ
yếu từ thịt và sữa. Sữa là món ăn cơ bản của tất cả mọi người, được gọi là “thức
ăn trắng”.
Ngôn ngữ Mông Cổ có 350 từ khác nhau để chỉ các món ăn chế biến từ sữa. Thức
ăn bằng sữa thường dùng vào mùa hè, mùa của mưa và gia súc sinh đẻ, biểu
tượng sự hồi sinh của vạn vật. Lúc đó bữa ăn có đủ thứ làm bằng sữa: sữa chua,
pho mát tươi, kem, bơ. Thời gian còn lại trong năm họ dùng thức ăn “cứng” (để
đông lạnh hay sấy khô, đặc biệt pho mát sấy khô trở nên cứng như đá), có thể bảo
quản lâu và đem đi dễ dàng.
6
Quản trị văn hoá đa quốc gia
TS. Mai Thanh Hùng
Sữa còn được chế biến thành
hai thứ rượu. Người ta đổ sữa ngựa
vào một chiếc túi da đặc biệt rồi treo
lên bên trái cửa ra vào lều. Mỗi ngày
phải đảo và đánh sữa hàng trăm lần
để làm men. Người lớn, trẻ con và khách
vãng lai, ai đi qua cũng cầm chiếc gậy cắm sẵn trên miệng túi da và khoắng mạnh
bên trong. Rượu cất bằng sữa để uống vào mùa đông có tác dụng chống rét.
Người ta chưng cất sữa đã lên men, được giữ lại từ mùa hè. Nồi cất của họ rất thô
sơ, ống dẫn rượu làm bằng gỗ. Để cho hơi khỏi bị thoát, khi nấu người ta phủ vải
lên trên. Rượu cất lần đầu chỉ đạt 20% độ cồn. Cất lần thứ hai đạt 35%. Đến lần
thứ tư mới được một thứ cồn mà tiếng Mông Cổ gọi là “thuốc độc”. Rượu này chỉ
uống trong những bữa tiệc đầu năm.
Khi mùa đông đến “thức ăn đỏ”, tức là thịt, được thay thế sữa. Người Mông
Cổ phân biệt thịt nóng là thịt của con vật có mõm nóng, còn thịt lạnh là của loài có
mõm lạnh. Thịt nóng được ăn trong những bữa ăn tập thể theo nghi thức hay
trong giao tế xã hội. Còn thịt lạnh dùng trong bữa ăn gia đình, ít khi mời khách và
không bao giờ dùng để thờ cúng. Thịt nấu để cả xương mà gặm là món ăn được
ưa chuộng nhất, người nào sau bữa ăn để mỡ chảy đến tận khuỷu tay, vết mỡ và
thức ăn bắn khắp người, đó là điềm của sự
phồn vinh.
Miếng ngon nhất đối với họ là thịt ở đầu
con vật, những
rẻo thịt bám quanh hàm. Người ta cầm cả
cái đầu cừu để
gặm và miếng đó thường dành cho khách
quý.
Thức uống chủ yếu của họ là chè. Người ta thường pha chè với váng sữa
hoặc bỏ pho mát khô vào để đun cho tan. Đây là thức uống sau bữa ăn
Thói quen của người Mông Cổ
•
Ngủ lều: Lều Yurt là dạng không gian cư ngụ truyền thống của người Mông Cổ.
Trên thảo nguyên rộng lớn, sống cuộc sống nay đây mai đó, người Mông Cổ ngày
càng hoàn thiện kĩ thuật dựng lều Yurt, được dựng bằng vải bạt phủ lên một
khung gỗ được tạo trước về sau người Mông Cổ có làm thêm một số dạng Yurt
bằng gỗ, gạch và các chất liệu khác.Các lều Yurt có cầu trục trụ tròn, vòm mái
được thiết kế tỉ mỉ và ấn tượng. Với các công trình mang cảm hứng lều Yurt theo
khuynh hướng hiện đại thì chóp vòm càng được trang trí tỉ mỉ hơn.
7
Quản trị văn hoá đa quốc gia
TS. Mai Thanh Hùng
• Mông Cổ là đất nước duy nhất mà ngựa là trung tâm trong cuộc sống hàng ngày
(cho đến tận bây giờ). Trẻ em Mông Cổ học cưỡi ngựa ngay khi biết đi và cho đến
nay, người Mông Cổ vẫn đứng đầu thế giới về khả năng cưỡi ngựa
• Cách người Mông Cổ sống (ứng xử) với ngựa cũng rất khác so với các vùng khác
trên thế giới. Ngôn ngữ của họ thấm nhuần văn hóa ngựa. Ví dụ, khi muốn chào
đón ai đó mà người Mông Cổ rất ngưỡng mộ (và tôn trọng), họ sẽ nói: anh/chị
cưỡi ngựa giỏi chứ?; hay khi muốn đi vệ sinh, họ sẽ nói: ra xem con ngựa của tôi
thế nào
• Ngựa Mông Cổ được phân biệt theo màu sắc. Có khoảng 300 tên màu chỉ để nhận
dạng ngựa. Có điều lạ là, ngay cả khi đếm hết số ngựa tại Mông Cổ bạn cũng sẽ
không bao giờ tìm thấy tên con ngựa này trùng với tên con ngựa kia, tất nhiên là
chính xác với màu lông của nó
• Trong xã hội Mông Cổ, người phụ nữ được cho là có nhiệm vụ tổ chức kinh tế chủ
chốt khi những người đàn ông tập luyện đao kiếm hay đánh trận. Các pháp sư có
vị trí tôn giáo lớn trong bộ lạc cũng thường là phụ nữ. So với vai trò của người
phụ nữ Châu Âu trung đại thì cùng thời kì đó vai trò của phụ nữ Mông Cổ được đề
cao hơn nhiều. Không chỉ vậy, các bộ lạc của Mông Cổ cũng đã từng có nhiều thủ
lĩnh nữ.
Quy tắc ở mông cổ
• Nếu có lỡ giẫm phải chân người khác thì hãy chìa tay ra bắt tay họ để chứng tỏ
bạn không có ý gì xấu cả.Còn nếu bạn thấy họ lấy ngón tay trỏ quyệt mũi ba lần có
nghĩa là họ đang tức giận đấy.
• Bạn tuyệt đối không được sờ vào đầu người Mông Cổ vì theo họ đó là phần thiêng
liêng và cao quý nhất trong con người.
• Họ thường có tục kiêng vào đêm đầu tiên đôi vợ chồng mới cưới không động
phòng vì họ tin rằng ma quái thường thích trêu ngươi, gây hại cho những người
mới cưới. Để tránh ma làm hại, họ thường nhờ một bà già có tính khôi hài ngồi kể
truyện suốt đêm. Đêm thứ hai, đôi vợ chồng trẻ mới thực sự ở chung
Nét độc đáo trong hôn lễ của người Mông Cổ
Tặng nhiều quà trước lễ cưới
8
Quản trị văn hoá đa quốc gia
TS. Mai Thanh Hùng
Nếu như một chàng trai Mông Cổ thấy ưng một cô gái nào đó thì trước lễ
đính hôn, chàng trai phải nhờ bà mai mang những lễ vật tượng trưng cho sự hài
hòa, ngọt ngào, thịnh vượng như: đường trắng, lá chè, keo dán...bọc vào một tấm
vải trắng rồi mang tới nhà gái đánh tiếng. Nếu như nhà gái nhận đồ lễ thì hôn sự
có thể tiến hành.
Tiếp đó, chàng trai và cha mẹ mình sẽ phải mang theo hada (một dải lụa
đem làm quà tặng của người Mông Cổ), sữa bò, kẹo đường...qua nhà gái cầu hôn.
Sau khi thực hiện xong các thủ tục này thì mới được đính hôn. Nhà gái nhận lễ vật
đính hôn xong, nhà trai tiếp tục mời nhà gái 3 lần rượu. Nếu như nhà gái uống
hết 3 lần rượu này, thì cuộc hôn nhân mới coi như được quyết định.
Tuy nhiên, tới gần ngày cưới, nhà trai vẫn phải đem quà tới nhà gái lần
nữa, thông thường là một con cừu nướng, rượu, chè, hada. Nhà gái sẽ nhận quà
từ nhà trai, hai bên mời rượu nhau, chúc những điều tốt đẹp và hát đối mừng lễ
cưới.
Chú rể phải trải qua thử thách bẻ cổ cừu
Chú rể người Ordos Mông Cổ và đoàn đón dâu khi tới nhà cô dâu sẽ được
nhà gái đón tiếp nhiệt tình, mọi người cùng nhau ăn uống, nhảy múa, ca hát.
Sau đó, những người nhà trai sẽ lặng lẽ rời khỏi buổi tiệc và đưa chú rể tới
phòng cô dâu. Đợi cho tân lang, tân nương ngồi xuống vị trí dành cho khách xong,
các phù dâu sẽ cắt lấy một phần cổ cừu mà nhà trai mang đến để tiếp đãi chú rể,
đồng thời mời chú rể yêu cầu chú rể phải dùng tay bẻ cổ cừu làm đôi để thử sức
mạnh.
Để trêu chọc chú rể, trước đó, các phù dâu đã bỏ một cành liễu hồng hoặc
một thanh sắt vào giữa đó. Nếu được ai đó chỉ bảo trước, chú rể sẽ biết lấy cành
liễu hoặc đoạn sắt ra và bẻ đôi cổ cừu một cách dễ dàng. Nhiều chú rể không biết
bí mật này nên đã phải gồng hết sức mình, vừa tốn sức, vừa xấu hổ để vượt qua
thử thách trước lời trêu chọc của những phù dâu tinh nghịch.
Chơi trò đuổi bắt trước khi tới nhà gái
9
Quản trị văn hoá đa quốc gia
TS. Mai Thanh Hùng
Theo phong tục của người Mông Cổ, trước khi bước vào nhà gái, hai bên
phải tham gia trò chơi cướp đồ. Khi đó, những người bên nhà gái sẽ cướp mũ của
chú rể, giật roi ngựa hoặc vứt xuống đất. Chú rể không có cách nào khác đành
phải xuống ngựa chọn khăn, như vậy chú rể sẽ bị trễ giờ đã định.
Đôi khi những chú rể thông minh cũng có biện pháp đối phó của mình đó là
khi sắp tới nhà gái, nhà trai sẽ bày ra một bàn rượu để khoản đãi những người
đưa dâu. Trước sự nhiệt tình của nhà trai, gái khó lòng mà từ chối, chỉ còn cách
xuống ngựa uống rượu, nhà trai nhân cơ hội đó chạy thẳng tới nhà gái.
Sau đó là một cuộc rượt đuổi vui nhộn giữa nhà gái và nhà trai, người chạy,
người đuổi, không khí vô cùng náo nhiệt cho tới lúc đến nhà gái.
Mổ gà xem bói
Trong ngày cưới, nhà trai sẽ mổ gà. Ngày hôm đó, cha mẹ cô dâu và người
giới thiệu sẽ đưa cô dâu tới nhà trai. Nhà trai chuẩn bị rượu, thịt để tiếp đãi.
Sau khi cô dâu tới nơi sẽ cùng chú rể mổ gà, rồi xem gan gà để biết dữ, lành,
nếu như không may mắn, tân lang, tân nương sẽ cùng nhau giết thêm một con gà
nữa, đến khi nào thấy gan gà có đường tốt lành mới thôi.
Tiếp đó, cô dâu, chú rể sẽ tổ chức tiệc rượu, trước mặt mỗi người đặt một
bát rượu, quanh bát bôi váng sữa. Mỗi người sẽ tự uống một ngụm trước rồi cả
hai sẽ mời rượu cho nhau. Sau khi uống xong chén rượu này, cô dâu chú rể sẽ
mang rượu tới mời người giới thiệt và khách khứa. Khi các thủ tục xong xuôi, mọi
người sẽ được thỏa sức uống rượu, nhảy múa suốt 2-3 ngày
10
Quản trị văn hoá đa quốc gia
TS. Mai Thanh Hùng
3.NHỮNG LỄ HỘI LỚN Ở ĐẤT NƯỚC MÔNG CỔ:
Ở Mông Cổ, hai dịp lễ quan trọng được chờ đợi nhất là Tết tháng trắng (người
dân địa phương gọi là Tsagaan Sar) vào tháng giêng và tết Naadam vào tháng 7.
3.1.Tết Tsagaan Sar Mông Cổ hay tết Tháng Trắng
Mông Cổ cùng với Trung Quốc, Hàn Quốc và Triều Tiên là những quốc gia
trên thế giới đón Tết âm lịch như nước ta.Người Mông Cổ đón tết với những tập
tục đặc sắc riêng, mang đậm bản sắc hoang dã, hồn nhiên của người du mục.
Ngày Tết cổ truyền âm lịch ở Mông Cổ được gọi là tết Tsagaan Sar, hoặc tết
Tháng Trắng. Đây là 1 trong 2 ngày tết quan trọng nhất và được chờ đợi nhất ở
nước này (ngày Tết còn lại là Tết Naadam vào tháng 7), ngày Tết này được tính
theo lịch Tây Tạng.
Phong tục ngày tết
Đối với người Mông Cổ, Tsagaan Sar không chỉ là 1 ngày lễ cổ truyền báo
hiệu kết thúc một mùa đông dài và lạnh lẽo để đón chào mùa xuân mới, mà nó còn
là thời điểm cho việc quây quần sum họp gia đình và thắt chặt những mối quan hệ
trong xã hội. Ngày Tết, gặp nhau người Mông Cổ chúc nhau bằng câu nói: “Chúc
cho đàn cừu của bạn béo tốt”. Ở xứ sở này, cừu đông hơn người. Hầu hết các món
ăn ngày Tết của người Mông Cổ đều chế biến từ sữa cừu và trên mâm cỗ lúc nào
cũng có thịt cừu nướng và mỳ vằn thắn. Tết Tsagaan Sar kéo dài từ ngày mồng 1
âm lịch cho đến hết ngày 3 âm lịch.
Tẩy rửa năm cũ bằng sữa ngựa :Những ngày này, mọi người cùng “rửa
sạch” cả thể xác lẫn tâm hồn để đón chào khởi đầu mới tốt, đẹp hơn. Nghi thức
trước đêm giao thừa của người Mông Cổ là rửa sạch chén bát với sữa ngựa.
Đón mặt trời mọc: Ở Mông Cổ còn có tục đón mặt trời mọc, mọi người sẽ
mặc quần áo mới, nhóm lửa và chờ mặt trời. Kế đó, người Mông Cổ sẽ leo lên đỉnh
núi, mang theo thức ăn để tiến hành lễ xuất hành đầu năm. Theo người Mông cổ,
vào năm mới, nếu đi lên đỉnh núi để chào đón mặt trời chắc chắn họ sẽ gặp rất
nhiều may mắn quanh năm.
Giống như tại Việt Nam, tết Tsagaan Sar là một trong những dịp lễ rất quan
trọng nhất của người dân Mông Cổ và kéo dài trong 3 ngày. Một ngày trước năm
mới được gọi là Bituun. Vào ngày Bituun, người dân Mông Cổ tập trung dọn dẹp
nhà cửa sạch sẽ để đón năm mới và cùng quây quần bên bữa cơm gia đình. Vào
ngày đầu năm mới, mọi người dậy sớm trước khi mặt trời mọc, mặc quần áo mới
và nhóm lửa.
11
Quản trị văn hoá đa quốc gia
TS. Mai Thanh Hùng
Nghi lễ: Người Mông Cổ có tục uống trà đầu năm. Thời khắc giao thừa
người ta pha trà rót ra 1 chén đầu tiên, đem ra trước sân nhà vẩy khắp 4 hướng.
Chén trà thứ 2 dành mời chủ nhà và sau đó lần lượt mời các thành viên khác
trong gia đình. Trong suốt những ngày đầu năm mới, người dân Mông Cổ thắp
nến trên bàn thờ tổ tiên cả ngày đêm.
Chúc tụng: Trong dịp lễ đặc biệt
này, người Mông Cổ thường tụ tập ở nhà
của người lớn tuổi nhất trong gia đình
(trừ vợ chồng) để chúc Tết. Trong khi chúc
Tết, các thành viên trong gia đình thường
cầm những dải vải dài gọi là "khadag",
tượng trưng cho lòng thương mến và
điềm lành. Sau nghi thức này, họ sẽ trao
cho nhau những món quà để cầu chúc
một năm mới thịnh vượng và ấm no. Trẻ em cũng được đặc biệt ưu tiên tặng quà.
Thực phẩm: Do Tết Tsagaan Sar còn
được gọi là tết
Tháng Trắng nên phần lớn thực phẩm đều
có màu trắng như
gạo, sủi cảo. Món ăn truyền thống trong
Tết Tsagaan Sar
là các sản phẩm làm từ sữa, bánh buuz
(dạng như bánh
bao), thịt cừu, thịt bò…Mọi người còn ăn
bánh bao hấp và
uống Airag (sữa ngựa lên men).
Ngoài ra trên bàn thờ hoặc bàn tiệc còn có một tháp bánh ngọt truyền thống
“ul boov” đặt trên một đĩa lớn cùng với thịt cừu nướng (phần lưng và đuôi) và thịt
bò băm nhỏ. Tháp bánh dành cho ông bà thường có 7 tầng, dành cho cha mẹ có 5
tầng còn cho các cặp vợ chồng trẻ chỉ có 3 tần.
Hoạt động ngày tết
Ngày Tết của người Mông Cổ hẳn sẽ không còn là ngày Tết nữa nếu thiếu đi
các hoạt động như đấu vật, đua ngựa, bắn cung. Đây là những môn thể thao
truyền thống có từ lâu đời của người dân Mông Cổ. Bởi từ xa xưa, người dân
Mông Cổ đã được biết đến là những người dân du mục, sống trên lưng ngựa còn
nhiều hơn thời gian sống trên mặt đất, rất giỏi săn bắn và chinh chiến. Và bạn sẽ
còn ngạc nhiên hơn khi được xem những thí sinh thi đấu các môn thể thao này là
12
Quản trị văn hoá đa quốc gia
TS. Mai Thanh Hùng
phụ nữ. Phụ nữ Mông Cổ không phải là những phụ nữ chân yếu tay mềm. Cuộc
sống du mục đã giúp họ có cơ hội thành thục những kỹ năng tưởng chỉ thuộc về
phái mạnh. Ở Mông Cổ, Tết hàng năm trùng với ngày hội của ngừơi chăn nuôi. Vì
vậy, họ tổ chức nhiều cuộc thi tài, thi sức, thi lòng dũng cảm
Tết là thời điểm tiễn một năm cũ đã qua và đón chào một năm mới đến. Mỗi
quốc gia, dân tộc trên thế giới đều có phong tục tập quán riêng được gìn giữ qua
bao thế hệ. Dù có
hóa
trong
song
không ít nét khác biệt do đặc thù văn
tựu chung lại, đây vẫn là dịp để các thành viên
gia đình cùng sum họp để đón chào một khởi đầu mới bình
an và hạnh phúc.
Cuộc đua ngựa tổ chức trong tết truyền
thống
của người Mông Cổ
3.2.Lễ hội Naadam lớn nhất Mông Cổ:
Naadam là lễ hội lớn nhất của Mông Cổ bao la, được tổ chức thường niên
vào tháng 7. Thảo nguyên Mông Cổ bao la luôn là vùng đất bí ẩn thu hút sự quan
tâm của đông đảo du khách gần xa, đặc biệt là vào những tháng mùa hè.
Trong ba ngày, người dân Mông Cổ và du khách từ khắp nơi đổ về đại mạc
sẽ được chiêm ngưỡng các màn biểu diễn múa, hát truyền thống cũng như tham
gia vào các cuộc đua, trò chơi cổ truyền thú vị.
13
Quản trị văn hoá đa quốc gia
TS. Mai Thanh Hùng
Naadam trong tiếng Mông Cổ có nghĩa là “trò chơi”, được tổ chức từ thời của
Thành Cát
Tư Hãn. Theo
các tài liệu
cổ xưa, nguồn
gốc của lễ
hội
những màn
diễu hành, các
trò
săn bắn của
chơi
binh sĩ xưa
đến
từ
kia.
Naadam được
tổ chức ở
hầu như khắp
thảo nguyên nhưng lễ hội lớn nhất vẫn là ở thủ đô Ulanbaatar. Người dân Mông
Cổ đều háo hức đón chờ lễ hội này và mặc những trang phục truyền thống nhiều
màu sắc đẹp nhất của mình để tới tham dự.
14
Quản trị văn hoá đa quốc gia
TS. Mai Thanh Hùng
Để tới tham dự lễ hội, người dân lái ô tô hoặc cưỡi ngựa tới nơi tổ chức.
Thông thường, có ba trò chơi chính trong lễ hội là đấu vật, cưỡi ngựa và bắn
cung. Năm 2010, Naadam đã được UNESCO công nhận là di sản văn hóa phi vật
thể của thế giới.
Cũng
giống
như mọi lễ hội khác, Naadam bắt đầu bằng phần nghi lễ. Các vũ công và nhạc
công chơi nhạc trong khi những vận động viên và nài ngựa điều khiển ngựa
quanh sân vận động chính ở thủ đô. Sau phần lễ này, phần hội mới chính thức bắt
đầu.
Các trò chơi chính trong lễ Naadam chủ yếu: để chứng minh sức mạnh và sự
nam tính của người đàn ông. Một số trò chơi khác phụ nữ có thể tham gia, trừ
đấu vật.
Khoảng hơn 1.000 đấu sĩ sẽ bước lên quảng trước và vẫy tay, bắt chước cách
sải cánh của đại bàng và khiêu vũ truyền thống trước khi thượng đài. Các bài hát
được tấu lên để ca ngợi sức mạnh của họ vang khắp sân vận động.
3.3. Lễ hội sắc màu của người Mông Cổ thu hút sự quan tâm của rất nhiều
du khách trên thế giới:
Đến hẹn lại lên, hàng năm, người Mông Cổ lại cùng nhau tụ họp trên sa mạc
Gobi và tổ chức lễ hội lạc đà Bactrian truyền thống (camel festival).
15
Quản trị văn hoá đa quốc gia
TS. Mai Thanh Hùng
Lễ hội lạc đà là một hoạt động truyền thống nhằm khẳng định vai trò quan
trọng của loài lạc đà hai bướu Bactrian (đang có nguy cơ tuyệt chủng) cũng như
sự gắn bó của chúng với cuộc sống du mục của người Mông Cổ trên hoang mạc
Gobi khắc nghiệt này.
Điểm đặc biệt đáng chú ý nhất của lễ hội có lẽ chính là cuộc đua lạc đà kì thú,
những trận cầu ngựa polo hồi hộp nảy lửa. Đặc biệt lễ hội còn có những màn diễu
hành trình diễn giai điệu cũng như vũ điệu uyển chuyển truyền thống mang đậm
chất Mông Cổ của người du mục sa mạc Gobi.
Cuộc đua lạc đà vừa bắt đầu
Lễ hội này diễn ra hàng năm với sự tham gia của tất cả mọi người, du khách
có thể đến tham dự cuộc đua, nhảy múa và cùng hòa mình vào không khí của lễ
hội .
Sự gắn bó giữa người và lạc đà tại sa mạc Gobi
16
Quản trị văn hoá đa quốc gia
TS. Mai Thanh Hùng
Cùng nhau cổ vũ cho cuộc đua lạc đà
4.TÔN GIÁO MÔNG CỔ
• Khoảng một nửa số dân Mông Cổ là những người theo đạo Phật, bên cạnh
•
•
•
•
đó cũng có những tín đồ đạo Hồi, đạo Thiên Chúa và đạo Saman.
50% dân số Mông Cổ theo Phật giáo Tây Tạng tức 1.009.357 tín đồ
40% được coi là vô thần
6% theo Shaman giáo tức 55.174 tín đồ và Thiên chúa giáo là 41,117 tín đồ
4% là các tín đồ Hồi giáo với 57.702 tín đồ.
Nhiều hình thức Tengri giáo và Shaman giáo đã được thực hiện trong suốt lịch
sử của vùng là nước Mông Cổ hiện đại ngày nay, bởi những đức tin đó là phổ
thông trong số những người du mục trong lịch sử châu Á. Những đức tin đó dần
nhường chỗ cho Phật giáo Tây Tạng, nhưng Shaman giáo đã để lại một dấu ấn
trong văn hoá tôn giáo Mông Cổ, và vẫn tiếp tục được thực hiện. Trong tầng lớp
tinh hoa của Mông Cổ thời Đế chế Mông Cổ, Hồi giáo dần được ưa chuộng hơn
những tôn giáo khác, bởi ba trong bốn vị hãn danh tiếng nhất đều là tín đồ Hồi
giáo.
17
Quản trị văn hoá đa quốc gia
TS. Mai Thanh Hùng
Trong suốt thế kỷ 20, chính phủ cộng sản luôn đàn áp việc thực thi tôn giáo
của người dân Mông Cổ. Khorloogiin Choibalsan đã phá huỷ hầu hết trong tổng số
hơn 700 tu viện Phật giáo của Mông Cổ và giết hại hàng nghìn tăng lữ. Số lượng
tu sĩ Phật giáo đã giảm từ 100.000 năm 1924 xuống còn 110 năm 1990.
Sự sụp đổ của chủ
nghĩa cộng sản năm
1991 đã giúp tái lập
tính pháp lý của việc
thực thi tôn giáo, và
Phật giáo Tây Tạng,
vốn từng là tôn giáo
phổ biến nhất trước
đây trong vùng trước
sự
trỗi dậy của chủ
nghĩa cộng sản, một lần nữa nổi lên trở thành tôn giáo có số tín đồ đông nhất tại
Mông Cổ. Sự chấm dứt đàn áp tôn giáo trong thập niên 1990 cũng cho phép các
tôn giáo khác, như Hồi giáo và Thiên chúa giáo, phát triển ở nước này. Theo
Nhóm truyền giáo Thiên chúa giáo Barnabas Fund, số lượng tín đồ Thiên chúa đã
tăng từ chỉ 4 người năm 1989 lên khoảng 40.000 vào thời điểm năm 2008.
18
5.TRANG PHỤC TRUYỀN THỐNG CỦA NGƯỜI MÔNG CỔ
Một Deel là một mục của trang phục truyền thống thường được mặc từ thế kỷ
trước trong Mông Cổ và các bộ tộc du mục khác
của Trung Á, trong đó có nhiều người gốc Thổ
Nhĩ Kỳ,
và có thể được làm từ bông, lụa, len,hoặc thổ
cẩm.
Các deel vẫn thường được mặc bởi cả nam và
nữ bên
ngoài thành phố lớn, đặc biệt là những người
chăn
nuôi. Ở thành thị. Deels chủ yếu chỉ mặc bởi
người
cao tuổi, hoặc vào những dịp lễ hội. Các Deel xuất
hiện
tương tự như một có thắt lưng ngang hông hoặc
một
tuổi gấp châu Âu áo. Deels thường đạt đến dưới
đầu gối
của người mặc và thường xanh, ô liu, hoặc đỏ tía, mặc dù có deels trong một loạt
các màu sắc khác. Các Deel trông giống như một áo khoác lớn khi không
đeo. Thay vì cài nút lại với nhau ở giữa, hai bên được kéo trên cơ thể người đeo,
nắp ngay gần với cơ thể với bao phủ trái. Ở bên phải của người mặc thường 5
hoặc 6 móc để giữ nắp đầu tại chỗ. Có một clasp dưới nách, ba ở vai, và một hoặc
hai tại đường viền cổ áo.
Một Deel truyền thống mặc cùng với một cánh cửa lớn, thường được làm
bằng lụa nhưng thắt lưng da với lượng lớn, khóa trang trí công phu đã trở nên
phổ biến trong thời kỳ hiện đại. Khu vực giữa cánh tà và trên vành đai tạo ra một
túi lớn, trong đó người Mông Cổ giữ nhiều thứ, những người đàn ông Mông Cổ sẽ
thường xuyên thậm chí còn mang chai vodka trong Deel của họ. Mặc dù không có
sự khác biệt lớn trong các tài liệu hoặc phác thảo giữa nam và nữ deels, phụ nữ
có xu hướng mặc “túi” gần hơn (có nghĩa là phụ nữ thường thích một deel sung
nắp thêm), trong khi nam giới có thể có cả hai túi lớn hơn, nới lỏng phù hợp và
tay áo rộng hơn.
Ở Mông Cổ, việc sử dụng các Deel từ đã được mở rộng để bao gồm áo khoác
mùa đông dài khác. Ví dụ lông thú và áo khoác da của thiết kế phương Tây được
gọi là "nekhii Deel" và "sawkhin Deel", tương
ứng, có nghĩa là "lông Deel", "da Deel" và
"cashmere Deel", được làm bằng vật liệu sang
trọng cashmere . Tuy nhiên, khu vực Mông Cổ
khác, chẳng hạn như Bortala trong Tân Cương
giữ lại ý nghĩa cụ thể của từ "Deel" như quần áo
truyền thống, và tham khảo khoác khác
như "olondoi".
Thiết kế khác nhau giữa các nền văn hóa Deel,
dân tộc và khoảng thời gian đến một mức độ
nhất định. Thậm chí có những biến thể khác
nhau giữa các bộ tộc Mông Cổ khác nhau chủ
yếu vào thiết kế của ngực mở cạnh. Ví dụ các Khalkha cạnh mở Mông Cổ Deel tròn
trong khi một Buryat Deel là vuông. Nó cũng có thể khác nhau giữa các bộ lạc
khác như Chakhar, Torguud và Ujumchin . Deels được thiết kế cho những dịp và
môi trường khác nhau. Thiết kế cũng thay đổi do chức năng. Có deels cho các nghi
lễ như đám cưới và các ngày lễ và deels cho mặc hàng ngày. Deels cho những dịp
đặc biệt có lớp ngoài của họ làm bằng lụa trong khi deels chung thường được
làm bằng len, bông và các vật liệu tương đối rẻ tiền khác.
Mũ rộng vành: Một trong những mục đầy màu sắc và độc đáo nhất của Mông
Cổ trang phục dân tộc là mặc đầu truyền thống. Các trang phục đầu Mông Cổ
khác nhau về hình dạng và mục đích; có mũ cho trẻ và già, mùa hè và mùa đông
và những người đàn ông và phụ nữ, ngày lễ và các nghi lễ và mũ nón thời trang
và hàng ngày. Thời trang và đồ trang trí và màu sắc của họ rất đa dạng tuyệt vời
phụ thuộc vào giới tính của người mặc vị trí xã hội của mình hoặc của những
người bộ tộc hay quốc tịch họ thuộc về. Có 400 phong cách khác nhau. Cho ex; nón
hình đầu chiếc mũ (màu xanh hoặc đỏ) đã có 32 khâu tượng trưng cho sự thống
nhất của 32 bộ lạc Mông Cổ.Thời trung cổ phụ nữ và người đàn ông đội mũ mùa
hè làm bằng nhung sang trọng ướt hếch miệng và thêu ngọn nhọn. Mũ là đông với
một nút huyền ảo. Trong thời cổ đại nó tượng trưng cho sức mạnh có khả năng kẻ
thù đáng sợ. Trong mùa hè Mông Cổ mặc hoặc mũ hoặc căn hộ đứng đầu
"toortsog" mũ bao gồm sáu múi. Các toortsog đã có một trên và một phần dưới.
Phần trên không phải là một phần nhưng đã được khâu từ sáu phần riêng
biệt. Phụ nữ có chồng không được phép mặc chiếc mũ này chỉ có các cô gái và
những người đàn ông. Phụ nữ kỳ nghỉ mũ nón đã được ghi nhận cho đó là phong
cách độc đáo và phong phú của đồ trang sức. Nó bao gồm một kỳ nghỉ lụa và mũ
nhung và một bộ trang trí đầy đủ cho mái tóc phần dưới của chiếc mũ được làm
từ nhung và phần trên từ lụa đỏ. Người giữ tóc được bao phủ bởi san hô, ngọc
trai . Các Shanaavch các trang sức thời gian với chiếc chuông bạc nhỏ đã được cố
định cho chủ tóc. Các boolt tolgoin là một cái mũ thường được làm bằng bạc và
nạm đá quý và đá bán quý. Mũ phụ nữ có nhiều hơn thời trang của nam giới, và
những dải ruy băng trên chúng được trang trí với màu ngọc lam.
Del: Del là lỏng lẻo bê dài áo dài làm bằng một tấm vật liệu. Nó có áo dài
tay, một cổ áo cao và các nút trên vai phải. Các nút Del. Nếu chúng không được
sản xuất thương mại từ đá trang trí hoặc bạc, là dải hẹp vải gắn vào hải lý phức
tạp. Mỗi dân tộc sống ở Mông Cổ có cá nhân riêng của mình Del, phân biệt bởi cắt,
màu sắc và trang trí. Những phân biệt được chú ý bởi người nước ngoài nhưng rõ
ràng để người Mông Cổ. Trước Cách mạng, tất cả các tầng lớp xã hội ở Mông Cổ
đã có cách riêng của họ về thay đồ. Các nhà lai tạo chứng khoán trực tiếp ví dụ,
mặc dels màu vàng với một chiếc áo choàng ném qua nó.Về cơ bản có ba loại dels,
mỗi mặc trong một mùa giải đặc biệt. Các "Dan Del" được làm bằng ánh sáng, cho
rằng vật liệu tươi sáng và được mặc bởi phụ nữ trong thời gian cuối mùa xuân và
mùa hè.các “terleg” là một phiên bản đệm hơi nhiều cả nam giới và nữ giới. Mùa
đông Del là nghiêm trọng, áo đệm lót bằng da cừu, hoặc lớp bông hàng. Dels có
cắt nhau cho dù mặc bởi những người đàn ông hay phụ nữ. Dels nam chỉ rộng
hơn và màu sắc ảm đạm hơn. Del để mặc hàng ngày có màu xám, nâu hay màu tối
khác, màu trắng kỳ nghỉ Del là một màu xanh, màu xanh lá cây hoặc rượu vang
đỏ lụa tươi sáng với một sash lụa của màu sắc tương phản dài vài mét.Các cánh
cửa không chỉ đơn giản là trang sức. Nó cũng là một corset mềm tạo điều kiện cho
tay đua dài trên lưng ngựa. Một Del có rộng, hình chén tay áo gọi là
"móng". Có một truyền thuyết rằng của Mãn Châu giới thiệu
phong cách này để làm cho Mông Cổ giống như con ngựa của
họ.Nhưng nó là một tính năng rất hữu ích
của
Del bảo vệ tay vì lạnh và từ bị thương trong
khi
làm công việc khó khăn. Cũng là hình dạng
giống thỏi vàng và bạc. Các khantaaz là
một
chiếc áo khoác truyền thống ngắn hơn,
thường được làm bằng lụa, mà cũng có cúc
sang một bên, và thường đeo trên Del.
Giày dép buryat truyền thống là gutal, dày đế
giày da lót bằng nỉ và lông động vật. Họ rất ấm áp và
bảo vệ bàn chân ngay cả trong thòi tiết khắc nghiệt từ
-40 trở lên. Đế dày để ngăn ngừa mất nhiệt qua bàn
chân và thường được lớp da và cảm thấy. Chân khởi
động thường được lót bầng lông động vật. Một phần
của guatal bao gồm các phương có thể được lót bằng
một trong hai cảm thấy dày hoặc lông thú. Các ngón
chân được bật lên một chút, nhưng không phải là cuộn
tròn ở đầu là khởi động Mông Cổ truyền thống. Bật lên
mũi được cho là thiết kế để các ngón chân sẽ không Mẹ Trái đất thiêng liêng trong
khi đi bộ. nhiều khả năng nó là một sụ thích nghi cho trượt và đạp dễ dàng.
Buryat rất ấm áp được phổ biến mặc mùa đông ở Mông Cổ.