BÀI TẬP LỚN - HỌC PHẦN: KINH TẾ VĨ MÔ
MỤC LỤC
TÊN DANH MỤC
LỜI MỞ ĐẦU...............................................................................................................
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHÍNH SÁCH TÀI KHÓA..........................
1.1. Khái niệm về chính sách tài khóa...................................................................
1.2. Phân loại chính sách tài khóa.........................................................................
1.2.1. Chính sách tài khóa trung lập............................................................................
1.2.2. Chính sách tài khóa mở rộng.............................................................................
1.2.3. Chính sách tài khóa thắt chặt............................................................................
1.3. Ý nghĩa và công cụ thực hiện chính sách tài khóa..........................................
1.3.1. Ý nghĩa của việc thực hiện chính sách tài khóa................................................
1.3.2. Công cụ thực hiện chính sách tài khóa..............................................................
1.4. Mục tiêu ổn định nền kinh tế vĩ mô của chính sách tài khóa..........................
1.4.1. Khi nền kinh tế suy thoái..................................................................................
1.4.2. Khi nền kinh tế lạm phát...................................................................................
1.5. Các nguyên tắc của chính sách tài khóa.........................................................
1.5.1. Cân bằng ngân sách...........................................................................................
1.5.2. Nguyên tắc vàng................................................................................................
1.5.3. Nguyên tắc các quỹ bình ổn..............................................................................
1.5.4. Nguyên tắc 1% của Chile..................................................................................
1.6. Những hạn chế của chính sách tài khóa.........................................................
TRANG
1
3
3
3
3
4
4
5
5
5
5
6
6
7
7
7
8
8
9
1.6.1. Tại sao không thể triệt tiêu hoàn toàn những cú sốc đối với tổng cầu bằng
chính sách tài khóa?....................................................................................................................
1.6.2. Tại sao chính phủ không nới lỏng chính sách tài khóa khi thất nghiệp tăng
9
cao?.............................................................................................................................................
10
11
11
12
1.7. Đặc điểm chính sách tài khóa các nước.........................................................
1.7.1. Đặc điểm chính sách tài khoá của các nước phát triển.....................................
1.7.2. Đặc điểm chính sách tài khóa của các nước đang phát triển.............................
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH TÀI KHÓA Ở VIỆT NAM GIAI
ĐOẠN 2010-2014..........................................................................................................
2.1. Tổng quan nền kinh tế Việt Nam giai đoạn 2010-2014..................................
2.2. Thực trạng chính sách tài khóa ở Việt Nam giai đoạn 2010-2014.................
2.2.1. Về thực trạng thu ngân sách nhà nước..............................................................
2.2.2. Về thực trạng chi và bội chi ngân sách nhà nước.............................................
13
13
16
16
23
2.3. Đánh giá tác động của chính sách tài khóa đến nền kinh tế của Việt Nam
giai đoạn 2010-2014......................................................................................................
CHƯƠNG 3: CÁC GIẢI PHÁP ĐỂ NÂNG CAO CHÍNH SÁCH TÀI KHÓA Ở
30
VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN TỚI....................................................................
3.1. Những thành công, hạn chế về chính sách tài khóa ở Việt Nam.....................
31
31
31
31
33
3.1.1. Một số thành công của chính sách tài khóa ở Việt Nam...................................
3.1.2. Một số hạn chế chính sách tài khóa ở Việt Nam...............................................
3.2. Mục tiêu của chính sách tài khóa tại Việt Nam trong thời gian tới................
3.2.1. Trọng tâm trong ngắn hạn của chính sách tài khóa là giữ vững mức động
BÀI TẬP LỚN - HỌC PHẦN: KINH TẾ VĨ MÔ
viên vào Ngân sách nhà nước( NSNN)......................................................................................
3.2.2. Mức độ thâm hụt NSNN trong lộ trình tiến tới cân bằng cán cân NSNN
33
34
trong dài hạn...............................................................................................................................
3.3. Kiến nghị giải pháp nâng cao hiệu quả của chính sách tài khóa...................
KẾT LUẬN...................................................................................................................
Tài liệu tham khảo:......................................................................................................
35
39
40
BÀI TẬP LỚN - HỌC PHẦN: KINH TẾ VĨ MÔ
LỜI MỞ ĐẦU
1.1. Tính cấp thiết của đề tài.
Chính sách tài khoá là một trong hai công cụ quan trọng của chính phủ
nhằm điều tiết nền kinh tế vĩ mô. Các nhà hoạch định chính sách thường sử
dụng linh hoạt chính sách tài khóa nhằm đạt mục tiêu chung về tăng trưởng
kinh tế. Thực tế ở Việt Nam hiện nay, từ sau cuộc khủng hoảng kinh tế thế
giới năm 2008 chúng ta bị đặt trong tình thế giằng co giữa kiềm chế lạm phát
và sử dụng các gói hỗ trợ nhẳm kích thích nền kinh tế phát triển. Năm 2010
mặc dù bối cảnh kinh tế quốc tế không mấy sáng sủa, nhưng Việt Nam vẫn
đạt được mục tiêu tăng trưởng (6,78%) và là một trong số quốc gia có tốc độ
tăng trưởng tốt nhất trong khu vực. Để đạt được điều này chính phủ đã đưa ra
hàng loạt chính sách vĩ mô, trong đó không thể không kể đến các chính sách
tài khóa đã được đưa vào thực hiện nhằm ổn định và tăng trưởng kinh tế. Để
tìm hiểu rõ hơn về việc thực hiện và vai trò của các chính sách tài khóa, em
quyết định chọn đề tài: “Tìm hiểu tình hình thực hiện chính sách tài khóa Việt
Nam trong năm 2010-2014” làm đề tài nghiên cứu.
1.2. Mục đích nghiên cứu.
Mục tiêu của đề tài là nêu lên những chính sách tài khóa được thực hiện
ở Việt Nam trong năm 2010-2014. Qua đó thấy được các tác động của những
chính sách này lên nền kinh tế Việt Nam, đánh giá những mặt tích cực cũng
như tiêu cực của chính sách tài khóa trong giai đoạn này. Đồng thời đưa ra
những giải pháp cho việc thực hiện chính sách tài khóa có được hiệu quả hơn.
1.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
- Các chính sách tài khoá mà Việt Nam đang áp dụng trong năm 20102014.
- Tình hình thu chi ngân sách của nước ta có gì thay đổi.
- Thâm hụt ngân sách, gánh nặng nợ nần, lạm phát hiện nay được Chính
phủ điều chỉnh theo hướng ra sao.
Học viên: Nguyễn Thị Phương Hoa - Lớp QLKT 4
1
BÀI TẬP LỚN - HỌC PHẦN: KINH TẾ VĨ MÔ
1.4. Phương pháp nghiên cứu.
- Phương pháp phân tích thực chứng: lấy các số liệu chính xác để phân
tích chính sách nhà nước.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp, đánh giá, nhận xét,…
1.5. Kết cấu đề tài.
Ngoài phần mở đầu và kết luận, phần mục lục, danh mục tài liệu tham
khảo và bảng biểu, nội dung bài tiểu luận của em gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về chính sách tài khóa.
Chương 2: Thưc trạng chính sách tài khóa ở Việt Nam giai đoạn 20102014.
Chương 3: Các giải pháp để nâng cao chính sách tài khóa ở Việt Nam
trong thời gian tới.
Học viên: Nguyễn Thị Phương Hoa - Lớp QLKT 4
2
BÀI TẬP LỚN - HỌC PHẦN: KINH TẾ VĨ MÔ
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHÍNH SÁCH TÀI KHÓA
1.1. Khái niệm về chính sách tài khóa.
Chính sách tài khóa (fical policy) có thể hiểu là các biện pháp can thiệp
của chính phủ đến hệ thống thuế khóa và chi tiêu của chính phủ nhằm
đạt được các mục tiêu của nền kinh tế vĩ mô như tăng trưởng kinh
tế, tạo công ăn việc làm hoặc ổn định giá cả và lạm phát.
Như vậy, việc thực thi chính sách tài khóa sẽ do chính phủ thực hiện liên
quan đến những thay đổi trong các chính sách thuế hoặc/và chi tiêu chính
phủ. Việc thay đổi thuế một mặt làm thay đổi thu nhập, mặt khác thuế cũng
có thể tác động đến giá cả hàng hóa. Việc thay đổi chi tiêu của chính phủ một
mặt làm ảnh hưởng đến tổng chi tiêu của xã hội, mặt khác cũng làm thay đổi
thu nhập của dân cư thông qua cac khoản trợ cấp. Thu nhập dân cư thay đổi
lại làm thay đổi mức chi tiêu của hộ gia đình. Từ đó sẽ ảnh hưởng đến sản
lượng giá cả, công ăn việc làm.
Cần phải lưu ý rằng, chỉ chính quyền trung ương (chính phủ) mới có
quyền và chức năng thực thi chính sách tài khóa, còn chính quyền địa phương
không có chức năng này. Đây cũng chính là một trong những yếu tố giúp
phân biệt giữa một chính sách tài khóa với một chính sách chi tiêu thuộc
phạm vi ngân sách theo phân cấp của chính quyền địa phương.
1.2. Phân loại chính sách tài khóa.
Để thực hiện mục tiêu ổn định kinh tế (tức là điều chỉnh tổng cầu để đưa
sản lượng trở về mức sản lượng tiềm năng), chính phủ phải sử dụng chính
sách tài khóa, chính phủ có thể thay đổi thuế ròng (T) hoặc chi tiêu mua hàng
hòa và dịch vụ (G) theo ba hướng: trung lập, mở rộng hoặc thu hẹp.
1.2.1. Chính sách tài khóa trung lập.
Chính sách trung lập là chính sách cân bằng ngân sách. Chi tiêu của
chính phủ hoàn toàn được cung cấp do nguồn thu từ thuế và nhìn chung kết
quả có ảnh hưởng trung tính lên mức độ các hoạt động kinh tế.
Học viên: Nguyễn Thị Phương Hoa - Lớp QLKT 4
3
BÀI TẬP LỚN - HỌC PHẦN: KINH TẾ VĨ MÔ
1.2.2. Chính sách tài khóa mở rộng.
Chính sách tài khoá mở rộng được áp dụng khi nền kinh tế có mức sản
lượng thấp hơn sản lượng tiềm năng. Chính sách tài khóa mở rộng là chính
sách mà Chính phủ sẽ:
- Tăng G ( chi tiêu chính phủ) tức là tăng chi mua hàng hóa và dịch vụ
sẽ trực tiếp làm tăng tổng cầu.
-
Giảm T (thuế) sẽ làm tăng thu nhập khả dụng cho hộ gia đình. Thu
nhập khả dụng tăng sẽ kích thích tiêu dùng tăng theo. Tiêu dùng tăng lại làm
tổng cầu tăng.
Khi tổng cầu tăng đường tổng cầu (AD) dịch chuyển lên trên thì làm cho
sản lượng tiến về sản lượng tiềm năng và thất nghiệp giảm xuống bằng thất
nghiệp tự nhiên.
* Cơ chế tác động của chính sách Tài khoá mở rộng:
Tăng G→↑ AD →↑ Y ↑
Giảm T→ YD→↑ C→↑ AD →↑ Y ↑
1.2.3. Chính sách tài khóa thắt chặt.
Chính sách tài khoá thắt chặt được áp dụng khi sản lượng nền kinh tế
vượt quá sản lượng tiềm năng. Khi đó chi tiêu của chính phủ sẽ :
- Giảm G (chi tiêu chính phủ) tức là giảm chi mua hàng hóa và dịch vụ,
sẽ trực tiếp làm giảm tổng cầu.
- Tăng T (thuế) sẽ làm giảm thu nhập khả dụng cho hộ gia đình. Thu
nhập khả dụng giảm sẽ hạn chế tiêu dùng. Tiêu dùng giảm thì làm tổng cầu
giảm.
Khi tổng cầu (AD) giảm đường tổng cầu dịch chuyển xuống dưới làm
cho sản lượng tiến về sản lượng tiềm năng và lúc đó sẽ khắc phục được tình
trạng lạm phát cao.
* Cơ chế tác động của chính sách Tài khoá thắt chặt:
G ↓ → AD ↓ → Y ↓
T↑→ YD→↓C→↓AD ↓ →Y↓
Học viên: Nguyễn Thị Phương Hoa - Lớp QLKT 4
4
BÀI TẬP LỚN - HỌC PHẦN: KINH TẾ VĨ MÔ
1.3. Ý nghĩa và công cụ thực hiện chính sách tài khóa.
1.3.1. Ý nghĩa của việc thực hiện chính sách tài khóa.
Nội dung cơ bản của Chính sách tài khóa là kiểm soát thu chi ngân sách
do những khoản thu chi này có tác động trực tiếp đến tăng trưởng, lạm phát
và nhiều chỉ số kinh tế vĩ mô khác. Vì thế, Chính sách tài khóa được coi là
một trong những chính sách quan trọng đối với việc ổn định và thực thi chính
sách kinh tế vĩ mô. Một Chính sách tài khóa vững mạnh sẽ thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế và làm cơ sở để các doanh nghiệp đưa ra các quyết định đầu tư
lớn. Trong mối quan hệ với giá cả, Chính sách tài khóa là một trong những
nguyên nhân cơ bản của lạm phát, một sự nới lỏng Chính sách tài khóa đều
gây áp lực tăng giá cả hàng hóa dịch vụ trên hai kênh là thúc đẩy tăng tổng
cầu và tài trợ thâm hụt.
1.3.2. Công cụ thực hiện chính sách tài khóa.
Hai công cụ chính của chính sách tài khóa là chi tiêu của chính phủ và hệ
thống thuế.
Thuế là một khoản đóng góp bắt buộc cho nhà nước do luật định đối với
các pháp nhân và thể nhân nhằm đáp ứng nhu cầu chi tiêu của nhà nước. Chi
tiêu Chính phủ là khoản tài sản được Chính phủ đưa ra dùng vào mục đích chi
mua hàng hóa và dịch vụ nhằm sử dụng cho lợi ích công cộng và điều tiết nền
kinh tế vĩ mô.
Những thay đổi về mức độ và thành phần của thuế và chi tiêu của chính
phủ có thể ảnh hưởng đến các biến số sau trong nền kinh tế:
- Tổng cầu và mức độ hoạt động kinh tế.
- Kiểu phân bổ nguồn lực.
- Phân phối thu nhập.
1.4. Mục tiêu ổn định nền kinh tế vĩ mô của chính sách tài khóa.
Chính sách tài khóa sử dụng chi tiêu chính phủ và các chương trình thuế
để kích thích nền kinh tế quốc gia trong thời gian thất nghiệp cao và lạm phát
Học viên: Nguyễn Thị Phương Hoa - Lớp QLKT 4
5
BÀI TẬP LỚN - HỌC PHẦN: KINH TẾ VĨ MÔ
thấp ( nền kinh tế suy thoái), hoặc để xoa dịu nền kinh tế trong thời kỳ lạm
phát cao và thất nghiệp thấp.
1.4.1. Khi nền kinh tế suy thoái.
Khi nền kinh tế suy thoái tức là mức sản lượng thực tế thấp hơn mức sản
lượng tiềm năng, điều đó có nghĩa là vẫn có một lượng tài nguyên chưa được
sử dụng hết, sản lượng đang nằm dưới mức sản lượng tiềm năng. Thường là
không phải vốn vật chất (vì trong ngắn hạn, vốn là cố định), mà là các nguồn
lực có thể thay đổi được, như là lao động hay các nguồn tài nguyên có thể linh
hoạt đưa vào sử dụng khác.
Trong giai đoạn này chính phủ thường dùng chính sách kích cầu để kích
thích nền kinh tế. Thông thường có ba cách để bơm cầu vào nền kinh tế.
-
Chính phủ tăng chi tiêu, tăng các khoản chuyển nhượng, hay giảm
thuế.
- Khu vực tư nhân chi tiêu nhiều hơn tiết kiệm (C và I tăng, S giảm).
- Xuất khẩu tăng nhiều hơn nhập khẩu.
.
Vậy, trong thời kỳ suy thoái, chính phủ sử dụng chính sách tài khóa mở
rộng (tăng G hoặc giảm T), nhưng phải ở mức đủ lớn để dịch chuyển đường
AD sang phải.
Lưu ý rằng giảm thuế chưa hẳn đã dẫn tới tăng chi tiêu (C) hay tăng đầu
tư (I). Bởi vì khi nhận được chính sách giảm thuế, người dân có thể chỉ tiết
kiệm phần thu nhập tăng thêm, đặc biệt là trong thời kỳ suy thoái.Ý tưởng cốt
lõi ở đây là, để tăng tổng cầu AD, người dân phải tiêu xài, chứ không phải tiết
kiệm. Làm cách nào để chính phủ có thể kích thích chi tiêu trong ngắn hạn,
mà không phải tiết kiệm. Chính phủ cần phải có chính sách giảm thuế xuất
khẩu tăng thuế nhập khẩu thích hợp để kích thích xuất khẩu tăng nhiều hơn
nhập khẩu.
1.4.2. Khi nền kinh tế lạm phát.
Khi nền kinh tế lạm phát tức là sản lượng thực tế cao hơn mức sản
lượng tiềm năng thì chúng ta cần sử dụng chính sách tài khóa thắt chặt bằng
cách.
Học viên: Nguyễn Thị Phương Hoa - Lớp QLKT 4
6
BÀI TẬP LỚN - HỌC PHẦN: KINH TẾ VĨ MÔ
- Giảm chi tiêu, hay tăng thuế.
- Khu vực tư nhân giảm chi tiêu và đầu tư (C và I).
- Nhập khẩu phải tăng nhiều hơn xuất khẩu.
Khi chính phủ thực hiện chính sách tài khóa thắt chặt sẽ làm giảm tổng
cầu từ đó dẫn đến mức sản lượng thực tế của nền kinh tế sẽ giảm và trở về
mức sản lượng tiềm năng.
1.5. Các nguyên tắc của chính sách tài khóa.
Chính sách tài khóa ngược chu kỳ là cần thiết để đưa nền kinh tế ra khỏi
tình trạng suy thoái hoặc lạm phát. Làm thế nào để các nước đang phát triển
làm cho các chính sách tài khóa bớt theo chu kỳ hơn? Sau đây là bốn nguyên
tắc tài khóa giúp chính sách tài khóa bớt thuận chu kỳ hơn:
1.5.1. Cân bằng ngân sách.
Cân bằng ngân sách là cách giữ cho thu và chi của chính phủ luôn cân
bằng.Lợi thế của chính sách này là giữ ngân sách ổn định. Chính phủ phải cân
đối giữa các khoản thu và chi từ ngân sách nhà nước trong ngắn hạn và cũng
cần dự báo và tạo ra các khoản thu trong dài hạn (bởi vì nhu cầu chi luôn là
vô tận còn các khoản thu luôn có giới hạn).
1.5.2. Nguyên tắc vàng.
Nguyên tắc tài khóa vàng (golden rule) là việc đi vay để chi tiêu sẽ
không thể tạo ra nguồn tiền cho việc trả nợ trong tương lai, ảnh hưởng đến
tính an toàn của nợ công. Thay vào đó, việc đi vay chỉ được dùng để tài trợ
cho các dự án đầu tư có khả năng thu hồi vốn hoặc ít nhất là cũng tạo ra năng
lực sản xuất cho nền kinh tế.
Việc thực hiện nguyên tắc này giúp chính phủ các nước cải thiện khả
năng trả nợ và giảm áp lực trả nợ các khoản vay của chính phủ.
Đối với các nước giàu, chính sách này có thể khả thi, mặc dù các nhà
chính trị sẽ phải cực kỳ tuân theo nguyên tắc và kỷ luật với chi tiêu của minh.
Nhưng ở các nước nghèo, chính sách này rất khó thực hiện (như là lội
ngược dòng), bởi vì chính phủ phải cắt giảm bớt đầu tư vào thời kỳ kinh tế
Học viên: Nguyễn Thị Phương Hoa - Lớp QLKT 4
7
BÀI TẬP LỚN - HỌC PHẦN: KINH TẾ VĨ MÔ
suy yếu. Chi tiêu hiện tại của chính phủ và thu thuế trong một chu kỳ kinh tế
cho phép chính phủ tiêu dùng nhiều hơn trong thời kỳ khủng hoảng. Nhưng
chính phủ ở các nước nghèo chỉ có thể vay nợ vào lúc kinh tế phát triển.
1.5.3. Nguyên tắc các quỹ bình ổn.
Nguyên tắc này nói rằng, các nguồn lợi nhuận thu được từ dầu có thể
đầu tư vào các trái phiếu quốc tế để tạo ra nguồn doanh thu dài hạn cho các
chi tiêu công kể cả khi giá nguyên liệu thấp. Khi quỹ này lớn mạnh, có thể
dùng tiền thu được từ đó để chi tiêu vào thời khó khăn, sẽ khiến chính sách tài
khóa bớt thuận chu kỳ hơn.
Tuy nhiên nguyên tắc này đòi hỏi phải rất nguyên tắc về tài khóa: các
quỹ này phải ở ngoài tầm với của các nhà chính trị.
1.5.4. Nguyên tắc 1% của Chile.
Nguyên tắc này nói rằng chính phủ cần đều đặn theo chu kỳ điều chỉnh
thặng dự ngân sách của mình phải ở mức ít nhất 1%GDP.
Nguyên tắc này được tạo ra để phá vỡ tính thuận chu kỳ của các chính
sách.
Từ năm 2001 Chile đã đều đặn theo chu kỳ điều chỉnh thặng dự ngân
sách của mình phải ở mức ít nhất 1% GDP. Vấn đề của Chile là chi tiêu và
vay mượn cao khi giá đồng tăng cao, và giảm khi giá đồng giảm – giá nguyên
liệu đồng thường ở mức 3-34% doanh thu ngân sách trong thời kỳ 1990-2006.
Các điều chỉnh theo chu kỳ có nghĩa là giá đồng cố định được dùng để
tính toán doanh thu chính phủ từ đồng, sao cho khi kinh tế bùng nổ chính phủ
không thể mặc định rằng có thể phung phí tiền của. Việc thực hiện nguyên tắc
này đòi hỏi phải có một hệ thống cơ quan tài khóa mạnh sử dụng các chuyên
gia để ước lượng những doanh thu dài hạn mà không khuyến khích nhà nước
chi tiêu quá nhiều.
Chất lượng của các định chế tài khóa là tối cao: Quy tắc nào trong số này
phát huy tác dụng hay không phụ thuộc vào mức độ minh bạch và rõ ràng của
các định chế này.
Học viên: Nguyễn Thị Phương Hoa - Lớp QLKT 4
8
BÀI TẬP LỚN - HỌC PHẦN: KINH TẾ VĨ MÔ
1.6. Những hạn chế của chính sách tài khóa.
Mặc dù các công cụ tự ổn định luôn hoạt động, các chính phủ còn thực
hiện những chính sách tài khóa chủ động để thay đổi mức chi tiêu hay thuế
suất nhằm ổn định tổng cầu. Khi các thành tố khác của tổng cầu ở mức thấp
khác thường, chính phủ có thể kích cầu bằng cách giảm thuế hoặc tăng chi
tiêu hoặc cả hai. Khi các thành tố khác của tổng cầu cao một cách bất thường,
chính phủ sẽ tăng thuế hoặc giảm chi tiêu.
Đến đây ta có thể đặt ra hai câu hỏi:
- Thứ nhất: Tại sao không thể sử dụng chính sách tài khóa để ổn định
tổng cầu một cách triệt để? Chắc chắn là bằng việc duy trì tổng cầu ở mức
toàn dụng nguồn lực, chính phủ có thể loại bỏ hoàn toàn cả bùng nổ lẫn suy
thoái.
- Thứ hai: Tại sao các chính phủ lại không muốn lới lỏng chính sách tài
khóa và tăng tổng cầu đến mức có thể loại bỏ hoàn toàn thất nghiệp?
1.6.1. Tại sao không thể triệt tiêu hoàn toàn những cú sốc đối với tổng cầu
bằng chính sách tài khóa?
* Trễ về thời gian:
Cần có thời gian để nhận thấy tổng cầu đã thay đổi. Việc thu thập số liệu
thống kê về sản lượng có thể mất 6 tháng. Sau đó cũng phải có thời gian để
thay đổi chính sách tài khóa. Các kế hoạch chi tiêu dài hạn cho quốc phòng
hoặc xây dựng các công trình trọng điểm không thể bỗng chốc thay đổi được.
Và một khi sự thay đổi chính sách đã được thực hiện, cũng phải mất thời gian
tiến hành tất cả các bước của quá trình số nhân để chính sách tài khóa mới có
đầy đủ hiệu lực.
* Sự bất định:
Chính phủ gặp phải hai vấn đề. Thứ nhất, chính phủ không biết chắc
chắn giá trị của những thông số chủ chốt, chẳng hạn như số nhân. Chính phủ
chỉ có những con số ước tính thu thập từ các số liệu trong quá khứ. Những
ước tính sai sót có thể dẫn đến những quyết định sai lầm về mức độ thay đổi
chính sách tài khóa cần thiết. Thứ hai, vì chính sách tài khóa phải qua một
Học viên: Nguyễn Thị Phương Hoa - Lớp QLKT 4
9
BÀI TẬP LỚN - HỌC PHẦN: KINH TẾ VĨ MÔ
thời gian mới phát huy tác dụng, chính phủ phải dự báo mức mà tổng cầu sẽ
đạt được vào lúc chính sách tài khóa mới phát huy đầy đủ tác dụng của nó.
Nếu hiện tại đầu tư ở mức thấp nhưng sắp tăng mạnh, thì không cần thiết hôm
nay phải nới lỏng tài khóa. Những sai sót khi dự báo các nguồn phi chính phủ
của cầu, chẳng hạn như đầu tư, có thể dẫn đến những quyết định sai lầm về
những thay đổi chính sách tài khóa cần thiết vào lúc này.
* Các tác động phái sinh đối với nhu cầu tự định:
Mô hình của chúng ta coi cầu đầu tư và cầu tiêu dùng tự định là cho
trước. Nhưng đây chỉ là sự đơn giản hóa. Những thay đổi trong chính sách tài
khóa có thể đưa đến những thay đổi mang tính bù trừ trong các cấu phần khác
của cầu tự định. Vì nếu chính phủ không ước tính chính xác những tác động
phái sinh này thì những thay đổi trong chính sách tài khóa sẽ không đạt hiệu
quả như mong muốn.
1.6.2. Tại sao chính phủ không nới lỏng chính sách tài khóa khi thất
nghiệp tăng cao?
* Thâm hụt ngân sách:
Khi sản lượng thấp và thất nghiệp tăng cao, thâm hụt ngân sách có thể
lớn. Nới lỏng chính sách tài khóa sẽ làm tăng thêm thâm hụt ngân sách. Chính
phủ có thể lo ngại về mức độ thâm hụt, lo ngại rằng thâm hụt lớn sẽ dẫn đến
lạm phát.
* Có thể chúng ta đang ở điểm toàn dụng nguồn nhân lực:
Mô hình đơn giản của chúng ta giả định rằng có những nguồn lực chưa
được sử dụng. Sản lượng do cầu quyết định. Nới lỏng chính sách tài khóa sẽ
làm tăng tổng cầu và sản lượng. Tuy nhiên, chúng ta có thể đã ở mức sản
lượng tiềm năng. Công nhân không có việc, máy móc nằm không chỉ vì họ
không muốn cung cấp các dịch vụ yếu tố của mình với mức tiền lương hoặc
tiền thuế hiện hành. Nếu như vậy, thì không còn nguồn lực dư thừa mà có thể
huy động để tăng tổng cầu. Nếu thất nghiệp cao và sản lượng thấp không phải
là kết quả của sự suy giảm cầu, mà là kết quả của sự suy giảm cung thì nới
lỏng chính sách tài khóa không có ý nghĩa gì.
Học viên: Nguyễn Thị Phương Hoa - Lớp QLKT 4
10
BÀI TẬP LỚN - HỌC PHẦN: KINH TẾ VĨ MÔ
1.7. Đặc điểm chính sách tài khóa các nước.
Chính sách tài khóa thuận chu kỳ: là chính sách tài khóa được chính phủ
các nước tiến hành chính sách tài khóa mở rộng vào lúc có lạm phát, và tiến
hành chính sách tài khóa thu hẹp vào lúc suy thoái.
Chính sách tài khóa ngược chu kỳ: là chính sách tài khóa được chính phủ
các nước tiến hành chính sách tài khóa thắt chặt (giảm chi tiêu và tăng thuế)
khi nền kinh tế đang ở trạng thái tốt, và chính sách tài khóa mở rộng (tăng chi
tiêu và giảm thuế) khi nền kinh tế đang ở trạng thái suy yếu. Chính sách tài
khóa ngược chu kỳ là cần thiết để chính phủ đưa nền kinh tế của đất nước
thoát khỏi tình trạng suy thoái hoặc lạm phát.
Thế nhưng do đặc điểm và trình độ phát triển kinh tế của các nước khác
nhau tạo ra các yếu tố tác động khác nhau làm cho chính sách tài khóa có xu
hướng ngược chiều hay thuận chiều.
1.7.1. Đặc điểm chính sách tài khoá của các nước phát triển.
Ở các nước phát triển có nền kinh tế phát triển cho nên chế độ phúc lợi
xã hội rất tốt đồng thời thu nhập của người dân cũng rất cao vì vậy mức đóng
góp của họ cũng chiếm tỷ trọng lớn trong ngân sách quốc gia.
Các nước phát triển có thể thực hiện chính sách tài khóa ngược chu kỳ
thông qua các công cụ bình ổn tự động (autonomatic stabilizers). Gọi là công
cụ bình ổn tự động bởi vì chính cơ chế vận hành của các công cụ này “tự
động” đảm bảo chính sách tài khóa ngược chu kỳ.
Chẳng hạn, khi suy thoái, thất nghiệp tăng lên, khiến bảo hiểm thất
nghiệp và các khoản chuyển nhượng xã hội tăng lên theo. Để giúp đỡ người
dân, chính phủ tăng các khoản trợ cấp, bảo hiểm, hỗ trợ người nghèo. Có
nghĩa là chi tiêu chính phủ đã tăng trong thời kỳ suy thoái, giúp kích thích nền
kinh tế.Tương tự, chính sách thuế cũng có thể ngược chu kỳ, chẳng hạn khi
suy thoái thu nhập cá nhân giảm làm doanh số thu được từ thuế của chính phủ
cũng giảm theo.
Như vậy ở các nước phát triển nhờ công cụ bình ổn tự động làm cho
chính sách tài khóa ngược chu kỳ hơn.
Học viên: Nguyễn Thị Phương Hoa - Lớp QLKT 4
11
BÀI TẬP LỚN - HỌC PHẦN: KINH TẾ VĨ MÔ
1.7.2. Đặc điểm chính sách tài khóa của các nước đang phát triển.
Ở các nước đang phát triển, chính phủ chi tiêu nhiều hơn cho các khoản
đầu tư và các khoản công ích xã hội vào thời thịnh, và cắt giảm chi tiêu vào
thời suy. Và chính phủ cũng rất khó cắt giảm nhu cầu chi tiêu cho y tế, giáo
dục, và cơ sở hạ tầng vào những lúc kinh tế phát triển.Có nhiều lý do khiến
cho ở các nước đang phát triển, chính sách tài khóa có xu hướng thuận chu
kỳ. Chính phủ cảm thấy ngân sách “xông xênh hơn” do hiệu ứng của cải, tăng
đầu tư công, mở rộng các dự án nhà nước. Trong thời thịnh, giá nhiên liệu
tăng lên, tạo áp lực cho mức giá chung, thuế thu được cho chính phủ cũng
tăng theo, và chính phủ tiếp tục tăng chi tiêu. Áp lực chính trị cũng tạo động
cơ cho chính phủ tăng chi tiêu vào thời kỳ kinh tế phát triển tốt.
Cho đến khi nền kinh tế lâm vào tình trạng suy yếu, câu chuyện ngược
lại xảy ra khi dòng vốn chạy ra khỏi nền kinh tế, dẫn tới một hiện tượng mà
các nhà kinh tế gọi là “cú dừng đột ngột”(sudden stop). Chính phủ phải đối
mặt với lượng vốn đầu tư giảm đột ngột, và buộc phải giảm thâm hụt bằng
cách cắt giảm chi tiêu. Chính vì vậy, khi nền kinh tế suy yếu, G giảm, chính
sách tài khóa rất thuận chu kỳ.
Ở các nước nghèo, chi tiêu chính phủ chủ yếu dành cho hai khoản: chi
lương cho công chức, và chi đầu tư. Ở Indonesia, khi đất nước lâm vào suy
thoái và chính phủ buộc phải cắt giảm ngân sách, họ thà cắt giảm đầu tư còn
hơn là cắt giảm lương, vì các lý do chính trị. Đa phần các chính phủ sẽ thường
bị ám ảnh và việc dễ nhất là cắt giảm đầu tư, đặc biệt ở các nước đang phát
triển.
Trong dài hạn, chi tiêu chính phủ dưới dạng đầu tư, như là xây cầu
đường, cơ sở hạ tầng…, có quan hệ chặt chẽ với tăng trưởng. Nếu không có
những dự án công này, thật khó có thể tăng thuế trong dài hạn. Đôi khi cắt
giảm đầu tư là cần thiết, nhưng ở các nước đang phát triển, điều tệ hại hơn là
chính phủ cắt giảm các khoản chi tiêu có thể thúc đẩy tăng trưởng tương lai.
Vậy, ở các nước đang phát triển do đặc điểm phát triển kinh tế, xã hội
làm cho chính sách tài khóa là rất thuận chu kỳ.
Học viên: Nguyễn Thị Phương Hoa - Lớp QLKT 4
12
BÀI TẬP LỚN - HỌC PHẦN: KINH TẾ VĨ MÔ
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH TÀI KHÓA Ở
VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2010-2014
2.1. Tổng quan nền kinh tế Việt Nam giai đoạn 2010-2014.
Nền kinh tế Việt Nam có thể đã ở trong mẫu hình suy giảm kép khi tăng
trưởng chỉ hồi phục nhẹ vào năm 2010 và nối tiếp sau đó là 2 năm liên tục suy
giảm tăng trưởng. Tuy tăng trưởng vẫn dương và không rơi vào suy thoái,
một nền kinh tế rơi vào mẫu hình này không dễ dàng hồi phục vì kỳ vọng của
người tiêu dùng và doanh nghiệp có tính ỳ cao. Diễn biến các năm 2012 và
2013 minh hoạ sự chậm chạp đó, đến năm 2014 tăng trưởng kinh tế của Việt
Nam chưa cao nhưng có sự khởi sắc.
Bảng 1.1. Tốc độ tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam giai đoạn 2010-2014
Đơn vị: %
Chỉ tiêu
Tăng trưởng kinh
tế GDP
Nông, lâm nghiệp
và thủy sản
Công
nghiệp
xây dụng
Dịch vụ
2010
2011
Năm
2012
2013
2014
11/10
Tỷ lệ %
12/11 13/12
14/13
6,78
5,89
5,03
5,42
5,8
-13,12 -14,6
9,35
5,45
2,77
4,00
2,72
2,30
2,5
44,4
-15,44
8,69
7,70
5,53
4,52
5,7
6,5
-28,18 -18,26 26,12
14,03
7,52
7,01
6,42
6,5
6,5
-6,78
0
-32.2
và
-8,41
1,24
Theo số liệu của Tổng cục Thống kê
Tăng trưởng kinh tế năm 2011 đạt 5,89% giảm 13,12% so với năm 2010,
và tiếp tục giảm 14,6% vào năm 2012 tăng trưởng kinh tế chỉ đạt 5,03%. Đến
năm 2013-2014 nền kinh tế Việt Nam có chút biến chuyển tốc độ tăng của
GDP năm 2013 tăng 9,35% so với năm 2012, năm 2014 tăng trưởng kinh tế
của nước ta đạt 5,8% tăng 5,45% so với năm 2013. Tuy rằng giai đoạn 20132014 tăng trưởng kinh tế tăng nhưng vẫn nằm dưới ngưỡng trung bình đặt ra
là 7% một năm.
Biểu đồ 2.1: Tốc độ tăng trưởng GDP theo ngành 2010-2014 (%)
Học viên: Nguyễn Thị Phương Hoa - Lớp QLKT 4
13
BÀI TẬP LỚN - HỌC PHẦN: KINH TẾ VĨ MÔ
Theo số liệu của Tổng cục Thống kê
Tăng trưởng kinh tế chậm lại trong năm 2011 và 2012 đã dấy lên những
quan ngại về nguy cơ suy giảm sâu hơn và sẽ cần nhiều năm để hồi phục về
giai đoạn trước suy giảm. Với tốc độ tăng trưởng năm 2013 và năm 2014, so
sánh với mức tăng của các năm trước, thì biểu hiện của sự trầm lắng là rõ
ràng và nền kinh tế không dễ đạt trở lại mức tăng của giai đoạn trước. Sự
phục hồi mới manh nha ở một số lĩnh vực và nếu có thì vẫn tương đối yếu so
với giai đoạn trước.
- Năm 2011:
Tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước: Tổng sản phẩm trong nước
(GDP) năm 2011 ước tính tăng 5,89% so với năm 2010 và tăng đều trong cả
ba khu vực. Tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước năm nay tuy thấp hơn mức
tăng 6,78% của năm 2010 nhưng trong điều kiện tình hình sản xuất rất khó
khăn và cả nước tập trung ưu tiên kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô
thì mức tăng trưởng trên là khá cao và hợp lý. Trong 5,89% tăng chung của
nền kinh tế, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 4%; khu vực công
nghiệp và xây dựng tăng 5,53%và khu vực dịch vụ tăng 6,99%.
- Năm 2012:
Học viên: Nguyễn Thị Phương Hoa - Lớp QLKT 4
14
BÀI TẬP LỚN - HỌC PHẦN: KINH TẾ VĨ MÔ
Tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước: Theo số liệu của Tổng cục
Thống kê, tăng trưởng GDP năm 2012 ước tính tăng 5,03% so với năm 2011,
đây là mức thấp hơn dự kiến. (5,2%). Trong 5,03% tăng trưởng chung của
toàn nền kinh tế, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 2,72%, khu vực
công nghiệp và xây dựng tăng 4,52%, khu vực dịch vụ tăng 6,42%.
Theo nhận định của Tổng cục Thống kê: Mức tăng trưởng năm nay tuy
thấp hơn mức tăng 5,8% của năm 2011 nhưng trong bối cảnh kinh tế thế giới
gặp khó khăn, cả nước tập trung thực hiện mục tiêu ưu tiên kiềm chế lạm
phát, ổn định kinh tế vĩ mô thì mức tăng như vậy là hợp lý và thể hiện xu
hướng cải thiện qua từng quý, khẳng định tính kịp thời, đúng đắn, và hiệu quả
của các biện pháp và giải pháp thực hiện của Trung ương Đảng, Quốc hội và
Chính phủ.
- Năm 2013:
Tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước: Tổng sản phẩm trong nước
(GDP) năm 2013 ước tính tăng 5,42% so với năm 2012. Mức tăng trưởng
năm nay tuy thấp hơn mục tiêu tăng 5,5% đề ra nhưng cao hơn mức tăng
5,03% của năm 2012 và có tín hiệu phục hồi. Trong bối cảnh kinh tế thế giới
những năm qua có nhiều bất ổn, sản xuất trong nước gặp khó khăn, lạm phát
tăng cao, Chính phủ tập trung chỉ đạo quyết liệt các ngành, các cấp thực hiện
ưu tiên kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô nên đây là mức tăng hợp lý,
khẳng định tính đúng đắn, kịp thời, hiệu quả của các biện pháp, giải pháp
được Chính phủ ban hành.
- Năm 2014:
Tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước: Tổng sản phẩm trong nước
(GDP) năm 2014 ước tính tăng 5,8% so với năm 2013. Mức tăng trưởng năm
nay cao hơn mức tăng 5,25% của năm 2012 và mức tăng 5,42% của năm
2013 cho thấy dấu hiệu tích cực của nền kinh tế. Trong mức tăng 5,98% của
toàn nền kinh tế, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 3,49%, cao hơn
mức 2,64% của năm 2013; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 7,14%, cao
hơn nhiều mức tăng 5,43% của năm trước; khu vực dịch vụ tăng 5,96%.
Học viên: Nguyễn Thị Phương Hoa - Lớp QLKT 4
15
BÀI TẬP LỚN - HỌC PHẦN: KINH TẾ VĨ MÔ
2.2. Thực trạng chính sách tài khóa ở Việt Nam giai đoạn 2010-2014.
2.2.1. Về thực trạng thu ngân sách nhà nước.
Cùng với đà tăng trưởng kinh tế cả năm 2014 cao nhất kể từ năm 2011,
hoạt động thu ngân sách nhà nước (NSNN) năm 2014 đã vượt con số dự toán.
Mặc dù vậy, tốc độ tăng thu NSNN thấp hơn so với chi NSNN, dẫn đến tình
hình bội chi vẫn ở mức 5,3%. Đây là một thách thức đối với thu NSNN trong
bối cảnh mục tiêu tỷ lệ bội chi so với GDP giảm xuống là 5%vào năm 2015.
Không chỉ khó khăn về số lượng, chất lượng nguồn thu NSNN và cơ
cấu nguồn thu đang cho thấy thiếu tính bền vững. Cụ thể, tỷ lệ thu NSNN trên
GDP hàng năm đang có xu hướng giảm và cơ cấu các khoản thu thiếu tính
bền vững. Tỷ trọng các khoản thu từ thuế và phí cao hơn so với các quốc gia
trong khu vực đã làm giảm khả năng tích lũy, nhu cầu tiêu dùng và đầu tư của
nền kinh tế Việt Nam. Ngoài ra, các khoản thu từ thuế xuất nhập khẩu, tiêu
thụ đặc biệt và thuế giá trị gia tăng đối với hàng nhập khẩu, khoản thu từ dầu
thô, thu viện trợ chiếm tỷ trọng tới hơn 1/3 tổng thu. Trong khi đó giá dầu thế
giới đang trên đà giảm mạnh. Mức giá dầu cuối năm 2014 đã giảm gần 50%
kể từ tháng 6/2014 và gần 40% kể từ tháng 9/2014. Đặc biệt, theo dự báo của
ngân hàng thế giới, mức giá thấp như hiện tại sẽ kéo dài ít nhất trong năm
2015 và có thể chỉ tăng nhẹ trong năm 2016. Khi thu từ dầu thô vẫn chiếm
hơn 10% trong tổng thu NSNN thì việc giá dầu giảm mạnh sẽ ảnh hưởng
đáng kể tới thu ngân sách.
Điều này cho thấy vấn đề bất cập trong cơ cấu thu NSNN và tính thiếu
bền vững do cơ cấu thu NSNN chưa hợp lý.Thêm vào đó, trong tương lai khi
Việt Nam phải tiến hành lộ trình cắt giảm thuế xuất nhập khẩu theo cam kết
WTO, nguồn thu từ dầu thô bị hạn chế và các khoản thu viện trợ không còn
dồi dào như trước thì tổng nguồn thu ngân sách sẽ sụt giảm.
Bảng 2.2: Nguồn thu ngân sách nhà nước giai đoạn 2010-2014
Đơn vị: Tỷ đồng
Học viên: Nguyễn Thị Phương Hoa - Lớp QLKT 4
16
BÀI TẬP LỚN - HỌC PHẦN: KINH TẾ VĨ MÔ
Stt
Nội dung
Thực
Thực
Thực
Thực
Thực
hiện
hiện
hiện
hiện
hiện
2010
2011
2012
2013
2014
Tỷ lệ %
11/10
12/11
13/12
14/13
TỔNG THU
A
NGÂN SÁCH NHÀ
560.170 684.500
765.590 790.800 831.190
22.20
11.85
3.29
5.11
20.63
10.18
5.73
5.78
467.430 530.000 565.950
19.92
9.98
13.39
6.78
140.107 115.000 100.880
44.57
40.11
-17.92
-12.28
127.828 140.800 160.930
10.68
-11.23
10.15
14.30
0
42.27
-36.10
-100
900
124
-100
NƯỚC
I
Thu cân đối ngân
559.17
674.50
sách nhà nước
0
354.40
0
1
Thu nội địa
2
Thu từ dầu thô
Thu từ xuất khẩu,
3
4
II
nhập khẩu
Thu viện trợ
không hoàn lại
Thu chuyển nguồn
425.000
0
69.170 100.000
144.00
130.100
0
743.190
5.500
5.500
7.825
1.000
10.000
22.400
785.80
831.19
0
0
5.000
Nguồn: Bộ tài chính.
Biểu đồ 2.2: Nguồn thu ngân sách nhà nước giai đoạn 2010-2014
Nhìn vào biểu đồ 2.2 ta thấy tổng nguồn thu ngân sách nhà nước tăng
đều qua các năm. Năm 2011 nguồn thu ngân sách nhà nước đạt 684.500 tỷ
đồng tăng 22,2% so với năm 2010. Năm 2012 thu ngân sách nhà nước tiếp tục
tăng 11,85% so với năm 2011 và đạt 765.790 tỷ đồng. Năm 2013 nguồn thu
ngân sách có tăng tuy nhiên tăng với tỷ lệ ít là 3,92% so với năm 2012 đạt
Học viên: Nguyễn Thị Phương Hoa - Lớp QLKT 4
17
BÀI TẬP LỚN - HỌC PHẦN: KINH TẾ VĨ MÔ
790.800 tỷ đồng. Năm 2014 thu ngân sách nhà nước đạt 831.190 tỷ đồng tăng
5,11% so với năm 2013. Nhìn chung ngân sách nhà nước tăng qua các năm
tăng chủ yếu từ nguồn thu nội địa.
* Thu ngân sách nhà nước năm 2010: Thu NSNN năm 2010: 560.170 tỷ
đồng, đạt tỷ lệ động viên 23,9% GDP, trong đó từ thuế và phí là 22,4% GDP.
Gồm:
a. Dự toán thu nội địa (không kể dầu thô): 354.400 tỷ đồng, tăng 23% so
với ước thực hiện 2009; không kể thu tiền sử dụng đất thì tăng 25,4%.
Về cơ cấu lĩnh vực, dự toán thu từ khu vực kinh tế quốc doanh tăng
22,4% so với ước thực hiện năm 2009; thu từ khu vực doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài tăng 26,1%; thu từ khu vực công thương nghiệp ngoài quốc
doanh tăng 37,3%; thu thuế thu nhập cá nhân tăng 41,4%.
Về quy mô, thu ngân sách năm 2010 có 13 địa phương thu nội địa đạt
trên 3.000 tỷ đồng, trong đó 9 địa phương thu trên 5.000 tỷ đồng, tăng 03 địa
phương so với ước thực hiện năm 2009 (Quảng Ngãi, Hải Phòng và Quảng
Ninh).
b. Thu dầu thô: 69.170 tỷ đồng, tăng 14,3% so với ước thực hiện 2009
trên cơ sở:
- Thu từ dầu thô 66.100 tỷ đồng, với sản lượng dự kiến đạt 14,41 triệu
tấn, giảm 01 triệu tấn so với sản lượng ước thực hiện năm 2009.
- Thực hiện thu vào NSNN 5.200 tỷ đồng (tương đương với 300 triệu
USD) đối với khoản kết dư chi phí của Xí nghiệp liên doanh Vietsovpetro
(phần được trích từ doanh thu theo quy định, nhưng chưa sử dụng hết trong
một số năm).
c. Thu cân đối từ hoạt động xuất nhập khẩu: Thu được xây dựng trên cơ
sở dự kiến kim ngạch xuất khẩu năm 2010 đạt khoảng 60 tỷ USD, tăng 6,2%,
kim ngạch nhập khẩu đạt khoảng 73,6 tỷ USD, tăng 9% so với ước thực hiện
2009. Thu năm 2010 cũng đã tính tới yếu tố đẩy mạnh công tác xử lý, thu hồi
nợ đọng, cải cách hành chính, thủ tục hải quan và công tác kiểm tra sau thông
Học viên: Nguyễn Thị Phương Hoa - Lớp QLKT 4
18
BÀI TẬP LỚN - HỌC PHẦN: KINH TẾ VĨ MÔ
quan, tăng cường đấu tranh chống buôn lậu, chống gian lận thương mại và
trốn thuế.
Trên cơ sở đó, thu từ hoạt động xuất nhập khẩu năm 2010 là 131.500 tỷ
đồng, tăng 6,9% so với ước thực hiện năm 2009.
(4) Thu viện trợ không hoàn lại: 5.000 tỷ đồng, bằng dự toán năm 2009.
Tổng hợp chung, dự toán thu cân đối ngân sách nhà nước năm 2010 là
461.500 tỷ đồng, tăng 18,1% so ước thực hiện năm 2009, đạt mức động viên
thu 23,9% GDP, trong đó từ thuế và phí đạt 22,4% GDP. Trong tổng dự toán
thu cân đối NSNN, dự toán thu cân đối NSTW là 302.472 tỷ đồng, tăng
40.331 tỷ đồng; dự toán thu cân đối NSĐP là 159.028 tỷ đồng, tăng 32.269 tỷ
đồng so dự toán năm 2009.
* Thu ngân sách nhà nước năm 2011: Thu cân đối NSNN năm 2011 là
595.000 tỷ đồng; ước cả năm đạt 674.500 tỷ đồng, vượt 13,4% so với dự toán,
tăng 20,6% so với thực hiện năm 2010, tỷ lệ động viên từ thuế và phí đạt
20,3% GDP. Kết quả thực hiện ở một số lĩnh vực thu cụ thể như sau:
a. Thu nội địa:
Năm 2011 ước cả năm đạt 425.000 tỷ đồng, vượt 11,3% so dự toán, tăng
19,9% so thực hiện năm 2010; không kể thu tiền sử dụng đất (ước đạt 43.500
tỷ đồng, tăng 13.500 tỷ đồng so dự toán) thì vượt 8,4% so dự toán, tăng 22%
so thực hiện năm 2010.
Các lĩnh vực thu lớn ước đạt và vượt dự toán, trong đó: thu từ kinh tế
quốc doanh vượt 0,8% dự toán; thu thuế công thương nghiệp ngoài quốc
doanh vượt 10,6% dự toán; thu từ khu vực doanh nghiệp đầu tư nước ngoài
vượt 11,3% dự toán; thuế thu nhập cá nhân vượt 28,6% dự toán... Các địa
phương cơ bản thu đạt và vượt dự toán giao.
b. Thu từ dầu thô:
Năm 2011 về sản lượng, ước cả năm đạt 14,13 triệu tấn, tăng 0,11 triệu
tấn so kế hoạch. Với mức giá và sản lượng dầu thô dự kiến này, ước thu ngân
sách từ dầu thô cả năm đạt 100.000 tỷ đồng, vượt 30.700 tỷ đồng so dự toán,
tăng 44,6% so với thực hiện năm 2010.
Học viên: Nguyễn Thị Phương Hoa - Lớp QLKT 4
19
BÀI TẬP LỚN - HỌC PHẦN: KINH TẾ VĨ MÔ
c. Thu cân đối từ hoạt động xuất, nhập khẩu:
Trên cơ sở dự kiến kim ngạch xuất nhập khẩu năm 2011, ước tổng thu từ
hoạt động xuất nhập khẩu cả năm đạt 205.000 tỷ đồng, vượt 13,4% so dự
toán, sau khi trừ ước chi hoàn thuế giá trị gia tăng 61.000 tỷ đồng, dự kiến thu
cân đối ngân sách từ hoạt động xuất nhập khẩu năm 2011 đạt 144.000 tỷ
đồng, tăng 3,8% so dự toán.
Số thu ngân sách từ hoạt động xuất nhập khẩu đạt khá chủ yếu do trị giá
hàng hoá nhập khẩu các mặt hàng chịu thuế tăng lớn so với kế hoạch do giá
thế giới tăng và điều chỉnh tỷ giá. Bên cạnh đó, nhiều chính sách thu trong
lĩnh vực xuất nhập khẩu cũng đã được thực hiện nhằm ổn định kinh tế vĩ mô,
kiềm chế nhập siêu. Ngành Hải quan tiếp tục đẩy mạnh thực hiện rà soát, sửa
đổi, bổ sung, cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực thu thuế xuất nhập
khẩu, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp, tăng cường các biện pháp chống buôn
lậu, gian lận thương mại. Qua đó, góp phần tăng thu cho NSNN.
d. Thu viện trợ:
Dự toán 5.000 tỷ đồng, ước cả năm đạt 5.500 tỷ đồng, vượt 10% so dự
toán.
* Thu ngân sách nhà nước năm 2012: Tuy những tháng cuối năm thu
NSNN gặp khó khăn nhưng với quyết tâm cao, nên thực hiện thu ngân sách
cả năm đạt 743.190 tỷ đồng; tỷ lệ huy động thu nội địa (trừ thu tiền sử dụng
đất, tiền bán nhà ở thuộc sở hữu nhà nước) đạt 14,3% GDP. Cụ thể như sau:
a. Thu nội địa:
Kết quả thực hiện đạt 467.430 tỷ đồng, trong đó thu tiền sử dụng đất đạt
45.109 tỷ đồng, tăng 21,9% so dự toán đầu năm.
Tình hình kinh tế khó khăn, tăng trưởng kinh tế đạt thấp hơn so với kế
hoạch, hoạt động sản xuất -kinh doanh gặp nhiều khó khăn, tiêu thụ sản phẩm
chậm, hàng tồn kho cao, số doanh nghiệp giải thể và ngừng hoạt động ở mức
cao... là yếu tố chính tác động đến số thu ngân sách. Thực tế, hầu hết các
khoản thu trực tiếp từ hoạt động sản xuất-kinh doanh trong năm 2012 đều
không đạt dự toán. Cụ thể, thu từ khu vực kinh tế quốc doanh đạt 92,3%, thu
Học viên: Nguyễn Thị Phương Hoa - Lớp QLKT 4
20
BÀI TẬP LỚN - HỌC PHẦN: KINH TẾ VĨ MÔ
từ khu vực doanh nghiệp đầu tư nước ngoài đạt 84,8%, thu thuế công thương
nghiệp ngoài quốc doanh đạt 84,2%.
b. Thu về dầu thô:
Thực hiện cả năm đạt 140.107 tỷ đồng, trên cơ sở giá dầu bình quân năm
đạt 116,5 USD/thùng, tăng 31,5 USD/thùng so với thời điểm dự toán đầu
năm; sản lượng thanh toán đạt 15,28 triệu tấn, tăng 530 nghìn tấn so kế hoạch.
c. Thu cân đối từ hoạt động xuất, nhập khẩu:
Thực hiện thu ngân sách từ hoạt động xuất nhập khẩu cả năm đạt
197.828 tỷ đồng, bằng 88,4% dự toán, sau khi thực hiện hoàn thuế giá trị gia
tăng theo chế độ 70.000 tỷ đồng, thu cân đối ngân sách cả năm đạt 127.828 tỷ
đồng, bằng 83,1% (giảm 26.072 tỷ đồng) dự toán năm 2012. Nguyên nhân
chủ yếu do: Kim ngạch nhập khẩu các mặt hàng chịu thuế giảm, bình quân
giảm 6,1% trong đó một số mặt hàng có thuế suất cao giảm mạnh (ô tô, rượu,
mỹ phẩm, điện thoại di động...); kết hợp với việc thực hiện các quy định chặt
chẽ đối với một số mặt hàng nhập khẩu chịu thuế suất cao, như ô tô, rượu mỹ
phẩm, điện thoại di động...
d. Thu viện trợ không hoàn lại:
Thực hiện cả năm đạt 7.825 tỷ đồng, tăng 56,5% (2.825 tỷ đồng) so dự
toán. Nguyên nhân chủ yếu là do phát sinh tăng khoản viện trợ của các
chương trình, dự án cứu trợ xã hội, thực hiện ghi thu-ghi chi quản lý qua ngân
sách.
Tóm lại, trên cơ sở phấn đấu quyết liệt, thực hiện thu NSNN năm 2012
cơ bản đạt dự toán Quốc hội quyết định (vượt 0,4% so dự toán), trong đó cơ
cấu nguồn thu có sự thay đổi như: số thu nội địa giảm 27.170 tỷ đồng và thu
cân đối ngân sách từ hoạt động xuất nhập khẩu giảm 26.072 tỷ đồng so dự
toán nhưng lại được bù đắp bằng số vượt thu từ dầu thô 53.107 tỷ đồng so dự
toán.
* Thu ngân sách nhà nước năm 2013: Tổng thu cân đối NSNN năm
2013 đạt 790.800 tỷ đồng tăng 3,29% so với năm 2012. Trong đó:
a. Thu nội địa:
Học viên: Nguyễn Thị Phương Hoa - Lớp QLKT 4
21
BÀI TẬP LỚN - HỌC PHẦN: KINH TẾ VĨ MÔ
Năm 2013 đạt 530.000 tỷ đồng, tăng 13,39% so với năm 2012. Có 9/14
khoản thu, sắc thuế thu đạt và vượt so với cùng kỳ năm 2012, nhưng chủ yếu
là các khoản thu nhỏ (như: lệ phí trước bạ; phí, lệ phí; thu bán nhà ở thuộc sở
hữu nhà nước; thu khác ngân sách...); 5 khoản thu còn lại thấp hơn cùng kỳ,
trong đó có các khoản thu quan trọng như: thu từ khu vực doanh nghiệp nhà
nước (bằng 89,1%), thuế thu nhập cá nhân (bằng 96,2%) và thu tiền sử dụng
đất (bằng 76,4%). Nguyên nhân chủ yếu do: tình hình sản xuất – kinh doanh
của các doanh nghiệp tuy có chuyển biến nhưng vẫn còn khó khăn, sức mua
thấp, tăng trưởng kinh tế đạt thấp so dự kiến.
b. Thu về dầu thô:
Đạt 115.000 tỷ đồng, giảm 17,92% so với năm 2012. Nguyên nhân do
giá dầu thanh toán năm 2013 đạt 112USD/thùng, giảm 4,5 USD/thùng so với
giá năm 2012.
c. Thu ngân sách từ hoạt động xuất nhập khẩu :
Năm 2014 đạt 140.800 tỷ đồng, tăng 10,15% so với năm 2012. Tổng kim
ngạch xuất nhập khẩu năm 2013 về cơ bản vẫn duy trì được đà tăng trưởng
khá so với cùng kỳ năm 2012 (kim ngạch xuất khẩu tăng 16,9% và kim ngạch
nhập khẩu tăng 18%). Mặc dù vậy, số thu từ hoạt động xuất nhập khẩu chưa
cao chủ yếu do kim ngạch một số mặt hàng nhập khẩu chịu thuế suất cao (ô tô
nguyên chiếc, xe máy nguyên chiếc, xăng dầu...) giảm.
* Thu ngân sách nhà nước năm 2014: Tổng thu ngân sách nhà nước
(NSNN) năm 2014 ước đạt 858.053 tỷ đồng, bằng 109,6% dự toán. Trong đó,
thu nội địa bằng 107,5% dự toán, thu từ dầu thô bằng 117,5% dự toán, thu cân
đối ngân sách từ hoạt động xuất nhập khẩu đạt 112,9% dự toán. Hầu hết các
địa phương đều thu đạt và vượt dự toán được giao.
Có thể thấy, kết quả thu NSNN năm 2014 như trên là khá tích cực bởi
bên cạnh các yếu tố thuận lợi là kinh tế vĩ mô ổn định, lạm phát được kiểm
soát, lãi suất huy động và cho vay giảm, tỷ giá, thị trường ngoại tệ ổn định, dự
trữ ngoại tệ tăng cao, xuất khẩu duy trì đà tăng trưởng... vẫn còn có những
yếu tố không thuận. Cụ thể:
Học viên: Nguyễn Thị Phương Hoa - Lớp QLKT 4
22
BÀI TẬP LỚN - HỌC PHẦN: KINH TẾ VĨ MÔ
Thứ nhất: Kinh tế thế giới tăng trưởng chậm hơn dự báo. Bên cạnh đó,
căng thẳng địa chính trị ở nhiều nơi cộng với việc giá dầu giảm sâu và nhanh
đã tác động đến nguồn thu ngân sách.
Thứ hai: Ở trong nước, năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh
của nền kinh tế còn thấp, tổng cầu tăng chậm, thị trường bất động sản phục
hồi chậm, sản xuất kinh doanh của nhiều doanh nghiệp (DN) còn khó khăn...
Thứ ba: Việc Quốc hội, Chính phủ ban hành các chính sách miễn, giảm,
giãn thuế và các khoản thu NSNN cho các đối tượng an sinh xã hội hay để
tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh cũng đã làm giảm thu NSNN.
2.2.2. Về thực trạng chi và bội chi ngân sách nhà nước.
Trong khi nguồn thu gặp nhiều khó khăn thì nhu cầu chi tiêu từ ngân
sách vẫn rất lớn, đẩy ngân sách vào tình trạng bội chi hơn mức mục tiêu của
Chính phủ. Thực tế chi ngân sách trong giai đoạn vừa qua có một số đặc điểm
sau:
Thứ nhất, chi thường xuyên vẫn chiếm tỷ trọng lớn hơn nhiều so với chi
đầu tư phát triển, và có xu hướng tăng dần từ mức 60% dự toán năm 2012 lên
mức trên 67% dự toán trong năm 2013, và lên tới 70% trong dự toán của năm
2014. Trong khi đó, chi đầu tư phát triển trong năm 2013 giảm cả số tuyệt đối
lẫn số tương đối so với năm 2012 (175 tỷ so với180 tỷ; và 17,9% dự toán so
với 20%). Trong bối cảnh nhu cầu vốn đầu tư cho nền kinh tếđang thiếu hụt
thì việc cắt giảm chi đầu tư phát triển có thể là một trong những nguyên nhân
khiến kinh tế khó có khả năngtăng trưởng mạnh.
Thứ hai, dự toán chi cũng như nhiều khoản chi vượt địnhmức, không
tính toán cân đối với khoản thu thực tế. Năm 2013 đã chứng kiến tổng thu
NSNN đã không đạt kế hoạch sau nhiều năm vượt dự toán. Việc dự toán thu
NSNN quá cao dựa vào kỳ vọng nền kinh tế đã “thoát đáy” đã khiến cho việc
chi ngân sách gặp khó khăn, đưa bội chi NSNN lên cao và Chính phủ đã
quyết định nới trần bội chi so với GDP từ 4,8% lên 5,3%. Do đó, dự toán thu
Học viên: Nguyễn Thị Phương Hoa - Lớp QLKT 4
23