Hoàng đàn
Cập nhật ngày 17/4/2009 lúc 11:04:00 AM. Số lượt đọc: 3354.
Ở Việt Nam cá thể có thể là loài Cupressus tonkinensis mọc tự nhiên cuối cùng được biết
là ở khu BTTN Hữu Liên tại Lạng Sơn đã bị lửa rừng thiêu huỷ vào tháng Giêng năm 2004
(Thomas & Nguyen Duc To Luu 2004b). Thông tin về Hoàng đàn ở Na Hang, Tuyên Quang
là Hoàng đàn giả (Dacrydium elatum). Thông tin về Hoàng đàn ở Đồng Văn, Hà Giang (Lê
Trần Chấn và cộng sự, 2000) cần được kiểm tra. Hiện trạng của loài ở Trung Quốc cũng
cần xác định thêm. Phân bố của loài C. funebris ở Việt Nam, cũng như ở Trung Quốc cần
được làm rõ trước khi loài này được coi là cây bản địa của Việt Nam.
Nón hạt của cây Hoàng đàn - Cupressus sp.
(ảnh Nguyễn Đức Tố Lưu)
Thông tin chung
Tên thường gọi: Hoàng đàn
Tên tiếng Anh:
Tên khoa học: Calocedrus sp.
Thuộc họ Trắc bách diệp - Cupressaceae
Các tài liệu trước đây về Thông Việt Nam đã giám định những cây Hoàng đàn tìm thấy ở
Lạng Sơn và Đông Bắc Việt Nam làC. torulosa D.Don (Nguyen Tien Hiep & Vidal, 1996; Vu
Van Dung, 1996). C. torulosa có phân bố tự nhiên hạn chế ở dãy Himalaya. Loài cây nhập
nội khác làC. lusitanica cũng được trồng phổ biến ở các nước nhiệt đới và một số mẫu cây
khô ở Việt Nam được xem là của loài này (Farjon, 2002). Những cây Hoàng đàn mọc tự
nhiên và nhiều cây trồng ở Lạng Sơn cho thấy không phải là loài C. torulosa. Loài C.
tonkinensis Silba được mô tả năm 1994 dựa trên các mẫu cây khô thu từ Lạng Sơn vào
những năm 1919 và một số mẫu cây khô khác từ Quảng Tây thu cùng thời gian (Silba,
1994). So sánh hình thái và di truyền các vật liệu thu từ các cây tự nhiên và cây trồng có
nguồn gốc xác định ở Đông Bắc Việt Nam cho thấy nhiều khả năng đây là một taxon
riêng biệt mà rất gần với loài C. funebris (Nguyễn Đức Tố Lưu & Thomas, 2004, Thomas
et al., in prep.). Thông tin về loài Cupressus funebris ở Hà Giang (Le Tran Chan et al.,
2000) cần được kiểm tra. Cupressus funebris có lịch sử gây trồng rất lâu đời ở Trung
Quốc, đặc biệt là ở các đình chùa và phân bố tự nhiên của loài không xác định (Farjon, in
press). Hiện diện củaCupressus funebris ở Bắc Việt Nam có thể là kết quả của sự tự
nhiên hoá từ cây trồng.
Hiện trạng bảo tồn
Hiện trạng quốc tế CHƯA ĐÁNH GIÁ
Hiện trạng quốc gia hiện tại HIẾM
Hiện trạng quốc gia đề xuất qua đánh giá THIẾU THÔNG TIN
Nếu taxon này được xác định và là loài đặc hữu của Việt Nam thì cần được xếp ở mức
Đang bị tuyệt chủng trầm trọng hoặc Đã bị tuyệt chủng ngoài tự nhiên. Cho tới khi vị trí
phân loại của taxon này được khẳng định mức đánh giá được xếp là Thiếu thông tin.
Hoàng đàn (Cupressus sp.)
1. Cành mang nón và nón hạt chín.
2. Phần cành từ tán già với các lá vảy
(Nguyễn Quang Hưng vẽ từ P. Thomas & N.D.T. Lưu s.n. và Phòng tài nguyên thực vật,
s.n.).
Mô tả
Mô tả này dựa trên các các mẫu thu từ các cây mới trồng ở Lạng Sơn (Vạn Linh, Chi
Lăng) và từ các dông núi đá vôi xung quanh. Cây gỗ mọc đứng một thân với tán rộng rủ,
cao tới 8 m với đường kính ngang ngực tới 40 cm. Cây vốn gặp rải rác trên các dông núi
đá vôi ở độ cao 550 – 1000 m trên mặt biển. Có thể mọc cùng với Kim giao (Nageia),
Thiết sam giả (Pseudotsuga sinensis) và những Thông núi đá vôi khác. Không thấy tái
sinh tự nhiên.
Phân bố
Phân bố ở Việt
Nam
Ở Việt Nam cá thể có thể là loài Cupressus tonkinensis mọc tự nhiên cuối cùng được biết
là ở khu BTTN Hữu Liên tại Lạng Sơn đã bị lửa rừng thiêu huỷ vào tháng Giêng năm 2004
(Thomas & Nguyen Duc To Luu 2004b). Thông tin về Hoàng đàn ở Na Hang, Tuyên Quang
là Hoàng đàn giả (Dacrydium elatum). Thông tin về Hoàng đàn ở Đồng Văn, Hà Giang (Lê
Trần Chấn và cộng sự, 2000) cần được kiểm tra. Hiện trạng của loài ở Trung Quốc cũng
cần xác định thêm. Phân bố của loài C. funebris ở Việt Nam, cũng như ở Trung Quốc cần
được làm rõ trước khi loài này được coi là cây bản địa của Việt Nam.
Công dụng
ỗ Hoàng đàn có thớ thẳng, vân đẹp, chịu mối mọt. Gỗ có mùi thơm, đặc biệt là rễ, và
không bị biến dạng hoặc nứt theo thời gian. Được sử dụng làm bàn tủ, đồ gỗ văn phòng,
đồ mỹ nghệ và tượng mỹ nghệ cao cấp. Còn được dùng làm hương, và tinh dầu chiết từ
thân và rễ dùng làm thuốc, nước hoa, xà phòng hoặc các mỹ phẩm khác. Cũng còn trồng
làm cây cảnh đẹp với tán lá và hình dáng cây hấp dẫn.
Sự hiện diện trong các khu bảo tồn
Khu BTTN Hữu Liên đã được thiết lập vào năm 1986 để bảo vệ những cây Hoàng đàn còn
lại (cũng như những loài cây bị đe doạ tuyệt chủng khác ở đây). Khai thác bất hợp pháp
và cháy rừng đã tiêu huỷ cây này ở khu bảo tồn (Thomas & Nguyen Duc To Luu, 2004b).
Các biện pháp bảo tồn đã thực hiện
Hoàng đàn đã là đối tượng quan trọng của một số chương trình bảo tồn chuyển vị và
phát triển sử dụng. Một lâm phần nhỏ gồm chưa đến 20 cây đã được trồng trong khu
BTTN Hữu Liên. Công ty giống lâm nghiệp trung ương và một Xí nghiệp giống lâm nghiệp
vùng trực thuộc đã tiến hành các thử nghiệm nhân giống trên cơ sở thu thập 40 dòng và
thiết lập khu trồng quĩ gen sống để hỗ trợ hoạt động gây trồng trong tương lai.
Hoạt động bảo tồn đề xuất
Các nghiên cứu tiếp tục nhằm xác định vị trí phân loại của Hoàng đàn đang được tiến
hành. Việc kiểm tra lại các thông tin trước đây tại các địa điểm Thài Phín Tùng, Hà Giang
là nhiệm vụ quan trọng. Các yêu cầu các cán bộ kiểm lâm, lâm nghiệp và cán bộ điều tra
qui hoạch rừng thông báo bất kỳ phát hiện mới nào. Các chương trình trồng phục hồi sử
dụng các vật liệu đã nhân giống nên nhằm vào mục tiêu sản xuất hương liệu và tinh dầu.
Các điều tra thị trường gần đây (An Van Bay, 2003) đã cho thấy có nhu cầu lớn đối với
nguyên liệu Hoàng đàn. Những khảo nghiệm lâm sinh tiếp theo cần được thực hiện. Các
nghiên cứu di truyền phân tử những cây trong bộ sưu tầm chuyển vị cần được thực hiện.
Nguồn:Nguyễn Tiến Hiệp, Phan Kế Lộc, Nguyễn Đức Tố Lưu, Philip Ian Thomas, Aljos
Farjon, Leonid Averyanov và Jacinto Regalado Jr. "Thông Việt Nam, nghiên cứu hiện
trạng và bảo tồn"
A/
Công dụng, chỉ định và phối hợp: Hoàng đàn là loài cây cho gỗ quý, không bị mối mọt, dùng
trong xây dựng và đóng đồ dùng trong gia đình. Gỗ mục có mùi thơm, dùng làm hương
tốt. Rễ và cả gỗ thân cây dùng để cất tinh dầu; cứ khoảng 150kg cất được 7-8 lít tinh dầu;
ở rễ, hàm lượng tinh dầu cao hơn. Tinh dầu dùng làm thuốc xoa bóp chỗ sưng tấy và
chữa bệnh ngoài da, sai khớp xương, bôi vết thương chóng lành. Vỏ cây nấu cao chữa
đau bụng.
Ở Trung Quốc, người ta dùng quả trị phong hàn, cảm mạo, đau dạ dày và thổ huyết; rễ trị
đòn ngã tổn thương và lá dùng trị bỏng. Rễ, thân, cành, lá đều có thể cất lấy tinh dầu.