Tải bản đầy đủ (.docx) (96 trang)

CÁC BIỆN PHÁP NHẰM NÂNG CAO NĂNG lực CẠNH TRANH của CÔNG TY cổ PHẦN vận tải BIỂN III VINASHIP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (523.61 KB, 96 trang )

1

1

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam kết luận văn tốt nghiệp này được hoàn thành bởi sự nỗ lực của
bản thân với những kiến thức đã được học và tích lũy được trong quá trình học tập
và công tác cùng với sự hướng dẫn tận tình của PGS.TS Đào Văn Hiệp và sự giúp đỡ
của Ban giám đốc, các phòng ban chức năng, xí nghiệp dịch vụ và vận tải thuộc công
ty cổ phần vận tải biển III - Vinaship là nơi tôi đã thực tập đã giúp tôi hoàn thành luận
văn này. Các nội dung nghiên cứu và và kết quả thể hiện trong luận văn này là trung
thực và chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào.
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm với lời cam kết của mình.
Hải Phòng, ngày 23 tháng 1 năm 2016.
Tác giả luận văn

Hồ Thị Luân

LỜI CẢM ƠN


2

2

Để hoàn thành bản luận văn này, tôi xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn tận
tình của PGS.TS Đào Văn Hiệp đã chỉ bảo, Thầy đã giúp đỡ hết lòng cho tôi trong
suốt quá trình viết và hoàn thành bài luận văn này.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn tới các thầy cô giáo trong khoa kinh tế và quản trị
kinh doanh, các cần bộ phòng đào tạo - sau đại học và Hội đồng khoa học trường Đại


Học hải Phòng đã truyền đạt cho tôi những kiến thức bổ ích để tôi hoàn thành bài
luận văn này.
Tôi xin chân thành cảm ơn ban lãnh đạo Công ty cổ phần vận tải biển III vinaship , cùng các phòng ban chức năng, các xí nghiệp dịch vụ và vận tải thuộc công
ty... đã giúp đỡ cho tôi tiếp cận với các số liệu và cung cấp cho tôi các tài liệu liên
quan đến đề tài để tôi có cơ sở nghiên cứu luận văn của mình.
Và cuối cùng tôi xin chân thành cảm ơn đến các bạn đồng nghiệp, các bạn học
viên trong lớp QTKD k7A Trường Đại học Hải Phòng cùng toàn thể các thành viên
trong gia đình tôi đã đồng hành cùng tôi trong suốt quá trình tôi theo học tại trường.
Họ luôn là nhũng người động viên, chia sẻ với tôi, tạo điều kiện về thời gian và tinh
thần giúp đỡ cho tôi hoàn thành được hết khóa học của mình
Hải Phòng, ngày 23 tháng 1 năm 2016.
Tác giả luận văn

Hồ Thị Luân


3

3

MỤC LỤC


4

4

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BCTC


: Báo cáo tài chính

BDI

:

BKS

: Ban kiểm soát

CP

: Cổ phần

ĐHĐCĐ

: Đại hội đồng cổ đông

DT

: Lượng hàng hoá tiêu thị của Doanh nghiệp

DTTT

: Tổng lượng hàng hoá tiêu thị trên thị trường

DWT
HĐLĐ

: Hợp đồng lao động


IFC

: Công ty tài chính quốc tế

NS

: Năng suất

OECD

: Diễn đàn cao cấp về cạnh tranh công nghiệp

TDT

: Thị phần tuyệt đối của đối thủ cạnh canh

TMCP

: Thương mại cổ phần

TNHH

: Trách nhiệm hữu hạn

TPB

: Hiệp định đối tác kinh tế chiến lược xuyên Thái Bình Dương

TT


: Thị phần tuyệt đối

WTO

: Tổ chức thương mại thế giới


5

5

DANH MỤC BIỂU, SƠ ĐỒ.
Số hiệu
biểu sơ đồ

Tên bảng, biểu, sơ đồ

Trang

Sơ đồ 2.1

Sơ đồ tổ chức bộ máy công ty cổ phần vận tải biển III - Vinaship

25

Biểu đồ 2.1

Cơ cấu đầu tư vốn giai đoạn 2014 - 2016


39

Biểu đồ 2.2

Tỷ trọng doanh thu của Công ty qua các năm

45


6

6

DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu
bảng,biểu

Tên bảng, biểu, sơ đồ

Trang

sơ đồ
Bảng 2.1

Tổng hợp số lượng cần bộ công nhânviên của công ty tính đến
31/12/2015

31

Bảng 2.2


Giá trị sổ sách tại ngày 31/12/2015.

32

Bảng 2.3

Cơ cấu đầu tư giai đoạn 2014 - 2016

33

Bảng 2.4

Tổng hợp kết quả kinh doanh của công ty trong những năm gần đây

42

Bảng 2.5

Giá trị dịch vụ của công ty cổ phần vận tải Vinaship từ năm 2011 2015

44

Bảng 2.6

Các hợp đồng lớn đang được thực hiện hoặc đã được ký kết

46

Bảng 2.7


Bảng kê đội tàu của Công ty tính đến năm 2015

49

Bảng 2.8

Đội tàu của một số công ty vận tải biển

51

Bảng 2.9

Cơ cấu đội tàu của công ty cổ phần vận tải biển III theo trọng tải

52

Bảng 2.10

Cơ cấu đội tàu của công ty cổ phần vận tải biển III theo độ tuổi tàu.

53

Bảng 2.11

Cơ cấu đội tàu của công ty cổ phần vận tải biển III theo loại tàu.

53

Bảng 2.12


Sản lượng vận tải của công ty cổ phần vận tải biển III trong những
năm gần đây.

54

Bảng 2.13

Sản lượng vận tải của một số công ty năm 2015

56

Bảng 2.14

Kết quả sản xuất kinh doanh khối dịch vụ năm 2015chi tiết như sau

61


7

7

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Kinh tế thị trường là việc tổ chức nền kinh tế xã hội dựa trên cơ sở một nền sản
xuất hàng hoá. Thị trường luôn mở ra các cơ hội kinh doanh mới cho các doanh
nghiệp, nhưng đồng thời cũng chứa đựng những mối nguy cơ đe dọa cho các doanh
nghiệp. Để các doanh nghiệp có thể đứng vững trước quy luật cạnh tranh khắc nghiệt
của cơ chế thị trường đòi hỏi các doanh nghiệp luôn phải vận động, tìm tòi hướng đi

cho phù hợp. Việc doanh nghiệp đứng vững trên thị trường được hay không chỉ có
thể được khẳng định nhờ những chiến lược cạnh tranh đúng đắn và hiệu quả nhất.
Những năm qua, đặc biệt từ khi Việt Nam thực hiện chính sách mở của, ngành
vận tải biển Việt Nam đã và đang phát triển nhanh chóng, thị trường hàng hải Việt
nam đang cần được mở rộng theo nhịp độ chung của xu thế thương mại hóa khu vực
và toàn cầu. Với sự kiện gia nhập WTO năm 2007, Việt Nam đã thực sự bước vào
“sân chơi lớn” của nền kinh tế thế giới. Việc mở cửa giao lưu kinh tế đã tạo điều kiện
cho hoạt động xuất nhập khẩu phát triển với tốc độ cao. Khối lượng hàng hoá xuất
nhập khẩu ngày càng nhiều, tạo ra nhu cầu ngày càng lớn đối với các dịch vụ vận tải,
đặc biệt là dịch vụ hàng hải. Một trong những đặc thù của ngành hàng hải là có tính
quốc tế hoá cao, cho nên từ giữa những năm 90, ngành hàng hải Việt Nam đã từng
bước thể hiện vai trò của mình trong tiến trình hội nhập của đất nước. Sự mở cửa của
ngành hàng hải cùng với sự tăng trưởng nhanh chóng của hoạt động xuất nhập khẩu
là lý do mà các hãng tàu lớn có mặt ngày càng nhiều tại thị trường Việt Nam, cạnh
tranh trực tiếp với các doanh nghiệp trong ngành.
Trong bối cảnh cạnh tranh ngày càng gay gắt đó, trong khi sự bảo hộ của Nhà
nước ngày càng ít đi, các doanh nghiệp hàng hải trong nước không còn cách nào khác
là phải tự nâng cao năng lực cạnh tranh để có thể tồn tại và phát triển. Là doanh
nghiệp trong ngành vận tải biển, việc nâng cao năng lực cạnh tranh của Công ty cổ
phần vận tải biển III không chỉ có ý nghĩa sống còn với riêng doanh nghiệp mà còn
ảnh hưởng rất lớn đến ngành vận tải biển nước nhà. Vì vậy, trong quá trình thực tập


8

8

tại công ty cổ phần vận tải biển III - Vinaship, với những kiến thức đã tích luỹ được
cùng với sự giúp đì tận tình của PGS.TS Đào Văn Hiệp nên em đã chọn đề tài "“
Một số biện pháp nâng cao năng lực cạnh tranh tại Công ty cổ phần vận tải biển

III - vinaship" làm đề tài luận văn của mình.
2. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của luận văn là trên cơ sở tìm hiểu các khái niệm về cạnh tranh và
năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trong điều kiện hội nhập quốc tế cùng với việc
phân tích thực trạng năng lực cạnh tranh hiện nay của công ty cổ phần vận tải biển III
- vinaship để đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh cho công ty,
đặc biệt là năng lực cạnh tranh trong điều kiện kinh tế hội nhập như hiện nay.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Khái quát những vấn đề lý luận chung về cạnh tranh và năng lực cạnh tranh,
đặc biệt là cạnh tranh trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế.
- Phân tích thực trạng cạnh tranh của ngành hàng hải nói chung và của công ty
cổ phần vận tải biển III nó riêng nhằm đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao năng lực
cạnh tranh cho công ty.
4. Đôi tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: năng lực cạnh tranh của công ty cổ phần vận tải biển
III Vinaship trong lĩnh vực kinh doanh hàng hải.
- Phạm vi nghiên cứu: Tình hình cạnh tranh của công ty cổ phần vận tải biển
III vinaship giai đoạn 2011 - 2015.
6. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu khác nhau như: thống kê,
phân tích kinh tế, so sánh, suy luận logic, dự báo, tổng hợp...trên cơ sở gắn chặt lý
luận với thực tiễn. Luận văn cũng tiếp thu có chọn lọc những công trình có liên quan
đến đề tài đã được công bố.
7. Kết cấu của Luận văn
Ngoài Lời mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, Luận văn được kết cấu
gồm 3 Chương:


9


9

Chương 1: Tổng quan về cạnh tranh và năng lực cạnh tranh
Chương 2: Thực trạng năng lực cạnh tranh của Công ty cổ phần vận tải biển III
- vinaship
Chương 3: Những giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của Công ty
cổ phần vận tải viển III - Vinaship.


10

10

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ CẠNH TRANH VÀ NĂNG LỰC CẠNH
TRANH
1.1. Quan niệm về cạnh tranh và năng lực cạnh tranh
1.1.1. Quan niệm về cạnh tranh
Cạnh tranh là một trong những quy luật kinh tế cơ bản của sản xuất hàng hoá
và là đặc trưng cơ bản của kinh tế thị trường. Tuy nhiên do cách tiếp cận khác nhau,
bởi mục đích nghiên cứu khác nhau, nên trong thực tế có nhiều quan niệm khác nhau
về cạnh tranh.
Từ điển Bách khoa Việt Nam (tập 1) định nghĩa: “Cạnh tranh trong kinh doanh
là hoạt động ganh đua giữa những người sản xuất hàng hoá, giữa các thương nhân,
các nhà kinh doanh trong nền kinh tế thị trường, bị chi phối bởi quan hệ cung – cầu,
nhằm giành các điều kiện sản xuất, tiêu thụ, thị trường có lợi nhất” .
Theo Từ điển Kinh tế kinh doanh Anh – Việt thì: “Cạnh tranh là sự đối địch
giữa các hãng kinh doanh trên cùng một thị trường để giành được nhiều khách hàng,
do đó nhiều lợi nhuận hơn cho bản thân, thường là bằng cách bán theo giá thấp nhất
hay cung cấp một chất lượng hàng hoá tốt nhất” .
Giáo trình Kinh tế học chính trị Mác – Lênin lại đưa ra khái niệm: “Cạnh tranh

là sự ganh đua, sự đấu tranh về kinh tế giữa các chủ thể tham gia sản xuất – kinh
doanh với nhau nhằm giành những điều kiện thuận lợi trong sản xuất – kinh doanh,
tiêu thụ hàng hoá và dịch vụ để thu được nhiều lợi ích nhất cho mình. Mục tiêu của
cạnh tranh là giành lợi ích, lợi nhuận lớn nhất, bảo đảm sự tồn tại và phát triển của
chủ thể tham gia cạnh tranh” [8]
Diễn đàn cao cấp về cạnh tranh công nhiệp của tổ chức Hợp tác và phát triển
kinh tế (OECD) cho rằng: “Cạnh tranh là khái niệm của doanh nghiệp, quốc gia và
vùng trong việc tạo việc làm và thu nhập cao hơn trong điều kiện cạnh tranh quốc tế.
[6]
Dù có sự khác biệt trong diễn đạt và phạm vi, nhưng các quan niệm trên cũng
có những nét tương đồng về nội dung:


11

11

Thứ nhất, cạnh tranh là quan hệ kinh tế phản ánh mối quan hệ giữa các chủ thể
của nền kinh tế thị trường cùng theo đuổi một mục đích tối đa. Đối với các doanh
nghiệp, đó là lợi nhuận tối đa; đối với người tiêu dùng, đó là tối đa hoá mức độ thoả
mãn hay sự tiện lợi khi tiêu dùng sản phẩm.
Thứ hai, cạnh tranh diễn ra trong một môi trường cụ thể, trong đó các bên tham
gia đều phải tuân thủ những ràng buộc chung như: đặc điểm sản phẩm, thị trường,
các điều kiện pháp lí, các thông lệ kinh doanh...
Thứ ba, phương pháp cạnh tranh rất đa dạng: cạnh tranh bằng đặc tính và chất
lượng sản phẩm, cạnh tranh bằng giá bán sản phẩm, cạnh tranh bằng nghệ thuật tiêu
thụ sản phẩm.... Với cách tiếp cận trên, có thể hiểu: Cạnh tranh là quan hệ kinh tế mà
ở đó các chủ thể kinh tế ganh đua nhau tìm mọi biện pháp để đạt mục tiêu kinh tế của
mình, thông thường là chiếm lĩnh thị trường, giành lấy khách hàng cũng như các
điều kiện sản xuất, thị trường có lợi nhất. Mục đích cuối cùng của các chủ thể kinh tế

trong quá trình cạnh tranh là tối đa hoá lợi ích, đối với người sản xuất – kinh doanh
là lợi nhuận, đối với người tiêu dùng là lợi ích tiêu dùng và sự tiện lợi.[14]
Cạnh tranh là động lực của nền kinh tế thị trường. Trong môi trường cạnh
tranh, để tránh nguy cơ phá sản, các doanh nghiệp phải dùng một phần lợi nhuận để
tăng vốn đầu tư công nghệ, hiện đại hoá sản xuất, nâng cao năng suất lao động và
chất lượng sản phẩm,tổ chức quản lý hiệu quả ... Cạnh tranh cũng tạo ra sự đồng
hướng giữa mục tiêu lợi nhuận của doanh nghiệp và lợi ích của người tiêu dùng: hàng
chất lượng cao, giá thành thấp, phục vụ tốt sẽ giúp doanh nghiệp bán được nhiều sản
phẩm và dịch vụ, thu được nhiều lợi nhuận.
Cạnh tranh cũng có mặt trái của nó. Cạnh tranh đào thải những doanh nghiệp có chi
phí cao, giá trị sử dụng sản phẩm thấp và tổ chức tiêu thụ kém ra khỏi thị trường gây
ra nạn thất nghiệp cũng như lãng phí nguồn nhân lực.
Cạnh tranh cũng có thể dẫn đến tình trạng “cá lớn nuốt cá bé”, làm gia tăng sự
phân hoá giàu nghèo và những bất công trong xã hội. Vấn đề đặt ra không phải là thủ
tiêu cạnh tranh mà phải đảm bảo cơ chế cạnh tranh vận hành hiệu quả, phát huy
những mặt tích cực và hạn chế những tác động tiêu cực của cạnh tranh. Điều đó cần


12

12

đến sự điều tiết hợp lý của Nhà nước trong chính sách cạnh tranh và đó cũng là trách
nhiệm của tất cả các chủ thể kinh tế trong nền kinh tế thị trường.
Các loại hình cạnh tranh [12],[16].
Căn cứ vào chủ thể tham gia thị trường: Cạnh tranh chia thành 3 loại:
- Cạnh tranh giữa người mua và người bán: Người bán muốn bán hàng hóa
của mình với giá cao nhất, còn người mua muốn mua với giá thấp nhất. Giá cả cuối
cùng được hình thành sau quá trình thương lượng giữa hai bên.
- Cạnh tranh giữa những người mua với nhau: Mức độ cạnh tranh phụ thuộc

vào quan hệ cung cầu trên thị trường. Khi cung nhỏ hơn cầu thì cuộc cạnh tranh trở
nên gay gắt, giá cả hàng hóa dịch vụ sẽ tăng lên, người mua phải chấp nhận giá cao
để mua được hàng hóa họ cần.
- Cạnh tranh giữa những người bán với nhau: Là cuộc cạnh tranh nhằm giành
giật khách hàng và thị trường, kết quả là giá cả giảm xuống và có lợi cho người mua.
Trong cuộc cạnh tranh này, doanh nghiệp nào tỏ ra đuối sức, không chịu được sức ép
sẽ phải rút lui khỏi thị trường, nhường thị phần của mình cho các đối thủ mạnh hơn.
Căn cứ theo phạm vi ngành kinh tế: Cạnh tranh được phân thành 2 loại:
- Cạnh tranh trong nội bộ ngành: Là cuộc cạnh tranh giữa các doanh nghiệp
trong cùng một ngành, cùng sản xuất ra một loại hàng hóa dịch vụ. Kết quả cả cuộc
cạnh tranh này là làm cho kỹ thuật phát triển.
- Cạnh tranh giữa các ngành: Là cuộc cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong
các ngành kinh tế với nhau nhằm thu được lợi nhuận cao nhất. Trong quá trình này có
sự phân bổ vốn đầu tư một cách tự nhiên giữa các ngành, kết quả là việc hình thành
tỷ suất lợi nhuận bình quân.
Căn cứ vào loại thị trường mà trong đó cạnh tranh diễn ra: Cạnh tranh được
phân thành: - Cạnh tranh trên các thị trường đầu vào nhằm giành các nguồn lực sản
xuất có chất lượng tốt và chi phí thấp nhất.
- Cạnh tranh trên thị trường sản phẩm nhằm chiếm lĩnh thị trường, tăng thị
phần, giành khách hàng.


13

13

Ngoài ra còn có thể phân loại cạnh tranh theo cấp độ cạnh tranh. Theo đó có
cạnh tranh giữa các quốc gia, cạnh tranh giữa các ngành, giữa các doanh nghiệp và
cạnh tranh sản phẩm. Giữa các cấp độ cạnh tranh đó có mối quan hệ tương hỗ và có
thể nói suy cho cùng là cạnh tranh sản phẩm. Thông qua cung cấp sản phẩm mà các

chủ thể là doanh nghiệp, ngành, quốc gia mong giành thắng lợi trong cạnh tranh, đạt
được mục tiêu của mình.
Vai trò của cạnh tranh [12]
Cạnh tranh là tất yếu trong nền kinh tế thị trường. Cội nguồn của sự cạnh tranh
là sự tự do trong sản xuất kinh doanh, đa dạng kiểu dáng, nhiều thành phần kinh tế,
nhiều người hoạt động sản xuất kinh doanh. Cạnh tranh thực chất là một cuộc chạy
đua không có đích. Chạy đua về mặt kinh tế phải luôn luôn ở phía trước để tránh
những trận đòn của người chạy phía sau, và không phải chỉ để thắng một trận tuyến
giữa các đối thủ mà là để thắng trên hai trận tuyến. Đó là cạnh tranh giữa những
người mua với người bán và cạnh tranh giữa những người bán với nhau. Do vậy, cạnh
tranh không chỉ có vai trò quan trọng đối với các doanh nghiệp tham gia thị trường
mà còn có ý nghĩa to lớn đối với người tiêu dùng, nền kinh tế và toàn xã hội.
- Đối với nền kinh tế nói chung:
Cạnh tranh là môi trường là một động lực thúc đẩy sự phát triển bình đẳng của
mọi thành phần kinh tế trong nền kinh tế thị trường, góp phần xóa bỏ những độc
quyền bất hợp lý, xóa bỏ những bất bình đẳng trong kinh doanh. Cạnh tranh đảm bảo
thúc đẩy sự phát triển của khoa học kỹ thuật, sự phân công lao động xã hội ngày càng
tỷ mỉ và chi tiết. Ngoài ra còn làm tăng tính tháo vát, năng động và óc sáng tạo cho
các nhà doanh nghiệp, tạo ra những nhà kinh doanh giỏi, chân chính. Cạnh tranh thúc
đẩy sự đa dạng hóa của sản phẩm, làm nảy sinh những nhu cầu mới, góp phần nâng
cao chất lượng đời sống xã hội và phát triển nền văn minh nhân loại.
- Đối với doanh nghiệp:
Trong nền kinh tế thị trường, cạnh tranh quyết định sự tồn tại và phát triển của
doanh nghiệp. Cạnh tranh tạo ra động lực cho sự phát triển của doanh nghiệp, thúc
đẩy doanh nghiệp tìm mọi biện pháp để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Cạnh


14

14


tranh là động lực giúp cho các doanh nghiệp không ngừng cải thiện công nghệ kỹ
thuật, nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ, chất lượng phục vụ khách hàng. Cạnh
tranh làm tăng tính tháo vát, năng động và óc sáng tạo cho các nhà doanh nghiệp. Do
vậy, cạnh tranh đòi hỏi các doanh nghiệp phải áp dụng những thành tựu khoa học kỹ
thuật hiện đại vào quá trình sản xuất kinh doanh, tăng cường công tác quản lý, nâng
cao trình độ tay nghề của người lao động. Cạnh tranh thắng lợi sẽ tăng cường vị thế
của doanh nghiệp trên thị trường, tăng thêm uy tín cho doanh nghiệp. Trên cơ sở đó
doanh nghiệp sẽ có điều kiện để mở rộng sản xuất kinh doanh, nâng cao hiêụ quả,
góp phần tăng tích luỹ và cải thiện đời sống của người lao động.
- Đối với người tiêu dùng:
Nhờ có cạnh tranh sản phẩm, dịch vụ mà người tiêu dùng có thể lựa chọn được
các loại hàng hoá và dịch vụ ngày càng đa dạng, phong phú với chất lượng cao hơn,
phù hợp với khả năng mua sắm của họ. Tuy nhiên, chúng ta không phủ nhận mặt tiêu
cực của cạnh tranh, cạnh tranh không lành mạnh sẽ gây những hậu quả tiêu cực. Cạnh
tranh có thể dẫn đến tình trạng “ Cá lớn nuốt cá bé”, làm gia tăng các thủ đoạn cạnh
tranh không lành mạnh như làm hàng giả, trốn lậu thuế, ăn cắp bản quyền, mua
chuộc, hối lộ, lừa đảo, tung tin thất thiệt phá hoại uy tín của đối thủ, vi phạm pháp
luật, làm xấu đi các quan hệ xã hội…..Cạnh tranh chạy theo lợi nhuận và lợi ích riêng
sẽ làm cạn kiệt tài nguyên, ô nhiễm môi trường, gây bất ổn định về kinh tế, gia tăng
sự phân hóa giàu nghèo và những bất công trong xã hội. Vấn đề đặt ra không phải là
thủ tiêu cạnh tranh mà phải để cạnh tranh diễn ra trong điều kiện bình đẳng và minh
bạch của các chủ thể cạnh tranh, phát huy những mặt tích cực và hạn chế đến mức tối
thiểu những tác động tiêu cực của cạnh tranh. Đó là trách nhiệm của nhà nước (thông
qua luật pháp và các công cụ điều tiết vĩ mô) và của tất cả các chủ thể kinh tế trong
nền kinh tế thị trường.
1.1.2. Quan niệm về năng lực cạnh tranh
Khái niệm
Mặc dù hiện nay thuật ngữ “năng lực cạnh tranh” được sử dụng rất rộng rãi
nhưng vẫn chưa có một khái niệm rõ ràng và nhất quán cũng như cách thức đo lường



15

15

năng lực cạnh tranh ở cả cấp độ quốc gia, cấp ngành, cấp doanh nghiệp và cấp sản
phẩm.
Ở cấp độ doanh nghiệp, mặc dù có những quan niệm khác nhau nhưng các tác
giả đều gắn năng lực cạnh tranh với ưu thế của sản phẩm mà doanh nghiệp đưa ra thị
trường hoặc gắn với thị phần mà doanh nghiệp chiếm giữ thông qua khả năng tổ
chức, đổi mới công nghệ, giảm chi phí nhằm duy trì hay gia tăng lợi nhuận, bảo đảm
sự tồn tại phát triển bền vững của doanh nghiệp. Năng lực cạnh tranh trước hết phải
được tạo ra từ thực lực của doanh nghiệp. Đó là các yếu tố nội tại được tính bằng các
tiêu chí về tài chính, công nghệ, quản trị... Tuy nhiên sẽ là vô nghĩa nếu không so
sánh, đối chiếu các yếu tố này với doanh nghiệp cạnh tranh để phát hiện ra lợi thế của
mình.
Trong nền kinh tế thị trường, việc đánh giá năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp cần lấy yêu cầu của khách hàng làm căn cứ bởi khách hàng vừa là mục tiêu
vừa là động lực của quá trình sản xuất – kinh doanh . Tuy nhiên không một doanh
nghiệp nào có thể đáp ứng mọi yêu cầu của khách hàng, doanh nghiệp có lợi thế mặt
này thì lại bất lợi mặt khác. Vấn đề ở chỗ doanh nghiệp cần đánh giá đúng đắn mặt
mạnh mặt yếu của mình để đáp ứng tốt nhất nhu cầu của khách hàng.
Như vậy, có thể hiểu: năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là thể hiện thực
lực và lợi thế của nó so với các đối thủ khác trong việc thoả mãn tốt nhất các đòi hỏi
của khách hàng để thu lợi ích ngày càng cao cho doanh nghiệp mình trong môi
trường cạnh tranh trong nước và quốc tế[17]


16


16

Các nhân tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
Các nhân tố bên trong doanh nghiệp.: Các yếu tố bên trong là các yếu tố phát
sinh từ trong nội bộ của doanh nghiệp, có ảnh hưởng tới việc củng cố và nâng cao
năng lực cạnh tranh doanh nghiệp. Đó là:
- Chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp: Chính sách và chiến lược vạch ra
mục tiêu, phương hướng và bước đi cho doanh nghiệp để đạt được mục tiêu đó.
Chiến lược bao gồm nhiều loại: Chiến lược phát triển thị trường mục tiêu, chiến lược
giữ vững thị trường hiện tại, chiến lược thâm nhập thị trường mới, chiến lược
marketing... Một chiến lược đúng đắn sẽ giúp doanh nghiệp phát huy được những lợi
thế sẵn có, hạn chế những bất lợi của môi trường kinh doanh nội bộ và bên ngoài,
đồng thời tạo dựng và duy trì những lợi thế mới. Bởi vậy, vạch ra một chiến lược
thích hợp và thực hiện chiến lược một cách hiệu quả là điều cơ bản giúp doanh
nghiệp giành thắng lợi trong cuộc cạnh tranh.
- Năng lực tài chính của doanh nghiệp: Quy mô về vốn là nền tảng để doanh
nghiệp tiến hành các hoạt động kinh doanh thu lợi nhuận. Đặc biệt trong nền kinh tế
hội nhập, yếu tố vốn càng trở nên quan trọng, nó là cơ sở để doanh nghiệp mở rộng
quy mô hoạt động, tận dụng lợi ích kinh tế từ quy mô, tạo ra lợi thế cạnh tranh với
các doanh nghiệp khác. Tuy nhiên, năng lực tài chính không chỉ thể hiện ở quy mô
vốn, mà còn thể hiện ở cơ cấu vốn, ở việc khai thác và sử dụng nguồn vốn sẵn có của
doanh nghiệp cũng như ở khả năng huy động những nguồn tài chính thích hợp phục
vụ cho sản xuất kinh doanh những sản phẩm dịch vụ có sức cạnh tranh trên thị
trường. Năng lực tài chính sẽ là điều kiện cần thiết để nâng cao năng lực cạnh tranh
của doanh nghiệp. Đây được coi là yếu tố quyết định có ảnh hưởng rất lớn đến các
yếu tố khác trong chiến lược cạnh tranh của doanh nghiệp.
- Nhân tố con người: Đây là yếu tố quyết định hiệu quả sản xuất kinh doanh,
qua đó ảnh hưởng đến sức cạnh tranh của doanh nghiệp. Nâng cao năng lực cạnh
tranh là một vấn đề mang tính dài hạn. Do đó, cần bộ quản lý, đội ngũ lãnh đạo phải

có trình độ, kinh nghiệm, khả năng đánh giá, khả năng xử lý tốt các mối quan hệ với
bên ngoài và đặc biệt phải có sự quyết tâm và cam kết dài hạn đối với việc nâng cao


17

17

năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Người lao động là những người trực tiếp tạo
ra sản phẩm và cung cấp dịch vụ nên trình độ chuyên môn và ý thức của người lao
động là tiền đề để doanh nghiệp đứng vững trong môi trường cạnh tranh.
- Năng lực quản lý và điều hành kinh doanh: Môi trường kinh doanh luôn luôn
thay đổi, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp cũng được đánh giá bằng sự linh hoạt
của doanh nghiệp để đáp ứng được những nhu cầu của thị trường. Sự linh hoạt và biết
thực hành trong quản lý sẽ giảm được tỷ lệ chi phí quản lý trong giá thành sản phẩm,
dịch vụ qua đó nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp. Một doanh nghiệp có đội
ngũ cần bộ quản lý điều hành với tư duy nhạy bén, có tầm nhìn chiến lược sẽ quyết
định rất lớn đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
- Trình độ công nghệ của doanh nghiệp: Đây là yếu tố vật chất quan trọng bậc
nhất thể hiện năng lực sản xuất của của một doanh nghiệp và tác động trực tiếp đến
sản phẩm. Một doanh nghiệp có trang thiết bị phục vụ sản xuất kinh doanh hiện đại
thì sẽ sản xuất ra sản phẩm có chất lượng cao, chi phí thấp, qua đó giúp doanh nghiệp
nâng cao năng lực cạnh tranh. Ngoài những nhân tố kể trên, chúng ta cũng cần quan
tâm đến một số nhân tố cũng ảnh hưởng rất lớn đến năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp như: Giá cả các yếu tố đầu vào, chiến lược marketting, tình hình nghiên cứu
và phát triển sản phẩm mới...
Các nhân tố bên ngoài doanh nghiệp
- Các nhân tố quốc tế: Khi nền kinh tế thế giới phát triển theo hướng toàn cầu
hoá thì các nhân tố quốc tế sẽ ngày càng đóng vai trò quan trọng trong chiến lược
nâng cao khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp. Trước hết, xu hướng phát triển

và hội nhập kinh tế đặt doanh nghiệp vào một môi trường cạnh tranh mới. Ở đó, các
hàng rào thương mại như thuế quan, thủ tục xuất khẩu, hạn chế mậu dịch... được
giảm bớt sẽ giúp quá trình lưu thông hàng hóa giữa các nước ngày càng phát triển và
là điều kiện thuận lợi để doanh nghiệp mở rộng thị trường. Tuy nhiên, nó cũng tạo ra
thách thức mới đối với doanh nghiệp, đó là phải chấp nhận chạy đua trong điều kiện
cạnh tranh gay gắt hơn: các tiêu chuẩn kĩ thuật, vệ sinh khắt khe hơn; các đối thủ
cạnh tranh mạnh hơn trong khi sự bảo hộ của nhà nước không còn; sự khác biệt về


18

18

văn hoá, ngôn ngữ... cũng là một ảnh hưởng bất lợi tới sức cạnh tranh của doanh
nghiệp.
- Các nhân tố trong nước gồm:
+ Các nhân tố kinh tế: Các yếu tố như tốc độ tăng trưởng kinh tế, lãi suất, tỷ
giá hối đoái hay lạm phát có ảnh hưởng nhất định tới năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp. Khi tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế cao, thu nhập của người dân tăng, nhu
cầu có khả năng thanh toán cũng tăng lên, đây là cơ hội lớn bởi doanh nghiệp nào đáp
ứng được nhu cầu đó, doanh nghiệp ấy sẽ thành công. Khi lãi suất tăng, chi phí vốn
cũng tăng, khi đó lợi thế cạnh tranh sẽ thuộc về các doanh nghiệp có vốn chủ sở hữu
lớn. Khi đồng nội tệ lên giá sức cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước sẽ giảm
trên cả thị trường nước ngoài và nội địa bởi giá xuất khẩu bằng đồng ngoại tệ sẽ cao
hơn các đối thủ cạnh tranh, trong khi đó giá hàng nhập khẩu tính bằng nội tệ lại giảm.
Lạm phát tăng cũng có tác động to lớn đối với doanh nghiệp bởi đôi khi tỷ suất sinh
lời của doanh nghiệp không thể bù đắp sự sụt giảm giá trị của tiền tệ.
+ Các nhân tố chính trị – pháp luật: Một nền chính trị ổn định sẽ là điều kiện
để các doanh nghiệp yên tâm phát triển sản xuất kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh
tranh. Một hệ thống luật pháp đồng bộ, nhất quán và ổn định sẽ tạo lập môi trường

cạnh tranh bình đẳng cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, nhất là
trong điều kiện hội nhập kinh tế như hiện nay.
+ Các nhân tố khoa học – công nghệ: Trình độ khoa học công nghệ có ý nghĩa
quyết định đến hai yếu tố cơ bản nhất tạo nên sức cạnh tranh của sản phẩm là chất
lượng và giá bán, qua đó ảnh hưởng tới năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Trong
thời đại ngày nay khi tốc độ đổi mới công nghệ ngày càng trở nên nhanh chóng, lợi
thế cạnh tranh về công nghệ của doanh nghiệp chỉ tồn tại trong thời gian ngắn buộc
các doanh nghiệp phải luôn đổi mới công nghệ để duy trì bền vững năng lực cạnh
tranh của mình.
+ Các nhân tố về văn hoá - xã hội: bao gồm các yếu tố về nhân khẩu, văn hóa,
tâm lý. Đây là các nhân tố quan trọng quyết định quy mô và phong cách tiêu dùng,


19

19

quy mô và chất lượng thị trường lao động. Điều này cũng ảnh hưởng rất lớn tới các
chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp trong việc nâng cao khả năng cạnh tranh.
+ Các nhân tố thuộc môi trường ngành: Sự phát triển của ngành, mức độ cạnh
tranh trong ngành, sản lượng vận tải,... là các yếu tố tác động trực tiếp đến môi
trường hoạt động của doanh nghiệp, vì vậy tác động trực tiếp đến năng lực cạnh tranh
của doanh nghiệp
Các tiêu thức đánh giá năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp [14]
Các doanh nghiệp hoạt động ở các lĩnh vực kinh doanh khác nhau sẽ có các
tiêu thức đánh giá năng lực cạnh tranh khác nhau. Hiện tại ở Việt Nam cũng chưa có
tổ chức nào đưa ra tiêu chí để đánh giá năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Trong
cuốn “Nâng cao sức cạnh tranh của các doanh nghiệp trong tiến trình hội nhập kinh tế
quốc tế”, tiến sỹ Vũ Trọng Lâm đã đưa ra một số tiêu chí như sau:
- Khả năng duy trì và mở rộng thị phần: thị phần thể hiện vị thế cạnh tranh của

doanh nghiệp. Thị phần tuyệt đối và tương đối được tính theo các công thức:
Thị phần tuyệt đối:TT
(1.1)

=
ƩDTT
DT
x 100%

Trong đó:
TT: Thị phần tuyệt đối
ƩDTT: Tổng lượng hàng hoá (hoặc doanh thu) tiêu thụ trên thị trường
DT : Lượng hàng hoá(hoặc doanh thu) tiêu thụ của doanh nghiệp

=


20

20

TT
TĐT
x 100%
Thị phần tương đối:
(1.2)
Trong đó:
TĐ: Thị phần tương đối
TĐT: Thị phần tuyệt đối của đối thủ cạnh tranh lớn nhất hoặc trực tiếp nhất
Nghiên cứu sự biến đổi của thị phần trong các thời kì khác nhau sẽ cho ta hiểu

rõ khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.
NS
=
Đr
Đv

- Tính hiệu quả trong hoạt động: tiêu chí đơn giản nhất đo lường hiệu quả là
năng suất tính theo công thức:
Trong đó:

(1.3)

Đr: Đầu ra (hàng hoá, dịch vụ)
Đv: Đầu vào (lao động, vốn, công nghệ...)
Các chỉ tiêu cụ thể như: tỷ suất lợi nhuận/ doanh thu, tỷ suất lợi nhuận/ vốn đầu
tư, tỷ suất lợi nhuận/ vốn tự có cũng thường được sử dụng để đánh giá hiệu quả hoạt
động sản xuất kinh doanh. Trị số của các chỉ tiêu này càng cao càng chứng tỏ doanh
nghiệp hoạt động hiệu quả.


21

21

- Hình ảnh của doanh nghiệp: Hình ảnh của doanh nghiệp thể hiện qua uy tín,
danh tiếng của doanh nghiệp đối với các đối tác kinh doanh (người cung ứng, khách
hàng, đối tác liên minh...). Một vấn đề quan trọng liên quan đến nâng cao uy tín của
doanh nghiệp là khả năng doanh nghiệp phát triển và duy trì thành công các thương
hiệu mạnh. Bởi vậy, các chỉ tiêu như chi phí cho hoạt động phát triển thương hiệu, số
lượng thương hiệu mạnh hiện có, mức độ nổi tiếng và được ưa chuộng của thương

hiệu... so sánh với các chỉ tiêu tương ứng của đối thủ cạnh tranh có thể được sử dụng
để phân tích khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.
- Một số tiêu thức khác: Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp cũng thể hiện
qua một số tiêu chí như: Chất lượng sản phẩm và các quá trình sản xuất, khả năng đổi
mới của doanh nghiệp, khả năng đáp ứng nhu cầu khách hàng, khả năng tiếp cận và
khai thác có hiệu quả các nguồn lực phục vụ quá trình kinh doanh, khả năng liên kết
và hợp tác với các doanh nghiệp khác và hội nhập kinh tế quốc tế.
1.2. Năng lực cạnh tranh trong kinh doanh hàng hải [6],[7],[9],[10]
1.2.1. Tổng quan về kinh doanh hàng hải
Vận tải biển là một bộ phận của ngành vận tải. Do có những ưu điểm nổi bật
đó là năng lực vận chuyển lớn, thích hợp cho việc vận chuyển hầu hết các loại hàng
hoá trong thương mại quốc tế, chi phí đầu tư xây dựng các tuyến đường hàng hải
thấp, giá thành thấp và tiêu thụ nhiên liệu trên một tấn trọng tải ít, vận tải biển đã nổi
lên và đóng vai trò quan trọng nhất trong việc vận chuyển hàng hoá ngoại thương,
chiếm tới 80% khối lượng hàng hoá quốc tế. Trong kinh doanh Hàng hải, các tiểu hệ
thống của quá trình sản xuất hàng hải bao gồm: quá trình vận chuyển, quá trình xếp
dỡ và quá trình phục vụ cho hai quá trình chủ yếu đó. Tương ứng với các quá trình
trên, trong kinh doanh hàng hải có các lĩnh vực sau: kinh doanh khai thác tàu, kinh
doanh khai thác cảng và kinh doanh dịch vụ hàng hải (theo nghĩa hẹp).
Kinh doanh khai thác tàu
Điều 11 Bộ luật hàng hải Việt Nam 2005 có quy định “tàu biển là tàu hoặc cấu
trúc nổi di động khác chuyên dùng hoạt động đi biển” (không bao gồm tàu công vụ,


22

22

tàu quân sự, tàu cá). Các loại tàu tham gia vận chuyển bao gồm: tàu chở container,
tàu chở dầu, tàu chở hàng rời, đổ đống, tàu mẹ chở sà lan, tàu hàng khô, tổng hợp. Và

ta có thể hiểu kinh doanh khai thác tàu là việc sử dụng tàu biển để tiến hành vận
chuyển hàng hoá, hành khách cho quốc gia mình hay đi chở thuê cho nước ngoài với
mục đích kinh doanh, thu lợi nhuận, tăng thu ngoại tệ cho đất nước. Có nhiều cách
phân chia hoạt động kinh doanh khai thác tàu khác nhau.
Căn cứ vào cách thức tổ chức chuyến đi (hình thức tổ chức chạy tàu), người ta
chia hoạt động của đội tàu vận tải biển thành hai loại: vận chuyển theo hình thức tàu
chuyến (tramp) và vận chuyển theo hình thức tàu chợ (liner). Trong hình thức vận
chuyển tàu chuyến, hàng hoá được chuyên chở giữa các cảng theo yêu cầu của chủ
hàng mà không theo một tuyến đường nhất định. Tàu chuyến thường được dùng khi
chuyên chở dầu và hàng khối lượng lớn như: than đá, quặng, ngũ cốc, bốc xít, phốt
phát, xi măng, phân bón... Do ưu điểm linh hoạt, thích hợp với vận chuyển hàng hoá
không thường xuyên, hình thức này rất phù hợp đối với những nước đang phát triển,
kém phát triển, đội tàu vận tải biển nhỏ bé, hệ thốngcảng chưa phát triển. Vận tải tàu
chợ là hình thức phát triển cao hơn và hoàn thiện hơn của hình thức tàu chuyến. Đặc
trưng quan trọng của hình thức tàu chợ là tàu chạy thường xuyên trên một tuyến
đường nhất định, ghé vào các cảng quy định và theo một lịch trình định trước. Các
chủ tàu chợ thường cùng nhau thành lập các Công hội tàu chợ (Liner Conferrence)
hoặc Công hội cước phí (Freight Conference) để khống chế thị trường và nâng cao
khả năng cạnh tranh. Các công ty thuộc Công hội gọi là Conference Lines.
Người ta cũng có thể căn cứ vào đối tượng vận chuyển để chia các tàu vận tải
biển chia thành 3 loại: tàu hàng, tàu khách và tàu vừa chở hàng vừa chở khách. Cách
thức tổ chức khai thác 3 loại tàu này dù có những điểm chung nhưng vẫn có nhiều
điểm khác nhau.
Nếu căn cứ theo dạng vận chuyển, hoạt động của đội tàu biển lại được chia
thành: vận chuyển đường biển riêng rẽ, vận chuyển đa phương thức, vận chuyển biển
pha sông, vận chuyển sà lan trên các tàu mẹ trên biển. Mỗi quốc gia xây dựng đội tàu
biển để phục vụ cho lợi ích của quốc gia mình.


23


23

Tuỳ từng điều kiện về tự nhiên, xã hội, chính trị, pháp luật mà lĩnh vực kinh
doanh khai thác tàu ở các nước có những đặc điểm riêng. Tuy nhiên, do lĩnh vực này
mang tính quốc tế cao nên có những đặc điểm chung: sản xuất kinh doanh khai thác
tàu mang tính toàn cầu, phạm vi sản xuất rộng, quá trình sản xuất kinh doanh liên
quan đến hệ thống pháp luật của nhiều quốc gia riêng rẽ và chịu sự chi phối của các
công ước quốc tế liên quan đến thương mại, đến biển và kinh doanh vận tải biển.
Kinh doanh khai thác cảng
Theo định nghĩa của Quy chế Giơnevơ ngày 9/12/1923 thì “Những cảng
thường thường có tàu biển ra vào và dùng cho ngoại thương được gọi là cảng biển”.
Như vậy, chỉ có những cảng nào có tàu biển ra vào thường thường và dùng cho buôn
bán đối ngoại mới được gọi là cảng biển. Còn theo điều 59 Bộ luật hàng hải Việt
Nam 2005 thì “cảng biển là khu vực bao gồm vùng đất cảng và vùng nước cảng,
được xây dựng kết cấu hạ tầng và lắp đặt trang thiết bị cho tàu biển ra, vào hoạt động
để bốc dỡ hàng hoá, đón trả hành khách và thực hiện các dịch vụ khác.” Cảng biển có
một hoặc nhiều bến cảng. Bến cảng bao gồm cầu cảng, kho bãi, nhà xưởng, trụ sở, cơ
sở dịch vụ, hệ thống giao thông, thông tin liên lạc, điện, nước, luồng vào bến cảng, và
các công trình phụ trợ khác. Theo quan điểm truyền thống, nhiệm vụ chính của cảng
là xếp dỡ hàng hoá. Hiện nay, các lĩnh vực kinh doanh của cảng được mở rộng. hơn
rất nhiều, bao gồm cả việc xếp dỡ, kiểm đếm, giao nhận, lưu kho...
Cảng đảm nhiệm 2 chức năng chính: phục vụ tàu biển và phục vụ hàng hoá. Ở
chức năng thứ nhất, cảng là nơi ra vào, neo đậu của tàu, là nơi cung cấp các dịch vụ
đưa đón tàu ra vào, lai dắt, cung ứng dầu mỡ, nước ngọt, vệ sinh, sửa chữa tàu... Ở
chức năng thứ hai, cảng làm nhiệm vụ xếp dỡ, giao nhận, chuyển tải, bảo quản, lưu
kho, tái chế, đóng gói, phân phối hàng hoá xuất nhập khẩu. Cảng còn là nơi tiến hành
các thủ tục xuất nhập khẩu, là nơi bắt đầu, tiếp tục hoặc kết thúc quá trình vận tải...
Kinh doanh dịch vụ hàng hải (dịch vụ hàng hải theo nghĩa hẹp)
Quá trình vận chuyển hàng hoá bằng đường biển từ nơi gửi tới nơi nhận, ngoài

quá trình vận chuyển, xếp dỡ còn có quá trình phục vụ cho cả hai quá trình đó, mà
tương ứng với nó là lĩnh vực kinh doanh dịch vụ hàng hải. Theo Điều 1 nghị định số


24

24

115/2007/NĐ-CP ngày 26/6/2007 của chính phủ về điều kiện kinh doanh dịch vụ vận
tải biển thì dịch vụ vận tải biển bao gồm: dịch vụ đại lý tàu biển, dịch vụ lai dắt hỗ trợ
tại cảng biển Việt Nam và các dịch vụ vận tải biển khác [9],[10].
- Dịch vụ đại lý tàu biển: là dịch vụ mà người đại lý tàu biển nhân danh chủ tàu
hoặc người khai thác tàu tiến hành các dịch vụ liên quan đến tàu biển hoạt động tại
cảng, bao gồm việc thực hiện các thủ tục tàu biển vào, rời cảng; ký kết hợp đồng vận
chuyển, hợp đồng bảo hiểm hàng hải, hợp đồng bốc dỡ hàng hoá, hợp đồng thuê tàu,
hợp đồng thuê thuyền viên; ký phát vận đơn hoặc chứng từ vận chuyển tương đương;
cung ứng vật tư, nhiên liệu, thực phẩm cho tàu biển; trình kháng nghị hàng hải; thông
tin liên lạc với chủ tàu hoặc người khai thác tàu; dịch vụ liên qua đến thuyền viên;
thu, chi các khoản tiền liên quan đến hoạt động khai thác tàu; giải quyết tranh chấp về
hợp đồng vận chuyển hoặc về tai nạn hàng hải và dịch vụ khác liên quan đến tàu biển
- Dịch vụ lai dắt tàu biển: Lai dắt tàu biển là việc lai, kéo, đẩy hoặc túc trực bên cạnh
tàu biển, các phương tiện nổi khác trên biển và trong vùng nước cảng biển bằng tàu
lai. Lai dắt tàu biển bao gồm lai dắt trên biển và lai dắt hỗ trợ trong vùng nước cảng
biển.
- Các dịch vụ vận tải biển khác: Trong Bộ luật hàng hải Việt Nam 2005 và các
nghị định liên quan, các loại hình dịch vụ hàng hải không được liệt kê một cách cụ
thể, nhưng theo tổng kết ta có thể thấy tại Việt Nam, ngoài dịch vụ đại lý tàu biển và
dịch vụ lai dắt, còn có những loại hình dịch vụ chính sau: [7].
+ Dịch vụ kiểm đếm hàng hoá vận chuyển đường biển: là dịch vụ thực hiện
kiểm đếm số lượng hàng hoá thực tế khi giao hoặc nhận với tàu biển hoặc các

phương tiện khác theo uỷ thác của người giao hàng, người nhận hàng hoặc người vận
chuyển.
+ Dịch vụ đại lý giao nhận hàng hoá vận chuyển bằng đường biển: là hoạt
động kinh doanh thay mặt khách hàng tổ chức thiết kế, bố trí, thu xếp các thủ tục giấy
tờ, chứng từ liên quan đến việc giao, nhận, lưu kho, lưu bãi, thu gom và ký phát hàng
hoá.


25

25

+ Dịch vụ môi giới hàng hải: là dịch vụ làm trung gian cho các bên liên quan
trong việc giao dịch, đàm phán, ký kết hợp đồng vận chuyển, hợp đồng bảo hiểm
hàng hải, hợp đồng thuê tàu, hợp đồng thuê thuyền viên và các hợp đồng khác liên
quan đến hoạt động hàng hải theo hợp đồng môi giới hàng hải
+ Dịch vụ cung ứng tàu biển: là hoạt động kinh doanh cung ứng cho tàu lương
thực, thực phẩm cũng như các dịch vụ đối với thuyền viên...
+ Dịch vụ sửa chữa tàu biển tại cảng: là dịch vụ thực hiện các công việc sửa
chữa và bảo dưỡng tàu biển khi tàu đỗ tại cảng.
+ Dịch vụ vệ sinh tàu biển: là dịch vụ thực hiện các công việc thu gom và xử lý
rác thải, dầu thải, chất thải khác từ tàu biển khi tàu neo, đậu tại cảng.
+ Dịch vụ bốc dỡ hàng hoá tại cảng biển: là dịch vụ thực hiện các công việc
bốc, dỡ hàng hoá tại cảng theo quy trình công nghệ bốc, dỡ từng loại hàng.
Theo phân loại của Tổ chức Thương mại thế giới, dịch vụ vận tải biển (theo
nghĩa rộng) được phân chia thành các nhóm chính là:
Nhóm 1: Vận tải biển quốc tế (không bao gồm vận tải nội địa) bao gồm vận tải
hàng hoá và vận tải hành khách.
Nhóm 2: Dịch vụ hỗ trợ hàng hải gồm 6 loại là: xếp dỡ hàng hoá, lưu kho bãi
và cho thuê kho bãi, khai hải quan, trạm làm hàng container, đại lý tàu biển và giao

nhận hàng hoá.
Nhóm 3: Dịch vụ cảng gồm: hoa tiêu, lai dắt, nạp nhiên liệu, thu dọn rác, trợ
giúp hành trình, tiện ích, sửa chữa khẩn cấp, neo đậu.
Các lĩnh vực trong kinh doanh hàng hải (kinh doanh khai thác tàu, kinh doanh
khai thác cảng và kinh doanh dịch vụ hàng hải) có mối liên kết chặt chẽ với nhau. Bởi
vậy, khi phân tích năng lực cạnh tranh của một doanh nghiệp tiến hành kinh doanh
trên cả 3 lĩnh vực này, phải phân tích các yếu tố cấu thành và các yếu tố ảnh hưởng
tới năng lực cạnh tranh của từng lĩnh vực cụ thể, từ đó mới có thể có cái nhìn tổng
quát về năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
1.2.2. Những yếu tố cấu thành năng lực cạnh tranh trong các lĩnh vực kinh
doanh hàng hải


×