Tải bản đầy đủ (.ppt) (79 trang)

báo cáo chuyên đề cây khóm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (6.75 MB, 79 trang )


1.TRANG THÚY AN
2.NGUYỄN THỊ KIM CƯƠNG
3.PHAN HỒNG LOAN
4.ĐOÀN THỊ CHINH EM
5.NGUYỄN PHI LONG
6.NGUYỄN HỒNG THƠ


Quả dứa được coi là một trong những cây ăn
quả nhiệt đới hàng đầu, loại quả “vua”, rất được
ưa chuộng ở các nước phương Tây. Quả dứa có
mùi thơm mạnh, chứa nhiều đường, lượng calo
khá cao, giàu chất khoáng, nhất là Kali, có đủ
các loại vitamin cần thiết như A, B1, B2, PP, C
đặc biệt trong cây và quả dứa có chất Bromelin.


Bromelin là một loại men thủy phân protêin có
thể chữa được các bệnh rối loạn tiêu hóa, ức chế
phù nề và tụ huyết, làm vết thương mau thành
sẹo. Trong công nghiệp, chất Bromelin dùng làm
mềm thịt để chế biến thực phẩm, nước chấm.
Ngoài ăn tươi, quả dứa chế biến thành dứa hộp
và nước dứa, là những mặt hàng xuất khẩu lớn.
Xác bã quả dứa sau khi chế biến dùng làm thức
ăn gia súc và phân bón. Thân lá dứa làm bột
giấy.


Quả dứa


Giá trị dinh dưỡng 100 g
Năng lượng

202 kJ (48 kcal)

Carbohydrat

12.63 g

Đường

9.26 g

Chất xơ thực phẩm

1.4 g

Chất béo

0.12 g

Protein

0.54 g

Tỷ lệ phần trăm theo lượng hấp thụ hàng ngày của người lớn.
Nguồn: Cơ sở dữ liệu USDA






Giới

Plantae

Ngành

Angiospermae

Bộ

Poales

Họ

Bromeliaceae

Chi

Ananas

Loài

A. comosus

Chi Dứa (danh pháp khoa học: Ananas) thuộc về họ
Dứa (Bromeliaceae). Được biết đến nhiều nhất là loài
Ananas comosus, là loại dứa cho quả ăn được.



Các giống dứa và vùng trồng tại Việt Nam
Dứa Victoria (dứa tây, dứa hoa) có các giống
- Hoa Phú Thọ: thuộc nhóm Queen, trồng được nơi đất
chua xấu. Lá có nhiều gai và cúng, quả nhỏ, thịt quả vàng
đậm, thơm, ít nước, giòn
- Na hoa: lá ngắn và to, quả to hơn dứa hoa Phú Thọ,
phẩm chất ngon, năng suất cao



Dứa Cayen: lá chỉ có ít gai ở đầu mút lá, lá dài cong lòng máng,
quả to, khi chưa chín quả màu xanh đen, khi chín chuyển màu da
đồng. Quả nhiều nước, thịt vàng ngà, mắt dứa to và nông, vỏ
mỏng, thích hợp với đóng hộp


Dứa ta (Ananas comosus var spanish hay Ananas comosus sousvar red spanish) là cây chịu bóng tốt, có thể trồng ở dưới tán cây khác.
Quả to nhưng vị ít ngọt


Dứa mật (Ananas comosus sousvar - Singapor spanish) có quả
to, thơm, ngon, trồng nhiều ở Nghệ An và Thanh Hóa


Dứa không gai (Ananas comosus cayenne) được trồng ở Nghệ An,
Quảng Trị, Lạng Sơn. Cây không ưa bóng. Quả to hơn các giống trên


Dứa dại


Khóm phụng


Tại Việt Nam, dứa được trồng khá phổ biến, phân bố từ
Phú Thọ đến Kiên Giang. Tiền Giang là tỉnh có sản lượng
dứa đứng đầu cả nước. Năm 2007, sản lượng dứa của tỉnh
Tiền Giang đạt 161.300 tấn. Tiếp theo là Kiên Giang
(85.000 tấn), Ninh Bình (47.400 tấn), Nghệ An (30.600
tấn), Long An (27.000 tấn), Hà Nam (23.400 tấn), Thanh
Hoá (20.500 tấn). Tổng sản lượng cả nước năm 2007 đạt
529.100 tấn[6]. Nhiều địa phương xây dựng thương hiệu
đặc sản quả dứa như dứa Đồng Giao (Tam Điệp - Ninh
Bình), hoặc ở Kiên Giang, Tiền Giang đều có những nhà
máy chuyên sản xuất, chế biến các thực phẩm từ quả dứa.


II. Đặc điểm thực vật học
II.1 Nguồn gốc
Dứa là cây ăn quả nhiệt đới, nguồn gốc ở Nam Mỹ
(Brazil, Achentina, Paragoay. Hiện nay trên thế giới,
cây dứa được trồng hầu hết các nước nhiệt đới và một
số nước á nhiệt đới có mùa sông tương đối ẩm như đảo
Hawai, Đài Loan. Dứa có thể trồng tới vĩ tuyến 380
bắc, trong đó các nước Châu Á chiếm trên 60% sản
lượng dứa cả thế giới. Các nước trồng nhiều là
Philippines, Thái Lan, Malaysia, Hawai, Brazil,
Mêhicô, Cuba, Uc, Nam phi.



Quả dứa được coi là một trong những cây ăn quả
nhiệt đới hàng đầu, loại quả “vua”, rất được ưa chuộng
ở các nước phương Tây. Quả dứa có mùi thơm mạnh,
chứa nhiều đường, lượng calo khá cao, giàu chất
khoáng, nhất là Kali, có đủ các loại vitamin cần thiết
,đặc biệt trong cây và quả dứa có chất Bromelin là một
loại men thủy phân protêin có thể chữa được các bệnh
rối loạn tiêu hóa, ức chế phù nề và tụ huyết, làm vết
thương mau thành sẹo. Trong công nghiệp, chất
Bromelin dùng làm mềm thịt để chế biến thực phẩm,
nước chấm.



II.2 Đặc điểm thực vật học:
II.2.1 Thân:
Thân: Cây trưởng thành thân cao khoảng 1 – 1,2m
có dạng con cừu đáy bẹt, đường kính tán rộng 1,3 1,5m. Bóc lá ra có thân nằm bên trong dài khoảng 20
– 30cm với phần gần ngọn thân to nhất có đường
kính 5,5 – 6,5cm, cuối thân rộng 2 – 3,5cm. Phần
thân trên thường cong, phần thân dưới có thể cong
nếu chồi đem trồng là chồi cuống hay chồi thân và
thẳng nếu chồi đem trồng là chồi ngọn


Trên thân có chia nhiều lóng và đốt. Ở đốt thân có mang
những mầm ngủ. Các lóng từ phần giữa thân dài khoảng 1 –
10cm tùy theo giống, điều kiện môi trường…. Các lóng từ
phần giữa thân trở lên dài hơn các lóng ở bên dưới. Bên
trong thân khóm chia làm 2 phần là phần vỏ và trung trụ.

Nơi tiếp giáp giữa vỏ và trung trụ có mooyj hệ thống mạch
rất mỏng, chủ yếu gồm các tế bào gỗ và các tế bào libe. Mô
mạch không liên tục, bị thủng nhiều chổ, qua đó các bó
mạch chạy dài đến lá. Chính hệ thống mạch này đã tạo ra
các rễ phụ mọc ra trên thân. Trung trụ gồm một khối tế bào
nhu mô có nhiều hạt tinh bột và tinh thể, trong đó các bó
mạch xếp thành vòng xoắn ốc xuyên qua nhau làm thành
một mạng lưới rất phức tạp.


Thân cây khóm


II.2.2 Lá
Số lá trên cây thay đổi tùy theo giống trồng trọt
Lá được xếp theo hình xoắn ốc, lá non ở giữa là già ở ngoài
cùng
Hình dạng lá thay đổi tùy theo vị trí của chúng trên thân, tức
theo tuổi lá
Các đặc điểm chung của lá khóm:
- Gai lá: lá có nhiều hay ít gai thay đổi tùy theo giống trồng.


Tầng mao bộ: bao bên ngoài lá giống như
một lớp sáp mòng trắng, mặt dưới lá có
nhiều hơn mặt trên
- Tầng tế bào chứa nước: nằm ở phần giữa
lá, gồm một số tế bào hình cột phía dưới
lớp biểu bì. Tầng tế bào này giúp lá trữ
nước khi khô hạn

- Bó sợi ở lá: nằm giữa lá, bao bọc bởi các
mạch libe và gỗ. Tế bào sợi dài, chắc, có
thể dùng lấy sợi dệt vải
- Dạng hình máng xối: lá có dạng hình
máng xối giúp cây nhận được nước hữu
hiệu, chịu đựng khô hạn tốt


×