Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

Cục dự trữ Liên Bang Mỹ (Federal Reserve System – FED)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (166.73 KB, 13 trang )

CỤC DỰ TRỮ LIÊN BANG MỸ
(Federal Reserve System – FED)


2

MỤC LỤC

1. Lịch sử hình thành
Cục dự trữ liên bang Mỹ, gọi tắt là FED, là Ngân hàng trung ương của nước
Mỹ. Trong vai trò của một Ngân hàng trung ương, FED là ngân hàng của các ngân
hàng và là ngân hàng của Chính phủ liên bang. FED được xây dựng để đảm bảo duy trì
cho nước Mỹ một chính sách tiền tệ linh hoạt hơn, an toàn hơn, và ổn định hơn.
Được thành lập ngày 23/12/1913 theo đạo luật mang tên “Federal Reserve Act”
do tổng thống Woodrow Wilson kí. FED chính thức hoạt động năm 1915.
Trụ sở chính tại Washington
Website: />2. Cơ cấu
Có thể nói cấu trúc của Fed rất khác biệt so với các NHTW khác. Ở Fed tồn tại
4 cấp: Hội đồng Thống đốc, Ủy ban Thị trường mờ (FOMC), 12 ngân hàng chi nhánh
và các ngân hàng thành viên khác nhỏ hơn.
2.1. Hội đồng thống đốc
Hội đồng thống đốc gồm 7 thành viên, trong đó Chủ tịch hội đồng thống đốc
của FED là bà Janet Yellen (từ ngày 31/01/2014) được chỉ định bởi Tổng thống, được
Thượng viện thông qua. Các thành viên của Hội đồng thống đốc đóng vai trò đa số
trong Ủy ban thị trường mở liên bang (FOMC). Là cơ quan quyết định các chính sách


3

tiền tệ của Mỹ. Hội đồng ấn định mức dự trữ bắt buộc và kiểm soát lãi suất tái chiết
khấu.


Hội đồng thống đốc của FED là cơ quan độc lập của chính phủ liên bang. Hội
đồng không chịu sự can thiệp của Quốc hội, các thành viên của hội đồng được quyền
miễn yêu cầu của lập pháp và hành pháp, nhưng phải gửi báo cáo tới Quốc hội theo
định kỳ.
2.2. Ủy ban thị trường tự do liên bang (FOMC)
FOMC - ủy ban gồm 7 thành viên của Hội đồng Thống đốc cùng với chủ tịch
của 5 ngân hàng chi nhánh. FOMC thực hiện các nghiệp vụ trên thị trường mở.
2.3. Ngân hàng dự trữ
FED có mạng lưới gồm 12 Ngân hàng dự trữ liên bang và 25 chi nhánh ở khắp
nước Mỹ.
Về mặt quản lý, FED chia nước Mỹ làm 12 khu vực, được gọi là các “Quận”
(District), mỗi ngân hàng Dự trữ liên bang đại diện cho một quận và được đặt tên theo
tên thành phố mà nó đặt trụ sở, đó là Boston, New York, Philadelphia, Cleveland,
Richmond, Atlanta, Chicago, St. Louis, Minneapolis, Kansas City, Dallas, San
Francisco, trong đó Ngân hàng dự trữ New York có vai trò nổi bật hơn một chút so với
các ngân hàng còn lại. Mỗi ngân hàng có một chủ tịch và kiểm soát hàng nghìn ngân
hàng thành viên trong khu vực đó
2.4. Ngân hàng thành viên
Tất cả các ngân hàng đều là ngân hàng thành viên của FED, phải tuân thủ mức
dự trữ bắt buộc, được vay tiền từ FED, được thanh toán bù trừ tại FED, chịu sự giám
sát về các hoạt động bởi FED.
2.5. Ủy ban cố vấn


4

3. Nhiệm vụ chính


Thực thi những chính sách tiền tệ quốc gia để duy trì mức việc làm, giá cả

ổn định và lãi suất tương đối thấp.



Giám sát và quản lý các thể chế ngân hàng để đảm bảo đó là những nơi an
toàn để gửi tiền và để bảo vệ quyền lợi tín dụng của người dân.



Cung cấp các dịch vụ tài chính cho các tổ chức tín dụng, Chính phủ Mỹ và
Ngân hàng trung ương các nước khác như thanh toán bù trừ, thanh toán điện
tử, phát hành tiền…



Ngoài ra FED còn tiến hành các nghiên cứu về nền kinh tế Mỹ cũng như
kinh tế các bang, cung cấp thông tin về nền kinh tế thông qua các ấn phẩm,
hội thảo giáo dục và qua website.

4. Cách thức FED tạo tiền

FED có quyền lực đặc biệt là in tiền. FED có thể in tiền để giải cứu các cá nhân,
tổ chức có thể làm ảnh hưởng đến nền kinh tế Mỹ hoặc thế giới. Với vai trò là đồng
tiền pháp định, USD không bị ràng buộc (neo) vào bất cứ thứ gì (USD neo vào vàng
kết thúc từ năm 1971). Tiền do FED phát hành là nguồn cung tiền tệ, được đưa vào lưu
thông qua các Ngân hàng dự trữ liên bang khu vực.
5. Chính sách tiền tệ
5.1. Chính sách lãi suất
5.1.1. LS quỹ dự trữ liên bang (FFR)



5

Lãi suất mà FED công bố thực chất không phải là lãi suất cơ bản (prime rate)
mà là fed funds rate. FED công bố mức lãi suất điều hoà vốn dự trữ trong mỗi thời kỳ
(fed funds target rate), thông qua đó FED thực hiện điều hành chính sách tiền tệ. Fed
funds rate theo qui định (7 tuần/1 lần và có thể bất thường nếu cần thiết) được đưa ra
bởi FOMC. FED dùng các công cụ thị trường mở hướng fed funds rate theo lãi suất
mục tiêu giúp đảm bảo phù hợp với tỷ lệ tăng trưởng GDP ổn định ở một mức tương
ứng. Vậy, bên cạnh discounted rate thì fed funds target rate là công cụ thứ hai giúp
FED điều hành chính sách tiền tệ. So với prime rate thì fed funds rate thấp hơn. Nếu
FED công bố mức lãi suất là 0,25% thì lãi suất cơ bản của các ngân hàng sẽ là từ 3 3,5%, và do đó lãi suất thực trên thị trường tín dụng sẽ ở mức trên 3,5%
Bảng 1: Lãi suất cơ bản theo báo cáo điều tra ngân hàng The Wall Street Journal, cập
nhật ngày 11/3/2015
Prime rate, federal funds rate, COFI

This week

Month ago

Year ago

WSJ Prime Rate

3.25

3.25

3.25


Federal Discount Rate

0.75

0.75

0.75

Fed Funds Rate (Current target rate 0-0.25)

0.25

0.25

0.25

11th District Cost of Funds

0.698
0.692
0.768
Nguồn: www.bankrate.com

5.1.2. Lãi suất chiết khấu

Lãi suất chiết khấu là lãi suất các khoản vay mà Fed tính cho các NHTM cũng
như các tổ chức nhận tiền gửi khác khi các tổ c hức này đi vay từ công cụ cho vay của
ngân hàng dự trữ liên bang địa phương.
Lãi suất chiết khấu có hiệu lực từ ngày 19/02/2010 là 0,75- 1,25%



6

5.2. Tỷ lệ dự trữ bắt buộc

FED ấn định tỷ lệ dự trữ bắt buộc là tỷ lệ % số tiền ký gửi tại ngân hàng mà
ngân hàng giữ lại hoặc gửi tại FED để duy trì hoạt động như chi trả cho khách hàng và
các chi phí thường ngày. Quy định này trực tiếp giới hạn khả năng cho vay của các
ngân hàng. Trong trường hợp khoản dự trữ này tụt xuống, ngân hàng phải tiến hành
vay lẫn nhau hoặc vay của FED để đảm bảo tỷ lệ dự trữ.
Tỷ lệ dự trữ trên tài khoản giao dịch ròng phụ thuộc vào số lượng các giao dịch
ròng tài khoản tại tổ chức lưu ký. Theo Garn-St Germain Act năm 1982 được miễn là
người đầu tiên $ 2.000.000 nợ reservable từ dự trữ bắt buộc. "Số tiền miễn" này được
điều chỉnh mỗi năm theo công thức quy định bởi hành động. Lượng giao dịch ròng
chiếm chịu một tỷ lệ dự trữ bắt buộc của 3 phần trăm đã được thiết lập theo Đạo luật
kiểm soát tiền tệ của năm 1980 ở mức 25 triệu đồng. Điều này "lượng dự trữ thấp"
cũng được điều chỉnh mỗi năm.Từ ngày 22/1/2015, lượng dự trữ thấp 103,6 triệu USD,
số tiền miễn 14,5 triệu USD. Tài khoản giao dịch ròng vượt quá các đợt thấp dự trữ
đang Reservable tại 10 phần trăm.
Kể từ Tháng 10 năm 2008, Ngân hàng Dự trữ Liên bang đã trả tiền lãi trên số dư
dự trữ bắt buộc và dư thừa .
Bảng 2: Tỷ lệ dự trữ bắt buộc của FED

Liability Type

Requirement
% of liabilities

Effective date


$0 to $14.5 million 2

0

1-22-15

More than $14.5 million to $103.6 million 3

3

1-22-15

Net transaction accounts 1


7

More than $103.6 million

10

1-22-15

Nonpersonal time deposits

0

12-27-90

Eurocurrency liabilities


0

12-27-90

5.3. Nghiệp vụ thị trường mở OMO

Đây là nghiệp vụ quan trọng của chính sách tiền tệ. Có thể bạn đã nghe đâu đó
rằng Fed đang mua các loại tài sản tài chính trong chương trình Nới lỏng định lượng
(QE) (sẽ được đề cập dưới đây). Nghiệp vụ thị trường mở tương tự như vậy và từ lâu là
chương trình để Fed thực hiện chính sách tiền tệ của mình. Thông qua OMO, Fed sẽ
mua trái phiếu chính phủ trên thị trường mở và điều này có tác dụng điều chỉnh tỷ lệ lãi
suất liên bang trong phạm vi mục tiêu của Fed. Tỷ lệ lãi suất liên bang là thước đo điều
chỉnh các khoản cho vay liên ngân hàng.
Khi Fed giảm lãi suất liên bang (thông qua OMO) – điều mà Fed đã làm kể từ
cuộc khủng hoảng, nó sẽ có tác dụng khuyến khích các ngân hàng đi vay trên thị
trường liên ngân hàng, khuyến khích các ngân hàng cho vay nhiều hơn và theo lý
thuyết sẽ làm tăng tốc nền kinh tế. Ngược lại, khi Fed tăng lãi suất liên bang nghĩa là
Fed cho rằng hệ thống đang quá lỏng lẻo và có khả năng tạo ra bong bóng.
Với việc kinh tế Mỹ vẫn trong giai đoạn phục hồi, việc Fed muốn làm hiển
nhiên là giữ lãi suất liên bang càng thấp càng tốt. Tuy nhiên, vấn đề ở đây là lãi suất
này đã ở mức 0% từ năm 2009.
Trên thực tế là Fed đang thực hiện chính sách lãi suất bằng 0 – điều này có thể
hiểu đơn giản là lãi suất danh nghĩa đang ở mức thấp nhất có thể. Chúng ta đã đạt đến
mức giới hạn của chính sách tiền tệ truyền thống.
Fed có thể áp dụng biện pháp nào nếu như lãi suất đang ở mức 0%?


8


Bây giờ chúng ta sẽ nói về chính sách nới lỏng định lượng (QE). QE vốn được
hiểu là “chính sách tiền tệ phi truyền thống” – hàm ý nói rằng “Chúng tôi sẽ thử biện
pháp này ngay.”
Trong bối cảnh khủng hoảng tài chính và với việc lãi suất gần bằng 0, Fed đã
liên tục áp dụng các chính sách tiền tệ mới. Nổi bật nhất là chính sách nới lỏng định
lượng – theo đó Fed sẽ mua tài sản nhằm làm tăng lượng cung tiền trong nền kinh tế.
Kể từ năm 2008, Fed đã mua vào hàng tỷ USD trái phiếu có tài sản cầm cố (nguyên
nhân gây ra khủng hoảng tài chính) và hàng tỷ USD trái phiếu Bộ tài chính. Kể từ đó,
Fed đã thực hiện thêm 2 lượt QE nữa.
QE có tác dụng giữ lãi suất ở mức thấp mặc dù một số cho rằng cách làm này là
“giả tạo” và “phi kinh tế”. Dù sao thì tác dụng tích cực của nó là làm thị trường chứng
khoán và thị trường trái phiếu có đợt phục hồi ấn tượng.
Hiện nay các ý kiến chỉ trích chương trình QE này (vốn gọi QE là QE vô hạn do
thời lượng thực hiện chương trình quá dài) đã lên tiếng cảnh báo rằng chương trình
mua lại tài sản kiểu này sẽ dẫn đến lạm phát cao. Nếu điều này xảy ra thì kiểm soát lạm
phát sẽ là một trong những ưu tiên hàng đầu của Fed.
Tính đến thời điểm này thì QE vẫn chưa gây ra lạm phát và chuyên gia Paul
Krugman đã trở nên nổi tiếng khi cho rằng những chỉ trích QE “luôn luôn sai lầm”.
Tuy nhiên điều này không có nghĩa là QE là một chính sách hoàn hảo. Bảng cân đối tài
sản của Fed đã phình to lên mức 3,6 nghìn tỷ USD.
6. Hoạt động của FED
6.1. Kiểm soát cung ứng tiền tệ


9

Cục dự trữ liên bang kiểm soát quy mô nguồn cung ứng tiền tệ bằng các hoạt
động thị trường mà qua đó Fed mua hoặc cho mượn các loại trái phiếu, giấy tờ có giá.
Những tổ chức tham gia mua bán với Fed gọi là người giao dịch ưu tiên (primary
dealers). Tất cả hoạt động thị trường của Fed ở Hoa Kỳ đều tiến hành tại bàn giao dịch

thị trường của Ngân hàng dự trữ liên bang khu vực New York với mục đích là đạt được
tỷ lệ lãi suất trái phiếu liên bang gần mới tỷ lệ mục tiêu.
6.2. Thỏa thuận mua lại

Thực chất của hoạt động này là cho vay hoặc đi vay có thế chấp. Để đảm bảo
những thay đổi nguồn cung tiền tệ theo chu kỳ hoặc tạm thời, bàn giao dịch thị trường
của Ngân hàng dự trữ liên bang New York tham gia các thỏa thuận mua lại với những
nhà giao dịch ưu tiền. Các mua bán chủ yếu là các khoản cho vay ngắn hạn, có đảm
bảo của Fed. Trong ngày giao dịch, Fed sẽ đặt tiền vào tài khoản của người giao dịch
và nhận thế chấp (là các giấy tờ chứng nhận sở hữu như cổ phiếu, trái phiếu, v.v..). Khi
hết hạn giao dịch, quá trình diễn ra ngược lại Fed hoàn lại chứng khoán và nhận lại tiền
cùng lãi. Thời hạn giao dịch có thể thay đổi từ 1 ngày (cho vay qua đêm) tới 65 ngày,
phần lớn giao dịch là cho vay qua đêm và 14 ngày.
Bởi các giao dịch làm tăng quỹ dự trữ của ngân hàng trong thời gian ngắn,
chúng tăng nguồn cung tiền tệ. Hiệu quả của hoạt động này là tạm thời bởi các giao
dịch sẽ đáo hạn, tác động dài hạn là dự trữ ngân hàng giảm đi bởi lãi suất của giao dịch
(lãi suất một ngày của tỷ lệ 4,5%/năm là 0,0121%). Fed tiến hành giao dịch này hàng
ngày trong 2004-2005, ngoài ra giao dịch thu hút vốn cũng tiến hành nhằm tạm thời
giảm nguồn cung tiền tệ.
Trong giao dịch thỏa thuận bán lại (reverse repo), Fed sẽ vay tiền từ các người
giao dịch ưu tiên bằng cách đặt cọc các chứng khoán chính phủ. Khi giao dịch đáo hạn,
Fed sẽ hoàn trả tiền và các khoản lãi.


10

6.3. Hoạt động mua đứt

Một công cụ khác của bàn giao dịch thị trường là mua đứt. Trong giao dịch này,
Cục dự trữ liên bang mua lại trái phiếu chính phủ và cung cấp giấy bạc mới vào tài

khoản của người giao dịch đặt tại Fed. Bởi hoạt động này là mua đứt nên tăng cung
tiền tệ lâu dài nhưng khi trái phiếu hết hạn khoản lãi vẫn được thu, thông thường là 1218 tháng.
Từ những năm 1980, Cục dự trữ liên bang cũng bán quyền mua trái phiếu chính
phủ ở mức lãi suất cao. Việc bán quyền mua này giảm nguồn cung tiền tệ bởi các nhà
giao dịch ưu tiên sẽ bị khấu trừ tài khoản dự trữ của họ đặt tại Fed, do đó mà quá trình
tạo ra tiền lưu thông bị hạn chế.
7. Ảnh hưởng của FED đến nền kinh tế toàn cầu

Với vai trò là Ngân hàng trung ương của nền kinh tế mạnh nhất thế giới, mỗi
quyết định của FED đều gián tiếp ảnh hưởng lớn đến nền kinh tế toàn cầu. Người ta
hay nói vui rằng “một cái hắt hơi sổ mũi của chủ tịch FED” cũng đủ làm chao đảo nền
kinh tế thế giới, xét về mặt nào đó cũng không phải là không có lý.
Thứ nhất các quyết định về tăng giảm lãi suất của FED tác động trực tiếp đến
sức mạnh của đồng USD, qua đó ảnh hưởng mạnh đến các đối tác thương mại của Mỹ.
Nếu FED tăng lãi suất đồng USD nhằm kiềm chế lạm phát, vô hình chung làm tăng sức
mạnh của đồng USD trên thị trường tiền tệ quốc tế, làm tăng nhập khẩu, giảm xuất
khẩu, giảm đầu tư vào Mỹ.
Thứ hai, FED còn trực tiếp can thiệp vào việc xác lập giá trị đồng USD thông
qua hoạt động mua bán USD và các ngoại tệ khác. Ví dụ, nếu Mỹ bán đồng Yen ra
đồng thời mua vào USD thì giá trị của USD sẽ tăng, trong khi giá trị Yên giảm xuống,
dẫn đến tỉ giá USD/Yên tăng.


11

Chính vì vậy những chuyên gia tham gia vào thị trường tài chính, tiền tệ quốc tế
không bao giờ bỏ qua những diễn biến của FED.


12


CÂU HỎI HAY
Điều này nghe có vẻ phức tạp và độc đoán. Tại sao nước Mỹ phải có Fed?
Như đã đề cập ở trên, nước Mỹ đã không có Cục dự trữ liên bang trong một thời gian dài.
Điều đó có nghĩa cuối thế kỷ 19 là thời kỳ của những cú sốc kinh tế không thể kiểm soát.
Chỉ đến năm 1907, khi chứng khoán giảm 50% và người gửi tiền đổ xô đến ngân hàng để
rút tiền, người ta mới "hâm nóng" lại ý tưởng thành lập NHTW và cuối cùng cũng được
Thượng viện cũng thông qua.

Fed sẽ kiểm soát các cú sốc kinh tế?
Chúng ta đều biết rằng khi bạn gửi một khoản tiền, tiền không nằm im trong két sắt của
ngân hàng cho đến khi bạn cần tiền và muốn rút tiền. Hầu hết số tiền được đem đi đầu tư
và đây cũng chính là cách các ngân hàng làm ra tiền. Tất nhiên, có những luật lệ quy định
số tiền dự trữ ngân hàng buộc phải có. Nhưng, vấn đề nằm ở chỗ: điều gì sẽ xảy ra nếu
như tất cả người gửi tiền đều muốn rút tiền tại cùng một thời điểm?
Đây chính là lúc Fed phải thực hiện vai trò của nó: người cho vay cuối cùng.


13

THAM KHẢO
/> /> /> /> />


×