Bộ CÔNG THƯƠNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP TP.HCM
KHOA THƯƠNG MẠI DU LỊCH
--- ---
BÀI TIỂU LUẬN MÔN :
Lý Thuyết Tài Chính Tiền Tệ
Đề tài: Thị Trường Cổ Phiếu Việt Nam
GVHD : Ths. Đặng Công Triết
Nhóm Thực Hiện : Nhóm Lozi
Lớp HP : 210840307
Page 1
DANH SÁCH THÀNH VIÊN
STT
HỌ VÀ TÊN
MSSV
1
Nguyễn Minh Anh
14031011
2
Nguyễn Lê Phương Anh
14016181
3
Phan Đinh Vân Anh
14027021
4
Trương Thị Kiều Chinh
14019041
5
Lê Thị Mỹ Dung
14034631
6
Cao Minh Duy
14076671
7
Nguyễn Thị Bích Duyên
14022931
8
Trần Thanh Kiều Duyên
14014751
9
Nguyễn Bá Đạt
14015741
10
Nguyễn Thị Thu Hà
14056651
11
Thái Lý Như Lê
14090161
12
Lê Thư Mẫn
14099141
13
Nguyễn Thị Ngọc Nhung
14036241
14
Lê Thị Hồng Uyên
14072181
15
La Thúy Vi
14085691
Page 2
LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngày nay, thị trường chứng khoán và các mã cổ phiếu đã dần trở nên quen
thuộc đối với đông đảo người dân Việt Nam. Đầu tư vào thị trường chứng khoán đã
trở nên quan trọng đối với mọi người. Thị trường chứng khoán chỉ có thể phát triển
nếu có sự tham gia ngày càng đông của những người có kiến thức sâu rộng về thị
trường chứng khoán. Mỗi mã cổ phiếu đều có sự hấp dẫn riêng vốn có của nó tạo
nên một thị trường mà ở đó hàng hóa thật sinh động và đa dạng. Tham gia vào thị
trường này không chỉ quan trọng đối với nền kinh tế của một nước mà nó còn quan
trọng đối với mỗi người bởi vì khả năng đầu tư sinh lợi. Vì vậy, mỗi người tuỳ theo
điều kiện, khả năng của mình mà cần phải tiếp cận thật nhanh để tham gia đầu tư
có hiệu quả vào thị trường chứng khoán. Chính các hoạt động đó sẽ góp phần làm
phong phú cho thị trường chứng khoán Việt Nam.
Theo thời gian và sự phát triển của thị trường dẫn đến yêu cầu ngày càng cao
của nhà đầu tư, các tổ chức kinh doanh chứng khoán đối với các mã cổ phiếu. Hoạt
động kinh doanh có hiệu quả hay không của các công ty đang niêm yết đồng thời
việc công bố thông tin liệu có đủ độ tin cậy, chính xác, kịp thời để thị trường chứng
khoán Việt Nam ngày càng phát triển. Vì vậy, việc nghiên cứu các thực trạng cổ
phiếu đang giao dịch trên thị trường chứng khoán Việt Nam nhằm đưa ra các giải
pháp tăng cường thu hút nhà đầu tư, xây dựng một thị trường chứng khoán lành
mạnh và phát triển tốt là một vấn đề có ý nghĩa cấp thiết và thực tiễn hiện nay.
2. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
Đề tài nghiên cứu mang lại một số ý nghĩa về lý thuyết và thực tiễn cho Nhà đầu
tư, các tổ chức kinh doanh chứng khoán, cơ quan quản lý có cái nhìn tổng thể hơn
về thực trạng thị trường chứng khoán Việt Nam. Từ đó đưa ra các chính sách thích
hợp nhằm phát triển thị trường chứng khoán.
3. Mục đích nghiên cứu
Page 3
Nhiên cứu thị trường cổ phiếu Việt Nam nhằm đưa ra các giải pháp để ngày càng
thu hút nhiều nhà đẩu tư hơn, phát triển mạnh hơn nữa các giao dịch về cổ phiếu
trên thị trường chứng khoán.
Nội Dung
CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ THỊ TRƯỜNG CỔ
PHIẾU
1.1. Cổ phiếu
1.1.1. Khái niệm
Cổ phiếu là giấy chứng nhận cấp cho cổ đông để chứng nhận số cổ phần
mà cổ đông đó đã mua ở một Công ty cổ phần, chứng thực về việc đóng góp
vào Công ty cổ phần, đem lại cho người chủ của nó quyền chiếm hữu một
phần lợi nhuận dưới hình thức lợi tức cổ phần và được quyền tham gia quản
lý công ty.
Theo Luật Chứng Khoán Việt Nam, cổ phiếu là lọai chứng khoán xác
nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu đối với một phần vốn cổ
phần của tổ chức phát hành.
1.1.2. Đặc điểm của cổ phiếu
Cổ phiếu có khả năng chuyển hóa thành tiền mặt dễ dàng. Tuy nhiên tính thanh
khoản của cổ phiếu phụ thuộc vào các yếu tố sau:
•
Cổ phiếu là chứng khoán vốn do đó không có kỳ hạn và không hoàn
vốn.
•
Cổ tức không được xác định trước mà phụ thuộc vào kết quả kinh
doanh của tổ chức phát hành (công ty có cổ phiếu niêm yết). Nếu tổ chức
phát hành hoạt động kinh doanh có hiệu quả, trả cổ tức cao, cổ phiếu của
công ty sẽ thu hút nhà đầu tư và cổ phiếu thực sự dễ mua bán trên thị
trường. Ngược lại nếu công ty làm ăn kém hiệu quả không trả cổ tức hoặc
cổ tức thấp, cổ phiếu của công ty sẽ giảm giá và khó bán.
•
Cổ phiếu có mối quan hệ cung cầu trên thị trường chứng khoán: Thị
trường cổ phiếu cũng như các loại thị trường khác đều chịu sự chi phối
của qui luật cung cầu. Giá cổ phiếu trên thị trường không chỉ phụ thuộc
vào chất lượng công ty mà còn phụ thuộc rất lớn vào nhu cầu của nhà đầu
tư. Tuy một loại cổ phiếu rất tốt nhưng thị trường đang bão hòa nguồn
Page 4
cung (nhiều hàng bán) thì cổ phiếu đó cũng khó tăng giá. Ngược lại khi thị
trường khan hiếm hàng hóa thì ngay cả những cổ phiếu chất lượng kém
hơn cũng có thể bán dễ dàng.
•
Tính lưu thông khiến cổ phiếu có giá trị như một loại tài sản thực sư,
nếu như tính thanh khoản giúp cho chủ sở hữu cổ phiếu chuyển cổ phiếu
thành tiền mặt khi cần thiết thì tính lưu thông giúp chủ sở hữu cổ phiếu
thực hiện được nhiều hoạt động như thừa kế tặng cho để thục hiện nghĩa
vụ tài sản của mình.
•
Cổ phiếu có tính tư bản giả tức là cổ phiếu có giá trị như tiền. Tuy
nhiên cổ phiếu không phải là tiền và nó chỉ có giá trị khi được đảm bảo
bằng tiền. Mệnh giá của cổ phiếu không phản ánh đúng giá trị của cổ
phiếu.
•
Cổ phiếu có tính rủi ro cao phụ thuộc vào thông tin và tình hình phát
triển của Công ty cổ phần. Giá trị cổ phiếu luôn biến động theo các yếu tố
này.
1.1.3. Phân loại cổ phiếu
Một Công ty cổ phần có thể phát hành 2 loại cổ phiếu:
a)
Cổ phiếu thường
Giấy chứng nhận cổ phần, thể hiện quyền lợi sở hữu của cổ đông trong công
ty, quyền sở hữu được bỏ phiếu của công ty và những cổ phiếu này vĩnh viễn tồn
tại cùng với những quãng đời hoạt động của công ty.
•
-
Đặc điểm của cổ phiếu thường
Không có kỳ hạn và không hoàn vốn.
Cổ tức phụ thuộc vào KQSXKD và chính sách chia cổ tức trong từng
thời kỳ
Cổ đông thường là người cuối cùng được hưởng giá trị còn lại của
tài sản thanh lý khi công ty phá sản.
Giá cả biến động.
•
Trách nhiệm và quyền lợi của cổ đông:
Trách nhiệm
Phần vốn góp xem như góp vĩnh viễn, không được rút lại.
Cổ đông phổ thong chỉ chịu trách nhiệm hữu hạn theo phần vốn góp.
Quyền lợi:
Page 5
-
Quyền có thu nhập: cổ đông thường được hưởng phần lợi nhuận
tương ứng với số cổ phần sở hữu gọi là cổ tức.
Quyền được chia tài sản thanh lý: trường hợp công ty bị giải thể, cổ
đông thường cũng được chia phần những giá trị tài sản thanh lý.
Quyền bỏ phiếu: Cổ đông thường có quyền bỏ phiếu bầu và ứng cử
vào các chức vụ quản lý trong công ty, có quyền tham gia đại hội cổ đông.
Quyền mua cổ phiếu mới: Cổ đông thường có quyền được mua trước
cổ phiếu mới khi công ty phát hành thêm để tăng vốn.
•
Các loại giá cổ phiếu
Mệnh giá (Parvalue): là giá trị ghi trên giấy chứng nhận cổ phiếu.
Mệnh giá cổ phiếu mới phát hành là tỷ lệ giữa VĐL của công ty cổ
phần/ Tổng số cổ phần phát hành.
Thư giá (Book value): là giá cổ phần ghi trên sổ sách kế tóan, phản
ánh tình trạng vốn cổ phần của công ty ở một thời điểm nhất định.
Giá trị sổ sách mỗi cổ phần là tỷ lệ giữa vốn cổ phần/số cổ phần
thường đang lưu hành (Vốn CP = Tổng TS Nợ Cổ phần ưu đãi)
Giá trị nội tại (Intrinsic value): là giá trị thực của cổ phiếu ở thời
điểm hiện tại, căn cứ tính toán:
+ Cổ tức công ty.
+ Kỳ vọng phát triển công ty.
+ Lãi suất thị trường.
Thị giá (market value): là giá cả cổ phiếu trên thị trường tại một thời điểm
nhất định. Tùy theo quan hệ cung cầu mà thị giá có thể thấp hơn, cao hơn
hoặc bằng giá trị thực của cổ phiếu.
•
Cổ tức
Cổ tức là tiền chia lời cho cổ đông trên mỗi cổ phiếu thường, căn cứ
vào kết quả có thu nhập từ họat động SXKD của công ty.
Cổ tức thường được trả sau khi đã trả cổ tức cố định cho cổ phiếu ưu
đãi.
Cổ tức được công bố theo năm và trả theo Quý.
Chính sách chia cổ tức của công ty phụ thuộc vào:
Kết quả họat động SXKD của công ty trong năm, căn cứ là thu nhập
-
ròng của công ty sau khi trừ lãi và thuế.
Số cổ phiếu ưu đãi chiếm trong tổng số vốn cổ phần.
Chính sách tài chính trong năm tới.
Hạn mức của quỹ tích lũy dành cho đầu tư.
Giá trị thị trường của cổ phiếu công ty.
Page 6
Lợi tức và rủi ro
Lợi tức của cổ phiếu
Cổ tức
+ Phụ thuộc vào KQKD và chính sách chia cổ tức của công ty
+ Công ty có thể trả bằng tiền hoặc bằng cổ phiếu
Lợi tức do chênh lệch giá
Rủi ro của cổ phiếu
Rủi ro hệ thống:
Rủi ro thị trường: xuất hiện do phản ứng của NĐT đối với sự kiện
hữu hình hay vô hình.
Rủi ro lãi suất: xuất hiện do sự thay đổi trong lãi suất trái phiếu
Chính phủ tác động đến toàn bộ hệ thống chứng khoán
Rủi ro sức mua: tác động của lạm phát đối với khoản đầu tư
Rủi ro không hệ thống: khả năng quản lý, thị hiếu tiêu dùng => sự
thay đổi trong thu nhập từ cổ phiếu công ty => sự không chắc chắn trong
khả năng thanh toán của công ty
•
Các nhân tố ảnh hưởng giá cổ phiếu
Nhân tố kinh tế
Mức thu nhập DN
Lãi suất thị trường
Xu hướng KD
Nhân tố phi kinh tế: thay đổi điều kiện chính trị, cơ cấu quản lý hành chính, điều
kiện tự nhiên, điều kiện văn hóa…
Nhân tố thị trường:
Biến động thị trường
Tác động quan hệ cung – cầu
Nhân tố khác: yếu tố tâm lý đầu tư theo phong trào, hành vi tiêu cực trên TTCK.
b)
Cổ phiếu ưu đãi:
Thể hiện quyền lợi sở hữu trong một công ty, tuy nhiên những cổ đông nắm
loại cổ phiếu này được hưởng một số ưu đãi hơn so với những cô đông thường
•
Đặc điểm: giống cổ phiếu thường
Cũng là chứng khoán vốn, không kỳ hạn, không hoàn vốn.
Người nắm giữ cổ phiếu ưu đãi cũng là cổ đông đồng sở hữu của
công ty.
Đặc điểm giống trái phiếu:
Cổ tức của cổ phiếu ưu đãi được ấn định một tỷ lệ lãi cố định tính
trên mệnh giá.
•
Phân loại:
Cổ phiếu ưu đãi có lũy kế lãi (cumulative preferred stocks)
•
Page 7
Trường hợp công ty làm ăn không có lợi nhuận để trả cổ tức, thì phần còn
lại thiếu năm nay sẽ được tích lũy sang năm sau hay vài năm sau khi công ty có
đủ lợi nhuận để trả.
Cổ phiếu ưu đãi không có lũy kế lãi (non cumulative preferred stocks)
Trường hợp công ty làm ăn không có lợi nhuận để trả cổ tức, thì khoản cổ
tức đó sẽ bị mất luôn. Qua kỳ hoạt động tiếp theo, dù công ty làm ăn có hiệu quả,
có lời cao khoản cổ tức chưa chi trả của kỳ trước cũng không được truy lĩnh chỉ
chi trả khoản cổ tức của kỳ hiện hành.
Cổ phiếu ưu đãi dự phần (participating preferred stocks)
Người chủ sở hữu loại cổ phiếu này ngoài việc nhận cổ tức đã công bố có
thể nhận thêm khoản cổ tức đặc biệt, nếu cổ tức của cổ phiếu thường vượt quá
một lượng tiền nhất định. Cổ phiếu ưu đãi không dự phần (participating
preferred stocks) Người chủ sở hữu không được hưởng thêm phần lợi tức nào
vào những năm công ty làm ăn phát đạt vượt mức.
1.1.4. Phát hành cổ phiếu
Khái niệm phát hành cổ phiếu: Phát hành cổ phiếu là việc chào bán cổ phiếu lần
đầu tiên của công ty cổ phần trên thị trường sơ cấp.
•
Phân loại phát hành cổ phiếu:
Căn cứ vào đợt phát hành: phát hành lần đầu và phát hành bổ sung.
Căn cứ vào tính chất đợt phát hành: phát hành trực tiếp hoặc gián
tiếp
Căn cứ vào phương thức phát hành: phát hành chào bán toàn phần
và phát hành chào bán từng phần.
Căn cứ vào phạm vi phân phối: phát hành nội bộ (riêng lẻ).
Phát hành ra công chúng:
+ Phát hành lần đầu ra công chúng (IPO).
+ Phát hành cổ phiếu bổ sung ra công chúng.
•
Các phương thức phát hành cổ phiếu: có 2 phương thức phát hành
cổ phiếu trên thị trường sơ cấp bao gồm
Phát hành riêng lẻ: là việc công ty phát hành chào bán cổ phiếu của
mình trong phạm vi một số người nhất định (thông thường là cho các nhà
đầu tư có tố chức có ý định nắm giữ cổ phiếu một cách lâu dài) công ty bảo
hiểm, quỹ hưu trí…với những hạn chế chứ không phát hành rộng rãi ra
công chúng.
Phát hành cổ phiếu ra công chúng: là việc phát hành trong đó cổ
phiếu có thể chuyển nhượng được bán rộng rãi ra công chúng cho một số
lượng lớn người đầu tư nhất định (trong đó phải dành một tỷ lệ cho các
nhà đầu tư nhỏ) và khối lượng phát hành phải đạt một mức nhất định. Có
2 phương thức phát hành cổ phiếu ra công chúng:
Page 8
Phát hành lần đầu ra công chúng (IPO): cổ phiếu của công ty lần đầu tiên
được bán rộng rãi cho công chúng đầu tư. Bao gồm:
IPO sơ cấp: cổ phần được bán đầu tiên ra công chúng nhằm tăng
vốn.
IPO thứ cấp: cổ phần được bán từ số cổ phần hiện hữu.
Phát hành cổ phiếu bổ sung của công ty ra công chúng
1.2 Tổng quan về thị trường cổ phiếu
1.2.1. Khái niệm
Thị trường cổ phiếu là thị trường mà hàng hóa được giao dịch trao đổi, mua bán
tại đó là các cổ phiếu
1.2.2. Lịch sử hình thành và phát triển của thị trường cổ phiếu
Lịch sử hình thành và phát triển của thị trường cổ phiếu gắn liền với lịch
sử hình thành và phát triển của thị trường chứng khoán. Những dấu hiệu của
một thị trường chứng khoán đã xuất hiện ngay từ thời Trung cổ xa xưa. Vào
khoảng thế kỷ thứ XV, ở các thành phố lớn của các nước phương Tây, trong cácc
phiên chợ hay hội chợ, các thương gia thường gặp gỡ tiếp xúc với nhau để
thương lượng mua bán, trao đổi hàng hóa. Đặc điểm của hoạt động này là các
thương gia chỉ trao đổi bằng lời nói với nhau về các hợp đồng mua bán mà
không có sự xuất hiện của bất kỳ hàng hóa, giấy tờ nào. Đến cuối thế kỷ XV, “khu
chợ riêng” đã trở thành thị trường hoạt động thường xuyên với những quy ước
xác định cho các cuộc thương lượng. Những quy ước này dần dần trở thành các
quy tắc có tính chất bắt buộc đối với các thành viên tham gia.
Năm 1453, ở thành phố Bruges (Bỉ), buổi họp đầu tiên đã diễn ra tại một lữ quán
của gia đình Vanber. Trước lữ quán có một bảng hiệu vẽ hình 3 túi da tượng
trưng cho 3 loại giao dịch: giao dịch hàng hóa, giao dịch ngoại tệ và giao dịch
chứng khoán động sản.
Vào năm 1457, thành phố ở Burges (Bỉ) mất đi sự phồn vịnh do eo biển Even bị
lấp cát nên mậu dịch thị trường ở đây bị sụp đổ và được chuyển qua thị trấn
Auvers (Bỉ).
Ở đây, thị trường phát triển rất nhanh chóng, các thị trường như vậy cũng được
thành lập ở Anh, Pháp, Đức, Mỹ.
Sau một thời gian hoạt động, thị trường không chứng tỏ khả năng đáp
ứng được yếu cầu của 3 loại giao dịch khác nhau nên đã phân ra thành nhiều thị
trường khác nhau: thị trường hàng hóa, thị trường hối đoái, trị trường chứng
khoán,…với đặc tính riêng của từng thị trường thuận lợi cho giao dịch của người
tham gia trong đó. Như vậy, thị trường chứng khoán được hình thành cùng với
thị trường hàng hóa và thị trường hối đoái.
Page 9
Quá trình phát triển của thị trường chứng khoán đã trải qua nhiều bước
thăng trầm. Thời kỳ khủng hoảng nhất là vào năm 1875 – 1913, thị trường
chứng khoán phát triển mạnh cùng với sự tăng trưởng của nền kinh tế. Nhưng
đến ngày 29/10/1929, ngày được gọi là “ngày thứ năm đen tối”, đây là ngày mở
đầu của cuộc khủng hoảng thị trường chứng khoán New York, và sau đó lan rộng
ra các thị trường chứng khoán Tây Âu, Bắc Âu, Nhật Bản. Sau thế chiến thứ hai,
các thị trường chứng khoán phục hồi, phát triển mạnh. Nhưng rồi cuộc khủng
hoảng tài chính năm 1987, một lần nữa đã làm cho các thị trường chứng khoán
thế giới suy sụp, kiệt quệ. Lần này, hậu quả của nó rất lớn và nặng nề hơn cuộc
khủng hoảng năm 1929, nhưng chỉ 2 năm sau, thị trường chứng khoán thế giới
lại đi vào ổn định, phát triển và trở thành một định chế tài chính không thể thiếu
được trong đời sống kinh tế của những quốc gia có nền kinh tế phát triển theo cơ
chế thị trường.
1.2.3. Vai trò của thị trường cổ phiếu.
Thị trường cổ phiếu là một định chế tài chính tất yếu của nền kinh tế thị
trường phát triển. Thị trường cổ phiếu là chiếc cầu vô hình nối liền giữa cung và
cầu vốn trong nền kinh tế. Một thị trường cổ phiếu lành mạnh và hoạt động có
hiệu quả sẽ tạo điều kiện khai thác tốt các tiềm năng của nền kinh tế, tạo sự lành
mạnh trong việc thu hút và phân phối vốn trong nền kinh tế một cách có hiệu quả
nhất.
•
Thị trường cổ phiếu góp phần thúc đẩy sự phát triển nhanh chóng
nền kinh tế:
Chức năng cơ bản của thị trường cổ phiếu là công cụ huy động vốn đầu tư cho
nền kinh tế và tăng tiết kiệm quốc gia thông qua việc phát hành và luân chuyển
cổ phiếu có giá. Việc mua đi bán lại cổ phiếu trên thị trường cổ phiếu đã tạo điều
kiện di chuyển vốn từ nơi thừa sang nơi thiếu vốn, tạo điều kiện chuyển hướng
đầu tư từ ngành này sang ngành khác, từ đó góp phần điều hòa vốn giữa các
ngành kinh tế, phá vỡ “tính ỳ” trong đầu tư sản xuất, tạo ra những động năng
cho sản xuất kinh doanh, góp phần tạo nên sự phát triển nhanh và đồng đều của
nền kinh tế.
Thị trường cổ phiếu là một định chế rất cơ bản trong hệ thống thị trường tài
chính, là chất xúc tác quan trọng trong huy động vốn cho đầu tư phát triển và
thúc đẩy hoạt động kinh tế.
•
Thị trường cổ phiếu góp phần thực hiện tái phân phối công bằng
hơn thông qua việc buộc các công ty phát hành cổ phiếu ra công chúng
theo một tỷ lệ nhất định.
Điều này giúp giải tỏa sự tập trung quyền lực kinh tế vào một nhóm nhỏ, song
vẫn tập trung cho phát triển kinh tế. Từ đó tạo sự cạnh tranh công bằng hơn, góp
Page 10
phần tăng tính hiệu quả và góp phần thúc đẩy tăng trưởng nền kinh tế. Bên cạnh
đó, giúp cho việc tăng cường tầng lớp trung lưu trong xã hội, tăng cường sự
giám sát của xã hội đối với hoạt động của công ty.
•
Thị trường cổ phiếu tạo điều kiện thu hút và kiểm soát vốn đầu tư
nước ngoài
Việc đầu tư vốn từ nước ngoài có thể thực hiện bằng nhiều biện pháp khác
nhau, trong đó có đầu tư vốn thông qua thị trường cổ phiếu. Đây là hình thức
đầu tư dễ dàng và hữu hiệu. Với nguyên tắc công khai, thị trường cổ phiếu là nơi
mà các nhà đầu tư có thể theo dõi và nhận định một cách dễ dàng hoạt động của
các ngành, các doanh nghiệp trong nước. Hơn nữa, thị trường cổ phiếu thu hút
vốn thông qua mua bán cổ phiếu, từ đó tạo môi tường đầu tư thuận lợi cho các
nhà đầu tư nước ngoài.
•
Thị trường cổ phiếu là công cụ đánh giá hoạt động kinh doanh và là
phong vũ biểu của nền kinh tế
Thị trường cổ phiếu phản ánh tình trạng của các doanh nghiệp và của cả nền
kinh tế quốc gia. Các thị giá cổ phiếu được thể hiện thường xuyên trên thị trường
đã phản ánh giá trị phần tài sản có của doanh nghiệp trên cơ sở đánh giá thực
trạng của doanh nghiệp, mức độ đầu tư, trạng thái kinh tế. Chỉ có những doanh
nghiệp làm ăn mạnh, có hiệu quả cao, hứa hẹn triển vọng tương lai tốt thì giá trị
thị trường của cổ phiếu công ty mới cao và ngược lại.
Ngoài sự đánh giá các doanh nghiệp, thị trường cổ phiếu còn là phong vũ biểu
của nền kinh tế, giúp những người đầu tư và những người quản lý có cơ sở đánh
giá thực trạng và dự đoán tương lai của nền kinh tế. Diễn biến của thị giá cổ
phiếu đã phản ánh thông tin đa dạng và nhiều chiều cho nhà đầu tư trước diễn
biến của các rủi ro. Thị trường cổ phiếu còn phản ánh rất nhạy cảm trước các
chính sách kinh tế vĩ mô, các biến động của nền kinh tế. Vì vậy, các nhà hoạch
định chính sách và quản lý thường thông qua thị trường cổ phiếu để phân tích,
dự đoán, đề ra các chính sách điều tiết kinh tế và phương pháp quản lý kinh tế
thích hợp, qua đó tác động tới các hoạt động của nền kinh tế quốc dân.
Ngoài những tác động tích cực trên đây, thị trường cổ phiếu cũng có những
tác động tiêu cực sau:
Thị trường cổ phiếu luôn chứa đựng yếu tố đầu cơ, một yếu tố có tính toán
của nhà đầu tư. Họ có thể mua cổ phiếu với hy vọng giá cổ phiếu sẽ tăng lên
trong tương lai và qua đó thu được lợi nhuận. Sự kiện này càng dễ dàng xãy ra
khi có nhiều người cùng cấu kết với nhau để đồng thời mua vào hay bán ra một
loại cổ phiếu nào đó, dẫn đến sự khan hiếm hay dư thừa cổ phiếu một cách giả
tạo trên thị trường, làm cho giá cổ phiếu tăng lên hay giảm xuống một cách đột
biến, gây tác động xấu đến thị trường.
Page 11
Hoạt động giao dịch nội gián thường xãy ra trên thị trường cổ phiếu. Một các
nhân nào đó lợi dụng việc nắm bắt thông tin nội bộ của doanh nghiệp, cũng như
các thông tin mật không được hoặc chưa được phép công bố và sử dụng các
thông tin đó cho giao dịch cổ phiếu nhằm thu lợi bất chính được gọi là giao dịch
nội gián. Các giao dịch nội gián được coi là phi đạo đức về mặt thương mại, vì
người có nguồn tin nội gián sẽ có lợi thế trong đầu tư so với các nhà đầu tư khác
để thu lợi bất chính cho riêng mình. Điều này sẽ làm nản lòng các nhà đầu tư.
Như vậy sẽ tác động tiêu cực đến tích lũy và đầu tư.
Thị trường cổ phiếu hoạt động trên cơ sở thông tin hòan hảo. Tuy vậy, khi có
tin đồn không chính xác hoặc thông tin sai lệch về hoạt động của doanh nghiệp,
điều này tác động đến tâm lý của nhà đầu tư, dẫn đến xu hướng thay đổi đầu tư,
ảnh hưởng đến giá cổ phiếu của doanh nghiệp trên thị trường và gây thiệt hại
cho đại đa số nhà đầu tư
Như vây, vai trò của thị trường cổ phiếu được thể hiện trên nhiều khía cạnh
khác nhau. Song vai trò tích cực hay tiêu cực của thị trường cổ phiếu thực sự
phát huy hay bị hạn chế phụ thuộc đáng kể vào các chủ thể tham gia thị trường.
1.2.4 Các chủ thể tham gia thị trường chứng khoán
Các tổ chức và cá nhân tham gia thị trường chứng khoán có thể được chia
thành các nhóm sau: nhà phát hành, nhà đầu tư và các tổ chức có liên quan đến
chứng khoán.
a. Nhà phát hành
Nhà phát hành là các tổ chức thực hiện huy động vốn thông qua thị trường
chứng khoán. Nhà phát hành là người cung cấp các chứng khoán - hàng hoá của
thị trường chứng khoán.
+ Chính phủ và chính quyền địa phương là nhà phát hành các trái phiếu
Chính phủ và trái phiếu địa phương.
+ Công ty là nhà phát hành các cổ phiếu và trái phiếu công ty.
+ Các tổ chức tài chính là nhà phát hành các công cụ tài chính như các trái
phiếu, chứng chỉ thụ hưởng... phục vụ cho hoạt động của họ.
b. Nhà đầu tư
Nhà đầu tư là những người thực sự mua và bán chứng khoán trên thị trường
chứng khoán. Nhà đầu tư có thể được chia thành 2 loại: nhà đầu tư cá nhân và
nhà đầu tư có tổ chức.
+ Các nhà đầu tư cá nhân
+ Các nhà đầu tư có tổ chức
c. Các tổ chức kinh doanh trên thị trường chứng khoán
Page 12
+ Công ty chứng khoán
+ Quỹ đầu tư chứng khoán
+ Các trung gian tài chính
d. Các tổ chức có liên quan đến thị trường chứng khoán
+ Cơ quan quản lý Nhà nước
+ Sở giao dịch chứng khoán
+ Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán
+ Tổ chức lưu ký và thanh toán bù trừ chứng khoán
+ Công ty dịch vụ máy tính chứng khoán
+ Các tổ chức tài trợ chứng khoán
+ Công ty đánh giá hệ số tín nhiệm...
1.2.5 Nguyên tác hoạt động của thị trường chứng khoán
Thị truờng chứng khoán hoạt động theo 3 nguyên tắc cơ bản: nguyên tắc
trung gian, nguyên tắc đấu giá và nguyên tắc công khai.
Nguyên tắc trung gian:
Mọi hoạt động giao dịch, mua bán chứng khoán trên thị truờng chứng
khoán đều đuợc thực hiện thông qua các trung gian, hay còn gọi là các nhà môi
giới. Các nhà môi giới thực hiện giao dịch theo lệnh của khách hàng và huởng
hoa hồng. Ngoài ra, nhà môi giới còn có thể cung cấp các dịch vụ khác như cung
cấp thông tin và tu vấn cho khách hàng trong việc đầu tư... Theo nguyên tắc
trung gian, các nhà đầu tư không thể trực tiếp thoả thuận với nhau để mua bán
chứng khoán. Họ đều phải thông qua các nhà môi giới của mình để đặt lệnh. Các
nhà môi giới sẽ nhập lệnh vào hệ thống để khớp lệnh.
Nguyên tắc đấu giá:
Giá chứng khoán đuợc xác định thông qua việc đấu giá giữa các lệnh mua
và các lệnh bán. Tất cả các thành viên tham gia thị truờng đều không thể can
thiệp vào việc xác định giá này. Có hai hình thức đấu giá là đấu giá trực tiếp và
đấu giá tự động. Đấu giá trực tiếp là việc các nhà môi giới gặp nhau trên sàn
giao dịch và trực tiếp đấu giá. Đấu giá tự động là việc các lệnh giao dịch từ các
nhà môi giới đuợc nhập vào hệ thống máy chủ của Sở giao dịch chứng khoán. Hệ
thống máy chủ này sẽ xác định mức giá sao cho tại mức giá này, chứng khoán
giao dịch với khối luợng cao nhất.
Nguyên tắc công khai:
Tất cả các hoạt động trên thị truờng chứng khoán đều phải đảm bảo tính
công khai. Sở giao dịch chứng khoán công bố các thông tin về giao dịch chứng
khoán trên thị trường. Các tổ chức niêm yết công bố công khai các thông tin tài
chính định kỳ hàng năm của công ty, các sự kiện bất thuờng xảy ra đối với công
Page 13
ty, nắm giữ cổ phiếu của giám đốc, nguời quản lý, cổ đông đa số. Các thông tin
càng được công bố công khai minh bạch, thì càng thu hút đuợc nhà đầu tư tham
gia vào thị trường chứng khoán.
Các nguyên tắc trên đây nhằm đảm bảo cho giá cả chứng khoán đuợc hình
thành một cách thống nhất, công bằng cho tất cả các bên giao dịch. Do đó, ở hầu
hết các nuớc trên thế giới hiện nay, mỗi nước chỉ có một Sở giao dịch chứng
khoán duy nhất (tuy nhiên, người dân mọi miền đất nuớc đều có thể tiếp cận thị
trường thông qua các phòng giao dịch của công ty chứng khoán mở tới các điểm
dân cư).
Một số nước khác còn tồn tại vài Sở giao dịch chứng khoán do lịch sử để lại thì
đều nối mạng với nhau hoặc giao dịch những chứng khóan riêng biệt.
CHƯƠNG II : THỊ TRƯỜNG CỔ PHIẾU VIỆT NAM
2.1. Sơ lược về thị trường chứng khoáng Việt Nam
2.1.1. Lịch sử hình thành.
- Ngày 6 tháng 11 năm 1993, thành lập Ban Nghiên cứu xây dựng và phát triển
thị trường vốn thuộc Ngân hàng Nhà nước Việt Namư (Quyết định số 207/QĐTCCB ngày 6/11/1993 của Thống đốc Ngân hàng nhà nước) với nhiệm vụ nghiên
cứu, xây dựng đề án và chuẩn bị các điều kiện để thành lập TTCK theo bước đi
thích hợp.
- Tháng 9 năm 1994, Chính phủ thành lập Ban soạn thảo Pháp lệnh về chứng
khoán và TTCK do Thứ trưởng Bộ Tài chính làm Trưởng Ban, với các thành viên
là Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam Lê Văn Châu, Thứ trưởng Bộ
Tư pháp.
- Ngày 29 tháng 6 năm 1995, Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định số
361/QĐ-TTg thành lập Ban Chuẩn bị tổ chức TTCK giúp Thủ tướng Chính phủ chỉ
đạo chuẩn bị các điều kiện cần thiết cho việc xây dựng TTCK ở Việt Nam. Ban
Chuẩn bị tổ chức TTCK có nhiệm vụ:
+ Soạn thảo các văn bản pháp luật về chứng khoán và TTCK;
+ Soạn thảo Nghị định của Chính phủ về thành lập Ủy ban Chứng khoán
Nhà nước;
+ Chuẩn bị cơ sở vật chất, đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước, quản lý thị
trường, kinh doanh về chứng khoán;
+ Hợp tác với các nước và tổ chức quốc tế trong việc tổ chức TTCK ở Việt
Nam;
- Ủy ban Chứng khoán Nhà nước được thành lập ngày 28 tháng 11 năm 1996
theo nghị định 75/cp của Chính phủ Việt Nam, ban đầu đây là một Ủy ban thuộc
điều hành của Chính phủ.
Page 14
- Lúc đầu, để khuyến khích các doanh nghiệp niêm yết, Ủy ban Chứng khoán
đã trình Bộ Tài chính Việt Nam và được đồng ý cấp khoản kinh phí 100 triệu
đồng "ngoài luồng" cho công tác vận động doanh nghiệp niêm yết và tổ chức các
chiến dịch có quy mô hơn với mục tiêu thu hút doanh nghiệp niêm yết trên sàn
chứng khoán [1].. Đặc biệt, Ủy ban nhân dân Hà Nội và Hải Phòng còn dùng tiền
ngân sách để hỗ trợ toàn bộ chi phí tư vấn và kinh phí kiểm toán cho những đơn
vị niêm yết đầu tiên. Hải Phòng còn ưu đãi thêm 50% thuế thu nhập doanh
nghiệp cho các công ty đăng ký giao dịch trong vòng 2 năm kế tiếp sau khi hưởng
ưu đãi theo quy định chung.
- Ngày 19 tháng 2 năm 2004, Chính phủ đã ban hành nghị định 66/2004/NĐ
chuyển Ủy ban Chứng khoán Nhà nước vào Bộ Tài chính.
2.1.2. Nhiệm vụ và quyền hạn Ủy ban Chứng khoán Nhà nước thực hiện các
nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:
Ủy ban Chứng khoán Nhà nước thực hiện các nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:
1.
Trình Bộ trưởng Bộ Tài chính để trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ
xem xét, quyết định:
a. Các dự án luật, dự thảo nghị quyết của Quốc hội, dự án pháp lệnh, dự thảo
nghị quyết của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội; dự thảo nghị định của Chính phủ; dự
thảo quyết định của Thủ tướng Chính phủ về chứng khoán và thị trường chứng
khoán;
b. Chiến lược, quy hoạch, chương trình mục tiêu quốc gia, chương trình hành
động, đề án, dự án quan trọng về chứng khoán và thị trường chứng khoán.
2.
Trình Bộ trưởng Bộ Tài chính xem xét, quyết định:
a. Dự thảo thông tư và các văn bản khác về chứng khoán và thị trường chứng
khoán;
b. Kế hoạch phát triển thị trường chứng khoán hàng năm.
3.
Ban hành văn bản hướng dẫn chuyên môn, nghiệp vụ, văn bản quy phạm
nội bộ, văn bản cá biệt thuộc phạm vi quản lý của Uỷ ban Chứng khoán Nhà
nước.
4.
Tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật, chiến lược, quy hoạch,
kế hoạch, chương trình, dự án, đề án thuộc lĩnh vực chứng khoán và thị trường
chứng khoán sau khi được cấp có thẩm quyền ban hành hoặc phê duyệt.
5.
Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về chứng khoán và thị trường
chứng khoán.
6.
Cấp, gia hạn, đình chỉ, thu hồi giấy phép, giấy chứng nhận liên quan đến
hoạt động chứng khoán và thị trường chứng khoán; chấp thuận những thay đổi
liên quan đến hoạt động chứng khoán và thị trường chứng khoán.
Page 15
Quản lý, giám sát hoạt động của các Sở Giao dịch chứng khoán, Trung tâm
Giao dịch chứng khoán, Trung tâm Lưu ký chứng khoán và các tổ chức phụ trợ;
tạm đình chỉ hoạt động giao dịch, hoạt động lưu ký của các Sở Giao dịch chứng
khoán, Trung tâm Giao dịch chứng khoán, Trung tâm Lưu ký chứng khoán trong
trường hợp có dấu hiệu ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu
tư; chấp thuận các quy định, quy chế của các Sở Giao dịch chứng khoán, Trung
tâm Giao dịch chứng khoán, Trung tâm lưu ký chứng khoán; chấp thuận việc đưa
vào giao dịch các loại chứng khoán mới, thay đổi và áp dụng phương thức giao
dịch mới, đưa vào vận hành hệ thống giao dịch mới.
8.
Thanh tra, giám sát, xử lý vi phạm hành chính và giải quyết khiếu nại, tố
cáo trong hoạt động chứng khoán và thị trường chứng khoán.
9.
Thực hiện công tác thống kê, dự báo về hoạt động chứng khoán và thị
trường chứng khoán; tổ chức quản lý và ứng dụng công nghệ thông tin, hiện đại
hóa hoạt động trong lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng khoán.
10.
Tổ chức nghiên cứu khoa học; tổ chức, phối hợp với các cơ quan, tổ chức
liên quan đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức quản lý chứng
khoán và nhân viên hành nghề chứng khoán; phổ cập kiến thức về chứng khoán
và thị trường chứng khoán cho công chúng.
11.
Thực hiện hợp tác quốc tế trong lĩnh vực chứng khoán và thị trường
chứng khoán theo phân công, phân cấp của Bộ trưởng Bộ Tài chính và quy định
của pháp luật.
12.
Hướng dẫn các tổ chức hiệp hội chứng khoán thực hiện mục đích, tôn chỉ
và Điều lệ hoạt động của hiệp hội; kiểm tra việc thực hiện các quy định của Nhà
nước, xử lý hoặc kiến nghị cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xử lý các vi phạm
pháp luật của các hiệp hội chứng khoán theo phân cấp của Bộ trưởng Bộ Tài
chính và quy định của pháp luật.
13.
Thực hiện chế độ báo cáo về chứng khoán và thị trường chứng khoán theo
quy định của pháp luật và phân công, phân cấp của Bộ trưởng Bộ Tài chính.
14.
Quản lý tổ chức bộ máy, biên chế; thực hiện chế độ tiền lương và các chế
độ, chính sách đãi ngộ, thi đua khen thưởng, kỷ luật, đào tạo, bồi dưỡng đối với
cán bộ, công chức, viên chức thuộc phạm vi quản lý của Uỷ ban Chứng khoán Nhà
nước theo phân cấp của Bộ trưởng Bộ Tài chính và quy định của pháp luật; thực
hiện phòng, chống tham nhũng, tiêu cực và thực hành tiết kiệm, chống lãng phí
trong việc sử dụng tài sản, kinh phí được giao theo quy định của pháp luật.
15.
Thực hiện cải cách hành chính theo mục tiêu và nội dung chương trình cải
cách hành chính được Bộ trưởng Bộ Tài chính phê duyệt
7.
Page 16
Quản lý kinh phí do ngân sách nhà nước cấp và các nguồn kinh phí khác,
tài sản được giao; thực hiện chế độ tự chủ về biên chế và kinh phí hoạt động theo
quy định của cấp có thẩm quyền.
17.
Thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn khác do Bộ trưởng Bộ Tài chính giao
và theo quy định của pháp luật.
2.2. Các giai đoạn của thị trường chứng khoán Việt Nam
2.2.1 Giai đoạn 2002-2005
Sự ra đời của thị trường chứng khoán Việt Nam được đánh dấu bằng việc đưa
vào vận hành Trung tâm giao dịch chứng khóan TP. Hồ Chí Minh ngày
20/07/2000 và thực hiện phiên giao dịch đầu tiên và ngày 28/07/2000. Ở thời
điểm lúc bấy giờ, chỉ có 2 doanh nghiệp niêm yết 2 loại cổ phiếu ( REE và SAM )
với số vốn 270 tỷ đồng và một số ít trái phiếu Chính phủ được niêm yết giao dịch.
Từ đó cho đến 2005, thị trường luôn ở trạng thái gà gật, loại trừ cơn sốt vào
năm 2001 ( chỉ số VN index cao nhất đạt 571.04 điểm sau 6 tháng đầu năm
nhưng chỉ trong vòng chưa đầy 4 tháng, từ tháng 6 đến tháng 10, các cổ phiếu
niêm yết đã mất giá tới 70% giá trị, chỉ số VN index sụt từ 571.04 điểm vào ngày
25/04/2001 xuống chỉ còn khoản 200 điểm vào tháng 10/2001. Trong 4 tháng “
hoản loạn” này, trong khi nhiều nhà đầu tư tháo chạy khỏi thị trường với lời
nguyền không bao giờ quay lại thì một số nhà đầu tư khác vẫn bình tĩnh bám trụ,
âm thầm mua bán và tiếp tục kiếm được lợi nhuận. Lý do chính là ít hàng hóa,
các doanh nghiệp niêm yết cũng nhỏ, không nổi tiếng, không hấp dẫn các nhà
đầu tư trong nước, trong khi “room” cũng hết. Ngày 8/3/2005 Trung tâm giao
dịch chứng khoán Hà Nội chính thức đi vào hoạt động. Giai đoạn tỉnh ngủ dần
xuất hiện từ năm 2005 khi tỷ lệ nắm giữ của nhà đầu tư nước ngoài được nâng
lên từ 30% lên 49% ( trừ lĩnh vực ngân hàng).
Trong 5 năm đầu tiên, dừơng như thị trường không thực sự thu hút sự quan
tâm của đông đảo công chúng và các diễn biến tăng giảm của thị trường chưa
tạo ra các tác động xả hội mở rộng để có thể ảnh hưởng đến sự vận hành của nền
kinh tế cũng như tới cuộc sống của mỗi người dân.
2.2.2 Giai đoạn 2006
Mốc thời gian kể từ đầu năm 2006 được coi là mang tính chất phát triển “đột
phá”, tạo cho thị trường chứng khoán Việt Nam một điện mạo hoàn toàn mới với
hoạt động giao dịch sôi động tại cả 3 “sàn”: Sở giao dịch TP. Hồ Chí Minh, Trung
tâm giao dịch Hà Nội và thị trường OTC.
Với mức tăng trưởng đạt tới 60% từ đầu đến giữa năm 2006 thị trường
chứng khoán Việt Nam trở thành “điểm” có tốc độ tăng trưởng nhanh thứ hai
thế giới. Và sự bừng dậy của thị trường non trẻ này đang ngày càng “hút hồn”
16.
Page 17
các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Không thể phủ nhận năm 2006 vừa qua thị
trường chứng khoán Việt Nam non trẻ này đã có “màn trình diễn” tuyệt với và có
thể sẽ không bao giờ có lại được với khối lượng vốn hóa tăng gấp 15 lần trong
vòng 1 năm. Năm 2006 TTCK Việt Nam có sự phát trểin vượt bậc, chỉ số VN index
tại Sàn giao dịch TP Hồ Chí Minh (HASTC) tăng 144% năm 2006, tại Sàn gai dịch
Hà Nội(Hastc) tăng 152.4%.
Thị trường chứng khoán Việt Nam 2006: VN index cuối năm tăng 2,5 lần so với
đầu năm. Tổng giá trị vốn hóa đạt 13.8 tỉ USD cuối năm 2006 ( chiếm 22,7%
GDP) giá trị cổ phiếu do các nhà đầu tư nước ngoài đang nắm giữ đạt khoảng 4
tỉ USD, chiếm 16,4% mức vốn hóa của toàn thị trường.
Năm 2006 kỹ lục mới của VN index được xác lập ở mốc 809,86 điểm. Với HASTC
index là nỗ lực chạm mốc 260 điểm Tính chung, so với đầu năm, chỉ số VN index
đả có mức tăng trưởng tới 146% và HASTC index tăng tới 170%. Đây là những
mức tăng mà các thị trường trên thế giới phải thừa nhận là quá ấn tượng.
2.2.3. Giai đoạn 2007
Lưật chứng khoán có hiệu lực từ ngày 0/01/2007 đã góp phần thức đẩy thị
trường phát triển và tăng cường khả năng hội nhập vào thị trường tài chính
quốc tế. Tính công khai, minh bạch của các tổ chức niêm yết được tăng cường
- VN index đạt đỉnh 1.170,67 điểm
- HASTC index chạm mốc 459,36 điểm
Nhìn chung diễn biến của thị trường và giá cả chứng khoán trong các phiên
giao dịch có nhiều biến động, Index của cả hai sàn giao dịch đều có biên độ giao
động mạnh. Kết thúc phiên giao dịch cuối năm, VN index đạt 927,02 điểm, Hastc
index dừng ở mức 323,55 điểm, như vậy sau một năm hoạt động VN index đạt
được mức tăng trường là 23,3%, Hastc index tăng 33.2% so với mức điểm thiết
lập vào cuối năm 2006. Nhìn nhận khách quan từ góc độ thị trường, bên cạnh
những thành công, TTCK qua một năm hoạt động cũng ghi lại dấu ấn cho những
giai đoạn thăng trầm nhất định khi thị trường trải qua những biến động trồi sụt
thất thường; giai đoạn thị trường bùng nổ trong 3 tháng đầu năm, thị trường
bắt đầu hạ nhiệt và điều chỉnh mạnh vào 5 tháng giữa năm, tiếp đến là một đợt
phục hồi trứơc khi đi vào thoái trào trong 4 tháng cuối năm.
2.2.4 Giai đoạn 2008
Nhìn lại thị trường sau 1 năm giao dịch, những điểm nổi bật của thị trường:
Index giảm điểm, thị giá các loại cổ phiếu giảm mạnh, tính thanh khoản kém, sự
thoái vốn của khối ngoại, sự can thiệp của các cơ quan điều hành và sự ảm đạm
trong tâm lý của các nhà đầu tư.
Page 18
Trong năm 2008, lượng cung tiếp tục được bổ sung đáng kể thông qua việc
Chính phủ đẩy mạnh cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nứơc, đặc biệt là các doanh
nghiệp quy mô lớn, kinh doanh hiệu quả và bán bớt cổ phần Nhà nước trong các
doanh nghiệp chưa cổ phần hóa, chưa kể hoàng loạt ngân hàng, Công ty chứng
khoán, doanh nghiệp, … phát hành trái phiếu, cổ phiếu để tăng vốn điều lệ, dẫn
đến tình trạng thị trường chứng khóan có nguy cơ thừa “hàng”.
Tính từ đầu năm đến hết ngày 31/12/2008, TTCKVN trải qua 3 giai đoạn
chính:
Giai đoạn 1: Từ tháng 1 đến tháng 6 - Thi trường giảm mạnh do tác động từ
tác động của .kinh tế vĩ mô
Giai đoạn 2: Từ tháng 6 đến đầu tháng 9 – Phục hồi trong ngắn hạn.
Giai đoạn 3: Từ tháng 9 đến tháng 12 – Thị trường rơi trở lại chu kỳ giảm
do tác động của khủng hoảng kinh tế toàn cầu.
2.2.5. Giai đoạn 2009
Nếu tính từ 1/1/2009 đến hết 31/1/2009 thì VN index đã tăng 171,96 điểm, từ
312,49 lên 494,17 tương đương với mức tăng là 58%. Nếu tính từ đáy thấp nhất
năm 2009 khi VN index ở mốc 234,66 điểm ngày 24/2/2009 và đỉnh cao nhất ở
633,21 điểm ( 30/10/2009) thì VN index đã tăng 2,69 lần.
2.2.6 Ưu điểm và nhược điểm của thị trường chứng khoán Việt Nam
Ưu điểm
1.
Khuyến khích dân chúng tiết kiệm và hút mọi nguồn vốn nhàn rỗi
vào đầu tư
Thị trường chứng khoán sẽ đưa cho dân chúng những công cụ mới đa dạng,
phong phú phù hợp với từng loại đối tượng có tâm lý và suy nghĩ riêng. Cả một
hệ thống gồm hàng loạt các loại cổ phiếu và trái phiếu khác nhau của nhiều
nghành kinh tế, người có vốn có thể tự mình lựa chọn, hoặc thông qua những
nhà tài chính chuyên môn lựa chọn những hình thức thích hợp nhất.
Mua cổ phiếu hoặc trái phiếu trên thị trường chứng khoán lợi nhuận thu được
hàng năm chỉ là một phần của lợi ích. Phần quan trọng hơn là mệnh giá cổ phiếu
gia tăng do công ty tự tích lũy, và giá chứng khoán trên thị trường cao hơn mệnh
giá do uy tín của công ty phát hành. Ngoài ra còn là việc thực hiện quyền kiểm
soát công ty… Đó chính là những tác nhân kích thích ý thức tiết kiệm trong dân
chúng.
Ngoài ra trong hoạt động của xã hội luôn có những loại quỹ có vốn bằng tiền như
bảo hiểm, quỹ phúc lợi tập thể, và các loại quỹ tương trợ khác. Một phần vốn của
quỹ này được gửi vào ngân hàng để thực hiện việc thanh toán. Số còn lại quan
trọng hơn nhiều, những nhà quản lý quỹ luôn tìm cách làm cho số vốn của họ
Page 19
được sinh lợi nhiều nhất nhưng lại phải an toàn và phải có tính tạm thời…Thị
trường chứng khoán có khả năng giải quyết các yêu cầu đó.
Mỗi người trong xã hội chỉ có một lượng tiền nhỏ, nhưng kết hợp lại sẽ thành
một lượng lớn khổng lồ. Số tiền này được tập trung qua thị trường chứng khoán
để đưa vào cuộc đầu tư có tính sản xuất.
Nhờ thị trường chứng khoán, với công cụ cổ phiếu có mệnh giá rất nhỏ và cổ
phiếu quỹ đầu tư, đại đa số dân chúng đều có thể tham gia được vào công cuộc
đầu tư bằng số vốn ít ỏi của mình. Chẳng hạn như một sinh viên cũng có thể tham
gia vào thị trường chứng khoán với vài tram nghìn mà người thân cho bằng
cách mua một vài cổ phiếu của công ty nào đó. Với hàng nghìn người như vậy sẽ
tạo ra một số tiền rất lớn phục vụ đầu tư sản xuất. Hoạt động của thị trường tài
chính và khả năng mang lại lợi nhuận của nó đã khiến người ta thấy nắm giữ
tiền mặt và những tài sản khác là rất vô lý.
2.
Thị trường chứng khoán là một công cụ giúp nhà nước thực hiện
chương trình phát triển kinh tế xã hội
Nhà nước nào cũng có nhiệm vụ ổn định và phát triển kinh tế. Nền kinh tế tăng
trưởng hay suy thoái trước hết phụ thuộc vào các chính sách và các biện pháp
can thiệp của nhà nước. Ngân sách nhà nước càng lớn thì các chương trình phát
triển kinh tế xã hội càng dễ thành công. Để có vốn cho chi tiêu của nhà nước, nhà
nước thực hiện chính sách thuế. Thuế là biện pháp quan trọng nhất để tạo nên
ngân sách nhà nước. Nhưng thông thường tiền thu từ thuế không đủ cho chi tiêu,
do đó phải có nguồn thu khác, đó là trái phiếu kho bạc, trái phiếu chính phủ, trái
phiếu chính quyền địa phương… một hình thức vay tiền của dân. Không có thị
trường tài chính thì nhà nước cũng phát hành được trái phiếu nhưng việc phát
hành sẽ khó khăn và tính lỏng của trái phiếu sẽ rất thấp.
3.
Là công cụ thu hút và kiểm soát vốn đầu tư nước ngoài
Vê khả năng thu hút vốn đầu tư của thị trường chứng khoán. Không có thông tin
đầy đủ chính xác thì dù có thừa vốn nhà đầu tư cũng không giám đầu tư. TTCK
hoạt động trên các nguyên tắc công khai nghĩa là mọi đối tượng tham gia phải
công khai hóa và cập nhật toàn bộ những thông tin có liên quan đến giá trị
chứng khoán và công khai khả năng tài chính trong các giao dịch mua bán
chứng khoán. Như vậy TTCK sẽ khắc phục được tình trạng thiếu thông tin hoặc
thông tin không trung thực cho cả hai phía.
Về khả năng kiểm soát vốn đầu tư nước ngoài của TTCK. Đầu tư thông qua thị
trường chứng khoán tức là đầu tư mua bán trên thị trường có tổ chức. Trong
mỗi loại chứng khoán theo luật định sẽ có một phần được bán cho người nước
ngoài. Chẳng hạn khống chế một tỷ lệ nhất định mà cá nhân tổ chức có thể mua
Page 20
nhằm chống sự tham gia quản lý và kiểm soát công ty. Đó là ưu điểm cơ bản của
phương thức thu hút vốn đầu tư nước ngoài thông qua TTCK.
TTCK còn là tấm gương phản chiếu chất lượng của hoạt động kinh doanh vì giá
cổ phiếu phản ánh tình hình hoạt động của công ty. Sư tăng nhu cầu vào một loại
chứng khoán nào chứng tỏ công ty đó đang hoạt động tốt.
4.
TTCK lưu động hóa các nguồn vốn trong nước
Các cổ phiếu, trái phiếu tượng trưng cho một số vốn đầu tư được moi người mua
đi bán lại trên thị trường chứng khoán. Người có vốn không sợ vốn của họ bị
động trên thị trường vì khi cần họ có thể bán lại các cổ phiếu, trái phiếu của họ
và mua các loại cổ phiếu, trái phiếu của công ty khác. Trong TTCK vốn luôn được
luân chuyển để tài trợ cho các dự án đầu tư khác nhau. Qua đó nó làm cho mọi
nguồn vốn trở nên lưu động hơn
5.
TTCK là điều kiện tiền đề cho quá trình cổ phần hóa
Cổ phần hóa là quá trình chuyển từ doanh nghiệp nhà nước sang công ty cổ
phần, quá trình đó đòi hỏi phải có TTCK bởi lẽ công ty cổ phần và TTCK là như
hình với bóng. Nếu không có TTCK thì vốn đầu tư qua cổ phiếu sẽ kém hơn rất
nhiều, như vậy sẽ khó khăn cho việc phát hành. Cổ phần hóa các doanh nghiệp
nhà nước và các doanh nghiệp khác với mục tiêu chủ yếu là thu hút những nguồn
vốn trong tay quần chúng vào đầu tư.
6.
TTCK kích thích các doanh nghiệp làm ăn đàng hoàng
Nhờ có TTCK mà các doanh nghiệp mới có thể đem bán, phát hành cổ phiếu trái
phiếu của họ. Ban quản lý TTCK chỉ chấp nhận các cổ phiếu, trái phiếu của công
ty đủ tiêu chuẩn: Kinh doanh hợp pháp, tài chính lành mạnh, kinhh doanh có lợi
và người ta cũng chỉ mua cổ phiếu của công ty thành đạt và có uy tín. Như vậy,
những nhà quản lý các doanh nghiệp phải tính toán làm ăn đàng hoàng. Hơn
nữa TTCK buộc các doanh nghiệp phải công bố công khai các bản báo cáo cân
đối tài chính do đó công chúng có thể đánh giá hoạt động của công ty.
Nhược điểm
a. Yếu tố đầu cơ.
Đầu cơ là yếu tố có tính toán của người chấp nhận rủi ro. Họ có thể muacổ phiếu
ngay với hy vọng giá cổ phiếu sẽ tăng trong tương lai và thu hồi được lợi nhuận
trong từng thương vụ. Yếu tố này gây ảnh hưởng lan truyền làm cho giá cổ
phiếu có thể tăng giả tạo. Tuy nhiên thị trường không cấm yếu tố này.
b. Mua bán nội gián.
Page 21
Mua bán nội gián là việc một cá nhân nào đó lợi dụng vị trí công việc của mình,
nắm được những thông tin nội bộ của đơn vị phát hành để mua hoặc bán cổ
phiếu của đơn vị đó một cách không bình thường nhằm thu lợi cho mình và làm
ảnh hưởng tới giá của cổ phiếu trên thị trường. Đây là hành vi phi đạo đức
thương mại và bị cấm ở các nước.
c. Phao tin đồn không chính xác hay thông tin lệch lạc.
Đây là việc đưa ra các thông tin sai sự thật về tình hình tài chính, tình hình nội
bộ của công ty hay về môi trường kinh doanh của công ty nhằm tăng hay giảm
giá cổ phiếu để thu lợi nhuận cho cá nhân.
d. Mua bán cổ phiếu ngầm.
6Mua bán cổ phiếu ngầm là việc mua bán không qua thị trường chứng khoán.
Điều này có thể gây áp lực cho các nhà đầu tư khác đưa tới việc khống chế hay
thay thế lãnh đạo.Việc phao tin đồn không chính xác và mua bán cổ phiếu ngầm
đều bị cấm ở các nước.
2.3 Thực trạng thị trường chứng khoán Việt Nam
Sau hơn 6 năm đi vào hoạt động, thị trường chứng khoán còn non trẻ của
Việt Nam đã dần phát triển về nhiều mặt dần định hình trở thành một kênh huy
động vốn năng động, hiệu quả cho nền kinh tế đất nước.Tính đến nay đã có 63
công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán và mỗi phiên giao dịch có tổng
khối lượng niêm yết trung bình là 11363.09 tỷ đồng. Thị trường chứng khoán đã
huy động được một khối lượng vốn nhất định cho ngân sách nhà nước thông qua
việc đấu thầu và bảo lãnh phát hành hàng nghìn tỷ đồng trái phiếu Chính phủ,
trái phiếu của Quỹ hỗ trợ đầu tư phát triển để niêm yết trên TTGDCK. Một hệ
thống các tổ chức tài chính trung gian tham gia trên thị trường với 19 công ty
chứng khoán, 16 các tổ chức hoạt động lưu ký cùng với ngân hàng lưu ký, ngân
hàng chỉ định thanh toán đã thực hiện tốt các nghiệp vụ về kinh doanh chứng
khoán, về lưu ký, đăng ký và thanh toán bù trừ. Trong những năm qua, các công
ty chứng khoán đều đã triển khai được các nghiệp vụ cơ bản là môi giới và tự
doanh, tích cực tham gia tư vấn niêm yết với kết quả kinh doanh có chiều hướng
phát triển tốt. Các công ty phần lớn đã mở thêm chi nhánh và đại lý nhận lệnh để
mở rộng phạm vi hoạt động. Đồng thời thị trường chứng khoán đã thu hút được
sự tham gia của công chúng đầu tư trong và ngoài nước với số lượng hơn 53.000
tài khoản của nhà đầu tư được mở tại các công ty chứng khoán, góp phần quan
trọng cho sự tồn tại và phát triển của thị trường chứng khoán.
Tuy nhiên so với tiềm năng phát triển của nền kinh tế, xu hướng hội nhập
quốc tế thì quy mô của thị trường chứng khoán Việt Nam còn quá nhỏ bé, tổng
giá trị chứng khoán niêm yết (cổ phiếu và trái phiếu tính theo mệnh giá) mới chỉ
chiếm khoảng 8% GDP năm 2005, chưa đáp ứng được nhu cầu huy động vốn
Page 22
trung và dài hạn cho nền kinh tế và chưa tổ chức được thị trường thứ cấp hiệu
quả đối với trái phiếu, đặc biệt là trái phiếu Chính phủ. Thị trường chứng khoán
đã trải qua nhiều biến động thăng trầm "sốt nóng và nguội lạnh" gây tâm lý dè
dặt và thiếu niềm tin cho nhà đầu tư tham gia thị trường. Công tác tạo hàng hoá
cho thị trường gặp nhiều khó khăn, số lượng các công ty niêm yết trên thị trường
chưa nhiều. Thị trường trái phiếu trong thời gian qua hoạt động chưa có hiệu
quả cao, chưa thu hút được sự quan tâm của các nhà đầu tư v.v...
2.3.1 Các thành tựu đạt được
Trải qua 15 năm hoạt động đến nay, TTCK Việt Nam đã đạt được nhiều
thành tựu quan trọng, đảm bảo các mục tiêu, vai trò và yêu cầu đặt ra. UBCKNN
đã hoàn thành toàn diện chức năng, nhiệm vụ được giao phó.
Một là, tạo lập được một mô hình, thiết chế TTCK phù hợp với trình độ phát
triển của nền kinh tế thị trường, từng bước tiếp cận các chuẩn mực quốc tế.
TTCK Việt Nam đã được xây dựng để vừa đáp ứng yêu cầu xây dựng và hoàn
thiện thể chế kinh tế thị trường, hỗ trợ quá trình chuyển đổi nền kinh tế, vừa thúc
đẩy TTCK phát triển để hội nhập khu vực và quốc tế nhằm thu hút và tranh thủ
nguồn vốn nước ngoài.
Hai là, đã xây dựng và ngày càng hoàn thiện một hệ thống văn bản pháp quy
từ khung pháp lý ban đầu, các chính sách đến các quy chế, quy trình cụ thể để
vừa xây dựng, vừa quản lý TTCK trong bối cảnh Nhà nước đang sửa đổi, hoàn
chỉnh thể chế kinh tế và cơ chế quản lý nền kinh tế.
Ba là, TTCK đóng vai trò quan trọng trong vai trò kênh huy động vốn trung
và dài hạn cho ngân sách để phục vụ đầu tư phát triển và mở rộng sản xuất kinh
doanh. Thông qua thị trường, Chính phủ và doanh nghiệp đã huy động được 1,7
triệu tỷ đồng; thị trường trái phiếu Chính phủ được đánh giá có mức tăng
trưởng dẫn đầu các nền kinh tế mới nổi tại khu vực Đông Á cũng như khu vực
ASEAN + 3. Quy mô thị trường tăng bình quân trên 20% mỗi năm kể từ năm
2011, mức vốn hóa tăng 580 lần so với những năm đầu thành lập. Đến nay đã có
trên 665 công ty niêm yết, quy mô tăng hơn 300 lần với giá trị vốn hoá thị
trường đạt trên 31% GDP. Quy mô thị trường trái phiếu tăng gần 560 lần với
trên 500 trái phiếu niêm yết. TTCK đã thu hút đông đảo các nhà đầu tư trong
nước và nước ngoài, huy động được 15 tỷ USD vốn đầu tư gián tiếp, làm tăng
khả năng luân chuyển vốn trong nước, đồng thời huy động một lượng lớn vốn
đầu tư nước ngoài...
Bốn là, TTCK đã góp phần tích cực tái cơ cấu và thúc đẩy cổ phần hóa doanh
nghiệp nhà nước, góp phần thúc đẩy quá trình cơ cấu lại nền kinh tế; nâng cao
tính công khai, minh bạch, quản trị công ty; tăng cường sự giám sát của xã hội
đối với hoạt động của doanh nghiệp, tạo được niềm tin đối với nhà đầu tư.
Page 23
Năm là, hệ thống tổ chức thị trường ngày càng được nâng cấp và phát triển.
Các Sở GDCK, TTLKCK đã thực hiện chức năng giao dịch, lưu ký, thanh toán
chuyển giao chứng khoán an toàn, chú trọng phát triển công nghệ thông tin,
phát triển nguồn nhân lực, quản trị nội bộ và cung cấp các sản phẩm, dịch vụ đa
dạng cho thị trường.
Sáu là, hoạt động thanh tra, giám sát và cưỡng chế thực thi được thực hiện
hiệu quả, góp phần giữ vững ổn định, kỷ cương pháp luật của thị trường, bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư.
Nhìn lại chặng đường xây dựng và phát triển TTCK, có thể khẳng định việc
xây dựng TTCK là chủ trương rất đúng đắn và có tầm nhìn để tạo lập và hoàn
thiện thể chế kinh tế thị trường ở nước ta. khác. Sau 15 năm hoạt động, hiện
công tác tái cấu trúc thị trường đang được triển khai một cách kiên định, hướng
tới việc mở rộng các sản phẩm mới và thị trường mới. Đây là kết quả của việc
phát huy sức mạnh tổng hợp của Chính phủ, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Bộ Tài
chính và sự phối hợp chặt chẽ giữa các bộ, ngành, sự đoàn kết, nhất trí, quyết
tâm cao của tập thể UBCKNN, các SGDCK, Trung tâm lưu ký chứng khoán, các
thành viên thị trường, các cơ quan thông tấn, báo chí.
2.3.2. Các hạn chế
- Luật chứng khoán vẫn còn những thiếu sót chưa phù hợp, hành lang pháp
lý thiếu hoàn chỉnh để đảm bảo tính chặt chẽ cho thị trường.
Một phần là do Luật chứng khoán vừa mới đi vào áp dụng (có hiệu lực từ
ngày 01-01-2007) mặc dù đã đáp ứng yêu cầu pháp lý cao trong tình hình quản
lý TTCK hiện nay, nâng cao khả năng hội nhập của thị trường nước ta với thế
giới tuy nhiên TTCK lại đang phát sinh nhiều hoạt động chưa được điều chỉnh
bởi những văn bản pháp lý cao nhất. Việc kiểm soát hoạt động tập trung kinh tế,
hoạt động mua bán, sát nhập doanh nghiệp chưa được phối hợp chặt chẽ, phần
lớn chỉ dừng lại ở biện pháp giám sát, các quy định về quản lý, kiểm soát thị
trường đảm bảo phát triển bền vững còn thiếu và chưa đồng bộ.
- Quản lý, giám sát hoạt động thị trường còn chưa thật tốt dẫn đến việc giá
cổ phiếu tăng giảm bất thường, chất lượng dịch vụ của các tổ chức tài chính
trung gian, hoạt động tư vấn, giám sát, định giá cổ phẩn để niêm yết chưa hợp lý,
chất lượng và quản lý thông tin hạn, thị trường phi tập trung OTC hoạt động
kém hiệu quả.
Nguyên nhân là do sự chủ động của các bộ, ngành chức năng cũng như sự
phối hợp liên ngành để thực hiện quản lý, kiểm soát thị trường chứng khoán
chưa thật tốt, việc quản lý hoạt động của các tổ chức phát hành, các công ty
chứng khoán chưa được phối hợp chặt chẽ. Hiện nay tình trạng vi phạm xảy ra
thường xuyên như các trường hợp không đăng ký công ty đại chúng theo Luật
Page 24
chứng khoán, vi phạm về điều kiện hoạt động, quy trình đặt lệnh của các công ty
chứng khoán. Đặc biệt là những vi phạm trong hoạt động thao túng thị trường,
giao dịch nội gián xảy ra thường xuyên trong thời gian qua đã gây ra tâm lý mất
niềm tin vào diễn biến thị trường của các nhà đầu tư, tạo nên một thị trường
chứng khoán Việt Nam hoạt động một cách bất thường không đúng với những
điều chỉnh theo quy luật kinh tế, có nhiều rủi ro hơn và kém hấp dẫn hơn đối với
các nhà đầu tư.
Hiện nay, thị trường OTC còn thả nổi chưa đi vào tập trung quản lý nên
trong thời gian qua đã có nhiều biến động dữ dội mà hiện tại thị trường này đã
bị đóng băng sau một thời gian hoạt động rất bùng nổ. Chính vì việc quản lý
thiếu chặt chẽ các công ty đại chúng và không có sự điều chỉnh, nên thị trường
OTC thiếu đi những thông tin mang tính minh bạch là nguyên nhân làm giảm đi
sự thu hút của các nhà đầu tư đối với thị trường này.
- Diễn biến thị trường chứng khoán Việt Nam thất thường
Nguyên nhân là do mức vốn hoá thị trường đang tăng nhanh trong khi
lượng vốn hóa đạt được lại thấp, quy mô phát triển còn nhỏ, lượng hàng hóa
trên thị trường còn ít dẫn đến sự mất cân đối cung cầu và những biến động bất
lợi cho thị trường, do vậy mà thị trường phát triển không ổn định, không phản
ánh đúng trạng thái của nền kinh tế. Ngoài ra còn do những hạn chế của các nhà
đầu tư Việt Nam trên thị trường về kiến thức đầu tư chứng khoán, tạo nên tình
trạng đầu tư theo tâm lý bầy đàn, mang tính chất đầu cơ khiến cho thị trường
phát triển kém lành mạnh.
- Cơ sở hạ tầng trong ngành chứng khoán còn chưa đáp ứng được yêu cầu,
hoạt động của các trung gian tài chính còn chưa đủ năng lực.
Phần lớn là do công nghệ thông tin đầu tư trên thị trường đã lỗi thời, nguồn
nhân lực chuyên môn cao còn thiếu của các trung tâm giao dịch chứng khoán và
của các công ty chứng khoán chưa thể theo kịp được sự phát triển quá nhanh
của thị trường, điều này khiến cho hoạt động của nhiều công ty chứng khoán bị
quá tải, do đó các công ty chứng khoán tại Việt Nam hiện nay chỉ dừng lại ở các
hoạt động môi giới, tư vấn, lưu ký, bảo lãnh phát hành, chưa đủ năng lực giám
sát tài chính, chưa đủ điều kiện để tiến hành phát triển các công cụ phái sinh hạn
chế rủi ro.
- Hoạt động kiểm toán trên thị trường này còn bộc lộ nhiều hạn chế.
Về kiểm toán báo cáo tài chính của các công ty phát hành và niêm yết chứng
khoán. Một số nghiệp vụ kế toán quan trọng của doanh nghiệp chưa được phản
ánh đầy đủ do thiếu các chuẩn mực kế toán và kiểm toán phù hợp trong quy định
chế độ kế toán hiện hành như việc tăng vốn điều lệ, cổ phiếu quỹ, các biến động
bất thường... nhiều công ty chưa thận trọng khi kiểm toán các loại nghiệp vụ
Page 25